HỒNG Y SPELLMAN VÀ CHIẾN TRANH VIỆT NAM
Trần Thị Vĩnh Tường
Soldiers Never Lose
Ngươì dân Mỹ biết taị sao họ tham chiến ở Pearl Harbor năm 1941, ở Triều
Tiên năm 1950. Nhưng hình như họ không hiểu tại sao xứ họ lún vào “vũng lầy”
chiến tranh Việt Nam từ 1954 đến 1975. Từ chiến trường Việt Nam xa xôi, quan
tài liên tiếp trở về. Khi nốt nhạc chiêu
hồn còn đang lơ lửng, bên nấm mồ phủ hoa và lá cờ đầy kịch tính, gia đình tử sĩ
giật mình “Sự thật ở đâu? Ngưòi anh hùng không toàn thây kia nằm xuống cho ai?”
Tướng McArthur nói “Old soldiers never die; they just fade away/Ngưòi lính già
không chết; họ chỉ nhạt dần đi”. Có lẽ phải thêm “Soldiers never lose, but are
betrayed/ Người lính không bao giờ thua trận/họ chỉ bị phản bội”.
Cựu quân nhân Việt Mỹ giống nhau một điểm: ồn ào nhận thua
trận mà quên rằng:
Chỉ cấp lãnh đạo mới thua trận!
Chỉ cấp lãnh đạo mới phản bội!
Nhưng cấp lãnh đạo chiến tranh Việt Nam là ai?
Lúc người dân Mỹ khám phá ra rằng khi chấp nhận chiến
tranh thì phải chấp nhận hy sinh nhưng Hồng Y Spellman chỉ muốn ngườì “hy sinh’
cho ngài, họ bắt đầu biểu tình trưóc nhà thờ St. Patrick và tư dinh của ngài ở
New York. Lần đầu tiên tên một hồng y được đặt tên cho cuộc chiến, “Spellman’s War.” Những bài viết cay đắng
về ngài khá nhiều. Có một điều người dân Mỹ “cay đắng” về cuộc chiến Việt Nam:
đang từ một dân tộc anh hùng kiểu “vì dân diệt bạo”, họ trở thành hiếu chiến
hiếu sát, trong khi đó, Vatican được tiếng là rao giảng hoà bình. Ý kiến của
một cựu chiến binh “Hơn 58,000 lính Mỹ
không biết rằng họ chết ở Việt Nam cho
Giáo Hội Ki-tô. Không đi lính, thì đi tù 5 năm. Biết vậy, tôi không đăng lính năm 1968. Tôi sẽ đi biểu tình
chống chiến tranh và ngồi tù trong danh dự để thách đố những láo khoét của
chính phủ về tình hình Việt Nam.”
Điều đau của quân nhân Mỹ-Việt, từ tướng cho đến quân,
trong cuộc chiến Việt Nam: đào ngũ thì bị tù, muốn đánh cũng không đuợc, muốn
thua cũng không xong, muốn thắng lại càng khó! Chết uổng đời, sống bị phỉ
nhổ! Khi siêu quyền lực muốn kéo dài
chiến tranh để tiêu thụ võ khí, thì xác người chỉ là con số, Việt Nam là nấm
mồ, chôn ai không cần biết.
Trong 28 năm làm hồng y, hồng y Spellman trực tiếp can dự
vào cuộc chiến Việt Nam suốt 13 năm - từ 1954 đến 1967. Tuy có tới hơn ba triệu
ngươì Việt-Mỹ chết “Cho Ngài, Do Ngài và Vì Ngài”, mặc dù tên tuổi của
ngài hình như còn rất xa lạ với người mình, ngoại trừ một số du học sinh ở Úc,
Mỹ… những năm 1960, bật TV lên là thấy ngài.
Nhưng
hồng y Spellman là ai?
Truyền thông
Hoa Kỳ ghi chép đầy đủ cuộc đời và sự nghiệp hồng y Spellman (1889-1967). Quan
điểm của những tác giả độc lập này khá
khách quan, khi chỉ muốn tìm ra “sự thật”, tìm ra “mục tiêu tối thưọng” cuả sự
việc. Họ không tìm cách bào chữa/tâng
bốc/đạp đổ nhân vật, mà chỉ phân tích mục tiêu cho cho ra lẽ. Tác giả Avro
Manhatttan còn cẩn thận viết “Đề cập đến “giáo hội Ki-Tô” cuốn sách của tôi
không nhắm đến những tín đồ thuần thành, không biết chút xíu gì về những âm mưu
toan tính nói trên, chỉ nói đến giới lãnh đạo cao cấp ở Vatican và những tu sĩ
Dòng Tên”.
Bài viết này
chỉ nhặt những chi tiết có liên quan xa gần tới chiến tranh Việt Nam, còn những
sự việc khác như ngài là người đồng tính (homosexual), chiếm giải quán quân
trong việc phát triển giáo hội qua việc xây dựng trường học Công giáo trên toàn
thế giới, thành công vượt bực trong kinh doanh “Knights of Malta”, thiết lập
Ratlines giúp đám Nazis Đức Quốc Xã chạy trốn, thành tích quậy phá các xứ Trung
Mỹ…không liên quan gì đến vận mệnh ngườì Việt cả.
Có thể nói đường hoạn lộ cuả ngài thẳng băng như một cây thước kẻ.
Hồng y Spellman - Tiệc mừng hai ứng cử viên Tổng thống Mỹ
Kennedy và Nixon (1960)
VỀ tôn giÁO:
Năm 1911, chủng sinh Spellman/dòng Jesuits (tức dòng Tên),
22 tưổi tu học ở Rome được hân hạnh kết bạn rất thân với Hồng Y Eugenio
Pacelli. Hồng y gọi yêu cậu là “Frank
hay Franny”. Trong 7 năm, hồng y Pacelli đi khắp thế giới
đều mang Frank theo, từ leo núi Alps đến bãi biển Hy Lạp. Tháng 7-1932, Frank
đưọc phong làm giám mục giáo phận Boston, thủ đô tiểu bang Massachssetts. Chính
hồng y Pacelli, lúc đó là bộ trưởng ngoại giao, tấn phong cho Frank trong một
buổi lễ trọng thể cử hành ở đền thờ Thánh Phêrô/St. Peter’s Basilica ở Vatican,
Frank mặc aó lễ màu vàng chói mà hồng y Pacelli mặc năm xưa. Lần đầu tiên một giám mục Hoa Kỳ được hân
hạnh này, giáo dân Boston nở nang mặt mũi.
Tháng 3-1939, hồng y Pacelli được bầu làm gíao hòang Pius
XII. Đúng tám tuần lễ sau, giáo hoàng Pius
XII phong cho Spellman làm Tổng giám mục New York, giáo phận giầu có nhất Hoa
Kỳ. 20 năm sau, hồng y Spellman biến New
York thành giáo phận giầu nhất thế gìới. Cùng năm 1939, Spellman đuợc phong
chức tổng tuyên úy quân đội: cái vé tối danh dự đặt giám mục Spellman
trên đỉnh mạng lưói siêu quyền lực gồm siêu quí tộc/tài phiệt/chính trị/tình
báo/quân sự liên quốc gia có tên Sovereign Military Order of Malta, viết
tắt SMOM, hội viên phải được giáo hoàng sắc phong. Nội cái tên không thôi
đã nói lên mục đích của SMOM.
Năm 1946, giáo hoàng Pius XII phong Spellman chức hồng y. Không cần mọc cánh, ngài trở thành “thiên
thần” giữa Vatican và bộ ngọai giao Mỹ. Ở Mỹ, người ta linh đình chúc tụng ngài
là American Pope/Giáo Hoàng Hoa Kỳ. Ở
Vatican, ngươì ta gọi ngài là Cardinal
Moneybags/Hồng Y Túi Tiền. Ngôi thánh đường Patrick ngài ngự đuợc gọị chệch
đi là “Come-on-wealth Avenue/Đaị lộ
Của Cải Nhào Vô” (thay vì “Commonwealth”),
trở thành thời thượng. Ngài làm lễ cưới cho Edward Kennedy ở đó.
2. QuyÈn
lỰc:
Đóng góp tài chánh của hồng y Spellman cho Vatican, tình
bạn với Giáo hoàng Pius XII, vị trí chót vót trên đỉnh SMOM, quyền lực Spellman hầu như vô tận không
ai dám đụng. Bạn của ngài nằm trong danh sách 100 người quan trọng nhất thế kỷ
20. Ngài giới thiệu với giáo hoàng Pius XII hàng loạt các nhà cự phú, biến họ
thành quí tộc Hiệp sĩ Malta, không ai dám đụng tới. Hốt tiền chỗ này bỏ
chỗ kia khéo léo như một bà chủ hụi, dưới bàn tay Spellman mọi việc trôi êm.
Thay vì nộp tiền niên liễm cuả Knights of Malta- Hiệp sĩ Malta vào tổng
hành dinh SMOM ở Rome, Spellman chuyển tiền đó vào tài khoản riêng cuả hồng y
Nicola Canali (1939-1961) bộ trưỏng bộ ngoại giao Vatican. Vài câu hỏi yếu ớt vang lên, ngài không bận
tâm trả lời. Báo nào xa gần hơi “tiêu
cực” về ngài, ngài cho lệnh các cửa hàng sang trọng khu Sak Fifth Avenue rút
hết quảng cáo liền một khi. Thương xá Sak
Fifth/New York chỉ là một tài sản khiêm nhường của ngài, cũng như tổng giám
mục Ngô Đình Thục là chủ thương xá Tax/Saigon vậy.
Hồng y Spellman giúp Vatican 1 triệu đô la tài trợ Công
đồng Vatican II nhưng ngài không hơi sức nào bầu bạn với nhũng kẻ nghèo khó.
Tháng 3/1949, hai trăm phu đào huyệt nghĩa trang Calgary - rộng 500 mẫu mà ngài
là chủ nhân - đòi tăng lương 20% từ 59.40 lên 71.40 $USD (một tuần). Ngài không
chấp nhận, ngày mím môi bắt các chủng sinh nhà thờ St. Patrick thay thế, đào
huyệt chôn 1020 quan tài xếp lớp. Ngài đổ cho cái đám cùng khổ ấy là bọn… cộng
sản. Mấy ngươì vợ nghèo khổ của đám phu
đào huyệt mếu máo phân trần “Chồng tôi chỉ muốn tăng lương, không biết cộng sản
là gì”.
3. VỀ chính trỊ:
Hồng y Spellman đìều khiển thế giớí bằng điện thoại. Ngài
cho hay trước sẽ không ai viết được tiểu sử
ngài, vì sẽ không bao giờ có dấu vết chứng từ. Ngài là cố vấn của năm
đời tổng thống Mỹ từ 1933 đến 1967, từ Roosevelt, Truman, Eisenhower, Kennedy
đến Johnson. Ngài là bạn thân với tưóng William Donovan - xếp sòng OSS, tiền
thân CIA. Donovan chỉ định Allen Dulles nối ngôi CIA, nên hai anh em nhà Dulles, bộ trưởng
ngoại giao và giám đốc CIA, cũng dưới tay ngài.
Một trong những ngưòi bạn danh giá là đại gia Joseph
Kennedy, thân phụ của thượng nghị sĩ trẻ tuổi John Kennedy/tiểu bang nhà, Mass.
Năm 1935, taì sản ông Kennedy đã lên tới $180 triệu đô la, khoảng 3 tỷ bây giờ.
Sau thế chiến II, một trong những chiến lược của Vatican trong việc ngăn chặn
cộng sản bằng cách ủng hộ các ứng viên phe Dân Chủ Ki-Tô giáo. Đang khi Vatican
muốn có một tổng thống Ki-tô ở tòa Bạch Ốc, đúng lúc Joseph Kennedy muốn John Kennedy làm tổng thống. Giáo hoàng
Pius XII gưỉ bác sĩ riêng Riccardo Galeazzi đến gặp Spellman và Joseph Kennedy
để thương lượng. Có tiền mua chức tổng thống dễ như mua bắp rang.
Những yếu tố trên chín mùi cùng lúc, Spellman dựa vào
Vatican dựng lên hai tổng thống Ki-tô dân chủ đầu tiên: John F. Kennedy ở
Washington D.C cũng như Ngô Đình Diệm trước đó ở Saigon.
Tài liệu ngoại quốc không có những chi tiết như trong bài
viết “Có phải Hoa Thịnh Đốn Đã Đưa Ông Diệm Về Làm Tổng Thống Đệ Nhất Cộng
Hoà VN” cuả Linh mục An-Tôn Trần Văn Kiệm. LM là người duy nhất ở gần ông Ngô
Đình Diệm trong hơn hai năm ông Diệm ở Mỹ,
Theo Linh mục, có ba người đưọc hồng y Spellman bảo trợ, nhận làm con nuôi: hai linh mục Trần
Văn Kiệm-Nguyễn Đức Quý và ông Ngô Đình Diệm.
(Ghi chú: ông Ngô
Đình Diệm có tói ba vị “cha nuôi” oai quyền một cõi: thượng thư Nguyễn Hữu Bài,
Hồng y Spellman và trùm CIA Allen Dulles)
Ba vị “cha nuôi” của ông Ngô Đình Diệm: Thượng thư Phêrô-Giuse
Nguyễn Hữu Bài (1863-1935), Hồng y Francis Joseph Spellman (1889-1967) và Trùm
CIA Allen Dulles (1893-1969)
Năm 1951, đang ở New York, Linh mục Trần Văn Kiệm, được
điện tín từ Âu châu ra đón tổng giám mục Ngô Đình Thục và em là Ngô Đình Diệm
taị phi trường Idlewild (phi trường Kennedy bây giờ). Sau đó
Hồng y Spellman gửi ông Diệm trú taị nhà dòng các linh mục Maryknoll,
New Jersey. Tuy đuợc Hồng y Spellman giầu có bảo trợ, ông Diệm không được Hồng
y cho đồng xu nào. Suốt hai năm, chỉ một mình Linh mục Kiệm thăm viếng, bao
biện việc di chuyển, kể cả thuê khách sạn cho ông tiếp khách vì biết ông rất
thanh bạch. Cho đến tháng 6/1953, ngày
ông từ giã Hoa Kỳ qua Pháp gặp hoàng đế Bảo Đại trước khi về VN nhận chức thủ
tướng, Linh mục Trần Văn Kiệm và năm ngươì bạn còn chạy mua vội cho ông chiếc
cà vạt màu xanh.
Tuy vậy, theo linh mục Trần Văn Kiệm, mãi đến giữa năm
1953, chính giới Mỹ chẳng biết gì về ông Ngô.
LM TVKiệm viết:
-”Có lần chính khách Mỹ phàn nàn với tôi: linh mục
đề cao tư cách lãnh đạo của ông Ngô Đình Diệm, và cả Đức Cha Ngô Đình Thục cũng
làm như thế, nhưng chúng tôi cần thêm chứng nhân, vì Đức Cha Thục là anh đề cao
em thì có chi là lạ”.
-”Mãi tới gần một tháng sau khi trận Điện Biên phủ nổ
lớn ngày 13 tháng 3 năm 1954 (thất thủ
ngày 26 tháng 6) và có lẽ cũng vì nghe lời Đức Hồng y Francis Spellman kêu gọi,
ngày mùng 7 tháng tư năm 1954 tổng thống Eisenhower mới lên tiếng cảnh giác,
khi ông xướng lên chủ thuyết Domino: “Nếu Việt Nam sụp đổ trước sức tấn công
Cộng sản quốc tế với Liên Xô và Trung hoa yểm trợ Hà nội, thì mấy nước ở Đông
Nam Á sẽ khó mà đứng vững được”.
HỒng Y Spellman
dỰng nên ĐỆ NhẤt CỘng Hòa VIỆT
NAM
Một chân ở điện Capitol, một chân ở Vatican, hồng y
Spellman ảnh hưởng cả tổng thống Mỹ, sai khiến được trùm CIA, hoạch định chính
sách cho bộ ngoại giao, nên ngài yên chí sẽ được bầu làm giáo hoàng ở Vatican
khi bạn thân ngài là giáo hoàng Pius XII qua đời. Không ngờ, ngày 28-10-1958, người đựợc bầu là
Hồng Y Angelo Roncalli, tức Giáo hoàng John XXIII. Hồng y Spellman giận lắm, nhiếc sau lưng ông: “Ông ta đâu xứng làm Giáo Hòang, Ổng
đáng đi bán chuối/He’s no Pope. He should
be selling bananas”.
Hồng y Spellman có vẻ như lập laị câu nói cuả Cesar “Veni,
Vidi, Vici”. Những năm 1950, chính khách Mỹ nói về châu Á còn lọng cọng dở
bản đồ, Spellman đã đi qua cả rồi. Năm 1948, ngài đỡ đầu cho linh mục Fulton
Green qua Australia đọc diễn văn tại nhà thờ St. Mary’s ở Sydney. Spellman ghé
Singapore và Bangkok, bay ngang Angkor Wat. Trên đưòng trở về Mỹ, trứơc khi bay
qua Canton và Hongkong, ngài tiện chân ghé Saigon. Tổng giám mục Saigon người
Pháp Jean Cassaigne có mời tổng giám mục Vĩnh-Long Ngô Đình Thục trong buổi
tiếp đón ngày 25-5-1948: từ buổi “tiện chân” định mệnh này, số phận cuả dòng họ
Ngô-Đình đã an bài.
Giới học thuật Mỹ - tôn giáo, chính trị, truyền thông,
giáo dục - đồng ý dứt khóat 100% về vai
trò của Hồng Y Spellman trong việc dựng lên tổng thống Ngô Đình Diệm. Xin chỉ
giới hạn vào bốn tác giả mà sách của họ đã được thử thách với thờì gian. Trong
số bốn ngươì này, hai là linh mục Ki-tô giáo:
- Theo Wilson D Miscamlble, giáo sư môn sử/đaị
học Notre Dame/Indiana, trong bài viết “Francis
Cardinal Spellman and Spellman’s War”, lý do người Mỹ nhúng tay vào chiến
tranh VN bắt nguồn từ Chiến Tranh Lạnh kéo dài từ châu Âu. Dưới ảnh
hưởng vô cùng to lớn của Spellman, chính giới Mỹ đều tin tưởng rằng sự bành
trướng của khối Cộng Sản Liên Sô và đồng minh của họ, Bắc VN, là mối đe dọa
trực tiếp nước Mỹ.
- “The American Pope: The Life and Times of
Francis Cardinal Spellman”, tác giả John Cooney (cây bút cuả Wall
Street Journal) viết: “Nếu không có
Spellman ủng hộ Ngô ĐìnhDiệm hồi 1950, chắc chắn không có chính phủ miền Nam
Việt Nam.” Cooney dành 18 trang riêng về Spellman và Việt Nam. Tờ Church & State phê bình
“dẫn chứng kỹ càng, tất cả người Mỹ nên đọc và học hỏi”
- “An American Requiem/Kinh Cầu Hồn Nước Mỹ”,
tự truyện, tác giả James Carroll có bố là trung tá tình báo Pentagon:
chuyên viên tìm toạ độ để ném bom ở Việt Nam, mẹ lại là bạn thân cuả hồng y
Spellman. Ông viết “Chiến tranh VN bắt đầu từ Spellman”, sách-bán-chạy nhất
1960-70, đoạt National Book Award for Non-Fiction (1996), giải thưởng cao quí
nhất cuả văn học Mỹ. Carroll dành nguyên chương 8, “Holy War/Cuộc Chiến Thần
Thánh” cho chiến tranh Việt Nam.
- Theo linh mục Martin Malachi: Spellman dấn
thân vào Việt Nam là theo ý muốn của
Giáo Hoàng Pius XII: muốn ngưòi Mỹ đưa ông Ngô Đình Diệm lên vì ảnh hưởng
của tổng giám mục Ngô Đình Thục.
[Ghi chú: Linh mục Malachi, giáo sư Giáo hoàng Học Viện
Vatican (Pontifical Biblical Institute) từ 1958 đến 1964, cùng thờì điểm chìến
tranh Việt Nam. Ông là phụ tá, thư ký
riêng, thông dịch viên cho hồng y Augustin Bea/dòng Jesuit và cho Giáo hoàng
John XXIII. Ông ở cùng dinh vơí giáo hoàng
John XXIII, được giao phó nhiều việc “nhậy cảm”. Là linh mục dòng Jesuits/dòng
Tên trong 25 năm, năm 1965 ông xin chấm dứt ơn kêu goị, nghiã là ra khỏi dòng
Jesuits. Ông qua New York, sống lang thang làm bồi bàn, tài xế taxi, rửa chén.
Hai năm sau ông bắt đầu kiếm ăn bằng viết sách. Cuốn nổi tiếng nhất: “The
Jesuits: The Society of Jesus and the Betrayal of the Roman Catholic Church/
Dòng Jesuit và Sự Phản Bội Của Giáo Hội La Mã”].
(Cả ba cuốn The American Pope, An American Requiem, The
Jesuits đều có trên amazon.com.)
Có thể tóm tắt: được các nhân vật tối cao cuả lập pháp, tư pháp, tình báo, taì phiệt và
tôn giáo Hoa Kỳ đã nâng đỡ, con đường hoạn lộ cuả ông quan Á Châu Ngô Đình Diệm
giống như truyện cổ tích Cô Bé Lọ Lem, ngọai trừ đoạn cuối.
1. 1951: taị New York, Hồng Y Spellman giới
thiệu ông quan-tự lưu vong-Ngô Đình Diệm với chính giới Mỹ, gồm thượng nghị sĩ
Michael Mansfield, thẩm phán tối cao pháp viện William O. Douglas, trùm CIA
Allen Dulles, cha con Joseph Kennedy, tất cả là tín đồ công giáo.
2. 1954: CIA gửi Edward Landsdale qua Saigon
hóa phép “trưng cầu dân ý” truất phế Baỏ Đaị-ủng hộ thủ tứơng NĐDiệm. Landsdale
đề nghị tỷ lệ đắc cử là 70%, ông Diệm không đồng ý, đòi phải đạt được 92.2%,
con số cao hơn cả số cử tri ghi danh.
3. 1955:
Bộ Ngoaị Giao gửi đoàn cố vấn dân sự qua
Saigon (giáo sư Wesley Fishel/đại học Michigan cầm đầu) soạn cấu trúc cho an
ninh, kinh tế, giáo dục, hành chánh, soạn
cả hiến pháp cho Việt Nam Cộng Hòa. Cơ quan USAID/Sở Thông tin Hoa Kỳ phát
không tờ Thế Giới Tự Do, lò sản xuất
những khẩu hiệu như “tiền đồn chống cộng, lý tưởng tự do, ngươì quốc gia…”.
USAID cũng bao dàn trọn gói luôn tờ The
Times bằng tiếng Anh của ông Ngô Đình Nhu.
4. 1955:
chính phủ Eisenhower tài trợ 20 triệu đô
la cho quĩ [Roman] Catholic Relief
Services , “Cơ Quan Viện Trợ Công Giáo”.
Hồng y Spellman cũng đích thân viếng Saigon và tặng $100,000 cho quỹ này, giúp tái định cư ngưòi
di cư (có tài liệu ghi $10,000). Từ đó mỗi năm, Hoa Kỳ viện trợ khoảng 500
triệu đô la một năm cho Việt Nam Cọng Hòa.
5.
Ngoài cố vấn Mỹ chính thức tạị dinh Độc Lập, Spellman còn gàì điệp viên
kiểm soát hai anh em ông Diệm-Nhu.
6. Từ
đầu năm 1963, Spellman bắt đầu tách rời khỏi Ngô Đình Diệm khi chính phủ Diệm
từ chối không cho thêm quân nhân Hoa
Kỳ vào Việt Nam.
7. Ngày
7-9-1963 tổng giám mục Ngô Đình Thục rời
Việt Nam qua Roma, bước lưu vong đầu tiên, không được giáo hoàng Paul VI
tiếp. Ngày 11-9-1963 Ngô Đình Thục bay
qua New York cầu cứu, hồng y Spellman lánh mặt đi Miami Beach/Florida dự lễ gắn
huy chưong.
8. Ngày
1-11-1963: Spellman bật đèn xanh cho âm mưu dứt điểm con nuôi Ngô Đình Diệm. Từ
đó, Spellman không hề nhắc đến tên
Thục-Diệm thêm một lần nào nữa.
9. Spellman tiếp tục đìều khiển guồng máy
chiến tranh Việt Nam không-Diệm cho đến khi về hưởng nhan thánh Chuá năm 1967.
Hồng Y hay đaị
tướng?
Đáng lẽ Hồng y Spellman phải theo nghiệp binh đao. Năm
1943, chỉ trong bốn tháng, ngài vượt 15,000 miles, đến 16 quốc gia vừa là đại
diện của Vatican, vừa là tổng tuyên uý quân đội, vừa là đặc sứ cuả tổng thống
Roosevelt. Ngài khéo léo luôn để Vatican
đứng ngoài, và đứng trên chìến tranh.
Ngài đuợc West Point trao tặng huy chương. Ngàì có bằng lái máy bay cả ở
Italy lẫn Massachussets.
Fidel Castro mô tả hồng y Spellman là “Giám mục của Ngũ
Giác Đài, của CIA và FBI”. Tổng thống Mỹ còn sợ bị ám sát, Spellman thì không.
Trong cuốn “Vietnam… Why Did We Go?/Vì
Sao Chúng Ta Đã Đi Việt Nam” tác giả Avro Manhattan chứng minh “siêu quyền lực”
giết tổng thống John Kennedy chính là
Hồng y Spellman. Bản dịch tiếng Việt, có trên internet, dịch giả Trần
Thanh Lưu.
“Vietnam, Why Did We Go?” Câu chuyện gây sốc về vai trò của “giáo
hội” Công giáo trong buổi khởi đầu của Chiến tranh Việt Nam - Hồng y Spellman, Chỉ
huy Tuyên úy quân đội Mỹ.
Hậu thuẫn lớn của hồng y Spellman cho chính quyền Lyndon
Johnson không phải ở châu Mỹ La Tinh, mà ở Việt Nam. Dù ở tuổi nào ngài cũng
thich làm “anh là lính đa tình”. Ngaì thường xuyên gặp gỡ các ông tướng ở tòa
Bạch Ốc, có mặt tại những phiên họp mật của tình báo. Ngài họp với Ngũ Giác
Đài, bàn cãi chiến thuật/chiến lược với hàng tướng lãnh. Phiên họp cuối ngài tham dự, tháng 3/1965,
tại Carlisle một trưòng huấn luyện quân sự ở Pensylvania. Ngài cho tiền các
giáo hội địa phương, nguồn cung cấp tin tức vô tận. Khi cần ngài hỗ trợ cho CIA
và FBI khiến hai cơ quan này khép nép dưới chân ngài. Họ không sao có được mạng
lướí rộng lớn, miễn phí và trung thành như giáo dân. Trong khi hồng y Spellman
chỉ phán một câu, các giáo hội địa phương xa xôi nghèo nàn mừng mừng tủi tủi,
vứt cả tổ tiên ứng hầu thánh ý.
Linh mục William F. Powers viết “Hình như Hồng Y Spellman đến Việt Nam để ban phép
lành cho những khẩu đại bác, trong khi giáo hoàng John 23 đang năn nỉ phải
cất chúng đi. Ngài sang thăm lính Mỹ ở
Việt Nam trong binh phục kaki vàng. Có lần, vừa trở về từ mặt trận VN, “áo anh
mùi thuốc súng” ngài lập tức bay đến Washington dùng cơm trưa với tổng thống
Johnson, có cả mục sư Billy Graham (đuợc coi như Giáo hoàng Tin Lành ở Mỹ).
Tổng thống hỏi ý cả hai ngài bước kế tiếp phải làm gì. Trong khi mục sư Graham
còn đang lúng túng giữ yên lặng, HY Spellman không ngần ngaị, nói liền một câu
lạnh cẳng “Thả bom chúng! Chỉ việc thả
bom chúng!” Và Johnson đã làm theo lời cố vấn cuả ngài. [Thus, when Johnson
asked both Spellman and Billy Graham at a luncheon what he should do next in
Vietnam, Graham was uncomfortably silent. “Bomb them!” Spellman unhesitatingly
ordered. “Just bomb them!”’ And
Johnson did]. Chúng là ai? Là người Việt. Chưa được đọc bài nào
của tác giả Việt về câu nói kinh hãi này. Chỉ mới thấy tác giả Nguyễn Tiến Hưng
giận dữ về câu “Sao chúng nó không chết phứt đi cho rồi” cuả ông Henry
Kissinger.
Billy Graham (1918-) đâu phải tay mơ. Ông được coi như
“giaó hoàng Tin Lành,” cố vấn các tổng thống Mỹ từ đời Eisenhower đến G. Bush.
Ông rất oai, quở trách tổng thống Richard Nixon như con cái trong nhà. Có lẽ
thấy Spellman ngon lành quá, Graham bắt chưóc y chang khiến ông cũng rất nổi
tiếng trong quân sử Hoa kỳ với lá thơ 13 trang: Năm 1969 Graham đến Bangkok gặp
gỡ vài “nhà truyền giáo” từ VN qua. Các
đaị diện Chúa sau khi làm dấu thánh giá, đề nghị nếu hội nghị hoà bình Paris
thất bại, Nixon nên dội bom các đê điều ở Bắc Việt. Không rõ các nhà truyền
giáo này kiêm điệp viên hay điệp viên kiêm nhà truyền giáo, họ là người Việt
hay ngưòi ngoaị quốc, thuộc dòng nào, từ đâu qua Bangkok gặp Graham… rất tiếc
bản tin không nói rõ. Trở về Mỹ, Billy hăng hái gửi 13 trang viết tay đề ngày
15-4-1969 cho tổng thống Nixon “dội bom
các đê Bắc Việt Nam, chỉ trong một đêm thì kinh tế ở đó tiêu đìều liền hà”.
Bức thư này đuơc bạch hóa tháng 4/1989.
Tạ ơn Chúa, Alleluia!! “Dội bom đê điều” giết cả triệu dân
là tội ác chiến tranh! Người Mỹ phải
hành quân đáng mặt nưóc lớn. Họ không quên án lệ Arthur Seyss-Inquart, luật sư
ngườì Đức, sĩ quan Phát xít cuả Hitler. Ngày 16-10-1946, toà án quốc tế xử treo cổ ông này và 10 người khác
vì phá hủy đê ở Hoà Lan trong thế chiến II. Trưóc khi chết, Seyss-Inquart còn
nói kiểu sân khấu: “Hy vọng cuộc hành hình này là thảm kịch cuối cùng cuả thế chiến
II mà bài học sẽ là hoà bình và hiểu biết giữa con người.” Tử tội xin “trở laị
đạo”, đuợc xưng tội và chiụ đủ các phép
bí tích. Kể cũng hay, giết ngưòi xong xưng tội là linh mục tha tội ngay, Chúa
có tha không tính sau. Có hơi thắc mắc không biết ông có tái sinh làm Ki-tô hữu
chưa.
Wilson D. Miscamble kết luận về “sự nghiệp” cuả hồng y
Spellman như sau:
Lòng ái quốc mù quáng đã ngăn cản ông tự hỏi một điều
rất quan trọng “mục đích của chiến tranh là gì?” Ông cũng không thèm biết
đến “phương tiện và hậu quả”.
Ông không hề biết rằng những báo cáo của chính phủ về
Việt Nam là lừa gạt.
Ông không bao giờ biết đến nhân mạng và tiền bạc trả
cho cuộc chiến tính đến 1967.
Ông cũng không bao giờ phản đối cách nước Mỹ tiến hành
cuộc chiến. Ngược lại ông là người cổ võ việc ném bom Bắc Việt Nam.
Cuối cùng, ông không
bao giờ tỏ ý hối tiếc về vai trò cuả ông. Sự thiệt hại nhân mạng do việc dội
bom cũng không hề dấy lên trong ông bất cứ một tình cảm nào. Đó là điều đáng
trách nhất, vì ông là một đấng chủ chăn.
Theo nhà tranh đấu Lê Thị Công Nhân:
“Sự kiện 30-4-75 thì tôi không phải là chứng nhân của
sự kiện đó vì tôi sinh ra vào năm 1979 nhưng với những gì mà tôi trực tiếp trải
qua, và tôi chịu đựng trên đất nước Việt Nam, tôi thấy đây là 1 sự kiện hết sức
đặc biệt và cá nhân tôi nghĩ rằng đây là
sự an bài nghiệt ngã của Đức Chúa
Trời dành cho dân tộc Việt Nam”.
Cứ dâng vạn nỗi đau thương lên cho Chúa, người cũng sẽ im
lặng như ngàn năm nay, như khi dân Do Thái cuả Chúa bị tận diệt. Đổ cho Chúa,
Việt Cộng mừng vì “Chúa an bài như thế, khỏi tranh đấu nữa”. Hồng y
Spellman mừng, Cộng sản quốc tế mừng, tư bản mừng! Cứ làm đi rồi đổ hô cho
Chúa. Nhưng một khi bom đạn và tổn thất sinh mạng cân đong đo đếm được thì
nguyên nhân/thủ phạm cần phải được xem xét kỹ lưỡng. Dù không làm kẻ chết sống
lại, người mù sáng mắt, nhưng ít ra học được vô số bài học. Nếu không, chắc
chắn quá khứ sẽ lập lại thêm lần nữa.
Có khi đang lặng lẽ xảy ra cũng nên!
Trần Thị Vỉnh
Tường
[Nguồn: Tạp chí SàiGòn Nhỏ, số 1265, ngày 22 tháng 10
năm 2010, Ấn bản Orange County, trang A1]
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét