LỊCH SỬ VIỆT NAM ĐÃ THAY ĐỔI
TRONG NGÀY NÀY
Gordon M. Goldstein
LGT - Luận điệu quen thuộc
của thành phần gọi là “hoài-Ngô” tại hải ngoại để lý giải tại sao chế độ Ngô Đình Diệm bị sụp
đổ năm 1963 là vì Tổng thống Kennedy muốn đưa quân vào miền Nam Việt Nam, nhưng
ông Diệm chống lại quyết định nầy nên bị ông Kennedy ra lệnh lật đổ.
Đây là một luận điệu cực kỳ giản lược
(oversimplification) để vừa đánh bóng lãnh tụ vừa giải thích một chuổi biến cố lịch
sử phức tạp mà không lý đến những yếu tố khác, nhất là yếu tố nội bộ của miền
Nam Việt Nam.
Bảy cuộc chống đối chế độ của nhân dân miền Nam trong 8 năm
cai trị (1955-1963), đàn áp và khống chế đối lập chính trị và kỳ thị tôn giáo,
và cuối cùng là phản bội Hiến pháp khi thỏa hiệp với miền Bắc sau khi thảm bại
trong công cuộc chống Cọng, ... đã không được thành phần “hoài Ngô” nầy nhắc đến.
Xin đan cử 3 ông hoài-Ngô:
-
Các tài liệu phát
hiện gần đây cho thấy Hoa Kỳ đã hoạch định cuộc đảo chánh lật đổ chính phủ Ngô
Đình Diệm kể từ năm 1961, khi Tổng Thống Ngô Đình Diệm từ chối không cho Hoa Kỳ
đổ quân vào Việt Nam để mở rộng chiến tranh, và biến cố Phật Giáo vào tháng 5
năm 1963 được coi là một cơ hội tốt nhất để Hoa Kỳ thi hành quyết định của
mình. (“Những Giờ Định Mệnh” - Tú
Gàn, Sàigòn Nhỏ http://ngothelinh.tripod.com/NhungGioDinhMenh.html).
Tài liệu hoạch định
nào? Của một Bộ (Ngoại giao?, Quốc phòng? CIA?) hay hoạch định cao cấp nhất của
Tòa Bạch ốc ? Tại sao lại coi cuộc đấu tranh của Phật giáo, do chính ông Diệm
chủ động phát khởi qua lệnh cấm treo cờ chứ không ai khác, lại là cơ hội cho “Mỹ
đổ quân vào Việt Nam” ?
-
Tôi tán đồng lập
trường của TT Ngô Đinh Diệm không chấp nhận cho quân đội Hoa Kỳ chiến đấu tại Việt Nam. Từ 1961, TT Diệm từ chối yêu sách của Hoa Kỳ
(luật sư Joseph A. Amter, một tác giả phản chiến HK đã xác nhận trong cuốn
"Vietnam Verdict A Citizen's
History")". (Phỏng vấn ông Võ
Như Nguyện , một cán bộ tâm phúc của ông Diệm thời chưa chấp chánh, của Từ
Nguyên - Văn Nghệ Tiền Phong số 312).
Sách của Joseph
Amter xác nhận như vậy vì đã được viết năm 1982. Ngược lại, hai cuốn sách “Lessons
in Disaster” của Gordon M.
Goldstein; và cuốn “Virtual JFK” cũa Giáo sư James Blight dựa
trên những tài liệu được giải mật năm 2009 cho thấy 1 cách chính xác TT Kennedy
không bao giờ muốn gửi quân tác chiến qua Việt Nam. Đây là lý do vì sao
năm 1982, tác giả Amter đã viết mà không thể giải thích được ý kiến của
McNamara và Tướng Taylor: “Again Kennedy dispatched McNamara and Taylor to
Saigon (in 1963) to help him determine what to do next. Strangely enough, they
brought back an optimistic report to the effect that the war was being won, and
that if they could just get rid of Diem, a truly popular government could be
organized around which all the South Vietnamese would rally. They predicted
that if Diem was scuttled, the United
States could begin withdrawing its troups almost immediately and that by 1965
a popular government would defeat the Communists and end the war.”]
-
“Thật vậy, năm
1963 Đại sứ Cabot Lodge ra mặt ủng hộ Phật giáo vì TT Diệm chống việc Mỹ hóa
chiến tranh.” (Trích từ bài phỏng vấn cựu Đại tướng Cao Văn Viên của cựu Bộ trưởng Nội vụ thời Ngô Đình Diệm là ông Lâm
Lễ Trinh ngày 27-1-2006 http://www.quocgiahanhchanh.com/mandamvoicuudaituong.htm
). Nếu hiểu “Mỹ hoá” là gửi lính Mỹ
tác chiến vào VN thì ông cựu Đại tướng nầy hoàn toàn sai. Trước hết, trong tương
quan Mỹ-Việt lúc bấy giờ, 16,000 ông Cố Vấn trong một quân đội “tân lập” từ kiểu-Pháp
qua kiểu-Mỹ chính là những “bà Mụ” nắn nót hình hài của Quân đội rồi ! Thứ đến,
cái quân đội của ông Cao Văn Viên tuy chưa được Mỹ hóa, nhưng đã “hồn Trương
Ba, da hàng thịt” từ lâu rồi: Từ viên đạn đến lít xăng, từ lớp huấn luyện sĩ quan
tham mưu cao cấp tại Mỹ đến bản đồ hành quân trên chiến trường, … đều được Made
In USA.
Không những thành
phần hoài-Ngô nầy giản lược hóa một biến cố lịch sử phức tạp như chính biến
1-11-1963 mà ngay chính luận điểm “chống Mỹ” họ đưa ra cũng dựa trên những thông
tin thiếu sót và thậm chí sai sự thật.
Sự thật là trong
năm 1963, trước sự lớn mạnh của Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam (ra đời 12/1960
) và tình hình an ninh suy thoái đến độ chính phủ Diệm phải ban hành tình trạng
khẩn cấp toàn quốc (10/1961 - Sắc lệnh 209/TTP) và kêu gọi 92 quốc gia trên thế
giới giúp đở (3/1962), thì tuy có sự bất đồng trong quan điểm tiến hành chiến
tranh tại Nam Việt Nam trong số những phụ tá của Tổng thống Kennedy, nhưng những
tài liệu được phát hiện và giải mã mới đây nhất đều khẳng định rằng bản thân vị
lãnh đạo tối cao và chung quyết của nước Mỹ đã không có ý định đưa quân vào Việt Nam trong năm 1963 đó. Ngược lại
là khác, Tổng thống Kennedy còn cho chuẩn bị kế hoạch rút hết quân Mỹ, để cho Việt Nam tự chiến đấu một mình, không còn cả
những “cố vấn”.
Như vậy thì
ông Diệm “chống” ông Kennedy đưa quân Mỹ nào vào Việt Nam ?
Bài viết dưới
đây của Tiến sĩ Gordon
Goldstein, Cố vấn về những vấn đề An
ninh cho Văn phòng Tổng Thư ký Liên Hiệp quốc và cũng là Diễn giả thỉnh giảng tại
Brown University (Rhode Island), đã xác định điều nầy. Và chiến tranh Việt Nam,
như sau nầy chúng ta biết, chỉ được Mỹ hóa
từ thời ông Johnson, rồi được Việt Nam hóa
dưới thời ông Nixon. Cho nên, giá ông Kennedy mà không bị ám sát thì ông đã rút
quân, và người Mỹ có lẽ đã không có một cuộc chiến mà họ gọi là … Vietnam
War !
LỊCH SỬ VIỆT NAM ĐÃ THAY ĐỔI TRONG NGÀY NÀY
Vụ ám sát Tổng thống Kennedy 45 năm trước đây đã Mỹ hóa chiến tranh Việt Nam
Vụ ám sát Tổng thống Kennedy 45 năm trước đây đã Mỹ hóa chiến tranh Việt Nam
Gordon M. Goldstein
Los Angeles Times, 22-11-2008.
Vụ ám sát Tổng thống John F. Kennedy cách đây đúng 45 năm đã chấm dứt một
cách đột ngột một thời kỳ mà những người ái mộ gọi là Camelot, một nhiệm kỳ Tổng thống đầy vẻ quyến rũ, thông minh, trí
tuệ và cơ hội. Nhưng vụ ám sát cũng mang một hậu qủa sâu đậm: Ngày 22 tháng 11
năm 1963 là ngày có ý nghĩa sâu sắc nhất trong lịch sử của cuộc chiến tranh của
Mỹ ở Việt Nam.
Không ai có thể biết được chắc chắn là nếu Tổng thống Kennedy còn sống thì ông sẽ giải quyết cuộc khủng
hoảng ở Việt Nam như thế nào. Nhưng rõ ràng là ông đã quyết tâm ngăn ngừa Việt
Nam trở thành một cuộc chiến tranh của Mỹ và ông sẽ rút toàn quân Mỹ ra khỏi Việt Nam trong nhiệm kỳ thứ hai.
Vào thời điểm Kennedy nhận chức Tổng thống năm 1961, mức độ can thiệp của
Mỹ ở Đông Nam Á được giới hạn trong viện trợ vũ khí và một số ít cố vấn quân
sự. Nhưng chế độ Ngô Đình Diệm lúc ấy ở Nam Việt Nam đang phải trực diện với
một lực lượng nổi dậy ngày càng gia tăng của Cọng sản và tại Mỹ, áp lực gửi
quân qua Việt Nam càng lúc càng nặng.
Trong một năm, các cố vấn Tổng thống đã trình cho ông sáu đề nghị để Mỹ hóa
cuộc chiến đó. Trong một phúc trình, Bộ trưởng Quốc phòng Robert McNamara,
Ngoại trưởng Dean Rusk, và Tướng Tổng tham mưu Liên quân đã nhận định là sẽ rất
khó mà ngăn chận được chuyện “mất miền
Nam nếu áp dụng một biện pháp nào khác hơn là
đem vào Việt Nam một số lượng quân Mỹ đáng kể.”
Các cố vấn của Tổng thống Kennedy đã nói với ông là phải cần hơn 200,000 quân tác chiến mới đủ để bảo
vệ chế độ miền Nam. Cố vấn An ninh Quốc gia, McGeorge Bundy, tin chuyện gửi
quân Mỹ qua Việt Nam là quan yếu. Ông giải thích cho người Tổng thống đầy hoài
nghi này về một quốc gia Đông Nam Á khác mà Kennedy đã không muốn can thiệp: “Sau 1954, vương quốc Lào không còn thực sự
là đồng minh của ta nữa, trong khi Việt Nam là đồng minh của ta theo ý muốn của
họ.”
Nhưng Tổng thống Kennedy
đã không tiếp nhận những ý kiến này. Từ rất lâu trước khi trở thành Tổng
thống, ông đã tỏ rõ tại Quốc hội lập trường chống đối lại kinh nghiệm thảm khốc của thực dân Pháp tại Việt Nam và
coi đó như một bài học để nước Mỹ không bao giờ nên tham chiến trên lãnh địa
này. Trong mùa Hè 1961, Tổng
thống Kennedy tuyên bố là ông đồng ý với kết luận của Tướng Douglas MacArthur
khuyến cáo nước Mỹ không nên tham dự vào một cuộc địa chiến ở Á châu. Ông nhấn
mạnh là ngay cả một triệu bộ binh Mỹ cũng không đủ để thắng trận ở đấy. Ông chỉ
muốn viện trợ quân sự và huấn luyện và sẽ không
ra lệnh gửi quân bộ binh qua đó.
Trong ba năm làm Tổng thống, đôi
khi Kennedy cũng có vài tuyên bố hiếu chiến về Việt Nam. Ông cũng tăng số cố
vấn quân sự và huấn luyện lên khoảng 16,000. Nhưng cả hai ông McNamara và Bundy
đều tin là Tổng thống Kennedy sẽ không Mỹ hoá cuộc
chiến ở Việt Nam – ngay cả với cái giá phải trả là miền Nam Việt Nam sẽ bị Cọng
sản hóa.
Tổng thống Kennedy hiểu là khi nước Mỹ không thể ngăn chận được
đường mòn Hồ Chí Minh – con đường xâm nhập và tiếp tế từ Bắc Việt - thì nước Mỹ
không thể nào thắng được quân nổi dậy Cọng sản. Muà Xuân 1962, Tổng thống Kennedy đã nói với một phụ tá: “Con đường mòn Hồ Chí Minh đó vừa là lý do có
sẵn để chúng ta leo thang chiến tranh vừa là lý do có sẵn để giúp chúng ta bào
chữa khi bại trận.” Tổng thống Kennedy nghi ngại đến nổi ông đã
nói với Michael Forrestal, một phụ tá ở tòa Bạch Ốc, cơ may để thắng Việt Cộng chỉ
là 1 trên 100.
Đầu năm 1963, Tổng thống Kennedy nói với Lãnh tụ phe Đa
số ở Quốc hội, Thượng Nghị sĩ Mike Mansfield, người chống leo thang chiến tranh
ở Việt Nam, là ông sẽ bắt đầu rút giảm
số cố vấn quân sự ở Việt Nam năm 1965, khi ông khởi đầu nhiệm kỳ hai. Ông
cũng đã tiết lộ chương trình rút quân
này với Roswell Gilpatric, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng. Nhưng tấn thảm kịch cuối
tháng 11 năm 1963 ở Dallas đã thay đổi tất cả.
Ai cũng biết chuyện gì đã xảy ra
sau cái chết của Tổng thống Kennedy. Lyndon B. Johnson ứng cử Tổng thống năm
1964 và tháng 8 năm đó, ông dùng một sự cố mơ hồ ở Vịnh Bắc Việt để được Quốc
hội chấp thuận một nghị quyết không giới hạn cho phép tấn công Bắc Việt Nam.
Ngày 8 tháng 3 năm 1965, Johnson gửi một toán 3,500 Thủy quân Lục chiến đầu
tiên đến Việt Nam. Trong vài tháng sau đó, ông gửi thêm 175,000 quân chiến đấu.
Nếu Tổng thống Kennedy đã không
bị ám sát, ông sẽ đi vào năm 1965 với vị thế mạnh. Trong nhiệm kỳ hai này, ông
sẽ không còn lo lắng phải lấy lòng cử tri để kiếm phiếu. Ông cũng không có một
chính sách tự do Xã Hội Vĩ Đại như Johnson để phải nịnh các dân biểu hầu được
Quốc hội chấp thuận. Ông đã lập một thói quen bác bỏ ý kiến của các cố vấn khi
cần thiết. Và trong 4 năm chót làm Tổng thống này, ông sẽ hành xử như một anh hùng
đại thắng Nga Sô Viết trong cuộc khủng hoảng hỏa tiễn ở Cuba. Một thành công về
mặt an ninh quốc gia giúp cho uy tín của ông gia tăng gấp bội.
Ông Bundy đã suy tưởng về qúa
khứ: “Vì vậy Tổng thống Kennedy
không cần phải chứng tỏ điều gì cả. Dù cho ông quyết định không gửi quân Mỹ qua
Việt Nam để biến nó thành một cuộc chiến tranh của Mỹ, ông có thể chấp nhận mất
Việt Nam mà không có hại gì.”
Sự kiện Tổng thống Kennedy, với
tư cách là một Tổng Tư lệnh quân đội, đã không có được cơ hội để quyết định vai
trò của nước Mỹ ở Việt Nam, đã làm cho thảm kịch của cái chết của ông trở nên
bi thảm hơn và điều này cũng tô đậm di sản lớn lao của ông mà 45 năm sau, người
ta vẫn còn thấy rất đáng kể. Khả năng phán xét của một Tổng chỉ huy quân lực,
một trách nhiệm mà ông Barrack Obama sắp gánh vác, là yếu tố cơ bản để đem đến
chiến tranh hay hòa bình.
Gordon M. Goldstein là tác giả cuốn sách vừa được
Times Books xuất bản: « Bài Học Của Một Thảm Họa: McGeorge Bundy Và Con Đường Đến Chiến Tranh ở Việt Nam” (Lessons in Disaster: McGeorge Bundy and the Path to War in Vietnam)
THE DAY VIETNAM CHANGED
Kennedy’s
assassination 45 years ago today made it an American war.
The assassination of John F. Kennedy 45 years ago today brought an
abrupt end to what his admirers called Camelot, a presidential era of glamour,
intelligence, wit and possibility. But the murder had an even more profound
consequence: Nov. 22, 1963, was the single most significant day in the history
of the Vietnam War.
It’s not possible to know for certain how Kennedy
would have managed the crisis in Vietnam had he lived. But it’s clear that he
was determined to prevent Vietnam from becoming an American war and that he
expected to withdraw fully during a second term.
At the point Kennedy assumed office in 1961,
American military involvement in Southeast Asia was limited to arms shipments
and a small number of advisors. But the South Vietnamese regime of Ngo Dinh
Diem was facing an increasingly potent communist insurgency and, in the U.S., pressure was building to send in ground
troops.
Over the course of the year, Kennedy’s advisors
presented him with half a dozen or more proposals to Americanize the war. In
one, Secretary of Defense Robert McNamara, Secretary of State Dean Rusk and the
Joint Chiefs of Staff argued that it would be difficult to prevent “the fall of
South Vietnam by any measures short of the introduction of U.S. forces on a substantial scale.”
Kennedy’s advisors told him that to defend the
Saigon regime might take more than 200,000 combat troops. McGeorge Bundy,
national security advisor, believed that committing American troops was vital.
“Laos was never really ours after 1954,” Bundy explained to the skeptical
president, invoking another Southeast Asian nation where Kennedy had resisted
intervention. “Vietnam is and wants to be.”
Kennedy was not receptive. Long before becoming
president, he had spoken out in Congress against the disastrous French
experience in Vietnam, citing it as a reason the U.S. should never fight a ground war there. In
the summer of 1961, he said he had accepted the conclusion of Gen. Douglas
MacArthur, who counseled against a land war in Asia, insisting that even a million
American infantry soldiers would not be sufficient to prevail. He would offer
military aid and training to Saigon, but he would not authorize the dispatch of
ground forces.
Over the three years of his presidency, Kennedy
sometimes invoked hawkish rhetoric about Vietnam. He also increased the
military advisors and training personnel there to roughly 16,000. But McNamara
and Bundy both came to believe that Kennedy would not have Americanized the war
– even if the price was communism in South Vietnam.
Kennedy realized that the inability of the United
States to shut down the Ho Chi Minh Trail – the lines of infiltration and
resupply from North Vietnam – would make it impossible to defeat the
insurgency. “Those trails are a built-in excuse for failure,” Kennedy told an
aide in the spring of 1962, “and a built-in argument for escalation.” Kennedy
was so dubious he declared to White House aide Michael Forrestal that the odds
against defeating the Viet Cong were 100 to 1.
In early 1963, Kennedy told Senate Majority Leader
Mike Mansfield, who opposed increased U.S. involvement in Vietnam, that he would begin
withdrawing advisors from South Vietnam at the beginning of his second term in
1965. Kennedy disclosed the same plan to Roswell Gilpatric, his deputy secretary
of Defense. But the tragedy in Dallas in November 1963 changed everything.
What happened after Kennedy’s death is a familiar
story. Lyndon B. Johnson ran for president in 1964, and in August of that year he used an
ambiguous incident in the Gulf of Tonkin to extract an open-ended congressional
authorization for military action against North Vietnam. On March 8, 1965,
Johnson sent the first 3,500 Marines to Vietnam. Within months he had approved
deploying 175,000 combat troops.
If Kennedy had lived, he would have enjoyed
enormous advantages in 1965. In a second term, Kennedy would have been
invulnerable to the electorate. He would not have had Johnson’s grand liberal
agenda of Great Society legislation to ram through Congress. He had established
a firm practice of overruling his advisors when necessary. And he would have
entered his final four years as the champion of the Cuban missile crisis, a
national security accomplishment that would have dramatically strengthened his
hand.
“So he does not have to prove himself in Vietnam,” Bundy retrospectively
argued. “He can cut the country’s losses then. He can do it by refusing to make
it an American war.”
That Kennedy as commander in chief was not
provided the opportunity to determine a different fate for the United States in
Vietnam deepens the tragedy of his loss and also underscores his profound
legacy, still richly relevant 45 years later: The judgment of the commander in
chief, soon to be resting on the shoulders of President-elect Barack Obama,
ultimately determines the difference between war and peace.
Gordon M. Goldstein is the author of “Lessons in Disaster: McGeorge Bundy
and the Path to War in Vietnam,” recently published by Times Books.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét