NHỮNG
NỖ LỰC CỦA CỰU HOÀNG BẢO ĐẠI
Nhìn
Lại Những Nỗ Lực Của Cựu Hoàng Đế Bảo Đại Trong Cuộc Đấu Tranh Giành Độc Lập Và
Thống Nhất Cho Đất Nước Và Dân Tộc Việt Nam
Bài
này được viết theo lời yêu cầu của một số người trẻ trong đó nhiều người là
sinh viên đại học nhằm bổ khuyết cho sự hiểu biết của anh chị em này nói riêng
và giới trẻ Việt Nam nói chung về vị vua cuối cùng của Nhà Nguyễn nhân dịp 100
năm năm sinh của ông cũng như về một giai đoạn lịch sử có quá nhiều góc tối hay
góc khuất luôn cả oan khuất và cũng nhân dịp đầu Xuân Quý Tỵ 2013 sắp tới.
Yêu
cầu này cũng đến không lâu khi Cựu Hoàng Norodom Sihanouk của nước láng giềng
thân cận nhất của Việt Nam, Vương Quốc Khmer hay quen thuộc hơn, Căm Bốt, vừa
mới băng hà và thi thể còn được quàn tại hoàng cung chờ ngày quốc táng. Khi
liên lạc với tôi, như để chắc ăn, một trong những vị này đã dùng cả điện thoại
lẫn điện thư và để lại lời nhắn. Để đáp lễ, tôi cũng trả lời anh bằng điện thư
trước rồi sau đó gọi điện thoại cho anh. Hai chúng tôi thảo luận với nhau rất
lâu, không dưới một giờ đồng hồ về đề tài không mấy đơn giản nhưng vô cùng cần
thiết này. Câu chuyện phải nói là vô cùng hào hứng giữa hai người không cùng
thế hệ. Vì vậy thay vì viết một bài dưới hình thức khảo cứu, tìm hiểu hay bài
học dùng trong lớp học như tôi thường làm, tôi xin được tóm tắt những gì chúng
tôi đã chia sẻ với nhau cho bài viết bớt khô khan và nhẹ nhàng hơn hầu người
bạn trẻ của tôi có thể đăng trên báo xuân của anh và các bạn của anh. Tôi cũng
tránh không nêu tên anh và tổ chức của anh để bài viết có thể được dễ dàng phổ
biến rộng rãi hơn cho những anh chị em thuộc những nhóm khác.
Nhu
cầu cần được xét lại
Cựu
Hoàng Bảo Đại, như sau này người ta thường gọi ông kể từ ngày ông thoái vị, thường
bị nhiều người, Việt Nam có, ngoại quốc có, tệ hơn trong đó có cả các sử gia,
máy móc theo nhau gọi là vua bù nhìn, tay sai của hết Tây đến Nhật, một ông vua
chỉ ham ăn chơi đàng điếm, một thứ playboy
do người Pháp nặn ra và đặt lên ngôi để dễ sai bảo. Ngay cả Sử Gia Trần Trọng
Kim, khi được Học Giả Hoàng Xuân Hãn khuyên là nên gặp ông để tìm hiểu, lúc đầu
cũng đã từ chối, gọi ông là “thằng ngốc”- “thằng ngốc, gặp nó làm gi?”-
nhưng sau khi đã gặp rồi, nhà học giả kiêm sử gia này đã phải thay đổi hoàn
toàn nhận định mà ông đã có từ trước.
Ở
đây tôi không bàn về chuyện này mà chỉ nói tới những gì Bảo Đại đã làm ngay từ
khi vị cựu hoàng này còn là Đương Kim Hoàng Đế hay sau này là Cựu Hoàng và là
Quốc Trưởng của Quốc Gia Việt Nam. Đây là những đóng góp tôi nghĩ là không nhỏ,
nếu không nói là vô cùng lớn lao so với những đóng góp của những lãnh tụ khác
của Việt Nam, trong công cuộc đấu tranh giành độc lập và thống nhất cho quốc
gia và dân tộc của ông bằng đường lối hòa bình, phi bạo lực.
Cho
cá nhân ông, những nỗ lực của ông đã không mang lại được những thành quả mà ông
mong muốn. Ông đã không bảo vệ được di sản mà tổ tiên ông để lại, đã không xây
dựng được một chế độ quân chủ lập hiến cho đất nước và thần dân của ông, điều
ông muốn làm ngay từ đầu, không giữ được sự đoàn kết dân tộc mà ông trịnh trọng
ghi trong chiếu thoái vị… Cuối cùng ông đã bị mọi người trách cứ, bỏ rơi và
chết ở xứ người. Thần dân cũ của ông không mấy ai để ý tới sự qua đời của ông,
trái với cái chết của một quốc vương khác trẻ hơn ông nhưng đồng thời với ông
và cũng phải đối phó với vấn đề độc lập của quốc gia giống như ông sau này. Tôi
muốn nói tới Cựu Hoàng Norodom Sihanouk của xứ Căm Bốt. Giống nhưng khác với
Bảo Đại ở đường lối đấu tranh vì trong đời ông, Sihanouk đã có thời dùng bạo
lực để đàn áp đối lập, đã cộng tác với Khmer Đỏ, tổ chức Cộng Sản Căm Bốt chịu
ảnh hưởng của Trung Cộng của các lãnh tụ Pol Pot và Ieng Sary, một thời đã mang
họa diệt chủng đến cho xứ Căm Bốt khiến cho hàng triệu người dân của xứ này bị
tàn sát bằng đủ mọi phương tiện với hàng núi xương được phát hiện, cho đến nay
vẫn được bảo tồn coi như di tích của một thời đen tối nhất trong lịch sử của
dân tộc Khmer. Còn Bảo Đại thì tuyệt đối không, kể cả việc ông đã từ chối không
chấp nhận cho người Nhật đứng ra bảo vệ lãnh thổ, hoàng cung và an ninh cho
chính ngôi vị và bản thân ông, chống lại cuộc nổi dậy của Việt Minh và những
người Cộng Sản hối Tháng Tám năm 1945 theo trách nhiệm giữ gìn trật tự mà quốc
tế giao cho họ. Lý do đơn giản là vì Bảo Đại không muốn dùng ngưới ngoại quốc
để chống lại người Việt Nam, đồng bào của ông và thần dân của ông. Sihanouk đã
được chính quyền và người dân Căm Bốt thương tiếc bằng những giọt nước mắt nhỏ
xuống bên lề đường hay ở trên công viên trước hoàng cung ở Nam Vang hay ở nhiều
nơi ở Căm Bốt. Người ta đã long trọng đón thi hài của ông từ Bắc Kinh được đưa
về Nam Vang và long trọng làm quốc tang cho ông trong bốn ngày đầu tháng 2 năm
2013, vào lúc người Việt Nam ở trong nước cũng như ở Hải Ngoại sửa soạn mừng
đón Xuân Quý Tỵ.
Bảo Đại - Phạm Quỳnh - Ngô Đình Diệm
Hoàng
đế Bảo Đại
(1913-1997) và ngôi mộ tại Nghĩa trang Passy, Paris
Thượng
thư Bộ Học Phạm
Quỳnh (1892-1945) và ngôi mộ tại chùa Vạn Phước, Huế
Thượng thư Bộ Lại Ngô Đình Diệm (1901-1963)
và ngôi mộ tại Nghĩa trang Lái Thiêu, Bình Dương
Nỗ
lực canh tân đầu tiên với Phạm Quỳnh và Ngô Đình Diệm
Trở
về với những cuộc tranh đấu của Cựu Hoàng Bảo Đại. Nhà vua đã bắt đầu sự nghiệp
này của mình từ rất sớm, ngay từ khi ông mới từ Pháp trở về nước đế chính thức
lên ngôi, sau hơn mười năm du học và hấp thụ được cả hai nền văn hóa Đông Tây
qua sự rèn luyện của Cựu Khâm Sứ Charles về phía người Pháp và Cử Nhân Lê Như
Lâm với tư cách là giảng tập hồi nhà vua còn ở Việt Nam rồi phụ đạo trong suốt
thời gian ông ở Pháp về phía người Việt, chưa kể tới những gì ông học được ở
các trường trung học Pháp nhất là ở trường Khoa Học Chính Tri ở Paris trong các
năm 1922-1932, rèn luyện để làm vua và làm nguyên thủ quốc gia, điều những nhà
lãnh đạo trong lịch sử Việt Nam sau này không có.
Tranh
đấu này mang tính cách của một cuộc cải cách và đã được khơi mào bởi những vận
động của giới trí thức đương thời trước đó, đại diện là học giả Phạm Quỳnh của
báo Nam Phong xuyên qua những bài
viết của họ Phạm về một chế độ quân chủ lập hiến và về nhu cầu trả lại cho nhà
vua quyền nội trị ở hai xứ Bắc Kỳ và Trung Kỳ và trả lại tổ quốc cho ngươòi
Việt Nam. Mở đầu, ngay từ tháng 9 năm 1932 Phạm Quỳnh đã được cử làm Ngự Tiền
Tổng Lý Văn Phòng hàm Thượng Thư để trực tiếp làm việc với nhà vua. Tiếp theo,
ngày 10 tháng 12 năm 1932 bằng một đạo dụ, nhà vua loan báo chính thức cầm
quyền qua một chính thể quân chủ lập hiến kèm theo với nhũng dự án cải tổ guồng
máy cai trị, hệ thống quan lại, tổ chức giáo dục và tư pháp, Viện Dân Biểu
Trung Kỳ… Để thực thi những dự án này, ngày 2 tháng 5 năm 1933, như một biến cố
bất ngờ, Bảo Đại lại ký một dụ khác loan báo tự mình chấp chánh và thay thế sáu
vị thượng thư già bằng những nhân vật trẻ trong đó có Ngô Đình Diệm giữ Bộ Lại,
Phạm Quỳnh giữ Bộ Học, Bùi Bằng Đoàn giữ Bộ Hình…
Những
việc làm đầu tiên kể trên của Bảo Đại, mặc dầu đã đem lại những tia hy vọng cho
người dân ở hai xứ Bắc và Trung Kỳ về một vận hội mới cho đất nước, đã không
tồn tại lâu dài, một phần vì người Pháp cản trở vì trả lại quyền nội trị ở Bắc
Kỳ và ở Trung Kỳ là trở lại với Hòa Ước 1884 từ đó sẽ động tới các chức thống
sứ Bắc Kỳ và Khâm sứ Trung Kỳ, một phần là do mâu thuẫn nội bộ giữa phe quan
lại cũ và những trí thức mới, giữa những người đi vào hoạn lộ qua ngả quan
trường và những ngưuời đi vào đường này qua đường tắt cũng như giữa hai nhân
vật chủ cốt là Phạm Quỳnh và Ngô Dình Diệm mà nhà vua đặt hết tin tưởng vào coi
như đôi xe bổ khuyết, hỗ trợ cho nhau.
Cuối
cùng Ngô Đình Diệm đã từ chức, lôi cuốn theo một vài nhân vật mà nhà vua tin
cậy khác. Thất bại trong cố gắng đầu đời, nhà vua trở thành “cô đơn, chỉ có
một mình” để đến khi Hoàng Xuân Hãn nhắc ông là phải làm gì vì giới thanh
niên mong đợi, nhà vua đã hỏi lại “Làm gì? Làm với ai?” Có điều ông vẫn
không hoàn toàn mất hết hy vọng như sau này ông ghi trong hồi ký của ông: “Dù
sao đi nữa, sự có mặt của tôi trên ngôi vẫn làm cho giới trẻ giữ được niềm hy
vọng. Những người như Ngô Dình Diệm và Nguyễn Đệ lúc ấy sẽ lại ra giúp tôi theo
chiều hướng này” “Chắc ngưòi Pháp cho rằng tôi đã ngoan ngoãn biết nghe
theo lời của họ. Dù họ có tin rằng họ đã thắng một cách dễ dàng, tôi cũng chẳng
nên có lý do gì ngờ vực tôi. Tôi tin rằng nhân dân sẽ hiểu các hình thái buông
thả bên ngoài của tôi, bởi cái hình thái ấy cho thấy sự thờ ơ, lơ là với nhiệm
vụ của tôi…” và ông đã sống sót để chờ thời, không bị rơi vào số phận của
các VuaThành Thái và Duy Tân mà ông hiểu rõ hơn ai hết cũng như bị mất tinh
thần và trở thành một con người vô dụng.
Cơ
hội mới: Nhật đảo chính Pháp, 9 tháng 3 năm 1945 – Chính Phủ Trần Trọng Kim hay
là Cuộc Cách Mạng Phi Bạo Lực bị bỏ lỡ
Niềm
hy vọng và sự kiên nhẫn của Bảo Đại kể trên đã không uổng. Mười hai năm sau,
năm 1945, cơ hội lại đến với nhà vua một lần nữa. Lần này do người Nhật mang
lại sau cuộc đảo chính ngày 9 tháng 3 năm 1945 lật đổ người Pháp của họ. Không
còn con đường nào khác tốt hơn và cũng không để lỡ cơ hội bước đi nhũng bước
khởi đầu, khi được người Nhật yêu cầu nhà vua đã cho công bố bản Tuyên Ngôn
Độc Lập đầu tiên trong lịch sử Việt Nam hiện đại. Chính Phủ Trần Trọng Kim
đã được thành lập với các bộ trưởng đều là những nhà tân học có khả năng, và
đạo đức nổi tiếng đương thời đứng đầu bởi nhà giáo kiêm học giả Trần Trọng Kim,
tác giả của những bộ sách Giáo Khoa Thư và nhất là bộ Việt Nam Sử
Lược cho tới khi bài này được viết vẫn còn thông dụng, với sự cộng tác của
những tên tuổi quen thuộc với học giới dương thời như Giáo Sư Hoàng Xuân Hãn,
Luật Sư Vũ Văn Hiền, Luật Sư kiêm nhà báo Phan Anh, Luật Sư Trần Văn Chương…
Mặc
dầu không tồn tại lâu dài, tất cả chỉ được hơn bốn tháng, thực tế còn ngắn hơn
nhiều, hoạt động trong hoàn cảnh chiến tranh, bị Việt Minh đánh phá ngay từ đầu
rồi tuyên truyền phá hoại và thiếu thốn đủ mọi phương tiện, Chính Phủ Trần
Trọng Kim đã tạo được những thành tích đáng ca ngợi. Cả một chương trình hành
động nhằm xây dựng một nước Việt Nam mới đã được dự trù bao trùm mọi phạm vi
sinh hoạt từ soạn thảo hiến pháp, cải tổ thuế má, Việt Nam hóa giáo dục, thu
hồi các nhượng địa, kể cả xứ Nam Kỳ, cứu đói, chống nạn mù chữ … đều đã đồng
thời được thực hiện. Quốc hiệu Việt Nam với danh xưng đầy đủ là Đế Quốc Việt
Nam đã được lựa chọn cùng với bài Đăng Đàn Cung làm quốc ca, cờ quẻ
ly nền vàng ba sọc đỏ với hai sọc trên liền, sọc giữa đứt đoạn làm quốc kỳ.
Danh xưng bộ trưởng để gọi những người đứng đầu các bộ được dùng để thay thế
bằng danh xưng thượng thư của thời trước, các tên Bắc Bộ, Trung Bộ, Nam Bộ thay
thế cho các tên Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ mang nặng dấu vết của thời thuộc địa.
Chương trình giáo dục bằng tiếng Việt được biết dưới tên Chương Trình Hoàng
Xuân Hãn đã được soạn thảo và áp dụng và đã trở thành nền tảng cho nền giáo
dục sau này, rõ hơn những năm đầu của Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà, thời Quốc Gia
Việt Nam và hai thời Đệ Nhất và Đệ Nhi Cộng Hoà ở Miền Nam. Bài Đăng Đàn
Cung tuy được chọn làm quốc ca nhưng trên thực tế thì bài Tiếng Gọi Sinh
Viên đã được giới thanh thiếu niên, dưới sự hướng dẫn của các thày giáo ở
các trường hát mỗi ngày một nhiều, đã được phổ biến hơn không phải chỉ ở miền
Bắc và miền Trung mà luôn cả ở Miền Nam, miền đất cho đến khi Chính Phủ của Thủ
Tướng họ Trần được thành lập vẫn chưa thực sự được trả về với lãnh thổ quốc
gia, để sau này trở thành quốc ca, một hiện tương đã nằm trong ký ức của những
người thuộc thế hệ trẻ đương thời tới nay vẫn chưa hề phai nhạt.
Nỗ
lực lần thứ hai của Bảo Đại tuy nhiên cũng không tồn tại được lâu dài. Thế
Chiến Thứ Hai chấm dứt với sự đầu hàng của Nhật Bản đã một lần nữa làm cho nhà
vua phải bỏ dở. Lợi dụng cơ hội, Việt Minh cướp chính quyền ở Hà Nội và các
tỉnh miền Bắc và áp lực những thành phần thiên Cộng khiến cho ngày 25 tháng 8
năm 1945 ông phải xuống chiếu thoái vị trao quyền cho Hồ Chí Minh và chính phủ
lâm thời của ông này do Việt Minh lãnh đạo. Với Chiếu Thoái Vị, Bảo Đại đã trở
thành nổi tiếng với câu nói: “ Trẫm để hạnh phúc của dân Việt Nam lên trên
ngai vàng của Trẫm. Trẫm thà làm dân một nước độc lập còn hơn làm vua một nước
nô lệ.”
Nỗ
lực lần thứ ba: Hiệp Định Élysée và sự thành Lập Quốc Gia Việt Nam – Thâu Hồi
xứ Nam Kỳ về cho lãnh thổ của dân tộc
Bỏ
qua những cố gắng của ông thời đầu thập niên ba mươi của thế kỷ trước và những
cố gắng của ông sau khi ông tuyên bố độc lập ngày 11 tháng 3 năm 1945 mà tôi
tóm tắt như trên, những biến cố ít người được biết đến, công lao lớn nhất mà
Hoàng Đế Bảo Đại đã thực hiện được cho những người Việt Quốc Gia không chấp
nhận chế độ Cộng Sản hay không sống nổi với chế độ Cộng Sản, đã ở lại, đã về
hay dự tính về những vùng kiểm soát của người Pháp vào nửa cuối thập niên 1940
là Hiệp Định Élysée mà ông đã đạt được ngày 8 tháng 3 năm 1949, sau một thời
gian dài thương thuyết, dưới hình thức trao đổi văn kiện giữa ông và Tổng Thống
Pháp Vincent Auriol. Với Hiệp Định Élysée Quốc Gia Việt Nam đã hình thành để
những ai không chấp nhận chính quyền Cộng Sản do Hồ Chí Minh lãnh đạo có chỗ
trở về trong danh nghĩa của những công dân của một nước Việt Nam độc lập.
Không
có Bảo Đại, không có Quốc Gia Việt Nam, tất cả đều được nhìn hoặc như là theo
Pháp để trở thành Việt gian làm bồi cho thực dân, đế quốc, hoặc là phải ở lại
vùng Việt Minh kiểm soát để sớm muộn cũng bị loại trừ và tiêu diệt. Điều này đã
xảy ra. Nói cách khác, Bảo Đại và Hiệp Định Élysée đã đem lại chính nghĩa cho
những người đương thời không chấp nhận chủ nghĩa và chế độ Cộng Sản. Chưa hết,
với Hiệp Định Élysée, Bảo Đại đã thâu hồi lại xứ Nam Kỳ cho Tổ Quốc Việt Nam
một cách hòa bình, không đổ máu mà Hồ Chí Minh và Chính Phủ Việt Nam Dân Chủ
Cộng Hòa trước đó qua những thỏa ước 6 tháng 3 rồi 14 tháng 9 năm 1946 hay hội
nghị Đà Lạt và Fontainebleau đã không làm được. Lễ thâu hồi đã chính thức được
cử hành vào ngày 14 tháng 6 năm 1949. Với tư cách Quốc Trưởng của Quốc Gia Việt
Nam, lần đầu tiên ông đã từ Đà Lạt, thủ đô tạm thời của ông về Saigon để long
trọng đón phần đất đã từng là thuộc địa của Pháp từ năm 1862 trở về với lãnh
thổ quốc gia và người dân Nam Kỳ đã trở thành công dân của Quốc Gia Việt Nam để
cùng tham gia xây dựng lại đất nước dù là ở miền Nam, miền Trung hay miền Bắc.
Một người dân miền Nam không lâu sau đó đã được bổ nhiệm đứng đầu miền Bắc. Đó
là Đốc Phủ Sứ Nguyễn Văn Tâm, với danh vị Thủ Hiến Bắc việt. Đây là một sự thực
không ai có thể chối cãi được và khi nói xấu ông người ta chỉ còn cách lơ đi
không nói tới mà thôi.
Quốc
Gia Việt Nam thường được hiếu là tiền thân của Việt Nam Cộng Hòa, từ đó bị ngộ
nhận là có lãnh thổ chỉ là lãnh thổ của Miền Nam Việt Nam sau này tức từ vĩ
tuyến 17 trở xuống. Điều này không đúng. Bắt đầu từ thời điểm 14 tháng 6 năm
1949, khi Nam Kỳ trở về với lãnh thổ của Quốc Gia Việt Nam và cho đến khi Hiệp
Định Genève được thông qua và trớ thành có hiệu lực, Chính Quyền Quốc Gia Việt
Nam của Quốc Trưởng Bảo Đại đã chính thức và hợp pháp kiểm soát những miền đất
phía trên vĩ tuyến này, từ Lào Kay, Lai Châu, Cao Bằng, Lạng Sơn, Móng Cáy… cho
tới Hà Tiên và mũi Cà Mau, từ đồng bằng cho tới các cao nguyên do người Pháp
chiếm giữ trước đó và trao trả. Nói cách khác, Quốc Gia Việt Nam có lãnh thổ
bao trùm đất đai của người Việt từ Bắc chí Nam, từ Biển Đông với các quần đảo
Hoàng Sa và Trường Sa (mà Thủ Tướng Chính Phủ Quốc Gia Việt Nam Trần Văn Hữu đã
long trọng xác nhận ở Hội Nghị San Francisco vào hai ngày 6 và 7 tháng 9 năm
1951) tới các cao nguyên và miền núi, sau này, từ ngày 14 tháng 6 năm 1949, bao
gồm luôn cả Miền Nam hay Nam Kỳ Lục Tỉnh thay vì chỉ có Miền Nam Việt Nam từ vĩ
tuyến 17 trở xuống tức lãnh thổ Việt Nam Cộng Hoà về sau này. Cờ vàng ba sọc đỏ
và bài Tiếng Gọi Thanh Niên sau này là Tiếng Gọi Công Dân đã được tung bay hay
được hát ở kháp nơi hay đới với giới trẻ đương thời, được học sinh các trường
trung và tiểu học, mới được mở cửa trở lại sau những ngày đầu của chiến tranh,
hát lên buổi sáng trước khi vào lớp. Quốc kỳ này và quốc ca này đã được lựa
chọn cùng thời với danh xưng Quốc Gia Việt Nam đã liên tục được duy trì qua các
thời Đệ Nhất và Đệ Nhị Cộng Hoà của Miền Nam Việt Nam trong suốt hai mươoi năm
tồn tại. Sau này cà hai vẫn được bảo tồn và bảo vệ ở Hải Ngoại coi như tượng
hai biểu tương vừa thiêng liêng vừa thân thiết nhất của người Việt ở khắp nơi
trên thế giới. Một sinh hoạt bình thuờng đã thực sự hồi sinh. Các cơ cấu từ
chính trị, hành chánh, quân sự, văn hóa, giáo dục mang màu sắc nhân bản vừa cổ
truyền, vừa tân tiến theo trào lưu mới đã từng bước một thành hình và làm nền
tảng cho các sinh hoạt ở Miền Nam trước khi bị những người Cộng Sản phá bỏ để
thay thế bằng những tổ chức riêng của họ. Nên nhớ là với Thỏa Ước Sơ Bộ ngày 6
tháng 3 năm 1946 Hồ Chí Minh ký với đại diện Cao Ủy Pháp ở Đông Dương Jean
Sainteny và Tạm Ước 14 tháng 9 ký với Bộ Trướng Pháp Quốc Hải Ngoại Marius
Moutet vấn đề thống nhất xứ Nam Kỳ chưa được giải quyết. Nói cách khác Nam kỳ
cho tới ngày 14 tháng 6, trước khi được Bảo Đại thu hồi vẫn thuộc quyền cai
quản của người Pháp theo các Hòa Ước 1862 và 1874. Sau ngày 14 tháng 6 năam
1954, xứ này mới thực sự trở về với lãnh thổ của Quốc Gia Việt Nam, sau này là
Việt Nam Cộng Hòa và luôn luôn nằm ngoài lãnh thổ của nước Việt Nam Dân Chủ
Cộng Hoà cho mãi đến sau ngày 30 tháng 4 năm 1975.
Đối
với những người thuộc thế hệ sinh từ cuối thập niên 1920 và hai thập niên 1930,
1940, sự hình thành của Quốc Gia Việt Nam đã đem lại cho họ một nền giáo dục
nhân bản và tiến bộ, vừa mang những đặc tính của thời xưa, vừa cởi mở, khai
phóng để đón nhận những tinh hoa của thời đại thay vì lang thang không được đi
học trong nhiều năm trong vùng “kháng chiến”. Nền giáo dục này đã cung cấp cho
họ những điều kiện cơ bản để tiến xa hơn về sau này. Cũng vậy với sự thành lập
Quân Đội Quốc Gia Việt từ đầu thập niên 1950 mà người ta hầu như đã quên.
Đối
với những người làm văn chương, âm nhạc và nghệ thuật sự thành lập Quốc Gia Việt
Nam là thời kỳ mở dầu cho một giai đoạn phát triển mới vừa tiếp nối giai đoạn
canh tân, trẻ trung, đầy sinh lực và lãng mạn của thời cuối thập niên 1930, đầu
thập niên 1940 vừa tràn ngập hân hoan, hào hứng và tin tưởng vào cuộc đấu tranh
giành độc lập, thống nhất lãnh thổ và phát triển quốc gia dưới một chính quyền
mới không Cộng Sản. Rõ rệt nhất trong hiện tượng này là trường hợp của các nhạc
sĩ trong đó có Phạm Duy, Thẩm Oánh, Hùng Lân, Phạm Định Chương…, chỉ kể một vài
tên tuổi quen thuộc.
Nói
về Hiệp Định Élysée và những thỏa thuận giữa Bảo Đại và người Pháp trước đó,
nhiều người cho rằng Cựu Hoàng đã vội vã và không đòi hỏi đúng mức những gì co
thể đòi hỏi được. Các vị này chủ trương là phải đòi độc lập hoàn toàn. Điều này
đúng nhưng không thực tế. Thời điểm của những năm 1948, 1949 với sự thắng thế
mỗi ngày một rõ của Hồng Quân Trung Hoa ở Trung Quốc, cả hai phía người Pháp và
Bảo Đại phải cấp tốc giải quyết vấn đề. Không những thế, đuổi Pháp đi thì ngay
lập tức lấy gì để chống Việt Minh và ngay lập tức điều hành toàn thể mọi sinh
hoạt của đất nước? Vấn dề không đơn giản. Người ta không thể điều đình mà không
tương nhượng và dự trù cho những sự hợp tác tương lai.
Đóng
góp cuối cùng: Hiệp Ước Paris 04 tháng 06 năm 1954 – một nền Độc Lập hoàn Toàn
cho Quốc Gia Việt Nam
Hiệp
Định Élysée chỉ là khởi đầu. Nền độc lập do hiệp ước này mang lại chưa thực sự
hoàn toàn. Nhiều bước tiến khác còn phải được thực hiện. Bảo Đại đã tiếp tục và
đã hoàn tất được công tác này với sự trợ giúp của những trí thức hiểu rõ nước
Pháp và người Pháp, giỏi về chính trị và luật pháp có mặt ngay trên đất Pháp và
giảng dạy ngay tại các đại học Pháp, những người có đầy đủ học vị, thực học và
kinh nghiệm. Đích thân ông, ông đã phải sang Pháp, ở tại chỗ nhằm tự mình theo
dõi và đôn đốc. Sau một tiến trình đàm phán gay go và lâu dài, hai hiệp ước đã
thành hình. Với hiệp ước thứ nhất, Pháp công nhận hoàn toàn nền độc lập và chủ
quyền toàn vẹn của Quốc Gia Việt Nam và qua hiệp ước thứ hai, Việt Nam thỏa
thuận gia nhập Liên Hiệp Pháp. Đại Diện cho nước Pháp là Thủ Tướng Joseph
Laniel và đại diện cho Việt Nam là Thủ Tướng Bửu Lộc. Ngày được ghi là 04 tháng
6 năm 1954 và địa điểm là Paris, thủ đô của nước Pháp. Bảo Đại đã không có được
niềm hạnh phúc mà cả đời ông ấp ủ là được chứng kiến lễ ký kết những hiệp ước
này.
Ngày
7 tháng 5, Điện Biên Phủ thất thủ, Hiệp Định Genève đang thành hình và cả hai
văn bản đã bị vĩnh viễn xếp lại. Một lần nữa thành công của vị Hoàng Đế cuối
củng của Triều Nguyễn đã không trọn vẹn. Điều ta nên nhớ là trong nỗ lực cuối
cùng này, ông đã phải dời bỏ quê hương của ông sang Pháp để đích thân gặp các
nhân vật lãnh đạo Pháp, kể cả Tổng Thống Auriol, theo dõi và đôn đốc các đại
diện của mình, bị báo chí Pháp công kích vì đã đòi hỏi quá nhiều, sau này lại
còn bị mang tiếng là ham sống ở nước ngoài không chịu về nước. Dù sao với hai
hiệp ước đề ngày 04 tháng 6 này, ông đã đem lại được những gì ông mong ước cho
đất nước và cho thần dân Việt Nam của ông. Thiên Mạng của ông sau đó không còn
nữa. Điều đáng tiếc là ông đã không còn trờ về quê hương của ông để làm công
dân một nưóc độc lập như ông mong muốn được nữa.
Người
đời đã quên ông và thần dân của ông dã quên ông hay nếu nhớ tới ông chỉ là nhớ
để trách cứ. Mà trách cứ thì luôn luôn dễ hơn là ghi nhận và nhất là ghi ơn.
Người ta đã đòi hỏi ở ông quá nhiều mà quên mất một điều là dù là vua, là thiên
tử, ông vẫn chỉ là con người, con người với tât cả mọi nhược điểm của con
người, nhiều khi không phải do bản chất của người ấy mà do hoàn cảnh gây ra.
Bảo Đại đã lên ngôi vào lúc chế độ quân chủ ở Việt Nam đang ở tình trạng suy
đồi và bị tấn công từ nhiều phía trong lúc chủ trương dân chủ mỗi ngày mỗi thêm
thắng thế. Người ta không biết có bao nhiêu giọt nước mắt đã nhỏ xuống cho ông
khi ông qua đời như chúng đã được nhỏ xuống khi ông đọc chiếu thoái vị trước
cửa Ngọ Môn hồi năm 1945. Phải chăng sau hơn nửa thế kỷ, hơn 52 năm sau, tất cả
đều đã thay đổi? Có điều đất nước Việt Nam vẫn không hề tiến bộ hơn, lãnh thổ
quốc gia mà Bảo Đại đã thâu hồi hay xác nhận chủ quyền và để lại cho những
người kế vị ông đã bị hao mòn không ít, và người dân Việt Nam bình thường vẫn
chưa tìm lại được cuộc sống thanh bình, no ấm mà bất cứ một vị vua nào trong
lịch sử nước nhà đều mong mỏi với một xã hội trong đó “Triệu tính âu ca lạc
thịnh thì” như Trần Nguyên Đán đã miêu tả xã hội Đại Việt cuối thời Nhà
Trần.
Huntington Beach, CA ngày 03 tháng
02 năm 2013
TS Phạm Cao Dương
Lịch Sử Nào Cho Tuổi Trẻ Việt Nam?
Lịch Sử Nào Cho Tuổi Trẻ Việt Nam?
Phụ chú của Nam Giao:
Trong
cuộc Trưng cầu Dân ý ngày 23-10-1955, phe ông Diệm đã dùng phương tiện chính phủ
để phát động một phong trào lăng nhục ông Bảo Đại vốn không có mặt tại Việt
Nam, và ông Diệm đã truất phế Vua Bảo Đại để lên làm Quốc trưởng với … 98.2% số
phiếu !
Một trong những thủ thuật gian lận của
phía ông Diệm là bắt cử tri phải lấy “hai quyết định trong một chọn lựa”. Thật
vậy, thay vì cuộc Trưng Cầu Dân Ý chỉ giới hạn trong một chọn lựa là truất phế Bảo
Đại hay không, thì phía ông Diệm lại kèm vào chọn lựa đó một điều kiện khác nữa:
Quyết định nhìn nhận ông Ngô Đình Diệm làm Quốc Trưởng, mà quyết định nầy đáng
lẽ phải được thực hiện thông qua một cuộc bầu cử khác, với một ban tổ chức độc
lập và với (những) ứng cữ viên khác và chương trình tranh cử khác.
Wikipedia
mô tả rõ điều đó :
“Đó là vì mỗi cử tri được phát hai lá
phiếu: một lá màu xanh, một lá màu đỏ. Lá màu đỏ in hình Ngô Đình Diệm với câu:
Tôi bằng lòng truất phế Bảo Đại và
nhìn nhận ông Ngô Đình Diệm làm Quốc trưởng Quốc gia Việt Nam với nhiệm vụ
thiết lập một chế độ dân chủ. Lá xanh in hình Bảo Đại thì có câu: Tôi
không bằng lòng truất phế Bảo Đại và
không nhìn nhận ông Ngô Đình Diệm làm Quốc trưởng Quốc gia Việt Nam với
nhiệm vụ thiết lập một chế độ dân chủ. Cử tri phải chọn lấy một và bỏ phiếu
vào thùng phiếu. Lá phiếu kia thì vứt đi.[2]
Ngày 23
tháng 10 năm 1955, cuộc lựa chọn vị nguyên thủ của Quốc gia Việt Nam và thể
chế chính quyền diễn ra ở phía nam vĩ tuyến 17. Việc bỏ phiếu tuy nhiên không được công bằng vì ban tổ chức đã sắp
xếp để Ngô Đình Diệm tuyệt đối thắng. Kết quả: Ngô Đình Diệm đắc cử với
98,2% số phiếu. Đại tá CIA Edward
Lansdale, cố vấn cho Ngô Đình Diệm nói rằng: "Trong lúc tôi đi
vắng, tôi không muốn bỗng nhiên nhận được tin rằng ông thắng 99,99%. Vì nếu như
thế thì biết đó là âm mưu sắp đặt trước". Vì thế cho nên Diệm đắc cử
với 98,2% [3]
Lựa
chọn
|
Số
phiếu
|
Đồng ý truất Bảo Đại
|
5.721.735
|
Chống việc truất phế
|
63.017
|
Phiếu hỏng
|
44.105
|
Cuộc trưng cầu
dân ý có những bất thường và gian lận
như tại Sài
Gòn, Thủ tướng Diệm chiếm được 605.025 lá phiếu trong khi khu vực này chỉ
có 450.000 cử tri ghi tên.[5][6]
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét