Thứ Năm, 24 tháng 12, 2020

 

BA NGÀY CUỐI THÁNG 8 NĂM 1963 -

TÀI LIỆU GIẢI MẬT CỦA CHÍNH PHỦ MỸ

(CIA - Bộ Ngoại Giao - Pentagon Papers)

 

Người dịch: Tâm Diệu, Trí Tánh, Nguyên Giác

 

Lời Giới Thiệu - Ngày 5 tháng 7 năm 1967, Quốc hội Mỹ khóa thứ 89 ban hành đạo luật “Freedom of Information Act (FOIA)”. Mục đích của  đạo luật nầy là  “… thúc đẩy trách nhiệm giải trình và tính minh bạch của chính phủ bằng cách cung cấp một khung pháp lý cho các cá nhân có nhu cầu truy cập các tài liệu của chính phủ” (“The FOI Act promotes government accountability and transparency by providing a legal framework for individuals to request access to government documents”). Ngoại trừ 9 biệt lệ được xử lý với quy trình riêng, hầu hết mọi tài liệu của chính phủ được ban bố từ 50 năm trở đi đều có thể được tự động chọn lựa để  giải mật (declassification), hoặc được xét riêng để giải mật khi được yêu cầu.

Những tài liệu liên quan đến “Biến cố 1963” tại miền Nam Việt Nam, kéo dài từ lễ Phật Đản đến Chính biến 1-11-1963, thì nay đã đáp ứng điều kiện khung “thời gian 50 năm” nầy của đạo luật FOIA. Khối tài liệu đồ sộ nầy của chính quyền Kennedy (tại Washington cũng như tại Sài Gòn) được giới nghiên cứu đặc biệt quan tâm kể từ giữa thập niên 2010’s, khi có một số sử gia Mỹ bắt đầu tìm cách nghiên cứu và đánh giá lại toàn bộ chiến tranh Việt Nam.

Trong “Biến cố 1963”,  phong trào đấu tranh đòi bình đẳng tôn giáo của Phật giáo Việt Nam kéo dài 6 tháng, còn được gọi là “Sáu tháng Pháp Nạn”, có ba cột mốc lớn:

(1) Vụ chính quyền đàn áp gây tử vong tại đài Phát thanh Huế đêm Phật Đản 8/5/1963.

(2) Vụ tự thiêu của Hòa thượng Thích Quảng Đức tại Sài Gòn ngày 11/6/1963, và

(3) Chiến dịch “Nước Lũ” càn quét chùa và bắt bớ Tăng Ni toàn quốc do Cố vấn Ngô Đình Nhu phát động trong đêm 20/8/1963, gần như đã tê liệt hóa toàn bộ Phong trào Phật giáo, biến cuộc đấu tranh bất bạo động cho bình đẳng tôn giáo thành cuộc đấu tranh chính trị công khai của đảng phái, trí thức và sinh viên (và của quân đội trong bí mật).

Chiến dịch Nước Lũ đó, do vậy, cũng đã là một bước ngoặt quan trọng làm gay gắt thêm mâu thuẩn giữa chính phủ Ngô Đình Diệm và các tổ chức bất mãn của Quân đội do các Tướng lãnh chủ xướng. Đồng thời cũng đặt chính phủ Mỹ trước viễn ảnh một cuộc khủng hoảng về khả năng chống Cọng của phía Việt Nam và sự tham dự của Mỹ tại “tiền đồn chống Cọng” nầy.

Các tài liệu (văn bản, công điện, bản ghi nhớ, …) của chính phủ Mỹ trong ba ngày cuối tháng Tám  năm 1963  mà chúng tôi tìm dịch dưới đây, ghi lại các thảo luận, quyết định, động thái của cấp lãnh đạo Mỹ một tuần ngay sau chiến dịch “Nước Lũ”.

 

Hy vọng các thông tin được giải mật nầy, ít nhất là từ phía Mỹ, sẽ giúp các nhà viết sử có thêm tài liệu tham chiếu để thẩm định lại một cách đúng đắn hơn về một giai đoạn bi hùng của lịch sử nước ta.

(Phổ biến, nhân dịp sắp đến kỷ niệm ngày sinh thứ 120 của ông Ngô Đình Diệm, một nhân vật gây nhiều tranh cãi trong lịch sử Việt Nam cận đại - Phần nhấn mạnh / in đậm là của blog Nam Giao - 12/2020)         

----------------------------------------------------------------------------------------------------

■ Ngày 27/8/1963. Điện văn từ CIA Sài Gòn gửi về trung ương. Trung tá Conein gặp Tướng Trần Thiện Khiêm theo lời mời của Khiêm tại Bộ Tổng Tham Mưu. Tướng Khiêm nói kế hoạch đảo chánh đã thảo luận với một ủy ban tướng lãnh trong đó lãnh đạo là Tướng Dương Văn Minh, và tất cả đồng ý là sẽ thực hiện đảo chánh trong vòng một tuần nữa.

Ủy ban tướng lãnh, bên cạnh Tướng Dương Văn Minh còn có các tướng: Lê Văn Kim, Nguyễn Khánh, Phạm Xuân Chiểu, Nguyễn Ngọc Lễ, Trần Tử Oai (Oai không là thành viên ủy ban nhưng cho biết sẽ hợp tác). Tướng Trần Văn Đôn là thành viên ủy ban nhưng không thể hành động, vì đang bị vây quanh và ngăn chận bởi người của Tổng Thống Phủ.

Các tướng không nằm trong kế hoạch và phải bị vô hiệu hóa là: Tướng Tôn Thất Đính, Tướng Huỳnh Văn Cao.

Đại tá Lê Quang Tung bị xem là một mục tiêu chính phải tấn công và tiêu diệt cùng với toàn bộ nhân sự trung thành của Tung ngay trong các hành động đầu tiên của đảo chánh.

Phó Tổng Thống Nguyễn Ngọc Thơ biết về kế hoạch đảo chánh và cho biết ủng hộ. Thơ là lựa chọn của các tướng lãnh để làm lãnh đạo dân sự của chính phủ kế tiếp. Thơ cũng biết nội dung cuộc nói chuyện giữa Conein với Khiêm.

Nội các chính phủ lập sau cuộc đảo chánh sẽ do Phó Tổng Thống Thơ lãnh đạo, nhưng sẽ có một vài chức trong nội các do các tướng nắm giữ. Để tránh bất ổn định, chánh phủ kế tiếp sẽ không phải là chính phủ quân sự hay thuần tướng lãnh.

.

■ Ngày 27/8/1963. Bản ghi nhớ từ Michael V. Forrestal (NSC) trình Tổng Thống Kennedy. Cho biết vào chiều nay lúc 4 p.m. sẽ có môt số viên chức tới trình bày với Tổng Thống về chính sách Mỹ tại Việt Nam. Trong buổi họp sẽ có thêm Murrow (Giám đốc Truyền thông Hoa Kỳ) và Đại sứ Nolting.

Roger Hilsman (Thứ Trưởng Ngoại Giao về Viễn Đông Sự Vụ) và Bill Colby (CIA) sẽ trình bày cho Tổng Thống nghe về diễn tiến mới. Một ủy ban các tướng lãnh VN đã thành lập nhằm đảo chánh trong vòng một tuần nữa. Dự kiến đảo chánh xong, nội các mới sẽ do Phó Tổng Thống Thơ lãnh đạo, và vài tướng lãnh giữ chức Bộ Trưởng. Các tướng yêu cầu Mỹ bày tỏ thiện chí  bằng một thông điệp vô hại trên đài VOA. Có tin về một âm mưu đảo chánh khác do các nhà đối lập dân sự đang hình thành, trong đó sẽ có Trần Quốc Bửu, nhà lãnh đạo lao động, và họ muốn đưa Tướng Dương Văn Minh lên chức Tổng Thống.

Đề  nghị Tổng Thống [Kennedy] có thể kết thúc buổi họp bằng cách lập lại chính sách hiện nay với VN là: Mỹ không thể ủng hộ một chính phủ tại Nam VN do Cố vấn Nhu khống chế; Mỹ muốn giữ lại Tổng Thống Diệm trong chức vụ Tổng Thống, nhưng nghiêm túc lo ngại  về tính khả thi hiệu quả hay không, và do vậy để tùy các tướng VN xem có thể giữ lại Diệm hay không; Mục tiêu căn bản của Mỹ tại VN không đổi: tiếp tục toàn lực hỗ trợ cuộc chiến chống Cộng, và sẽ tiếp tục viện trợ bất kỳ chính phủ nào tại Nam VN có khả năng thực hiện nỗ lực này.

.

■ Ngày 27/8/1963. Bản ghi nhớ của Phụ tá Thứ Trưởng Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ (Lansdale). Theo lời mời của bà Trần Văn Chương (mẹ của bà Nhu), tôi (Lansdale) tới thăm bà tại lãnh sự quán VN ở thủ đô Washington. Một chút sau khi tôi tới, Đại sứ Trần Văn Chương vào, cùng nói chuyện. Các điểm chính như sau.

Hai ông bà: Mỹ phải hành động cứng rắn, nhanh nhóng, để thay thế cả Diệm và Nhu, bằng chính phủ mới. Dân VN đã phẫn nộ, và đã quá trễ để giữ ông Diệm ở lại trên ngôi Tổng Thống. Người dân, nhìn thấy Lực Lượng Đặc Biệt và cảnh sát cùng với vũ khí và quân trang Mỹ, biết rằng Diệm chỉ có thể ở trên ngôi với hỗ trợ từ Mỹ, họ sẽ chống lại Mỹ trừ phi có thay đổi ở cấp cao chính phủ. Nếu Mỹ hài lòng với việc thay đổi chính sách của Diệm về Phật Giáo và sinh viên, k cả việc trả tự do cho tù nhân Phật Tử và sinh viên, điều này không đổi được sự căm ghét của người dân VN đối với các hành vi tội phạm đã gây ra.

Đại sứ Chương: Mỹ sẽ bán đứng dân VN cho Cộng sản nếu đúng là Mỹ đang tính đưa Bửu Hội làm Thủ Tướng dưới quyền Tổng Thống Diệm. Bửu Hội, với liên hệ CS, sẽ trở thành một hình thức Việt Nam của Souvanna Phouma và CS sẽ chiến thắng.

Bà Chương (nói riêng): Ông (Lansdale) phải tới Sài Gòn mau, bảo Diệm và 2 ông bà Nhu rời VN bây giờ. Dân chúng căm ghét họ, và họ không nên ở lại vì dân chúng sẽ giết họ. Họ chắc chắn sẽ bị giết nếu ở lại VN. Không ai ở Tổng Thống Phủ nói thực với họ cảm xúc của dân.

Cả hai ông bà Chương: Chúng tôi sẽ ở lại Tòa Đại sứ cho tới khi Ly, tân Đại sứ, tới từ New Delhi, và chúng tôi sẽ ở lại trong khu vực thủ đô Mỹ với tư cách công dân riêng tư.


Đại tá Edward Lansdale, Phụ tá Thứ trưởng Bộ Quốc phòng (trái)

và Đại sứ VN tại Hoa Kỳ Trần Văn Chương (Thân phụ bà Ngô Đình Nhu)

■ Ngày 27/8/1963. Điện văn từ Tòa đại sứ Mỹ số 364. Lodge đánh giá lạc quan về lực lượng tham dự đảo chánh, bày tỏ tin tưởng các tướng lãnh.

NSC họp buổi thường nhật. Các viên chức Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ đồng ý xúc tiến đảo chánh, trong khi Bộ Quốc Phòng và cựu Đại sứ Nolting cản lại để thuyết phục TT Diệm thêm.

.

■ Ngày 28/8/1963. Điện văn từ MACV (Military Assistance Command—Vietnam), ký số 1557. Tướng Harkins (Tư lệnh MACV) bày tỏ nghi ngờ về lực lượng sẽ tham dự đảo chánh và thấy không có lý do nào phải chấp thuận gấp rút.

Điện văn Bộ Ngoại Giao Mỹ ký số 269, Tổng Thống Kennedy gửi Lodge, và điện văn Bộ Quốc Phòng Mỹ ký số 3385, Taylor gửi Harkins. Lo ngại vì các quan điểm dị biệt của Lodge và Harkins, cũng như ý kiến dị biệt ở thủ đô Hoa Thịnh Đốn, Tổng Thống hỏi ý Đại sứ và MACV về các lượng định tình hình riêng biệt của họ.


https://history.state.gov/historicaldocuments/frus1961-63v04/d60

■ Ngày 28/8/1963. Bản tin CIA báo cáo rằng vào ngày 28/8/1963, Ngô Đình Nhu suy diễn rằng bản tin đài VOA hôm 26/8/1963 và các hành động của Mỹ từ khi Đại sứ Lodge tới VN là dấu hiệu rõ ràng cho thấy chính phủ Mỹ muốn gỡ bỏ Nhu ra khỏi bất kỳ chức vụ quyền lực nào trong chính phủ. Nhu không nghĩ rằng chính phủ Mỹ muốn gỡ bỏ ông Diệm ra khỏi quyền lực. Nhu đã ra lệnh bắt một số nhà hoạt động đối lập dân sự.

.

■ Ngày 28/8/1963. Bản ghi nhớ về buổi họp với TT Kennedy. Có tham dự của nhiều viên chức cao cấp của CIA, Bộ Quốc Phòng và Bộ Ngoại Giao.

Tướng Taylor báo cáo rằng quân lực Mỹ trong khu vực đã sẵn sàng, nếu cần phải di tản công dân Mỹ ra khỏi VN. Ông nói khoảng 3000 tới 4000 người Mỹ có thể được di tản bằng phi cơ không vận ra khỏi VN. Đại sứ Lodge lo ngại khả năng không vận chưa chắc thích nghi. Tướng Taylor  nói, không kể quân nhân, tại Sài Gòn có hơn 4000 người Mỹ. Taylor nói quân trung thành với Diệm tại Sài gòn đông gấp đôi quân đảo chánh tại Sài Gòn, nhưng họ sẽ ủng hộ các tướng lãnh khi xảy ra đảo chánh. Bên ngoài Sài Gòn, quân của các tướng đảo chánh đông hơn quân trung thành của TT Diệm, nhưng chỉ cần vài đơn vị quân tinh nhuệ tuy ít nhưng có thể kiểm soát tình hình là đủ để đảo chánh thành công.

Đại sứ Nolting nói, ông tin là Diệm và Nhu đã biết các hoạt động của Mỹ với các tướng lãnh.

Bộ Trưởng McNamara nói rằng Mỹ nên quyết định trước tiên rằng có nên ủng hộ các tướng lãnh trong nỗ lực của họ đảo chánh Diệm hay không. Nếu ủng hộ, Mỹ nên bàn kế hoạch làm sao chiêu dụ các tướng lãnh còn nghi ngờ dao động.

Ball nói tình hình sẽ khó khăn, nếu không phải là bế tắc cho Mỹ trong tình thế mà Nhu là thế lực khống chế tại VN. Ball nói ông tin là Mỹ không còn đường nào để chọn, chỉ duy là phải ủng hộ đảo chánh. Mỹ đã quá điểm có thể quay trở lại rồi. Vấn đề bây giờ là làm sao giúp đảo chánh thành công.

McNamara nói, ông tin là Mỹ không nên tiến hành nếu bị thúc đẩy. Nếu Mỹ quyết định ủng hộ đảo chánh, thì nên xúc tiến đ thắng. Các điện văn ông đọc từ Sài Gòn nêu ngờ vực về khả năng chưa chắc thắng của các tướng đảo chánh. Ít nhất là ban đầu, quân trung thành của Diệm có thể đè bẹp quân đảo chánh.

TT Kennedy nói rằng cả Đại sứ Lodge và Tướng Harkins đã khuyến nghị Mỹ nên ủng hộ đảo chánh. TT Kennedy nói ông không tin là Mỹ nên chọn vị trí mà phải xúc tiến chỉ vì đã đi tới quá xa. Nếu đảo chánh không nằm trong các giải pháp, Mỹ có thể từ chối. Các tướng nói về đảo chánh đã không có vẻ nhiệt tình.

Bundy nói về nên cân nhắc hậu quả từ chối đảo chánh đối với xúc tiến ủng hộ đảo chánh. Ông nói Mỹ phải quyết định ngay hôm nay là có nên từ chối ủng hộ các tướng đảo chánh hay không.

TT Kennedy nói rằng Tổng Thống đã hỏi Tướng Harkins hai lần là có ủng hộ đảo chánh hay không. Cả Đại sứ Lodge và Tướng Harkins đều nói là nên ủng hộ các tướng đảo chánh.

Đại sứ Nolting nói rằng ông không ủng hộ đảo chánh vì lòng tin vào người Mỹ có liên hệ chuyện này. Ủng hộ đảo chánh là tệ hại trên nguyên tắc, và là đưa ra một tiền lệ bất lợi.

Ball nói về ý kiến của Nolting, vấn đề là Diệm đã thất hứa với Mỹ, trong khi Diệm và thủ hạ đang có các hành động chống lại người Mỹ. Tình hình bây giờ là: chúng ta không thể chiến thắng cuộc chiến chống cộng với Diệm ở vị trí kiểm soát, vì thế giới nhìn thấy Mỹ ủng hộ một chế độ không được dân ủng hộ. Do vậy, không thể lùi trong nỗ lực gỡ bỏ cả Diệm và Nhu. Nếu Mỹ để mặc kệ các tướng, và họ đảo chánh thất bại, chúng ta cũng thua, vì kết quả không tốt gì. Chúng ta quyết định tiến hành, không lựa chọn nào khác, và phải quyết định bây giờ để giúp đảo chánh ông Diệm thành công.

Harriman nói đồng ý với Ball.

TT Kennedy nói bây giờ phải tăng cơ hội thành công cho các tướng lãnh đảo chánh. Chúng ta nên hỏi Đại sứ Lodge và Tướng Harkins làm sao chúng ta có thể xây dựng lực lượng quân sự có thể đảo chánh thành công. Vì hiện giờ, có vẻ quân đảo chánh không thể thắng quân trung thành của Diệm.

Hilsman nói Đại sứ Lodge xin thẩm quyền đứng chờ: ngưng tất cả viện trợ kinh tế cho chính phủ Diệm, nhưng tiếp tục viện trợ bằng cách trực tiếp trao cho các tướng; ngưng tất cả hoạt động của Mỹ tại VN; Trợ giúp các tướng phe đảo chánh bằng cách trao quân dụng cho họ; Tuyên bố công khai rằng Mỹ ủng hộ quân đội đang tìm cách lật đổ ông Diệm…

Harriman nói Mỹ mất Việt Nam nếu đảo chánh thất bại. Ông nói, Mỹ không thể chiến thắng nếu còn ông bà Nhu. Mỹ đã thua cuộc ở VN và phải rút toàn bộ ra nếu không có đảo chánh. Mỹ đã đưa Diệm lên Tổng Thống và Diệm đã phản bội Hoa Kỳ. Ông nói rằng phải gỡ bỏ Nhu và sai lầm là Mỹ đã không hành động như thế từ lâu. 

Hilsman nói Mỹ không ngăn cản nổi các tướng bây giờ, và họ phải xúc tiến đảo chánh, nếu không, họ sẽ chết. Ông nói, Mỹ không thể thắng trận, nếu không gỡ bỏ Diệm.

Trả lời câu hỏi của TT Kennedy, Harriman nói Mỹ trước đây chiến thắng cùng với Diệm là nhờ các tướng đứng bên Diệm. Bây giờ các tướng nổi loạn vì hành động của Diệm chống lại Phật Giáo. Trong tình hình hiện nay, chống Diệm có thể sẽ được ủng hộ mạnh mẽ.

TT Kennedy nói tạm hoãn thảo luận, sẽ họp lại lần nữa vào 6:00 p.m.

.

■ Ngày 28/8/1963. 6 p.m. Bản ghi nhớ về buổi họp với TT Kennedy. Có tham dự của nhiều viên chức cao cấp của CIA, Bộ Quốc Phòng và Bộ Ngoại Giao.

TT Kennedy đã yêu cầu họp riêng trong một phòng khác với Dean Rusk (Ngoại Trưởng), McNamara (Bộ Trưởng Quốc Phòng), Mac Bundy (Cố vấn An ninh Quốc gia) và Tướng Taylor (Tham Mưu Trưởng Quân Lực Hoa Kỳ).

Sau khi họp riêng trở lại, TT Kennedy loan báo rằng có 3 điện văn sẽ gửi tới Sài Gòn. Một, từ Tướng Taylor gửi Tướng Harkins để hỏi về lượng định cá nhân về tình hình và về kế hoạch của các tướng lãnh. Hai, thông điệp cá nhân từ Kennedy gửi Đại sứ Lodge, muốn được bảo đảm là có phối hợp toàn diện giữa Sài Gòn và Washington, rằng Kennedy muốn lượng định cá nhân và thẳng thắn của Lodge, rằng Kennedy muốn tránh bất kỳ tình thế nào mà sứ quán tiến hành một kế hoạch mà trái nghịch với đánh giá tốt hơn của họ bởi vì họ nghĩ rằng đó là lệnh từ Washington và Washington đang đưa ra chỉ thị dựa trên giả thiết sai lầm rằng phía sứ quán đã đồng ý. Ba, điện văn tổng quát soạn bởi McNamara, Harriman, Bundy, Forrestal và Hilsman sau buổi họp sáng nay.

Kennedy kết thúc buổi họp bằng ý kiến: "Cần biết nhận định của Tướng Harkins về những gì chúng ta nên làm, chứ không phải là phản ứng của Tướng Harkins đối với những gì Tướng Harkins nghĩ là đã có quyết định ở đây." TT Kennedy nói rằng ý kiến của Tướng Harkins chưa rõ ràng lúc này.

Mùa Hè năm 1963, Tổng thống Kennedy họp với Đại sứ Cabot Lodge (hình trái)

và với Tướng Maxwell Taylor và Bộ trưởng Quốc phòng McNamara

■ Ngày 29/8/1963. Các viên chức tình báo CAS gặp Tướng Minh. Buổi gặp do Minh thu xếp. Tướng Minh hỏi chứng cớ rõ ràng rằng Mỹ sẽ không bán đứng họ cho Nhu. Tướng Minh không muốn nói chi tiết về kế hoạch đảo chánh. Khi được hỏi là dấu hiệu nào cho thấy Mỹ sẽ hỗ trợ đảo chánh, Tướng Minh trả lời rằng Mỹ nên ngưng viện trợ kinh tế cho VN.

Điện văn từ tòa đại sứ Mỹ gửi, số 375. Lodge trả lời câu hỏi của Tổng Thống Kennedy rằng Hoa Kỳ có nên cam kết chắc chắn với các tướng VNCH hay không. Lodge đề nghị chuyển các lời cam kết qua các viên chức CAS để các tướng lãnh tin cậy và nếu như thế chưa đủ, Lodge đề nghị ngưng viện trợ kinh tế như các tướng muốn thấy có dấu hiệu Mỹ sẽ không trở mặt với các tướng.

Điện văn từ MACV số 1566. Harkins trả lời Taylor, gợi ý rằng một nỗ lực cuối nên làm với ông Diệm là trong hình thức một tối hậu thư yêu cầu gỡ bỏ ông Nhu. Làm như thế, không gây nguy hiểm cho các tướng lãnh.

NCS họp. Một buổi họp khác, kết quả vẫn là ý kiến chia rẽ về chuyện Mỹ có nên ủng hộ cuộc đảo chánh của các tướng lãnh hay không.Kết quả là để Lodge quyết định chính sách.

Điện văn Bộ Ngoại Giao Mỹ số 272. Lodge được cho phép để Harkins chuyển các thông điệp CAS cho các tướng lãnh xem để đổi lại, được biết về kế hoạch chi tiết của các tướng. Lodge cũng được phép ngưng viện trợ Mỹ, nếu cần.

.

■ Ngày 29/8/1963.  6 p.m. Điện văn từ Tòa Đại sứ gửi về Bộ Ngoại Giao Mỹ. Ký tên Lodge. Chúng ta đã bước tới chỗ không thể trở ngược lại được: lật đổ chính phủ Diệm. Không trở ngược lại được, bởi vì, theo tôi nhìn, với chính phủ Diệm, chúng ta không thể nào chiến thắng Việt Cộng. Dù là với Diệm hay với bất kỳ ai trong gia đình nhà Ngô nắm quyền, cũng không thể nào chinh phục được lòng dân Viêt Nam, như giới trí thức trong và ngoài chính quyền, giới quân đội và dân sự -- đó là chưa kể tới dân Mỹ. Trong vài tháng vừa qua (và đặc biệt, từng ngày) họ [nhà Ngô] đã mất lòng dân tới mức không thể đo lường nổi. Chúng ta nên toàn lực giúp các tướng đảo chánh. Tôi nhận thấy rằng [giúp đảo chánh] sẽ có rủi ro rất lớn là mất Việt Nam. Nó cũng liên hệ một số rủi ro làm người Mỹ chết. Tôi sẽ không bao giờ đề nghị nếu tôi cảm thấy có một cơ may hợp lý để giữ Việt Nam với Diệm. Tướng Harkins nghĩ rằng tôi nên yêu cầu Diệm từ bỏ Nhu trước khi giúp các tướng đảo chánh. Nhưng tôi tin rằng, yêu cầu như thế sẽ không có kết quả và sẽ có hậu quả nghiêm trọng là sẽ bị các tướng xem là người Mỹ do dự và muốn trì hoãn. Các tướng hiện thời đã không tin chúng ta nhiều. Điểm nữa, Diệm sẽ xin thời gian cho yêu cầu (từ bỏ Nhu) khó làm đó. Điều này trao trái banh về phía Nhu.

.

■ Ngày 29/8/1963. Giữa trưa. Bản ghi nhớ về cuộc thảo luận với Tổng Thống Kennedy. Có tham dự của Ngoại Trưởng Rusk, Bộ Trưởng Quốc Phòng McNamara, Bộ Trưởng Ngân Khố Dillon, và nhiều viên chức cao cấp Bộ Ngoại Giao và Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ.

Rusk nói rằng cả Đại sứ Lodge và Tướng Harkins đồng ý rằng cuộc chiến chống Cộng tại VN không thể thắng dưới chế độ Diệm. Tướng Harkins muốn thử cách tách rời ông bà Nhu ra xa ông Diệm, vì tin mục tiêu trở ngại là Nhu hơn là Diệm. Bây giờ phải quyết định có nên chỉ thị Tướng Harkins phải hỗ trợ phương pháp đã đề nghị với các tướng VN do các viên chức VIA đưa ra. Đại sứ Lodge đã nói với một viên chức CIA, Phillips, rằng hãy nói với các tướng VN rằng Đại sứ Loge ủng hộ phương pháp của CIA. Mặc dù cho thấy ủng hộ đảo chánh, chúng ta nên tránh dính vào chi tiết về kế hoạch các tướng dàn dựng đảo chánh.

TT Kennedy hỏi là có ai có ý kiến dè dặt gì về các hành động Mỹ đang xúc tiến không. Nghĩa là, có nên tiếp tục như đang làm, hay là rút lui khỏi các nỗ lực hiện nay (nghĩa là: ủng hộ đảo chánh hay thôi).

McNamara đề nghị Mỹ không nên dính vào các nỗ lực đảo chánh, nhưng ông muốn có nỗ lực của Tướng Harkins là bảo Diệm sa thải Nhu. Gilpatric đồng ý với cách này, nói rằng nên gặp Diệm, đưa ra tối hậu thư nói rằng trong vòng vài giờ Diệm phải quyết định [loại bỏ Nhu hay không], mục đích cũng không để Diệm có thì giờ phản ứng chống các tướng lãnh trong thời khoảng trước khi họ sẵn sàng khai hỏa đảo chánh.

McNamara nói không thấy có ai thay thế Diệm được. PTT Thơ thì không phải loại người thay ông Diệm. Một nhóm tướng lãnh VN đang âm mưu đảo chánh thì không có khả năng điều hành chính phủ lâu dài. Do vậy, nỗ lực cuối nên là thúc giục Diệm sa thải Nhu.

Trả lời câu hỏi của TT Kennedy về ai đang điều hành chính phủ VN, Đại sứ Nolting nói Diệm kiểm soát và thường làm việc 18 giờ/ngày. Diệm dựa vào Nhu là ý kiến. Người giúp điểu hành cho Diệm là Thuần (Bộ Trưởng Bộ Tổng Thống), chống Nhu và trung thành với Diệm. Nếu Nhu ra đi, Thuần sẽ ở lại với Diệm.

Rusk nói rằng Mỹ đang đối phó với Nhu. Nếu đảo chánh thành công, Nhu sẽ mất quyền và có thể mất mạng. Do vậy, Nhu không có gì để mất. Nhu có thể kêu gọi Bắc Việt giúp Nhu trục xuất người Mỹ ra khỏi VN. Mỹ không nên tới gặp Diệm và bảo là phải sa thải Nhu, nhưng chính các tướng lãnh, như khúc dạo đầu của đảo chánh, sẽ đòi Diệm sa thải Nhu.

Rusk nói, giai đoạn đầu là tước bỏ quyền lực ông bà Nhu.

Đại sứ Lodge có vẻ như tin rằng không có hy vọng nào tách rời Diệm và Nhu được.

TT Kennedy nêu ra vấn đề di tản công dân Mỹ [nếu đảo chánh thất bại] và hỏi khả năng di tản có đủ không. McNamara tóm tắt về kế hoạch di tản, đưa chiến binh Mỹ vào Sài Gòn trong vòng 10 giờ đồng hồ để đưa dân Mỹ đi. Tướng Taylor nói đang đưa thêm môt số đơn vị tới gần VN để khi cần thì nhảy vào VN đưa công dân Mỹ di tản.

TT Kennedy chỉ thị: Tướng Harkins nhận lệnh hỗ trợ phương pháp CIA với các tướng VN; Đại sứ Lodge được phép loan báo ngưng viện trợ Mỹ; Không nói gì về tình hình đưa quân Mỹ vào khu vực gần VN [để di tản dân Mỹ, nếu cần], tin này dương nhiên cũng sẽ bị lộ ra. Nhưng Mỹ không muốn người VN suy đoán là quân đội Mỹ sửa soạn can thiệp vào VN; Trao Đại sứ Lodge thẩm quyền toàn bộ chiến dịch này. 

TDTTNG/12.2020


 

 

Thứ Bảy, 5 tháng 12, 2020


                                 12/12/1974: TRN PHƯỚC LONG

VÀ KHỞI ĐẦU CHO MỘT CỨU RỖI MỚI 

Nguyễn Hữu Liêm

Trong các năm 1970, 1971, Tây Ninh đã là nơi các trận giao tranh

ác liệt giữa lực lượng cộng sản với quân đội Hoa Kỳ và quân lực VNCH

(Ảnh tư liệu từ giai đoạn trước 1973)

Tuần này 46 năm năm trước, Quân đội Nhân Dân (QĐND) miền Bắc, dưới sự chỉ huy của tướng Hoàng Cầm, mở màn trận đánh tỉnh lỵ Phước Long, chỉ cách Sài Gòn khoảng 120 cây số phía Tây Bắc. Tướng miền Nam là Dư Quốc Đống chỉ huy các đơn vị Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) chống trả trong một hoàn cảnh rất khó khăn.

Hơn ba tuần sau, ngày 6 tháng 1, 1975, Phước Long thất thủ.

Bộ Chính Trị đảng Cộng sản Việt Nam muốn đánh thử trận nầy để xem phản ứng của Hoa Kỳ như thế nào. Như ai cũng biết, Mỹ hoàn toàn không can thiệp, không có một động thái chính trị hay ngoại giao nào đáng kể nhằm khuyến cáo miền Bắc cho sự vi phạm Hiệp định Paris khi chưa ráo mực chữ ký.

Vài tuần sau, QĐND phát động tổng tấn công từ Quảng Trị đến đồng bằng Cửu Long. Chỉ trong vòng ba tháng sau, ngày 30 tháng 4, miền Nam đầu hàng vô điều kiện. Chiến tranh chấm dứt. Đất nước thống nhất.


Cảnh chạy loạn ở Nam Việt Nam,  tháng Sáu 1974

Định mệnh Lịch sử


Trận Phước Long, như nhiều trận khác trong cuộc chiến Quốc-Cộng vừa qua, cùng chia sẻ một mẫu số chung về bản sắc và tính chất nhân văn của hai miền Nam Bắc, giữa Quân đội VNCH và QĐND.

Mặc dầu hai phía trong chiến tranh đều là quân nhân người Việt Nam, nhưng bản sắc của người lính QĐND được trang bị nhiều ưu thế, từ vũ khí, chiến thuật, lãnh đạo, chính trị và thời thế. Số phận VNCH đã được an bài - không phải như là mục tiêu chính sách - mà là một định mệnh lịch sử.

Bỏ qua những yếu tố chính trị, lãnh đạo, hay quân sự, phía miền Bắc có cả một chiều dài lịch sử sau lưng họ. Đó là ý chí độc lập, thống nhất đất nước. Miền Bắc phải hoàn tất thiết yếu tính cho một bản sắc sử mệnh mà thời đại đã giao.

Còn phía miền Nam thì bị lịch sử bỏ rơi. Nó tiếp nối một gia sản chính trị và tâm lý từ vai trò lệ thuộc vào ngoại bang. Họ thụ động chiến đấu - mà không hề mang một ý chí hay ý thức về sứ mệnh chiến tranh cho mình.

Người dân miền Nam, và cả quân đội VNCH, đã giao hoán lòng yêu nước cho đối phương và vì thế đánh mất luôn hồn ái quốc. Chiến tranh đối với họ chỉ là một chuyện cực chẳng đã, một phản ứng tự vệ cho qua chuyện. Và chính vì điểm hời hợt và thụ động đó, miền Nam đã vô tình mang một bản sắc chính nghĩa vượt làn ranh Quốc-Cộng.

Trái với miền Bắc dưới sự lãnh đạo của Đảng CSVN vốn tập trung hoàn toàn năng lực quốc gia cho mục tiêu chiến tranh, VNCH, từ chính quyền cho đến quần chúng, là hiện thân của một ý chí tự do và nhân bản trên cơ sở cá nhân. Dù trong thời chiến, nhưng văn chương, âm nhạc, thi ca của miền Nam vẫn chỉ nói về tình yêu, về con người và số phận – chứ gần như không hề đề cập đến mối hiểm nguy mà họ đang phải đối đầu.

Dù bộ máy tâm lý chiến VNCH có cố gắng nhắc nhở về hiểm họa độc tài cộng sản, dân miền Nam vẫn không thèm nghe – vì họ coi chuyện đó là một thể loại tuyên truyền hạ đẳng. Dân miền Nam, qua tâm chất ôn hòa và thông thoáng, biểu lộ tinh thần tự do qua tâm lý chán ngấy và nghi ngờ chiến tranh. Và đó là điểm yếu sinh tử cho họ khi phải đối đầu với một đối phương như là Đảng CSVN. Trong khi dân miền Nam chỉ có mục tiêu là hòa bình, thì miền Bắc là chiến thắng.


Xung đột ở Nam Việt Nam, tháng Sáu 1974

Văn hóa Nam Bắc: Tâm hồn Hy Lạp đối với khí chất Do Thái


Hiệp định Geneva 1954, chia cắt Việt Nam thành hai phía Nam Bắc rõ rệt trên bình diện chính trị. Nhưng chính trị ở đây là sự thể hiện và kết thành từ một định mệnh văn hóa. Nó phát xuất từ tâm chất và bản sắc tâm lý của dân hai miền, vốn rất khác biệt nhau.

Chiến tranh Quốc-Cộng, bỏ đi yếu tố ngoại bang, là một biểu lộ cho một mâu thuẫn văn hóa và con người Nam Bắc - mà sử mệnh Việt Nam phải đến lúc cần phải được tiêu hóa và hóa giải. Trận Phước Long cuối năm 1974 và bốn tháng binh lửa sau đó chỉ là một hồi kịch cuối vốn đã được viết sẵn từ trong bản sắc xung đột văn hóa Bắc Nam. Như là vở kịch bi tráng, nó đã đến hồi kết thúc, xả hơi, mà ngay cả phe thua trận cũng đã phải thở phào nhẹ nhõm.

Ta có thể suy rộng ra rằng, trên sân khấu chiến tranh Bắc Nam khi đó, phe miền Nam mang bản sắc tâm hồn giống văn minh Hy Lạp cổ đại, vốn mang ý thức thẩm mỹ, hài hòa, trật tự, và họ chỉ biết sống với hiện tại kéo dài gần như vô tận. Tức là, chiến tranh đối với họ không cho một mục đích nào cả. Họ chiến đấu để duy trì đời sống yên lành và yên ổn - và mong ước cao nhất vẫn chỉ là chấm dứt chiến tranh. Dân miền Nam hoàn toàn không mang ý chí lịch sử - vì sử hồn của dân tộc đã bị miền Bắc chiếm hữu. Trong khi miền Bắc mang linh hồn tập thể, thì miền Nam chỉ có tâm hồn cá nhân.

Dân Nam bộ muốn vĩnh cửu hóa hiện tại – như một bác xích lô sau khi kiếm được cuốc xe, mua xị đế, đến gốc cây lề đường, uống say, ngủ một giấc an lành, không sợ trộm cắp, không màng chi ngày mai. Họ chỉ muốn biến cái hiện tại thuần thưởng ngoạn đơn giản thành ra một vòng tròn vĩnh cửu bất tận cho đời sống tự nhiên, vô tư của mình. Có nghĩa rằng, họ không mang ý chí hay suy nghĩ về tương lai – dù họ đang bước dần đến một tương lai bại trận rất gần.

Trong khi đó, người Cộng sản miền Bắc là hiện thân của một bản sắc có gốc từ văn minh Do Thái-Thiên Chúa giáo (Judeo-Christian) khi họ đặt cứu cánh chiến tranh thành chân lý. Chiến thắng là chủ đích lịch sử.

Miền Bắc thấy ở cuối đường binh biến là một khả thể và cơ hội cứu rỗi khi đất nước thống nhất, khi tổ quốc sạch bóng quân thù xâm lược, và nhân dân sẽ sống ấm no hạnh phúc trong một trật tự thiên đường Việt Nam mới trên mặt đất lãnh đạo bởi đấng cứu thế Hồ Chí Minh và Giáo hội Đảng CSVN.

Có nghĩa rằng đối với người CSVN thì chủ nghĩa Marx-Lenin là một thể loại cứu rỗi luận – eschatology – vốn điều hướng tâm ý nhân gian về một biến cố lịch sử mang tính chất đồng quy cho tất cả ước mơ và tác hành của nhân loại bằng một Phán xét cuối cùng.

Ý thức hệ Marxist, vốn là hành trang tinh thần cho Đảng CSVN trong chiến tranh, thực chất là một phiên bản đảo nghịch về biện chứng, nhưng vẫn giữ nguyên cứu cánh luận của truyền thống Do Thái - Thiên Chúa giáo, với tất cả tính cực đoan tuyệt đối luận trong đức tin tôn giáo.

Khi con người mang đức tin giáo điều như thế, không có gì có thể cản trở họ.

Dẫu là Chúa cũng sinh từ ruột máu. Ta đẻ ra đời sao khỏi những cơn đau!” – như Chế Lan Viên đã viết.

Chuyển hóa suy thức Không gian lên với Thời gian


Trước chiến tranh, khi người miền Nam nhìn qua người khác nơi ngõ làng, họ chỉ thấy đó là những anh chị hàng xóm, thân cận với ta. “Bán anh em xa, mua láng giềng gần” là thế. Họ chỉ suy nghĩ trên bình diện không gian. Trong khi đó, người Cộng sản miền Bắc thì khác. Chiến tranh là 'Đường ra trận mùa này đẹp lắm'. Họ muốn nâng cái nhìn không gian của dân Nam lên với phạm trù thời gian. Anh hàng xóm không còn là người bên cạnh nhà - mà nay hắn là vô sản, hay là địa chủ, hay là phản động. Tức là, người Cộng sản khái niệm hóa cái nhìn mang tâm chất nông dân lên tầm mức ý niệm theo thời gian. Vì thế, bản sắc sâu xa của cuộc chiến Nam Bắc vừa qua là cả một trường biện chứng đối nghịch và tiến hóa giữa hai phạm trù không gian và thời gian.

 

Miền Nam là không gian; miền Bắc là thời gian. Khi người CS miền Bắc tiên phong đi trước nhân dân miền Nam, nắm được ý chí lịch sử với một cơ đồ khái niệm mới qua nghi lễ rửa tội bằng nước thánh ý thức hệ, họ cương quyết phá vỡ lề lối suy nghĩ thuần không gian (bờ cõi, thân xác) của nhân dân. Vì thế, làn ranh chia cắt Bắc Nam phải được xóa bỏ. Theo đó, dự án lịch sử qua chân lý chiến thắng phải được hoàn tất nhằm thỏa mãn cơn khát khái niệm theo thời gian – một thế giới đại đồng, vô giai cấp, không khổ đau - của những cán bộ nay đã say men ý thức hệ.

Điều nghịch lý cao độ ở đây là điều rằng, khi người Cộng sản tôn vinh tự hào chủ nghĩa Marx-Lenin là “bách chiến, bách thắng” cùng lúc phủ nhận toàn triệt gia tài và giá trị Thiên Chúa giáo - và hãnh diện tự coi mình đã tiêu diệt hết thần linh - thì chính họ lại hăng say hiện thực hóa bản sắc cứu rỗi luận của đạo Ki Tô, một thứ 'thánh chiến' vốn nay đã không còn hiệu năng cho khối nhân loại trời Tây. Thành công và chiến thắng của miền Bắc vừa qua, từ góc độ siêu hình, là một chiến thắng tôn giáo tự bản chất.

Tìm một đức tin cứu rỗi mới

Bốn mươi sáu năm đi qua nhanh. Hôm nay chúng ta cùng nhìn lại để thấy rằng, sau 1975, lịch sử Việt Nam hậu chiến đã theo thời gian biến hóa và hoán chuyển vai trò nhân văn Bắc Nam một cách ngoạn mục. Khi người Cộng sản miền Bắc chiến thắng vào tiếp quản miền Nam, kẻ mang niềm tin ý thức hệ và chân lý chiến tranh nay được trung hòa và khai mở bởi cái bản sắc vô chân lý, vô sử tính, không giáo điều của dân Nam.

 

Như một câu chuyện thời chiến kể rằng, có mấy anh bộ đội xung kích mang súng AK và B40, đầu đội nón cối, đi lạc vào một con hẻm ở một thành phố miền Nam, mấy bà Nam bộ biết họ lạc đường đành thương hại đứng ra chỉ đường cho họ để đến đánh căn cứ quân sự VNCH nơi mà chồng con, anh em của các bà đang đồn trú. Cái hiện tại vô cầu, không cứu cánh của người miền Nam là lý do thất bại; nhưng cũng với cái tâm ý thuần vô tư đó, nay đã trở thành một thể loại nước thánh mới nay được rắc lên tâm hồn dân Bắc như một ý nguyện cứu rỗi lại cho những anh chị cộng sản kiên cường và khắc nghiệt vốn đã chiến thắng miền Nam bằng đức tin thánh chiến.

Một ngày nào đó sẽ có một chủ nhà, ví dụ, gốc Nghệ An, nhìn thấy một chàng ăn trộm trên mái nhà của anh đành lên tiếng nghiêm trang nhưng ôn hòa khuyên người lạ mặt kia hãy cẩn thận kẻo té bị thương và bắc thang cho người ấy leo xuống đất an toàn – sau khi đã gọi cho công an đến xử lý. Đức tính nhân từ mang tính chất Nam bộ của vị chủ nhà sẽ cứu vớt kẻ trộm, biểu dương tinh thần ôn hòa và trọng pháp, với một nhân sinh quan đức độ ngay cả đối với kẻ đối nghịch nguy hiểm. Đối với chủ nhà này, cứu rỗi nằm ngay trong hiện tại, nơi những tác hành bình thường mà khi hành động, ông đã không biểu lộ lòng hung dữ, thù hận, hay mong cầu điều gì cho chính mình.

Có lẽ rằng về lâu về dài, tôi vẫn tin rằng mẫu người và văn hóa miền Bắc sẽ là một phiên bản của tâm chất người Nam. Quốc gia đi về phía Nam, hướng ra Biển Đông, ra thế giới cần một niềm tin mới – một đức tin không tôn giáo, không ý thức hệ chính trị, một hoài vọng nhân bản về một khả năng cứu rỗi từ văn hóa cho dân tộc hai miền - khi mà tất cả những di sản đau thương của chiến tranh Bắc Nam vừa qua sẽ chỉ còn là một ký ức nhẹ nhàng đi vào quên lãng.

Bài viết thể hiện quan điểm riêng của luật sư, tiến sĩ triết học Nguyễn Hữu Liêm từ Hoa Kỳ từ San Jose, California. Trong số các sách của ông đã có cuốn 'Thời tính, Hữu thể và Ý chí: Một luận đề siêu hình học” được xuất bản ở Việt Nam năm 2018.

Nguồn: https://www.bbc.com/vietnamese/forum-55200258

Thứ Hai, 30 tháng 11, 2020

 

CÁCH MÀ NGƯỜI PHẬT TỬ LANKAN CHIẾN THẮNG

TRONG TRẬN CHIẾN CHỐNG LẠI SỰ CẢI ĐẠO

(Menafn - NewsIn.Asia) By P.K.Balachandran/Ceylon Today

Tâm Diệu chuyển ngữ

Bức tranh mô tả người Bồ Đào Nha đang phá hủy một ngôi chùa

Phật giáo ở Sri Lanka (Hình ảnh thuộc về Prasanna Weerkkody)

Các tín đồ Phật giáo Sri Lanka [01] đã hứng chịu sự tấn công liên tục và trực diện từ các nhà truyền giáo Cơ đốc (Christian) trong thời kỳ cai trị của người Bồ Đào Nha và Hà Lan trong gần ba thế kỷ (1505 đến 1796). Do sự thiếu cân bằng quyền lực, nhiều Phật tử đã bị ép buộc hoặc bị lôi kéo cải đạo sang Công giáo La Mã (Roman Catholicism) dưới thời người Bồ Đào Nha cai trị và theo chủ nghĩa Calvinism [02] dưới thời Hà Lan. Nhưng bằng cách áp dụng nhiều chiến thuật khác nhau, được uyển chuyển điều chỉnh để phù hợp với sự cân bằng quyền lực tại bất kỳ thời điểm nào, các Phật tử Lankan vẫn tiếp tục đánh bại các cuộc tấn công của họ và cố gắng bảo tồn Phật giáo là tôn giáo chủ yếu của quốc đảo này.

Ngài James Emerson Tennent, Bộ trưởng bộ Thuộc địa Tích Lan (Ceylon) từ năm 1841 đến năm 1850, là dấu vết thành công cuối cùng của các Phật tử Sinhala [03] nhờ một trong những phẩm chất bẩm sinh của họ. Trong cuốn sách Cơ đốc giáo ở Tích Lan (Christianity in Ceylon | John Murray, London, 1850), Tennent nói: ‘Dưới mắt nhìn của các nhà truyền giáo Cơ đốc, họ (những người theo đạo Phật) hoàn toàn không phải là chất dẻo được mô tả như cho thấy - có khả năng được đúc thành bất kỳ hình thức nào hoặc giữ lại vĩnh viễn bất kỳ ấn tượng thông thường nào - mà là một chất lỏng được tạo ra có hình dạng của nó giống như hình dạng của bình mà nó có thể được đổ vào, mà không có bất kỳ thay đổi nào về chất lượng hoặc bất kỳ thay đổi nào về đặc tính của nó.' [04]

Bản chất của cuộc tấn công vào Phật giáo Sinhala và những cách khéo léo mà các Phật tử đối phó đã vượt qua mối đe dọa cải đạo được giáo sư P.V.J. Jayasekera mô tả bằng hình ảnh trong cuốn sách của ông: Đối đầu với chủ nghĩa thực dân Vol: 1 1796-1920 (Vijitha Yapa, 2017). Jayasekera sử dụng thuật ngữ 'chủ nghĩa thực dân Cơ đốc’ cho sự cai trị của người Bồ Đào Nha và Hà Lan vì cả Cơ đốc giáo và chủ nghĩa thực dân như một hệ thống kinh tế-chính trị đi đôi với nhau. Chương trình nghị sự của thực dân là thực hiện đồng thời quyền kiểm soát chính trị, kinh tế và tinh thần đối với các đối tượng của chúng (giới tín đồ Phật Giáo). Thật vậy, yếu tố tâm linh và vật chất thế tục được tăng cường bổ trợ lẫn nhau.

Tư tưởng 'chủ nghĩa thực dân Cơ đốc' bắt nguồn từ lời khẳng định của Giáo hoàng Innocent IV vào thế kỷ thứ 13 rằng với tư cách là Đại diện của Chúa Kitô, Giáo hoàng có quyền lực không chỉ đối với những người theo đạo Thiên chúa mà còn đối với cả những người ngoại đạo. Thông qua một loạt Sắc lệnh (Papal Bulls) [05] và Sắc chỉ Inter Caeteras [06] từ năm 1455, người Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha đã được trao quyền kiểm soát vật chất và tư tưởng đối với các tín đồ và những kẻ ngoại đạo trên toàn thế giới. Họ được ủy quyền để 'đánh bại, nô dịch, làm nhục hoặc khuất phục kẻ không tin để theo đuổi sứ mệnh thiêng liêng.'

Ở Sri Lanka, người Bồ Đào Nha đã phá hủy một cách có hệ thống những nơi thờ tự của Phật giáo, Ấn Độ giáo và Hồi giáo. Các luật khắc nghiệt đã được ban hành để ngăn cấm việc thực hành các tôn giáo bản địa. Vào thời điểm đó, các Phật tử Lankan tin rằng sự cứu rỗi có thể đạt được thông qua nhiều con đường và do đó họ đồng ý cải đạo. Thậm chí vua Buvanekabau của Kotte (1458-1550) còn mời những nhà truyền giáo Bồ Đào Nha (đi truyền giáo ở xứ ông), mặc dù chính ông đã khước từ việc cải đạo.

Nhưng cháu trai và người kế vị của ông, Dharmapala (hay còn gọi là Don Juan), đã cải đạo vào năm 1557. Do đó, các Phật tử đã nổi dậy chống lại. Ba mươi vị Tỳ kheo đã tử vì đạo. Có ít nhất mười cuộc nổi dậy nổi tiếng trong 44 năm. Một trong số đó được lãnh đạo bởi Edirille Rala (1594-1596) mà người Bồ Đào Nha mô tả là 'cuộc nổi dậy của quốc gia Sinhalese'. Biên niên sử người Bồ Đào Nha Queroz lưu ý rằng Đại sư Budavance đã đứng đằng sau cuộc nổi dậy ở Sitavaka. Các nhà truyền giáo và nhà thờ bị tấn công. Năm 1630-1631, việc phá hủy tài sản của người Bồ Đào Nha diễn ra trên diện rộng. Để dập tắt nó, người Bồ Đào Nha đã tăng cường phá hủy những nơi thờ cúng Phật giáo và Ấn Độ giáo.

Điều thú vị là nhiều thủ lãnh của các cuộc nổi dậy như Edirille Rala, Kangara Arachchi và Nikapitiya Bandara lại là những người đã cải đạo! Nhiều người đã cải đạo vì lý do này hay lý do khác nhưng cuối cùng cũng đã nổi dậy hoặc quay trở lại với niềm tin cũ của họ. Điều này khiến người Bồ Đào Nha (và sau đó là người Hà Lan) lấy làm thất vọng và cho rằng việc cải đạo một người Phật tử Sinhalese thực sự chẳng có nghĩa lý gì. Ngay cả 50 năm sau, khi người Bồ Đào Nha thiết lập sự cai trị ở bờ biển phía Tây, họ đã phá hủy hàng loạt các ngôi chùa Phật giáo vì thấy công tác truyền giáo (cải đạo) đã không mang lại kết quả. Thất vọng với việc cải đạo người lớn, người Bồ Đào Nha tập trung vào trẻ em trong các trường học mà họ thiết lập.

Bức phù điêu mô tả việc tấn phong vua cho the Kotte King Don Juan Dharmapala

bởi Hoàng đế Portugal sau khi ông ấy cải đạo sang Thiên Chúa Giáo vào năm 1557.

Người Hà Lan áp dụng luật

Người Hà Lan (Dutch), giới cai trị Sri Lanka từ năm 1658 đến năm 1796 ngay sau người Bồ Đào Nha, ít bạo lực hơn nhưng hợp pháp hơn trong việc truyền đạo của họ. Người Hà Lan sử dụng luật pháp được hỗ trợ bởi một hệ thống trừng phạt khắc nghiệt. Phép rửa tội là cần thiết để thừa kế tài sản. Các cuộc hôn nhân phải được đăng ký kết hôn trong nhà thờ. Nhiều Phật tử đã phải cải đạo ngay trên giường bệnh nhằm để lại tài sản cho người thừa kế. Bằng chứng của một người không chịu cải đạo không được chấp nhận trước tòa án.

Các trường học được thành lập chủ yếu với mục đích cải đạo và các hiệu trưởng phải tuân thủ lệnh thực hành chính sách Cơ đốc giáo hóa học sinh. Thống đốc các tỉnh Hà Lan (Disawes) cùng với các linh mục người Hà Lan đi kiểm tra trường học bốn lần trong một năm với đội hộ tống có vũ trang. Những hiệu trưởng bỏ bê nhiệm vụ bị trừng phạt nghiêm khắc. Tiền phạt nặng và bị cưỡng bách lao động đeo dây xích trong ba tháng. Khi nhận thấy rằng mọi người không tuân lệnh cải đạo, vào năm 1732 người Hà Lan đã ra lệnh yêu cầu tất cả các xã trưởng phải triệt hạ các ngôi chùa Phật giáo trong khu vực của họ. Để thực thi, Hà Lan đã tăng cường hình phạt lên 2000 Rix dollars hoặc bị lao động xiềng xích trong 25 năm.

Nhưng bất chấp sự khắc nghiệt của các hình phạt, sự thách thức của các Phật tử vẫn tiếp tục cả thụ động lẫn bạo động. Năm 1646, Kottapitiya Appuhamy thuộc (tỉnh) Weligama Korale, nổi dậy. Các nhà sư và cư sĩ công khai chế nhạo các linh mục người Hà Lan. Các lập luận chống Cơ đốc giáo được viết trên lá Ola và trên thân cây để mọi người có thể đọc.

Các nhà sư và cư sĩ của quận Galle và Matara tích cực đấu tranh không mệt mỏi, điều này khiến nhà truyền giáo nổi tiếng Dòng Tên ‘Goan Jesuit missionary’ là Cha Jacome Gonsalves nói rằng các Phật tử của Galle và Matara cực kỳ trung kiên với Phật giáo. Các cuộc nổi dậy ở phía nam cũng được sự hỗ trợ đầy đủ của các nhà sư Kandyan. Hội đồng Nhà thờ quận Galle của Hà Lan tuyệt vọng đã viết thư cho Amsterdam (thủ đô Hà Lan) vào năm 1736 rằng: 'Người bản xứ có ác cảm với Cơ đốc giáo và gắn bó với chủ thuyết tà giáo (Heathenism.)'

Các Phật tử đã cực lực tranh đấu để phục hồi chùa Kelaniya Raja Maha Viharaya [07], nơi Đức Phật đã từng đến thăm và bị người Hà Lan chiếm đóng. Người Hà Lan đã lấy đá của ngôi chùa để xây dựng Pháo đài Colombo. Năm 1647, Vua Rajasinghe II (1629-1687) của Kandyan yêu cầu người Hà Lan di dời ngôi chùa nhưng họ đã phớt lờ. Sau đó, Vua Wimaladharmasirya II (1687-1707) đã xin phép cho các Phật tử ít nhất được thờ phượng ở đó. Nhưng người Hà Lan không cho phép thờ và sùng bái ngẫu tượng [08]. Người Hà Lan chỉ nhượng bộ sau 140 năm cai trị tức là vào năm 1780, khi họ quyết định rằng các cuộc đàn áp không có hiệu quả với những người theo đạo Phật Sinhalese.

Tác giả: P.K.Balachandran/Ceylon Today | Chuyển ngữ: Tâm Diệu

Bản gốc tiếng Anh: https://menafn.com/1101168268/How-Lankan-Buddhists-won-the-battle-against-proselytization

 

Chú Thích:

[01] Tiếng Việt xưa gọi là Tích Lan, cũng từng được gọi là Ceylon trước năm 1952 là một đảo quốc với đa số dân theo Phật giáo nằm ở phía nam Ấn Độ. Dân số Sri Lanka vào  khoảng 20 triệu người. Phật giáo Nguyên thủy là tôn giáo lớn nhất và là quốc giáo của Sri Lanka, với 70,19% dân số là Phật tử vào năm 2012. Phật giáo đã được trao vị trí quan trọng hàng đầu theo Điều 9 của Hiến pháp nước này, có thể bắt nguồn từ nỗ lực đưa tình trạng của Phật giáo trở lại tình trạng mà nó được hưởng trước khi bị thực dân Bồ Đào Nha và Hà Lan phá hủy.

[02] Calvinism là hệ thống thần học và phương pháp ứng dụng đức tin vào nếp sống Cơ Đốc, đặt trọng tâm vào quyền trị vì của Thiên Chúa. Được gọi theo tên của nhà cải cách Jean Calvin, mô hình Cơ Đốc giáo Kháng Cách này đôi khi được gọi là "truyền thống Cải cách" (Reformed), "đức tin Cải cách", hoặc "thần học Cải cách".

[03] Người Sinhala là một dân tộc Ấn-Arya chủ yếu sinh sống trên đảo Sri Lanka. Họ chiếm khoảng 82% dân số Sri Lanka (hơn 15 triệu người), hầu hết theo đạo Phật Nam Tông.

[04] Áp dụng theo tinh thần “tùy duyên bất biến, khế lý, khế cơ, khế thời và khế xứ” của Phật giáo. Tuy có uyển chuyển và linh động một số điểm cho phù hợp, tương thích với tình hình mới nhưng phần chính yếu, cốt tủy của Phật pháp thì luôn được giữ vững, không đổi thay, gọi là bất biến.


[05] Trong tiếng Anh, tông sắc hay sắc lệnh hoặc thánh lệnh được định nghĩa bởi thuật ngữ Papal Bulls. Thuật ngữ này nhằm đề cập đến con dấu chì, bulla, được đính kèm với tài liệu để chứng thực là một sắc lệnh. Sắc lệnh của giáo hoàng là một văn bản chính thức với mục đích thiết lập một dòng tu, làm rõ một học thuyết, phê chuẩn các văn kiện khác, thành lập một trường đại học, triệu tập một công đồng, vv..

[06] Ngày 03 tháng 5 năm 1493, Giáo hoàng Alexander VI ra sắc lệnh lịch sử Inter caetera quy định dùng một đường kinh tuyến chạy dọc từ cực này đến cực kia để phân chia Đại Tây Dương. Sắc lệnh có nội dung công nhận tuyên bố chủ quyền của Tây Ban Nha đối với mọi vùng đất mà trước đó chưa từng thuộc quyền của bất kỳ quân chủ Công giáo nào, đồng thời giữ nguyên những quyền lợi trước đây của Bồ Đào Nha. Sắc lệnh có phần thiên vị nên không tồn tại được lâu vì vấp phải sự phản đối của Bồ Đào Nha. Theo yêu cầu của Lisbon, ngay hôm sau, Roma ban tiếp sắc chỉ cũng với tên gọi Inter Caetera trao cho các nhà quân chủ Tây Ban Nha trọng trách loan truyền đức tin về phần phía tây đường kẻ được vẽ “cách 100 dặm về phía tây và phía nam các quần đảo Azore và Cape Verde”, ngược lại, phần phía đông được giao cho các nhà quân chủ Bồ Đào Nha.

[07] Maha Vihara Kelaniya là một ngôi chùa Phật giáo ở Kelaniya, Sri Lanka. Theo biên niên sử cổ đại "Mahavamsa" cho rằng vào năm thứ tám sau khi giác ngộ; Đức Phật đã viếng thăm KelLocation với 500 Tỳ kheo theo lời mời của Vua Maniakkhikha để thuyết pháp.

[08] Ngẫu tượng là thần tượng, cũng là tà thần, là sùng bái ai đó hoặc cái gì đó ngoài Thiên Chúa.