Chủ Nhật, 19 tháng 4, 2020


TRẦN GIAO THỦY
ĐÔI ĐIỀU VỀ CUỐN NHẬT KÝ CỦA BÀ NHU

Trần Giao Thủy


Gia đình ô.b. Ngô Đình Nhu (Từ trái): Lệ Thủy, Trác, Lệ Quyên,
Bà Nhu, Ông Nhu, Quỳnh (c.1961). Nguồn: Madame Ngo Dinh Nhu Facebook

LTS. Mấy năm gần đây người ta biết có một cuốn hồi ký của bà Ngô Đình Nhu viết từ năm 1959 đến năm 1963 do một quân nhân người Mỹ lai Việt đang giữ. Người đó là Đại úy James Van Thạch, khoảng hơn một năm trước đây có lần đích thân đến nhật báo Người Việt và đề nghị Người Việt xuất bản cuốn hồi ký này, nhưng sau việc không thành. Vào đầu năm nay 2014 có bài viết Đi Tìm Bà Nhu của tác giả Trần Giao Thủy đăng trên báo mạng Đàn Chim Việt, giới thiệu rất kỹ cuốn sách “Finding the Dragon Lady: The Mystery of Vietnam’s Madame Nhu” của tác giả Monique Brinson Demery do nhà xuất bản Public Affaires ấn hành vào tháng 9, 2013. Trong sách có đoạn nói về cuốn hồi ký này. Chúng tôi xin phép tác giả Trần Giao Thủy và báo Đàn Chim Việt được trích đăng đoạn tóm lược này. - DĐTK


Trong cuốn Finding the Dragon Lady, tác giả Demery chỉ trích đoạn một phần rất nhỏ trong cuốn nhật ký dầy hơn 350 trang. Phần trích dịch đó chỉ minh hoạ một phần nhỏ cuộc sống không hạnh phúc, ngay giữa lòng quyền lực, của Đệ nhất phu nhân nền đệ nhất Cộng hòa.

Trong nhật ký bà Nhu ghi lại một số sự việc rất bình thường, từ sở thích cá nhân như xem xi nê Mỹ, đọc tiểu thuyết Nga, đi nghỉ mát với các con ở bãi bể hay trên cao nguyên. Bà Nhu, có lẽ cũng như bao phụ nữ khác, sợ già, sợ thời gian trôi nhanh… và trên những trang nhật ký, bà cũng ghi lại cuộc đời đau khổ làm vợ ông Nhu.

Khi dọn về ở trong Dinh Độc Lập bà Nhu lần đầu tiên hy vọng, từ khi có chồng, là đời sống gia đình sẽ hạnh phúc hơn, bà sẽ thấy ông Nhu ở ‟nhà” thường hơn. Bà hy vọng mọi chuyện sẽ thuận chèo xuôi mái vì ông Nhu đã dầy công giúp Tổng thống Diệm củng cố chế độ, và bà cũng xứng đáng với cái ghế dân biểu quốc hội, và vai trò Đệ nhất phu nhân, giúp Tổng Thống tiếp đón quốc khách. Bà sẽ được hỗ trợ về tinh thần cũng như được đền đáp tình yêu thể xác, ông Nhu sẽ bỏ thuốc lá và dễ thương hơn đối với bà.

Khi những mong đợi đó không đến, những trận cãi vã kịch liệt, những cánh cửa xập chặt là kết quả. Bà đã chán cảnh ngồi chờ hầu chồng vì ông Nhu chẳng khi nào cần bà hầu hạ. Ban đầu bà Nhu không hiểu tại sao thế. Bà vẫn trẻ, vẫn đẹp. Bà viết trong nhật ký, có lẽ, ông Nhu đã già quá rồi, không còn thích chuyện gối chăn nữa. Bà tội nghiệp cho chồng, mất đi niềm hưng phấn vì mớ tuổi đời; nhưng ở những trang nhật ký khác bà Nhu lại tội nghiệp cho số phận của mình, phải sống với một ông già bất lực và phải tự tìm cách thỏa mãn những ‟ham muốn trào dâng”. Đến 1959, bà Nhu mang thai người con út, ông Nhu không hoàn toàn lạnh cảm với bà. Cũng thời gian đó, bà Nhu khám phá ông Nhu chỉ bất lực với bà, nhưng với một người đàn bà khác thì không.

Trong nhật ký 59-63, bà Nhu ghi chi tiết chuyện hai vợ chồng to tiếng khi tranh cãi về chuyện ông ngoại tình. Nhưng bà Nhu nổi điên không hẳn vì sự ngoại tình của chồng mà vì ông Nhu ngoại tình với một người con gái ‟thấp hèn”, ‟nhơ nhớp”. Bà kinh thường tình địch đến nỗi chỉ gọi thiếu nữ đó là ‟con ấy” [nguyên văn ‟creature”] chứ không gọi bằng tên.
Ông Nhu biện hộ cho ông và người tình, ông nói đó là một cô gái ngọt ngào, dễ thương, ‟chỉ nghèo chứ không nhơ nhớp”. Và hơn hết, cô gái ấy không như bà Nhu; ông Nhu nói ‟em làm tôi sợ.” Chiến tranh bùng nổ. Thỏa ước hòa bình chỉ đến vài ngày sau đó. Hai người đồng ý rằng hôn nhân của họ sẽ tốt hơn nếu hai người ít sống gần nhau.

Bà Nhu nhiều đêm thao thức, cố ngăn dòng lệ, tự hỏi ai là người đàn ông xa lạ đang ngủ cạnh mình; tình yêu trong xi nê, hay như truyện trong sách không đến với bà. Bà từng nghĩ, với sắc đẹp của tuổi đang xuân, sự bặt thiệp ngoài xã hội, và là mẹ của những đứa con bà có thể giữ được chồng. Thế mà, với ông, bà vẫn là một kẻ vô hình trong Dinh Độc Lập.
Chắc chắn, là người quá mộ đạo, ông Nhu sẽ không li dị bà. Và bà không thể bỏ ông Nhu. Không có ông Nhu thì bà sẽ là ai?

Ngay trang đầu tiên của cuốn nhật ký viết ngày 28 tháng giêng năm 1958, người đàn bà 34 tuổi, trẻ đẹp viết về cái chết. Độ trầm cảm sâu thẳm đó hoàn toàn mâu thuẫn với ứng xử bề ngoài của một người đầy tự tin. Vài ngày sau đó bà đi đến quyết định bỏ đi ‟những giấc mộng hồng và những giấc mơ xanh”, bà chấp nhận rằng bà sẽ không thể nào là một cái gì đó hơn như bà đang ở thời hiện tại. Về tình chồng vợ, bà Nhu viết, ‟Anh ấy không còn trẻ để làm hơn thế nữa.” Nhưng đôi khi ông Nhu trỗi dậy thì lại không đúng lúc hay không như bà mong đợi. Bà chán nản với sự bất công: chồng bà có một thời son trẻ ong ướm huy hoàng, còn bà mới 34 mà chỉ được hưởng của thừa, của sót lại của ông Nhu. Không khó để đoán được bà Nhu chờ mong cái gì. Bà phải tìm những cách khác để ‟dập tắt ngọn lửa dục vọng của mình”.


Đại úy James Van Thach và cuốn hồi ký

Dù cố tình lẩn trách, cuốn nhật ký 59-63 đã cho thấy rõ nhu cầu tình cảm của bà Nhu chỉ được thỏa mãn khi bà xác định được vị trí ở chính trường. Bà từ từ bị bóp ngạt và ngã quỵ vì cuộc hôn nhân không tình ái, chung quanh chỉ còn những người không có tâm hồn và những khát khao như bà.
Bà Nhu viết cho chính mình, ‟Càng ngày mình càng yêu anh ấy ít đi.”

Bà Nhu, dường như, cũng đã biết đến tình yêu một chốc bằng vài cuộc tình lẻ. Trong những trang nhật ký đó bà Nhu viết về ba người đàn ông, nhưng chỉ bằng tên tắt là L, K và H. Và bà cũng viết, ‟Hạnh phúc thay chưa gặp ai có tất cả”. ‟Tất cả” trong ngữ cảnh này là sự chân thành, kính trọng, và tình yêu tha thiết – những đức tính cần có để xứng với phẩm chất của bà. Dường như H là người gần có ‟tất cả” vì tính năng động, và cung cách lạ thường trong cuộc săn đuổi tình yêu của bà Nhu. Bà Nhu hỏi H, ‟Anh có thế này với tất cả đàn bà không?” Câu trả lời của H đã đưa bà lên mây xanh, ‟Em tưởng đàn bà ai cũng như em sao? Anh phải vượt biển mới tìm được em đó.”
Ông H đã hiểu bà Nhu. H yêu Lệ Xuân vì Lệ Xuân là Lệ Xuân: đẹp lộng lẫy, cao ngạo, ngang bướng, người đàn bà không chấp nhận vị trí đã được những người đàn ông xung quanh khoanh vòng, đặt chỗ.

Nhưng, cuốn nhật ký 59-63 của bà Nhu không chỉ là những trang giấy cũ ghi chép những cuộc tình thoáng chốc, những vụ cãi vã ghen tuông, hay mức trầm cảm của một thiếu phụ đời thường. Trong cuốn nhật ký đó ngoài những trang viết về gia đình, về chồng, về con, về chị, về em, bà Nhu còn ghi lại rất nhiều sự kiện quan trọng về Tổng thống Ngô Đình Diệm và chính sách của ông, về những nhận vật quan trọng ở trung tâm quyền lực thời đệ nhất Cộng hòa, kể cả ông bà cựu Đại sứ Trần Văn Chương, hay những tướng tá và những người khác, và các sự kiện chính trị quan trọng.
Chỉ một thí dụ, trang nhật ký ngày 12 tháng 11, năm 1960 bà Nhu ghi lại những gì xảy ra ngày 11/11/1963, Vương Văn Đông đã làm gì, Nguyễn Khánh đã làm gì, Tổng thống Diệm ứng phó ra sao, và bà đã làm gì.

Hồi ký và nhật ký khác nhau được sử đụng khác nhau trong các nghiên cứu lịch sử.
Nhật ký, trong nghiên cứu lịch sử, là một nguồn tài liệu khó sánh kịp về phẩm cũng như lượng. Nhật ký đã cung cấp cho sử gia và mọi người một cái nhìn sâu sắc về quá khứ. Nhiều nhân vật nổi tiếng trong lịch sử đã dùng nhật ký để ghi lại những gì đang xảy ra với họ và với đất nước của họ suốt dòng lịch sử. Nhiều cuốn nhật ký đã được công bố và có một số đã đi vào lịch sử lịch sử và trở thành những tài liệu văn học trên thế giới. Thí dụ cuốn nhật ký 1660-1669 của của Samuel Pepys trở thành nguồn sử liệu cho giới nghiên cứu về đời sống ở London trong những năm 1960. Nó ghi lại nhiều sự kiện quan trọng thời đó: bệnh dịch lớn ở London vào năm 1665, vụ hỏa hoạn ở London năm 1666. Cuốn nhật ký của Semuel Pepys đã cho sử gia thấy rõ những gì đã xảy ra ở London trong thời đó.

Quan trọng không kém, cuốn nhật ký của bà Nhu viết từ ngày 28 tháng giêng, 1959 đến ngày 7 tháng 6, 1963, khi xuất bản, sẽ trở thành chứng từ, tài liệu lịch sử giúp cho giới nghiên cứu hiểu rõ, hiểu thêm về chính phủ Ngô Đình Diệm, về các cuộc chính biến, về những nhân vật đã trực tiếp và gián tiếp viết lên những trang sử Việt Nam thời đó, v.v. Hơn nữa, cuốn nhật ký đó còn có thể là một tài liệu để giới phân tâm học, các chuyên gia tâm lý nghiên cứu và phân tích một cách khoa học để vẽ lại chính xác hình ảnh của nhân vật lịch sử đầy quyến rũ và mâu thuẫn.

Ngoài lời xác định của tác giả Demery, người đã liên lạc, làm việc với và biết nét chữ của bà Nhu, rằng quyển nhật ký đó do bà Nhu viết, một chuyên viên lưu trữ tại Đại học Stanford đã được xem cuốn nhật ký nói rằng chữ viết tay trong đó ‟tương tự hoặc giống như”chữ viết tay trên lá thư giữa bà Nhu và các viên chức Hoa Kỳ trong cùng thời gian đó.(27)
Cuốn nhật ký 59-63 của bà Nhu, không còn nghi ngờ gì nữa, nó phải được xuất bản, công bố cho tất cả mọi người quan tâm đến lịch sử Việt Nam.

Trở lại cuốn Finding the Dragon Lady: The Mystery of Vietnam’s Madame Nhu, qua những trang hồi ký gởi cho Demery, bà Nhu luôn luôn thần tượng hóa chính bà và lịch sử của gia đình bà. Sai sót duy nhất, nếu có thể xem là thế, một lần bà Nhu thì thầm qua điện thoại, ‟Có lẽ, tôi đã nên khiêm nhường hơn một chút về sự vĩ đại của gia đình tôi.” Demery cũng nhắc lại câu chuyện này trong chương trình ‟The Daily Show” với Jon Stewart hôm 6/11/2013. Bạn đọc cũng có thể theo dõi tác giả Demery trao đổi với ký giả Andrew Lam và khán giả trong chương trình  BookTV (C-SPAN2).(28)

Tác phẩm của Demery là một công trình nghiên cứu đáng chú ý không chỉ vì nó đã phác họa được cuộc đời của một nhân vật nhiều phức tạp và bí ẩn đã góp phần viết nên lịch sử Việt Nam mà còn phải kể đến sự kiên nhẫn, khéo léo của tác giả trong suốt thời gian nghiên cứu đã làm việc với một chính khách lưu vong dù đã đi vào quên lãng nhưng vẫn còn cái cao ngạo đáng ghét của một thời đầy quyền lực.

Là một độc giả, người viết cảm ơn tác giả Monique Brinson Demery đã viết cuốn Finding the Dragon Lady: The Mystery of Vietnam’s Madame Nhu.
Sau cùng xin cảm ơn Đại úy James Van Thach đã thật chân thành, sốt sắng và xuyên suốt trong các cuộc trao đổi với người viết.

© 2014 DCVOnline

(27) Katie Baker, Searching for Madame Nhu, The Daily Beast, Sept. 24, 2013.
(28) Monique Brinson Demery, Finding the Dragon Lady: The Mystery of Vietnam’s Madame Nhu, BookTV (C-SPAN2)

·       Phần nhấn mạnh (bold) là của hoangnamgiao.blogpost
 
                                  Tác giả Lê Xuân Nhuận và Đại úy James Van Thach