MÙA PHẬT ĐẢN ĐẨM MÁU
Chính Đạo
Cuộc
tranh đấu của Phật Giáo năm 1963 là một đề tài còn gây nhiều xúc động và tranh
cãi. Tuy nhiên, tới nay vẫn chưa có nghiên cứu sử đích thực nào về đề tài này.
Một trong những lý do là thiếu sử liệu. Tài liệu văn khố chưa được hoàn toàn
giải mật. Ða số tác giả đều đứng về phe này hay phe kia, xếp đặt và diễn giải
các dữ kiện vốn bị giới hạn và thiếu sót theo sự yêu ghét hay khuynh hướng
chính trị, tôn giáo của họ. Tác nhân lịch sử bị đặt lên những chiếc giường của
tên tướng cướp, thừa chặt bớt, ngắn kéo dài ra cho vừa khuôn thước thành kiến
tiên thiên của mình. Không ít người còn bịa đặt ra những chi tiết không thực để
bẻ cong lịch sử. Trong cuốn Tôn Giáo
Chính Trị: Phật Giáo, 1963-1967, do nhà Văn Hóa xuất bản năm 1994 tại Houston , Texas , tôi đã
dành một chương khá dài cho cuộc tranh đấu năm 1963 của Phật giáo miền Nam . 10 năm
sau, nhiều tài liệu văn khố Mỹ, Pháp, Việt Nam và Liên Hiệp Quốc được giải mật
thêm, nên tác giả đã hiệu đính chương này sau mỗi lần nghiên cứu ở các văn khố,
kết đúc thành bài “Mùa Phật Ðản Ðẫm Máu” trong tập Cuộc Thánh Chiến Chống Cộng
(Houston: Văn Hoá, 2004). Mới đây, nhờ được du khảo tại Việt Nam, làm việc trên
các tư liệu văn khố VNCH tại Trung tâm Lưu trữ Quốc Gia II Sài Gòn, chúng tôi
lại hiệu đính thêm bài này. Tuy nhiên, trên đại thể, những nét chính không thay
đổi bao lăm. Xin đọc thêm “Cái chết của một hàng tướng: Dương Văn Minh,
1916-2001,” trong Nguyên Vũ, Ngàn Năm Soi
Mặt (Houston :
Văn Hóa, 2002), tr. 9-156; bản hiệu đính đăng trên Phụ Bản tháng 9 &10/2006
của Hop Luu online.
I. TỪ CỜ ÐẾN MÁU LỬA:
Ngày 6/5/1963, Ðổng lý Văn Phòng Phủ Tổng Thống,
Quách Tòng Ðức, gửi đi khắp nơi lệnh cấm treo cờ tôn giáo ngoài các nơi thờ tự,
theo “chỉ thị” của Tổng thống Ngô Ðình Diệm (1955-1963).( 1) Lệnh này, dù đã có
sự tham khảo mật với Mai Thọ Truyền, Phó Hội chủ Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam,
được ban hành không đầy 48 tiếng đồng hồ trước Lễ Phật Ðản 2507 (15/4 Quí Mão,
tức 8/5/1963), và tới các địa phương trong ngày, khi các tư gia, chùa chiền đã treo
cờ ngũ sắc Phật giáo, cùng biểu ngữ và cổng chào. Theo lời khai của viên chức
chính phủ với phái đoàn Liên Hiệp Quốc [LHQ] vào tháng 10/1963, Diệm biết rõ
rằng lệnh cấm treo cờ trên sẽ ảnh hưởng đến ngày Phật Ðản sắp tới–ngày lễ quan
trọng nhất của Phật Giáo–nhưng bất chấp hậu quả.( 2)
Lập luận của chính phủ để biện minh cho lệnh cấm
treo cờ là quốc kỳ (cờ vàng ba sọc đỏ) phải được tôn trọng hơn cờ tôn giáo. Dân
chúng phải treo quốc kỳ, còn cờ tôn giáo chỉ được phép treo trong các ngày lễ,
tại các nơi thờ tự hay tư gia, với sự chấp thuận của chính quyền địa phương. Ðó
là tinh thần Nghị định 189/BNV/NA/P5, ngày 12/5/1958 của Bộ Nội Vụ, được tái
xác nhận ngày 14/6/1962.( 3) Cờ Phật giáo ngũ sắc được chính thức công nhận tại
Ðại Hội Phật Giáo Thế Giới [World Fellowship of Buddhists, hay Hội Bằng Hữu
Phật Giáo Thế Giới] tại Colombo (Sri Lanka, hay Tích Lan), từ ngày 26/5 tới
7/6/1950. Thượng tọa Tố Liên (1903-1977) đại diện cho Việt Nam tại Ðại Hội này. Chùa Quán Sứ
Hà Nội là nơi lá cờ ngũ sắc của Phật giáo được trương lên trước tiên trên toàn
thể đất nước Việt Nam .
Trong thập niên 1950, lá cờ Phật Giáo ngày càng trở thành quen thuộc vì sự phát
triển khá mạnh của các hệ phái Phật Giáo tại phía Nam vĩ tuyến 17.
Sự phát triển đặc biệt này, cần nhấn mạnh, không
do sự khuyến khích của tam đầu chế Ngô Ðình Thục-Ngô Ðình Diệm-Ngô Ðình Nhu.
Việc giúp đỡ bất cứ tôn giáo không Ki-tô nào chỉ có tính cách tượng trưng, do
các cấp viên chức địa phương (như không khắt khe áp dụng luật số 10 về các hiệp
hội, hay cho mở sổ số để gây quĩ, v.. v...). Nhận hiểu rằng Phật tử chiếm đa số
dân chúng trong nước, trong những năm đầu, Thục-Diệm-Nhu làm ngơ trước sự phát
triển của các khuôn hội, đoàn Phật tử, v.. v... Những người góp công lớn trong
việc phát triển của Phật giáo là tăng ni di cư và Phật tử chống Cộng. Xây dựng
chùa chiền, tổ chức các ban đại diện, phong trào Phật tử, phát huy và hoằng
dương đạo pháp là một phương thức chống Cộng hòa bình và hữu hiệu nhất: Lấy tôn
giáo chống lại Cộng Sản vô thần (những người từng ví von tôn giáo như thuốc
phiện).( 4)
Ngoài ra, việc phát triển các chùa chiền, khuôn
hội còn phản ảnh một giai đoạn mới của cuộc chiến tranh lạnh giữa Phật Giáo và
Ki-tô giáo, đã kéo dài hơn bốn thế kỷ, và lên cao độ dưới thời Pháp thuộc
(1858-1945, 1945-1955). Trong giai đoạn Pháp xâm chiếm Việt Nam , Ki-tô giáo
ngày một vượt thắng vì là tôn giáo của giai tầng chiếm đóng (Pháp) và đa số
giai tầng trung gian bản xứ trung kiên. Rất nhiều danh tự của Ðại Nam đã biến
thành nhà thờ ở Hà Nội, Sài Gòn, Nam Ðịnh hay Quảng Trị. Mặc dù từ thập niên
1910 viên chức Pháp quyết định đoạn tuyệt với chính sách đồng hóa và Ki-tô hóa
của Hội truyền giáo, chuyển sang chính sách hợp tác hay Pháp-Việt đề huề, mãi
tới thập niên 1920 Phật giáo và các tổ chức tôn giáo bản xứ khác mới bắt đầu
được “duy tân” và khuyến khích đoàn ngũ hóa. Nhưng thời gian này, các cộng đồng
Ki-tô bản xứ đã trở thành những quốc gia trong một quốc gia, tự ban danh hiệu
“công giáo,” và cung cấp cho giai tầng trung gian bản xứ cũng như thị dân một
nhân số quan trọng.
Hợp tác toàn diện giữa chính quyền thực dân Pháp và Giáo hội Công giáo Việt Nam
Trái: Nữ tu Việt đang "báo cáo" với quan Tây - Chùa Báo Thiên bị phá để xây Nhà Thờ Lớn Hà Nội
Chính vì thế, Ngô Ðình Diệm (1897-1963)–với
thành tích hết hợp tác với Pháp tới Nhật, và bị đánh giá là “cuồng đạo” [a Catholic mystic hay
religious fanatic]–vẫn được chọn cầm đầu miền Nam . Ngắn và gọn, số chùa chiền, tu
viện, khuôn hội Phật giáo gia tăng từ 1954 tới 1963 không chỉ do ảnh hưởng quốc
sách chống Cộng, mà còn phản ảnh sự chống đối vừa tiêu cực vừa tích cực của
Phật giáo với chế độ giáo phiệt Ki-tô Diệm-Thục-Nhu.( 5) Tổng Giám Mục Thục
(1897-1984), người cai quản địa phận Huế từ năm 1961, dĩ nhiên chẳng muốn thấy
sự hiện hữu của bất cứ lá cờ Phật giáo nào tại Huế hay miền Trung, nói chi sự
phát triển vững mạnh của Tổng Giáo Hội Phật Giáo. Thục, theo Tướng Lê Văn
Nghiêm, từng tuyên bố với những người tín cẩn rằng “cần phải hạ Phật giáo bằng mọi phương tiện, nếu không Phật giáo sẽ mạnh
hơn Ki-tô,” và “ngay cả đời sống giáo
dân sẽ bị đe dọa.”( 6)
Mùa Xuân 1963 Thục có thêm lý do khác để “ra
tay” với Phật Giáo. Lễ kỷ niệm 25 năm thụ phong Giám mục sắp đến. Thục–theo lời
một nhân chứng ngoại quốc, viết bằng Mỹ ngữ ngày 12/6/1963, và Linh mục Cao Văn
Luận, Viện truởng Ðại học Huế–đã xin với Vatican
lên chức Hồng Y vì “80% dân chúng trong
giáo phận Huế là giáo dân Ki-tô.” Vatican
bèn gửi một phái đoàn điều tra tới miền Trung vào đầu tháng 5/1963. Mặc dù cờ
Ki-tô giáo nửa vàng, nửa trắng giăng mắc khắp nơi trong thời gian phái đoàn ở
Việt Nam, đại biểu Vatican cũng ghi nhận Phật tử đang chuẩn bị cờ ngũ sắc, biểu
ngữ và cổng chào mừng đón Phật đản 2507. Bởi thế phái đoàn Vatican kết luận sơ
khởi rằng chỉ có 20% dân miền Trung theo đạo Ki-tô mà không phải 80% như Thục
báo cáo. Ðể che dấu sự thực, Thục ngầm cho lệnh viên chức địa phương cấm treo
cờ hay tuần hành rước lễ Phật Ðản. (7) Dù Thục có áp lực Diệm ban hành lệnh cầm
treo cờ Phật giáo ngày Phật Ðản 2507 hay chăng, văn thư nhắc nhở lệnh cấm ngày
6/5/1963 là sỉ nhục lớn với Phật tử. Vì, cho tới ngày 5/5, cờ Ki-tô giáo–nói
theo Thục, chỉ là mấy thước vải vô nghĩa biểu hiệu cho nước Vatican mà không
đại diện cho Ki-tô giáo–còn phấp phới khắp miền Nam, trong khi tổng số giáo dân
không đầy 10% dân số. Ngày này, Tổng thống Diệm còn cử hành quốc lễ chúc mừng
kỷ niệm 25 năm Thục được phong chức Giám Mục tại nhà thờ trên đường Kỳ Ðồng,
Sài Gòn.( 8)
Ngay chiều ngày 6/5 (13/4 Quí Mão), Tỉnh trưởng
Thừa Thiên kiêm Thị trưởng Huế là Nguyễn Văn Ðẳng sao gửi công điện của Quách
Tòng Ðức cho các tổ chức tôn giáo, đặc biệt là Ban trị sự Giáo hội Tăng già và
Hội Phật Giáo Việt Nam tại Trung Phần và tỉnh Thừa Thiên, cùng Ban tổ chức Lễ
Phật Ðản tại Thừa Thiên-Huế. Các lãnh đạo Phật giáo phản ứng một cách chừng
mực. Sáng hôm sau, một phái đoàn đại diện Tăng Già và ban tổ chức Phật Ðản–gồm
Thượng tọa Thích Trí Quang, Thích Mật Nguyện, Thích Thiện Minh và Thích Thiện
Siêu–đến gặp Thị trưởng Ðẳng để “trình bày những thắc mắc và uất ức” của Phật
tử về lệnh cấm treo cờ. Không thỏa mãn với lời giải thích của Ðẳng, đại diện
Phật Giáo yêu cầu được tiếp kiến Cố vấn chỉ đạo miền Trung là Ngô Ðình Cẩn
(1911-1964) về lệnh cấm treo cờ. Ngô Ðình Cẩn đồng ý, mời Trí Quang tới tư dinh,
dự một cuộc họp với Bộ trưởng Nội vụ Bùi Văn Lương và Thị trưởng Ðẳng vào lúc
11G45 ngày 7/5/1963 (14/4 âm lịch). Sau một hồi thảo luận, Cẩn đồng ý cho các
chùa chiền và lễ đài tiếp tục treo cờ, nhưng các tư gia thì nên cho Cảnh Sát đi
thuyết phục họ hạ cờ. Bởi thế, lúc 12 giờ trưa ngày 7/5/1963, Ðẳng gọi Trưởng
ty Cảnh sát Huế tới tư dinh Cẩn, cho lệnh sử dụng Mật vụ để áp lực dân chúng hạ
cờ.( 9) Có lẽ vì thế một số nhân viên Cảnh Sát, Công An đã sốt sắng tháo gỡ cờ
Phật giáo bất chấp sự phản đối của dân chúng.( 10)
Khoảng 17G45 ngày 7/5, một phái đoàn gồm các đại
diện Giáo Hội Tăng Già, ban tổ chức Phật đản 2507 và khoảng 200 Phật tử kéo tới
Toà Hành chánh tỉnh gặp Ðẳng.( 11) Theo lời Bộ trưởng Nội vụ Lương khai với
Phái đoàn Liên Hiệp Quốc ngày 30/10/1963, đích thân Lương cho tạm hoãn thi hành
lệnh cấm treo cờ, và lãnh đạo Phật giáo rất mãn nguyện.( 12) Tại Ðà Nẵng, cách
Huế khoảng 100 cây số về phía Ðông Nam, Cảnh sát cũng tới các cơ sở thương mại,
ra lệnh cấm treo cờ mừng Phật đản; bằng không sẽ bị rút giấy phép. Chẳng hiểu
việc làm này liên hệ gì đến Thị trưởng Hà Thúc Luyện hay chăng. Cách nào đi
nữa, ngày 8/5, Thiếu tướng Lê Văn Nghiêm, Tư lệnh Quân Ðoàn I, vẫn cho phép
quân nhân Phật tử tổ chức lễ Phật Ðản.( 13) Tại Ðà Nẵng, quân nhân Phật tử dựng
một khán đài tại góc đuờng Thống Nhất và bờ sông Bạch Ðằng (sông Hàn), và tổ
chức diễn hành xe hoa. Tại Huế, Phật tử cũng dựng khán đài và kết cờ Phật Giáo.
Nhưng không khí đấu tranh phảng phất trong không gian. Trong cuộc rước lễ từ
chùa Diệu Ðế tới chùa Từ Ðàm vào sáng ngày 8/5/1963, Phật tử đã trương lên một
số biểu ngữ đòi bình quyền tôn giáo và thề bảo vệ giáo kỳ bằng mọi giá. Người
châm ngòi nổ cho cuộc tranh đấu là Thượng tọa Trí Quang, Chủ tịch Hội Phật Giáo
Trung Phần, qua bài diễn văn nẩy lửa trong buổi lễ sáng 8/5 tại chùa Từ Ðàm,
với sự tham dự của nhiều viên chức cao cấp địa phương (ngoại trừ Ðại biểu Trung
Nguyên Trung Phần và Thị trưởng Ðẳng).
Chưa hết. Tối đó, một biến cố đẫm máu đột ngột
xảy ra. Giữa lúc hàng ngàn Phật tử tụ họp trước Ðài phát thanh Huế vào khoảng 8
giờ tối để nghe chương trình phát thanh đặc biệt Phật Ðản, một nhóm thanh niên
Ki-tô giật cờ Phật Giáo tại một cổng chào, rồi xông tới đập phá lễ đài. Bạo
động bùng nổ. Giám đốc đài Huế, Ngô Ganh, sau khi nhận chỉ thị phải từ chối
phát thanh lại cuốn băng buổi lễ Phật Ðản tại chùa Từ Ðàm, khóa trái cửa “để
bảo vệ máy móc” trước sự đe dọa của một số Phật tử hung hãn. Khoảng 22 giờ, Thị
trưởng Ðẳng được mời tới Ðài phát thanh bàn thảo với Thượng Tọa Trí Qang về nội
dung chương trình Phật Ðản mà hàng ngàn người đang chờ đợi, Thiếu tá Ðặng Sỹ,
Phó Tỉnh trưởng Nội An, dẫn Cảnh Sát, và lực lượng an ninh (Biệt đội Ngô Ðình
Khôi) gồm 8 tuần thám xa [blinder] của Ðịa Phương Quân, 1 đại đội ÐPQ, 1 đại
đội trừ Bộ Binh, đến tái lập trật tự. Sau khi đám đông không chịu giải tán, Sỹ
cho lệnh dùng lựu đạn cay, vòi rồng phun nước, và rồi nổ súng. Ða số binh sĩ
không tuân lệnh, chỉ có đơn vị riêng của Sỹ thẳng tay đàn áp. Xe tuần thám chạy
ngang dọc giữa đám đông. Dân chúng hoảng hốt tranh nhau bỏ chạy tứ phía. 9
người chết (kể cả 2 trẻ em bị tuần thám xa cán), và 14 bị thương.( 14)
Đài Tưởng niệm Thánh Tử Đạo tại Huế - Bác sĩ Eric Wulf, giáo sư tại Đại học Y khoa Huế, chứng nhân vụ tàn sát trước Đài Phát Thanh, trở lại thăm Huế cùng gia đình với Tiến sĩ Thái Kim Lan
Ðây là một hành động có thể bị truy tố về tội ác
chiến tranh [war crime] và tội ác chống lại nhân quyền [crime against Human
rights] của Sỹ; và các cấp chỉ huy, kể cả Ngô Ðình Diệm, phải liên đới trách
nhiệm.( 15) Ðể che đậy sự thực, thoạt tiên chính phủ loan tin một quả lựu đạn
của quân khủng bố (Cộng Sản) từ đám đông ném ra, vì quân đội chỉ bắn lên trời
hoặc dùng đạn mã tử. Lời giải thích này được ghi vào mật điện số 100/MM, từ văn
phòng Ðại biểu Trung nguyên Trung Phần (Hồ Ðắc Khương) gửi về Phủ Tổng thống
ngày 9/5/1963. Theo Mật điện trên, trong lúc Ðặng Sỹ đàn áp đám đông, “một quả
lựu đạn MK-2 đã từ trong đoàn người phóng ra làm cho 7 thường dân chết, 1
thường dân và 5 binh sĩ bị thương. Cơ quan an ninh đã phải xử dụng lựu đạn cay
mắt để giải tán đoàn người và tình hình đã trở lại tương đối yên tịnh vào lúc
24G00.” VP/ÐBCP/TNTP cũng qui tội cho Việt Cộng, và xin được tổ chức biểu tình
ngày 9/5/1963.( 16) Sau khi đám đông bị giải tán, viên chức chính phủ mang 9
xác chết tới bệnh viện Trung ương Huế. Theo một nguồn tin an ninh Mỹ, dù được
lệnh phải ghi vào giấy chứng tử là các nạn nhân “chết vì lựu đạn do khủng bố
Việt Cộng ném,” Y sĩ Lê Khắc Quyến, Giám đốc Bệnh viện kiêm Giám đốc Y tế miền
Trung, không đồng ý: Các y sĩ thực hiện giảo nghiệm (lý khám) kết luận rằng đa
số nạn nhân đều chết vì những vết thương trên đầu, và di thể không hề có mảnh
“lựu đạn MK-2” nào.( 17)
Bởi vậy, viên chức chính phủ, dù vẫn nhất tề
trút mọi trách nhiệm cho Việt Cộng, nhưng bắt đầu sửa sai từ “lựu đạn” sang
“mìn từ lực” [plastic] cho có vẻ hợp lý hơn.( 18) Ngày 11/7/1963, Phó TT Nguyễn
Ngọc Thơ, trong thư gửi Thượng tọa Thiện Minh, biện minh rằng các nạn nhân đêm
8/5/1963 là do “plastic” của Việt Cộng; chính Y sĩ Quyến, Giám đốc Bệnh viện
Trung Ương Huế, đã xác nhận viêc này trong buổi tiếp xúc ngày 8/7/1963 với Ðại
biểu TNTP và các y sĩ lý khám.( 19) Tháng 10/1963, Trần Tử Oai khai với phái
đoàn LHQ tìm sự thực về sự vi phạm nhân quyền tại Nam Việt Nam rằng Cộng Sản đã
cho nổ hai trái mìn từ lực mà quân đội VNCH cũng như Mỹ không có [That night
another more violent meeting took place at the Huê radio station. Communist
elements took advantage of it to explode two plastic charges which caused the
death of eight persons, including several children and a Catholic girl]. Ở một
đoạn khác, Oai lập lại lời cáo buộc này [With regard to the charge that the
Government had ordered the killing of the demonstrators by tanks, cannons,
rifles and grenades, this was an absolute slander. According to the findings of
the medical experts, all the wounds on the victims’ bodies were caused by the
explosion of plastic charges, which are not used by the Army or the security
forces of Vietnam ,
but only by Communists.”( 20) Bộ trưởng Nội vụ cùng một luận điệu.( 21)
Những ngày kế tiếp, tình hình Huế cực kỳ sôi
động. Suốt đêm mồng 8 rạng 9/5, thanh thiếu niên kéo nhau đi quanh đường phố,
hô to khẩu hiệu đả đảo Diệm. Khoảng 11G00 sáng, chừng 800 Phật tử tụ họp biểu
tình. Ðẳng yêu cầu họ giải tán để tránh bị “phản loạn” lợi dụng. Ðẳng cũng ra
lệnh giới nghiêm từ 9 giờ tối. Ngày 9/5, Diệm sai Bộ trưởng Nội vụ trở lại Huế
giải quyết. Lương áp lực Trí Quang đi theo xe phóng thanh kêu gọi mọi người ra
về. Trí Quang chỉ hòa thuận bề ngoài, chưa chịu lùi bước.( 22)
Chiều 9/5, Phong trào Cách Mạng Quốc Gia tổ chức
mít-tinh, lên án Cộng Sản phá hoại, khủng bố trong đêm 8/5. Rất ít người tham
dự, và không ai lên diễn đàn. Một số tiểu đoàn Dù gốc Nùng được điều tới Huế để
“bảo vệ trật tự.” Mật vụ bắt đầu lùng bắt các lãnh tụ Phật tử, và lực lượng an
ninh cô lập hàng ngàn người biểu tình trong vòng rào kẽm gai.( 23)
Ngày 10/5, trong cuộc biểu tình qui tụ khoảng
5,000-6,000 Phật tử, tăng ni tại chùa Từ Ðàm, Trí Quang đọc diễn văn, kêu gọi
bất bạo động và Phật tử tiếp tục treo cờ. Sau đó, đại diện Ủy ban tranh đấu
trao cho Ðẳng một Tuyên Ngôn [Manifesto], đòi hỏi 5 điều tương đối ôn hoà: tự
do treo cờ; Phật giáo được hưởng quyền dành cho Ki-tô giáo qui định trong Dụ số
10 [ngày 6/8/1950]; ngưng bắt giữ và khủng bố Phật tử; tự do tín ngưỡng; bồi
thường cho nạn nhân ngày 8/5 và trừng trị những người có trách nhiệm. Năm người
ký tên là Hòa Thượng Tường Vân, Thượng tọa Mật Nguyện, Mật Hiển, Trí Quang, và
Thiện Siêu.( 24) Với đại đa số Phật tử, “Dụ số 10” nêu trong Thông Bạch ngày
10/5/1963 có vẻ xa lạ. Dụ này do Bảo Ðại ban hành ngày 6/8/1950, liên quan đến
qui chế các hiệp hội, đảng phái, gồm 5 chương, 45 điều. Ðiều thứ 44 ghi nhận: “Chế độ đặc biệt cho các hội truyền giáo
Thiên chúa và Gia tô, và các Hoa kiều lý sự hội sẽ ấn định sau.”( 25) Ðiều
này có nghĩa các tổ chức tôn giáo không
Ki-tô như Phật giáo, Hoà Hảo, Cao Ðài, Islam v.. v... đều chỉ được phép hoạt
động nếu có sự đồng ý của chính phủ. Thị trưởng Ðẳng, “con nuôi tinh thần” của
Hòa thượng Tịnh Khiết, Hội chủ Tổng hội Phật Giáo, lên diễn đàn xin lỗi về tai
nạn đã xảy ra, và hứa bồi thường cho gia đình nạn nhân. Cẩn cũng áp lực Trí
Quang phải ngưng tranh đấu, tìm cách giải quyết.
Hôm sau, 11/5, Trí Quang triệu tập một buổi họp
với các giáo sư và sinh viên, học sinh để giải thích 5 nguyện vọng của Phật
giáo.( 26) Ðồng thời, các lãnh tụ Phật Giáo bắt đầu khai thác cái chết của các
nạn nhân tối Phật Ðản, ca ngợi họ như “thánh tử đạo.” Ngày 12/5, Trí Quang yêu
cầu Ðẳng cho làm lễ cầu siêu cho các nạn nhân vào ngày 14/5. Ðẳng không dám tự
quyền, đề nghị Phật Giáo thảo luận với Tư lệnh Quân Ðoàn I và Ðại biểu Chính
phủ tại TNTP vào hôm sau. Phật Giáo đồng ý lùi ngày cầu siêu lại một tuần, tức
21/5/1963. Riêng ngày 14/5, chỉ được làm lễ cầu siêu trong chùa Từ Ðàm.
Trong ngày 13/5, Trí Quang cũng gặp Ðại biểu
chính phủ để thảo luận về 5 đòi hỏi của Phật Giáo. Mặc dù cho rằng những yêu
sách của Phật Giáo “vô căn” [groundless], viên chức này tuyên bố chính phủ sẽ
cứu xét. Ðại biểu của chính phủ thêm rằng đòi hỏi của Phật Giáo mang tích cách
một “tối hậu thư,” và đây là một sai lầm.( 27) Tại Sài Gòn, mặc dù Quách Tòng
Ðức đã bí mật hội ý với Mai Thọ Truyền trước ngày ban hành lệnh cấm treo cờ,
Phật tử biểu tình liên tiếp trong hai ngày 7 và 8/5 để chống lệnh cấm và đòi
bình quyền tôn giáo. Ngày 9/5, Thượng tọa Tâm Châu, Phó Hội chủ Tổng Hội Phật
Giáo Việt Nam, thành lập Ủy Ban Liên Phái Bảo Vệ Phật Giáo–quyết “Tử Vì Ðạo.”
Ủy ban Liên Phái qui tụ 11 Hội đoàn, gồm Giáo
Hội Tăng Già Nam Việt, Giáo Hội Tăng Già Trung Việt, Giáo Hội Tăng Già Bắc Việt
tại miền Nam, Hội Phật Học Nam Việt, Hội Phật Giáo Trung Việt, Hội Phật Giáo
Bắc Việt tại miền Nam [thuộc Tổng hội Phật giáo Việt Nam; 1960-1965: Hội chủ:
Hòa thượng Thích Tịnh Khiết; Phó Hội chủ: Thượng tọa Thích Tâm Châu, Mai Thọ
Truyền], Giáo Hội Thiền Ðịnh Ðạo Tràng (chùa Phật Bửu, đường Cao Thắng; Ðạo chủ
là Hòa thượng Minh Trực, có 16 chùa), Giáo Hội Tăng Già Kampuchia [người Việt
gốc Khmer], Hội Phật Giáo Kampuchia [người Việt gốc Khmer], (chùa Chantareansey,
đường Trương Minh Giảng, Phú Nhuận; Lục cả Lâm Em), Giáo Hội Tăng Già Nguyên
Thủy [Therevada] (chùa Kỳ Viên, đường Phan Ðình Phùng [người Việt], Ðại Ðức Bửu
Chơn, Tăng thống), Hội Phật Giáo Nguyên Thủy [người Việt] (Hội trưởng: Nguyễn
Văn Hiếu; ngoài chùa Kỳ Viên còn có 6 chùa khác: chùa Bình Ðông, Phú Lâm, Gò
Dưa, Bình Hòa (chùa Phổ Minh) và Ðà Nẵng (Tam Bảo)). Tâm Châu, một tăng di cư,
từng vận động chống việc chiếu phim về Phật Thích Ca, được cử làm Chủ tịch; với
Mai Thọ Truyền, Tổng thư ký. Văn phòng đặt tại chùa Xá Lợi trên đường Bà Huyện
Thanh Quan. (28) Thượng tọa Tâm Châu cũng gửi một tâm thư cho các tăng ni mọi
cấp, kêu gọi mọi người quyết tâm bảo vệ giáo kỳ với tinh thần “tử vì đạo.” (29)
Riêng Thượng tọa Thiện Hòa (1907-1978), Trị sự trưởng Giáo Hội Tăng Gìa Toàn
Quốc, kêu gọi tinh thần bất bạo động, hòa giải. (30)
Cuộc đàn áp ở Huế không chỉ tạo nên tia lửa điện
tranh đấu trong hàng ngũ Phật tử Việt Nam mà cũng khiến Bộ Ngoại Giao Mỹ
đặc biệt quan tâm. Dù tuyên bố trung lập, Bạch Cung có thiện cảm với Phật Giáo.
Từ Oat-shinh-tân, chiều 9/5 [04G24 sáng 10/5 VN], Ngoại trưởng Dean Rusk chỉ
thị Ðại sứ Frederick Nolting yêu cầu Diệm: (1) Không nên đàn áp Phật tử, (2)
bày tỏ cảm tình với gia đình nạn nhân và giúp tiền an táng, (3) sử dụng những biện
pháp thích nghi để vãn hồi trật tự, và (4) tạo tinh thần thân ái giữa các nhóm
giáo dân.( 31) Trong khi đó, Trung ương Tình báo Mỹ [CIA] ghi nhận Cao Ðài và
Hoà Hảo đang thảo luận phối hợp hành động với Phật giáo. Lại cũng có tin tuyệt
thực đã bắt đầu tại Huế từ ngày 12/5. Theo Trung tá Trần Văn Thưởng–Giám đốc
Cảnh Sát Công An Trung nguyên Trung Phần, người đã điều tra về việc đàn áp Phật
Giáo ở miền Trung năm trước–Phật tử dự định biểu tình khắp đồng bằng miền Trung
ngày 21/5.
Tổng thống Diệm - Đại sứ Mỹ Nolting - Thượng tọa Thích Trí Quang
Tại Sài Gòn cũng có tin sẽ biểu tình ngày 21/5.(
32) Do sự dàn xếp của Nolting, ngày 15/5, Tổng thống Diệm tiếp đại diện Phật
giáo tại Sài Gòn. Phái đoàn đầu tiên này gồm Thượng tọa Thiện Hòa (Trị sự
trưởng Giáo Hội Tăng Già Toàn quốc); Thiện Hoa (Trị sự trưởng Giáo Hội Nam Việt);
Thiện Thái (Trị sự trưởng Giáo Hội Bắc Việt), Lâm Em (Trị sự trưởng Chùa
Chantereansey), Dũng Chí (đại diện Phật Giáo Nguyên Thủy), cùng hai cư sĩ Mai
Thọ Truyền (Hội trưởng Hội Phật học Nam Việt), và Vũ Bảo Vinh (Hội trưởng Hội
Phật học Bắc Việt). Phe chính phủ có Bui Văn Lương (Nội vụ) và Paul Ngô Trọng
Hiếu (Công dân vụ).( 33)
Theo Việt Tấn Xã ngày 17/5, về đòi hỏi số 1 (rút
lại lệnh cấm treo cờ Phật giáo), Diệm cho rằng cả Ki-tô lẫn Phật giáo đã có lỗi
về việc treo cờ; chỉ được treo giáo kỳ trong các thánh đường hay chùa. Về đòi
hỏi thứ hai (Dụ số 10), Diệm nói sẽ cứu xét lại. Ðiểm 3, về việc bắt giữ Phật
tử và tăng ni, Paul Hiếu nói không hề có “khủng bố.” Lương cũng khẳng định
“không hề có việc quân đội ném lựu đạn, xe thiết giáp bắn trọng pháo hay cán
vào đám đông. . . . Sự thật chỉ có hai trái mìn từ lực [plastic] do Việt Cộng
thừa lúc lộn xộn mà giựt, vì Quân đội không có plastic và căn cứ vào vết tích
còn lại.” Diệm nói những người bị bắt có hành động bất an cho dân chúng và
chính quyền, nếu tha ra, phần tử xấu sẽ lợi dụng. Ðiểm 4, về tự do tín ngưỡng,
Diệm xác nhận đó là quyền hiến định. Ðiểm 5, về bồi thường, Diệm chỉ hứa sẽ
nghiên cứu việc trợ cấp. Ðại diện Phật giáo đưa thêm hai đề nghị: ra Huế thăm
viếng những người bị bắt giữ và tổ chức cầu siêu cho nạn nhân. Diệm nói sẽ cứu
xét đòi hỏi thứ nhất, và đồng ý đòi hỏi thứ hai, với điều kiện chỉ tổ chức
trong khuôn viên các chùa. Nhưng đại diện Phật giáo, qua buổi họp này, kết luận
rằng Diệm chưa có quyết định nào rõ rệt.( 34) Tuy nhiên, họ kiên nhẫn chờ đợi
thiện chí của chính phủ. Có lẽ vì vậy, Trí Quang đồng ý tu chính lại 5 nguyện
vọng, và ngày 15/5, nhờ Ðẳng chuyển thư cho Cẩn, hứa không tranh đấu nữa.( 35)
Ðáng ghi nhận là từ ngày 15/5 này, Bộ trưởng Nội
vụ Lương bắt đầu thay “lựu đạn” bằng hai trái mìn từ lực của Cộng Sản mà quân
đội không được cấp phát. Ðây là nỗ lực “sửa sai” đầu tiên của chế độ để chối bỏ
tội lỗi (trong khi mãi tới ngày 25/5, Diệm mới thú nhận là cấp dưới đã báo cáo
sai lạc về một hay nhiều trái lựu đạn).( 36) Vì sắp qua Greece [Hy Lạp] nghỉ
thường niên, Nolting khuyên Diệm nên ra tuyên cáo chính thức về vấn đề Phật
Giáo. Nolting cũng tiếp xúc Khâm sứ Vatican là
Salvatore d’Asta và Linh mục Cao Văn Luận để thuyết phục Diệm. Theo Bộ trưởng
Phủ Tổng thống Nguyễn Ðình Thuần, thương thuyết với Phật giáo tiến triển tốt
đẹp, nhưng chủ chốt là chính phủ muốn tránh trách nhiệm.( 37)
Ngày 18/5, khi cùng XLTV Ðại sứ William C.
Trueheart qua chào tạm biệt Diệm, Nolting cố thuyết phục Diệm đáp ứng nguyện
vọng của Phật giáo. Nolting muốn Diệm tuyên bố chịu trách nhiệm về biến cố ở
Huế, bồi thường cho nạn nhân, và tái khẳng định chính sách bình quyền tôn giáo
và không kỳ thị. (38) Diệm không hứa điều gì. Diệm vẫn tin, hoặc muốn diễn giải
rằng biến cố ở Huế là do các lãnh tụ Phật giáo khích động; những người ở Huế
chết vì một hay nhiều trái lựu đạn, do Cộng sản hay phe chống chế độ ném, không
phải viên chức chính phủ; và một số lãnh đạo Phật giáo lợi dụng biến cố ở Huế
để củng cố thế lực trong nội bộ Giáo hội. Dưới mắt Diệm, vấn đề Phật giáo không
quá nghiêm trọng như Mỹ tưởng nghĩ.( 39) Dù được xem những khúc phim về cuộc
đàn áp Diệm không thay đổi lập trường.( 40) Diệm chỉ cách chức Ðẳng, đưa Nguyễn
Văn Hà ra Huế. Ðồng thời, bổ nhiệm Nguyễn Xuân Khương, đương kim Tổng Giám Ðốc
Ðiền Ðịa, làm Ðại biểu Trung Nguyên Trung Phần, hiệu lực từ ngày 1/6/1963. Cho
rằng chính phủ kỳ thị Phật Giáo, các tăng ni quyết tranh đấu đến cùng.
Ngày 19/5, Hòa thượng Tịnh Khiết thông báo cho
Ðại biểu TNTP và Thiếu tướng Tư lệnh QÐ I rằng đã chấp thuận cho hai Thượng tọa
Mật Nguyện và Trí Quang tuyệt thực để cầu cho nguyện vọng của Phật Giáo.( 41)
Ngày 23/5, năm lãnh tụ Phật giáo, gồm cả Hòa thượng Tịnh Khiết, ra tuyên ngôn
khẳng định lập trường bất bạo động và phi chính trị, nhưng cương quyết đòi
chính phủ phải thỏa mãn các đòi hỏi của Phật Giáo “trong một thời [gian] càng
sớm càng tốt,” đồng thời ngưng ngay những cuộc “khủng bố, bắt giữ.”( 42)
Tại Sài Gòn, sáng ngày 21/5, 600 tu sĩ làm lễ
cầu siêu cho nạn nhân ở Huế, rồi diễn hành từ chùa Ấn Quang đến chùa Xá Lợi.
Bốn ngày sau, Ủy Ban Liên Phái ra tuyên cáo ủng hộ 5 nguyện vọng của Phật Giáo,
và hứa đoàn kết tranh đấu cho bằng được các nguyện vọng trên. (43) Phần chính
phủ vẫn im lặng khó hiểu. Mặc dù từ ngày 24/5 các chuyên viên y khoa khẳng định
rằng thương tích nạn nhân ở Huế đêm 8/5 không do mảnh lựu đạn gây nên Diệm vẫn
chẳng tỏ một thái độ hòa giải nào.( 44) Các lãnh đạo Phật Giáo bèn quyết định
mở rộng cuộc tranh đấu: Ngày 28/5, Tâm Châu thông báo với Tổng thống Diệm là sẽ
tổ chức tuyệt thực trong vòng 48 giờ, kể từ 14 giờ ngày 30/5/1963.( 45)
Hôm sau, 29/5, báo chí mới đăng thông cáo của
Diệm, khẳng định quyền tự do và bình đẳng tín ngưỡng được qui định trong điều
17 của Hiến Pháp; nhưng vẫn bảo vệ lệnh treo cờ, vì quốc kỳ phải có địa vị tối
thượng, và khẳng định chính phủ “không hề có ý nghĩ phân biệt đối xử với bất cứ
tôn giáo nào.”( 46) Thời gian này, báo chí Mỹ cũng ra sức ủng hộ Phật Giáo. Gây
chấn động nhất là bài trên tuần báo Newsweek số đề ngày 27/5/1963, vạch trần sự
lộng hành của tập đoàn cai trị Ki-tô của Thục cùng các “quan” ở Huế.( 47) Ngày
29/5, tại Mỹ, báo New York Times [New York Thời Báo] cũng khai thác ngay bản
tin mà Ủy Ban Liên Phái gửi cho các cơ quan truyền thông và nhiệm sở ngoại
giao, tường thuật rằng Phật tử rất bất mãn về cách đối xử của Diệm, và đang
chuẩn bị đấu tranh tuyệt thực, đồng thời tổ chức cầu siêu trong vòng 4 tuần lễ.
David Halberstam–một ký giả lập nên sự nghiệp nhờ chiến tranh Việt Nam và chủ
trương nhà Ngô phải ra đi–thuật lại rằng trong buổi họp ngày 15/5, Diệm đã lên
án các tăng sĩ là “bọn khùng” [damn fools] khi đòi hỏi bình đẳng tôn giáo, vì
quyền này đã được Ðiều 17 của Hiến pháp (một bộ tiểu thuyết luật pháp và nhân
quyền) bảo đảm.
Bộ Ngoại Giao Mỹ vội thông báo cho Trueheart về
nội dung bài báo trên, đồng thời chỉ thị Trueheart phải đích thân gặp Diệm,
thuyết phục Diệm thỏa mãn nguyện vọng của Phật giáo.( 48) Hôm sau, Bộ Ngoại
Giao đồng ý cho Trueheart gặp Khâm sứ Vatican, nhờ khuyên bảo Diệm về vấn đề
Phật Giáo.( 49) Trueheart chưa kịp gặp Diệm, Phật Giáo đã hành động. Hòa thượng
Tịnh Khiết–đúng hơn nhóm lãnh đạo tranh đấu–chỉ thị cho các tăng sĩ tuyệt thực
48 tiếng đồng hồ kể từ 2 giờ chiều ngày 30/5. Ngày này, tại Sài Gòn, 350 tăng
ni biểu tình trước Quốc Hội, rồi tuyệt thực.( 50) Tại Huế, dù chùa Từ Ðàm bị cô
lập, các cấp lãnh đạo Phật giáo vẫn tuyệt thực. Khoảng 3,000 Phật tử bị vây hãm
trong vòng rào kẽm gai. Tại Quảng Trị, Phật tử biểu tình trong trật tự.
Ngày Thứ Bảy, 1/6, đúng ngày Tỉnh trưởng Ðẳng,
Phó Nội an Sỹ và Ðại biểu Trung phần bị thay thế, nhiều đoàn Phật tử Huế tụ họp
tại một số địa điểm trong thành phố, kể cả Dinh tỉnh trưởng và Tòa Ðại biểu
chính phủ tại miền Trung. Khoảng 10,000 người tụ họp trước chùa Từ Ðàm. Sau đó
giải tán do yêu cầu của các tăng sĩ. Ðỗ Cao Trí điều Nhảy Dù và M-113 từ Quảng
Trị vào Huế đề phòng bất trắc.( 51) Tại Ðà Nẵng, Phật tử cũng tổ chức tuần hành
không bạo động vào ngày 1/6, do các tăng ni dẫn đầu. Tối hôm trước, 31/5, Ðại
tá Lâm Văn Phát, Tư lệnh Sư đoàn 2 BB–một giáo dân Ki-tô tân tòng, thường tự
chứng tỏ là rất trung thành với chế độ–cho lệnh các đơn vị dưới quyền chuẩn bị
chống biểu tình.
Chiều 1/6, một xe vận tải hai tấn rưỡi (GMC) của
quân đội chở đầy đạn bỗng dưng bị hư máy ở một ngã tư cách Toà Thị chính một
khu phố về phía Bắc. Cấp chỉ huy bèn phái một xe GMC khác tới tháo rỡ đạn, dưới
sự bảo vệ an ninh của một đơn vị tác chiến. Quân Cảnh, Cảnh Sát và Công An cũng
chặn đường từ phía Nam
lên Toà Thị chính. Kế hoạch của Phát không đủ ngăn cản Phật tử biểu tình trong
trật tự. Các tăng ni dẫn đầu một đoàn phụ nữ và thiếu niên diễn hành qua đường
phố, với khẩu hiệu đòi tự do tín ngưỡng và bình quyền tôn giáo. Tới trước cửa
Toà Thị chính, 7 nhà sư rời đám đông, biểu tình ngồi; trong khi Phật tử tiếp
tục cuộc diễn hành, rồi giải tán. Giữa lúc Phật tử đang biểu tình, Phát vào gặp
Thị trưởng Ðà Nẵng là Hà Thúc Luyện, cho lệnh phải dời 7 nhà sư đang ngồi trước
Toà Thị chính, và giải tán cuộc diễn hành, cho dẫu “đích thân Thị trưởng phải
ném lựu đạn vào đám đông.” Luyện, dù là một cán bộ Cần Lao cao cấp thân tín của
Cẩn, từ chối.
Trong đêm 2/6, Phát điều thêm một số đơn vị khác
vào thành phố. Một đại đội tăng cường cho Ty Công An Ðà Nẵng (đối diện khách
sạn). Phần quân nhân Phật tử bị cấm trại. Trong đêm, 7 nhà sư bị bắt đi mất
tích. Qua hôm sau, 3/6, Luyện bị cất chức Thị trưởng; gọi vào Sài Gòn trình
diện. Trung tá Trần Ngọc Châu, Tỉnh trưởng Kiến Hoà, một Phật tử gốc miền
Trung, ra thay. (52) Trong khi Ðà Nẵng đang sôi động, ngày 2/6, Phật tử Quảng
Trị lại biểu tình. Chính quyền đàn áp bằng lựu đạn cay. Giao thông với Huế bị
cắt đứt. (53) Chiều hôm sau, 3/6, tại Huế, khoảng 500 thanh niên tụ họp trước
Tòa Ðại Biểu Trung Phần. Quân đội “dàn chào” bằng lưỡi lê và lựu đạn cay. Các
nẻo đường dẫn đến chùa bị phong tỏa bằng kẽm gai. Phật tử biểu tình ngồi. Binh
sĩ dùng lựu đạn cay giải tán. Trong khi đó, Trí Quang đã tuyệt thực nhiều ngày,
sức khoẻ suy giảm. Ðại tá Trí ra lệnh giới nghiêm. Khoảng 18G30, quân đội lại
tấn công mạnh Phật tử biểu tình tại chợ Bến Ngự. Dùng cả chất hóa học (blister
gas), khiến 67 nạn nhân bị nôn mửa, lưu lại vết bỏng trên da.( 54)
Ðược báo cáo, ngày 3/6 [sáng 4/6 Việt Nam] Bộ
Ngoại Giao Mỹ hai lần chỉ thị Trueheart phải yêu cầu Diệm hoà giải với Phật
giáo và báo cáo rõ hơn về khói hóa học sử dụng để đàn áp Phật tử.( 55)
Trueheart vội đến gặp Thuần vào khoảng 11G45 ngày 4/6. Khác với Nolting,
Trueheart trở lại thái độ công khai áp lực mà cựu Ðại sứ Elbridge Durbrow đã áp
dụng. Trueheart cảnh cáo rằng Mỹ có thể ngưng yểm trợ nếu còn đàn áp Phật Giáo.
Thuần tiết lộ Hội đồng chính phủ đã đề nghị thành lập một Ủy Ban Liên Bộ [UBLB]
để cứu xét các đòi hỏi của Phật Giáo như Trueheart yêu cầu từ ngày 1/6, và Diệm
đã chấp thuận. Nhu cũng hứa sẽ tiếp xúc với lãnh tụ Phật Giáo. Ngay chiều đó,
Thuần còn mời Trueheart tới tư dinh, nói đã thành lập một ủy ban điều tra về
hơi độc ở Huế, do Ðại tá Nguyễn [Trần] Văn An, và Trung tá Y sĩ Liêm cầm đầu.
Diệm cũng sẽ tuyên bố thành lập UBLB, gồm Phó Tổng Thống Thơ, Lương và, Thuần.(
56) Nhưng khoảng 17G00, Bộ Tư lệnh Quân viện Mỹ tại Việt Nam [MAC-V] lại xin ý
kiến Trueheart về việc Bộ Tổng Tham Mưu yêu cầu MAC-V không vận 300 Cảnh sát từ
Vũng Tàu ra Huế. Trueheart không chấp thuận.( 57)
III. TUYÊN CÁO CHUNG 16/6/1963:
Do áp lực Mỹ, từ giữa tháng 5/1963, Diệm đã gặp
lãnh tụ Phật Giáo để thảo luận về 5 đòi hỏi ngày 10/5. Tuy nhiên, chế độ có vẻ
chỉ muốn kéo dài thời gian để vô hiệu hóa dần cuộc tranh đấu. Họ Ngô không muốn
nhìn nhận trách nhiệm vì cho đó là nhược điểm. Diệm cũng không muốn thỏa mãn
các nguyện vọng đưa ra ngày 10/5 vì sợ Phật Giáo sẽ tiếp tục đòi hỏi nhiều hơn.
Áp lực của Mỹ khuyên Diệm hòa hoãn thì được giải thích theo một ý nghĩa
khác–thực ra, chế độ Diệm đang rơi vào một cuộc khủng hoảng niềm tin với Mỹ, và
Nhu đang bí mật ve vãn Cộng Sản với sự tiếp tay của Pháp và India.( 58) Trong
khi đó, lãnh tụ Phật Giáo khéo léo phối hợp giữa biểu tình và ngoại giao, nhất
là việc sử dụng các cơ quan truyền thông quốc tế. Một số giáo chức Tây Germany
[Ðức] và ký giả ngoại quốc cũng tích cực tiếp tay.( 59)
Biến cố gây xúc động nhất là cuộc tự thiêu của
Thượng tọa Quảng Ðức ở Sài Gòn ngày 11/6/1963. Có thể nói lần đầu tiên mới có
một cuộc đấu tranh chính trị tinh xảo đến thế. Bởi vậy, chính phủ Mỹ không
ngừng áp lực Diệm phải giải quyết cuộc khủng hoảng. Ngày 16/6, Diệm và Tịnh
Khiết ra một Thông cáo chung. Nhưng Diệm không thực tâm thi hành những điều đã
ký kết. Thục và vợ chồng Nhu-Lệ Xuân cũng tìm mọi cách ngăn chặn việc thực thi
tuyên cáo ngày 16/6. Phật giáo không lùi bước.
A. THƯƠNG THUYẾT:
Chiều ngày 5/6/1963, Ủy Ban Liên Bộ [UBLB] cùng
các Thượng Tọa Thiện Minh và Thiện Hoa ngồi vào bàn thương thuyết. Ngay sau
buổi họp đầu, cả đôi bên đều thất vọng về sự thiếu thành khẩn của nhau. Dẫu
vậy, Thuần cùng Thiện Minh, phụ tá của Trí Quang, bí mật đạt được thỏa thuận sơ
khởi trên 5 đòi hỏi của Phật giáo, với điều kiện phải được Diệm phê chuẩn.( 60)
Hôm sau, 6/6, hai bên đồng ý chính phủ sẽ rút quân đội và an ninh khỏi vùng lân
cận các chùa, Ðỗ Cao Trí ngừng biểu dương võ lực. Ngược lại, Phật giáo ngừng
tuyên truyền chống chính phủ.
Thiện Minh lập tức lên đường ra Huế tường trình
về những điều thỏa thuận với UBLB, mang theo một cư sĩ quen biết Thuần để bảo
đảm rằng những phần tử “quá khích” [extremist elements] không phá hoại thương
thuyết. Theo dự trù, Tịnh Khiết, đang tuyệt thực ngoài Huế, cũng sẽ vào Sài Gòn
ký tuyên cáo chung.( 61)
Ngày 6/6 này, Diệm đọc một diễn văn truyền thanh
ngắn, kêu gọi mọi người hãy bình tĩnh vì chính phủ cần thời gian để giải quyết
cuộc khủng hoảng.( 62) Nhưng tại Huế, tình hình thêm căng thẳng. Trong ngày
5/6, bạo động lại diễn ra khiến 4 Phật tử chết, hơn 100 bị thương và hơn 1,000
người bị bắt. Hai sinh viên bị mất tích. 3 y sĩ Germany [Ðức] và 2 y sĩ Mỹ đang
phục vụ tại Huế đã tích cực giúp đỡ Phật tử. Diệm bèn cho lệnh hai y sĩ Germany ,
Erich Wulff và Hans Holterscheidt, phải lập tức rời cố đô. Sau đó, trục xuất họ
khỏi Sài Gòn với lý do “không được ưa chuộng” [Persona Non Grata].( 63) Chính
quyền Huế còn ngưng tiếp tế cho những người biểu tình bị cô lập. Lãnh sự John
J. Helble báo cáo rằng tình trạng thực phẩm và nước uống tại chùa Từ Ðàm đã ở
mức báo động đỏ. Phi cơ chính phủ thì rải truyền đơn đả kích Trí Quang và đòi
bắt giữ cả Tịnh Khiết.( 64)
Tại Sài Gòn, thái độ họ Ngô cũng đột ngột cứng
rắn. Vợ chồng Nhu-Lệ Xuân công khai trách mắng Thuần đã nhân nhượng quá nhiều.
Ngày 7/6, Phong Trào Phụ Nữ Liên Ðới [PTPNLÐ]
của Lệ Xuân ra “quyết nghị” lên án những cuộc biểu tình chống chính phủ là
chống lại chính nghĩa quốc gia (anti-nationalist), bị “Cộng sản khai thác và
lợi dụng, dẫn đến hỗn loạn và trung lập.” Và yêu cầu chính phủ không thể tiếp tục
im lặng trước những mưu toan chính trị, lập tức trục xuất những ngoại nhân
chuyên phá hoại, dù mặc áo thày tu hay không, đặc biệt là những kẻ mưu toan
biến Việt Nam thành chư hầu ngoại bang.( 65) Quyết nghị này được trao cho báo
chí ngày hôm sau, 8/6/1963.
Ngày này, Trueheart gặp Thuần về quyết nghị của
PTPNLÐ trên nhưng Thuần thú nhận mình không giải quyết được gì. Chiều đó,
Truehart vào Dinh Gia Long, đích thân phản đối lời tuyên bố của vợ Nhu, và dọa
sẽ công khai không ủng hộ chính sách Phật giáo của Diệm. Diệm nói không thể bác
bỏ quyết nghị của PTPNLÐ, vì đây là một hội đoàn tư nhân, nhưng sẽ cho lệnh Bộ
trưởng Nội vụ phải để những người biểu tình tại chùa Từ Ðàm được tiếp tế lương
thực và nước uống. Diệm cũng nói không biết gì về việc phi cơ chính phủ thả
truyền đơn sỉ nhục lãnh tụ Phật giáo. Sau đó, Diệm khẳng định lập trường: Sẽ
thương thuyết trong thế mạnh; Phật giáo vi phạm lời cam đoan tạm ngưng chiến
dịch tuyên truyền, tiếp tục phát tài liệu cho báo chí ngoại quốc (như Thiện
Minh đã tiết lộ về những điều khoản thỏa thuận); Phật giáo thiếu thành tín (bad
faith).
Lần đầu tiên, Diệm thú nhận với Trueheart rằng
chính quyền địa phương bất lực trong việc đối xử với Phật giáo; vì mãi đến ngày
24/5–tức hơn hai tuần lễ sau cuộc thảm sát ở Huế–chuyên viên y khoa mới báo cáo
là thương tích không do mảnh lựu đạn gây nên. Nhưng Diệm nhấn mạnh sẽ sử dụng
mọi biện pháp cần thiết để duy trì trật tự nếu hỗn loạn tiếp tục.( 66)
Hôm sau, 9/6, báo Times of Vietnam [Việt Nam
Thời Báo] đăng nghị quyết ngày 7/6 của PTPNLÐ. Báo này nhấn mạnh vai trò các
tăng sĩ Nam
tông (Therevada) trong những cuộc rối loạn hiện nay. Hàm ý là phe Nam tông có liên hệ với chính sách trung lập hoá
miền Nam
của Charles de Gaulle và Norodom Sihanouk. Các báo Việt ngữ không đăng. Diệm
cũng cho lệnh đài phát thanh không nhắc đến lời Lệ Xuân đả kích Phật Giáo. Tuy
nhiên, lệnh này ban hành sau khi đài Sài Gòn đã phát thanh vài ba lần.
Tại Huế, số Phật tử bị phong tỏa đã 3 ngày không
có nước uống, thực phẩm và thuốc men. Một số tư nhân mang tặng thực phẩm, nước
uống. Chính phủ cho chụp hình, loan báo đó là do chính phủ cung cấp. Trong khi
đó, điện thoại với Sài Gòn bỗng dưng bị “hư.” Lãnh sự Huế Helble không thể liên
lạc được với Trueheart. Thuần cũng lâm vào cảnh tương tự. Phi cơ chính phủ tiếp
tục rải truyền đơn, tố cáo Trí Quang là Cộng Sản. Ðây là bước chuẩn bị cho việc
bắt giữ các lãnh tụ tranh đấu–vì chỉ cần “liên hệ với phiến Cộng” đã là trọng
tội, có thể bị kết án từ khổ sai tới tử hình. Không ít người đã bị tra tấn đến
chết hay thủ tiêu.( 67)
Tại Oat-shinh-tân, trưa ngày 8/6 [đêm 8 rạng 9/6
tại Việt Nam], Ngoại trưởng Rusk chỉ thị Trueheart yêu cầu Diệm bác bỏ nghị
quyết của PTPNLÐ, rút lại Sắc luật số 10, và cần xác định chính phủ duyệt trước
hay chăng lời tuyên bố của Lệ Xuân. Lời tuyên bố của Lệ Xuân, Rusk nhấn mạnh,
làm suy giảm vị thế của VNCH, và làm tổn hại uy tín của Mỹ, có thể gây khó khăn
cho việc tiếp tục yểm trợ VNCH tại Quốc Hội cũng như dư luận Mỹ. (68) Gặp Thuần
ngày 9/6, Trueheart cho biết chỉ thị của BNG Mỹ. Rồi đả kích việc chính phủ
đang chuẩn bị phản biểu tình vào ngày 10 hay 11/6. Kế hoạch phản biểu tình của
Paul Hiếu này gồm có những thủ thuật sử dụng “sư giả” từ các tỉnh, Thanh Niên
Cộng Hoà và bọn tệ đoan xã hội ở Chợ Lớn giả làm sư. Trueheart cảnh cáo rằng
nếu quả thực như vậy, cần phải ngừng ngay. Trueheart cũng nêu lên vấn đề giáo
dân Ðà Nẵng đang chuẩn bị ra nghị quyết cách chức Thiếu tá Thiệt, Tỉnh trưởng
Quảng Nam, nhân dịp làm lễ cầu hồn cho Giáo hoàng John XXIII (1958-1963) vào
ngày 10/6. Nếu đúng sự thực, cần chấm dứt ngay. Trueheart còn nêu lên vấn đề 4
ký giả (Michaud của AFP, Sheehan của UPI, Browne của AP và Parry của báo NY
Times) đã bị bắt giữ 1 giờ đồng hồ tại Quận 3. Hành động này, Trueheart bảo
thẳng Thuần, là “khùng” và bất lợi.( 69)
Mãi tới 9 giờ sáng ngày Thứ Hai, 10/6, Thuần mới
gặp Trueheart để phúc đáp. Thuần nói đã trình bày với Diệm và Nhu về những đề
nghị của Mỹ. Về Sắc luật số 10, Diệm không có quyền rút lại. Quyết nghị của
PTPNLÐ không phải là “tuyên bố của bà Nhu,” mà là của “một tổ chức đại chúng”
(cả Thuần lẫn Trueheart đều mỉm cười). Diệm đã điện thoại cho Paul Hiếu trước
mặt Thuần về vấn đề tổ chức phản biểu tình. Hiếu chối không có kế hoạch đó.
Cũng không có kế hoạch đòi cách chức Tỉnh trưởng Quảng Nam . Ðang dàn xếp cho những người
trong chùa Từ Ðàm ở Huế ra về không gặp trở ngại, ngoại trừ các công chức.
Chính phủ không đứng ra tổ chức lễ cầu hồn cho John XXIII. Diệm vẫn muốn thương
thuyết, nhưng cần cô lập những thành phần quá khích. UBLB của PTT Thơ sẽ họp
lúc 10G00 để nghiên cứu lá thư mới nhất của UB Tranh đấu Phật giáo.( 70)
B. NGỌN LỬA CÚNG DƯỜNG ÐẠO PHÁP:
Biến cố khiến cuộc tranh đấu của Phật giáo được
dư luận thế giới chú ý nhất là cuộc tự thiêu của Thượng tọa Quảng Ðức tại ngã
tư Phan Ðình Phùng-Lê Văn Duyệt Sài Gòn (ngay trước Tòa Ðại sứ Kampuchea ).
Quảng Ðức, tục danh Lâm Văn Tức (1897-1963),
đang tu tại chùa Quán Thế Âm trên đường Nguyễn Huệ, Gia Ðịnh. Lúc 9G30 sáng
ngày 11/6–giữa lúc Diệm và hầu hết nhân viên cao cấp trong chính phủ đang tham
dự buổi quốc lễ cầu hồn cho Giáo Hoàng John XXIII– chiếc xe Austin của một Phật
tử, dưới sự dẫn đường của một đoàn 400-500 tăng sĩ, đưa Quảng Ðức tới chỗ hóa
thân. Ðịa điểm này được các tăng ni làm hàng rào cản không cho Cảnh sát can
thiệp. Số khán giả tò mò lên tới khoảng 500 người, ngày càng đông. Một số ký
giả như Sheehan của hãng UPI cũng được báo trước. Từ xe bước xuống giữa ngã tư,
Quảng Ðức ngồi xuống theo thế thiền định, nhờ một Ðại đức đổ xăng lên thân thể
mình, rồi tự tay châm lửa bằng diêm (quẹt). Malcolm Browne, nhân viên hãng AP,
thu được tấm hình này–bức hình rồi sẽ gây chấn động dư luận thế giới.( 71) Trưa
đó, khoảng 400 tăng sĩ đưa thi hài Quảng Ðức tới chùa Xá Lợi. 2,000 Phật tử
cũng lũ lượt kéo nhau tới chùa. Khoảng 1,000 Cảnh sát tới “bảo vệ an ninh,”
nhưng các tăng ni được di chuyển tự do trong khu vực này.( 72)
Cố vấn Nhu - Hoà thượng Thích Quảng Đức tự thiêu - Đệ nhất Phu nhân Trần Lệ Xuân
Khoảng 12G30, quân đội được lệnh cấm quân. Bảy
tiểu đoàn Dù nhận lệnh ứng chiến. Ðại tá Lê Quang Tung tăng cường 2 Ðại đội Lực
Lượng Ðặc Biệt [LLÐB] cho Sài Gòn, trí quân trong phi trường Tân Sơn Nhất. Nhân
viên Mỹ được nghỉ sớm, và khuyến cáo không nên đến gần các đám biểu tình.( 73)
Phần Trueheart tới gặp Thuần tại tư dinh, bảo
thẳng Thuần rằng Diệm phải có thái độ ngay chiều đó, bằng không Mỹ sẽ tuyên bố
không liên hệ đến chính sách tôn giáo của Diệm. Khi Thuần hỏi có thể dẫn lời
Trueheart cho Diệm và Nhu nghe được không, Trueheart đồng ý. Trueheart cũng lưu
ý Thuần về kháng thư của PTPNLÐ đăng trên Times of Vietnam sáng đó để phản đối
hãng UPI khi gửi đi bản tin của Sheehan; và cảnh cáo rằng nếu đây là bước đầu để
trục xuất Sheehan thì là một điều “ngu xuẩn” (stupid). (74) Phó Tổng thống Thơ
và Ngoại trưởng Vũ Văn Mẫu cũng vào yêu cầu Diệm phải có hành động tức khắc,
đồng thời chỉ thị UBLB xúc tiến nhanh việc thương thuyết với Ủy Ban Liên Phái
Phật Giáo Tranh Ðấu.( 75)
Ngay tối 11/6 đó, Diệm đọc diễn văn, cam kết là
“phía sau Phật Giáo trong nước còn có
Hiến Pháp, tức là có tôi.”( 76) Diệm hy vọng diễn văn truyền thanh của mình
sẽ trấn an dư luận cho tới hôm sau, khi UBLB gặp mặt Ủy Ban Liên Phái. Tại
Oat-shinh-tân, gần nửa đêm 11/6 [gần trưa 12/6 tại Việt Nam ], Rusk chỉ
thị cho Trueheart: “Nếu Diệm không có những bước cấp tốc và hiệu lực để giải
quyết cuộc khủng hoảng để gây lại niềm tin của Phật tử, chúng ta sẽ phải tái
duyệt xét việc ủng hộ chế độ Diệm.”( 77)
Tối ngày 12/6, Trueheart mới gặp được Diệm.
Không những thông báo cho Diệm biết cuộc tự thiêu của Quảng Ðức đang gây sôi
nổi dư luận thế giới, Trueheart còn trao cho Diệm một văn bản cảnh giác–theo
đúng chỉ thị của Rusk–là Mỹ có thể sẽ công khai tuyên bố không ủng hộ chính
sách Phật giáo của Diệm. Trước khi kiếu từ, Trueheart nêu lên 3 điểm:
1. Báo cáo ngày 11/6 cho biết chính quyền
Huế và Ðà Nẵng tiếp tục bắt giữ người biểu tình.
2. Chính phủ không thể truy tố những người
“giúp” Thượng tọa Quảng Ðức tự thiêu. (Diệm nói có người giúp Quảng Ðức đổ xăng
lên mình, và châm lửa. Trueheart nhấn mạnh rằng hai nhân chứng đích mắt thấy
Quảng Ðức tự mình tưới xăng và châm lửa).
3. Có tin chính phủ đang cấm các tăng ni từ
các tỉnh vào Sài Gòn. (Cả Diệm lẫn Thuần trả lời là vì lý do an ninh. Diệm thêm
rằng Quốc Hội đang thành lập tiểu ban nghiên cứu việc sửa đổi Sắc Luật số 10).
(78)
C. THÔNG CÁO CHUNG:
Từ sáng 12/6, Hoà thượng Tịnh Khiết cùng Trí
Quang và Thiện Minh rời Huế vào Sài Gòn để thương thuyết với UBLB. Ba lãnh tụ
Phật giáo tới phi trường Tân Sơn Nhất lúc 13G15, và tạm trú tại chùa Xá Lợi.
(79) Phó TT Thơ viết thư yêu cầu hai bên họp ngay lúc 18G00 hôm đó để giải
quyết mau chóng các đòi hỏi của Phật giáo. Phe Phật giáo muốn trì hoãn ít ngày
để bàn bạc với các đại diện miền Nam, nên nêu lý do Tịnh Khiết còn yếu sau 5
ngày tuyệt thực, cần tĩnh dưỡng ít lâu. Thơ lại đề nghị gặp nhau hôm sau, giờ
và địa điểm do Phật giáo chọn. Cuối cùng, Phật giáo đề nghị họp ngày 14/6, với
điều kiện chính phủ phải nhân nhượng toàn bộ 5 đòi hỏi ngày 10/5/1963.( 80)
Ngày 14/6, phái đoàn Phật Giáo do Thiện Minh làm
Trưởng đoàn–gồm Thiện Hoa, Tâm Châu, Huyền Quang (Thư ký), và Ðại đức Ðức
Nghiệp (Phó Thư ký)–bắt đầu họp với UBLB. Do áp lực của Trueheart, ngay sáng
hôm đó, chính phủ nhượng bộ đòi hỏi thứ nhất: đồng ý cho Phật tử treo cờ Phật
Giáo. Trong phiên họp chiều, đồng ý sửa lại Sắc luật số 10 của Bảo Ðại. Ðể
chứng tỏ thiện chí, Tịnh Khiết kêu gọi Phật tử tạm ngưng biểu tình.( 81)
Hôm sau, khoảng 18G30, thương thuyết hoàn tất.
Ngày Chủ Nhật, 16/6, hai bên ra thông cáo chung với những điều khoản sau: Tạm
ngưng áp dụng Dụ số 10; cứu xét lại những khiếu nại của Phật Giáo; xác nhận tự
do tôn giáo; sẽ “trợ cấp” (không phải “bồi thường”) cho gia đình nạn nhân ở
Huế. Tịnh Khiết và Diệm cùng ký vào bản Tuyên Cáo trong Dinh Gia Long–nhưng
Diệm không ký ngang chỗ “Khán” của Tịnh Khiết mà ghi vào góc trên của bản Thông
cáo chung như sau: “Những đều được ghi trong thông cáo nầy thì đã được tôi chấp
nhận nguyên tắc ngay từ đầu; Ngô Ðình Diệm.” (82)
Trong khi thương thuyết đang diễn ra, Phật tử và
một số lãnh tụ Phật giáo thiên về bạo động hơn. Ngày 13/6, Phật tử khắp nơi
treo cờ Phật Giáo, chống lại lệnh cấm của Diệm (thực ra Diệm đã bí mật đồng ý).
Buổi lễ cầu siêu cho Quảng Ðức ngày 16/6 tại chùa Xá Lợi qui tụ hàng chục vạn
người. Hơn 500,000 thanh niên, hoc sinh và Phật tử xuống đường biểu tình. Xô
xát Cảnh Sát kéo dài 45 phút trước chùa Xá Lợi.( 83) Buổi tối, Thiết Giáp phải
đến tăng cường cho Cảnh Sát. Một thiếu niên 15 tuổi bị tử thương vì trúng đạn ở
đầu. 3 tăng và 2 Phật tử bị thương. Hàng ngàn người bị bắt giữ.( 84) Ba ngày
sau, 19/6, nhờ Cảnh Sát, Công An nỗ lực ngăn chặn Phật tử tham dự, lễ hỏa táng
Quảng Ðức bớt hỗn loạn hơn.
IV. GIAI ÐOẠN “HƯU CHIẾN,”
19/6-20/8/1963:
Thông cáo chung ngày 16/6/1963 là cơ hội tốt
nhất cho chính phủ Diệm giải quyết cuộc khủng hoảng Phật Giáo. Nhưng vì những
nguyên do thầm kín, họ Ngô quyết định không tôn trọng những điều đã cam kết.
Phật Giáo chẳng phải không đề phòng. Lãnh đạo Phật Giáo chỉ tạm thời “ngưng
chiến” trong vòng 2 tuần lễ, chờ đợi thành tâm của chính phủ.
A. NỖ LỰC PHÁ HOẠI THÔNG CÁO CHUNG
16/6/1963:
Có dấu hiệu cho thấy vợ chồng Nhu-Lệ Xuân muốn
phá hoại việc thực hiện thông cáo chung với Phật giáo. Một mặt, Nhu vận động
các hội Phật giáo độc lập chống lại cuộc tranh đấu. Ngày 20/6, Phật Giáo Cổ Sơn
Môn –mới thành lập tại chùa Giác Lâm, Chợ Lớn; do Huệ Tâm, Hoà thượng trụ trì
chùa Trung Nghĩa, Sa Ðéc, thủ lĩnh Lục Hòa Tăng làm Tăng thống–tuyên bố ủng hộ
chính sách tôn giáo của chính phủ, và đứng ngoài chính trị.( 85) Nhu còn cho
lệnh cắt bỏ đoạn phim thời sự về cuộc thương thuyết giữa chính phủ và Phật
giáo.
Mặt khác, Nhu sai các tỉnh tổ chức mít-tinh lên
án phong trào tranh đấu của Phật giáo và phong tỏa các chùa chiền. Ðoàn viên
Thanh Niên Cộng Hoà [TNCH] mặc đồng phục xanh dương đậm đi lấy chữ ký để ra
thỉnh nguyện thư phản đối bản thông cáo chung 16/6/1963, và chuẩn bị biểu tình
đòi xét lại thông cáo chung này. Bản thông cáo số 3 của TNCH đệ trình lên “Tổng
thủ lãnh” Nhu đề ngày 25/6/1963 gồm nhiều lời đả kích Phật giáo nặng nề như “dị
đoan cuồng tín,” “phản loạn, tay sai của kẻ thù chung,” v.. v... Ðồng thời, lên
án Tuyên cáo chung 16/6/1963 là “không phù hợp với lý tưởng của TNCH, co đặt
những đặc quyền và độc quyền cho một nhóm, có những chủ trương trái với luật lệ
hành chánh.”( 86) Trước sự phản kháng của Phật giáo, ngày 1/7/1963, TNCH lại ra
Tuyên cáo số 4, ám chỉ lãnh tụ Phật giáo tranh đấu liên hệ với bọn phản loạn và
phản quốc, trong khi đích thân Tổng thủ lãnh “cảnh giác để không cho phép bọn
đầu cơ chính trị và Cộng Sản lợi dụng Thông cáo chung [16/6] đó hầu làm sai
lệch nó ra ngoài phạm vi tôn giáo.”( 87)
Lệ Xuân thì cho PTPNLÐ họp tại trụ sở trung ương
ngày 16/6, dùng loa phóng thanh công bố Quyết nghị ngày 7/6. Rồi ra một Bạch
thư [Sách trắng], do vợ chồng Gene và Ann Gregory, chủ nhiệm báo Times of
Vietnam soạn thảo, đăng trên chính tờ Times of Vietnam số ra ngày 17/6, miệt
thị cuộc tranh đấu của Phật giáo, tố cáo cuộc tranh đấu không vì lý do tôn giáo
mà chỉ vì lý do chính trị.( 88) Rồi đến kế hoạch ăn mừng lớn suốt ba ngày, từ
25 tới 27 tháng 6/1963, để kỷ niệm 25 năm Thục được phong chức Giám mục (Lễ
Ngân Khánh = Tea Deum).( 89)
Có lẽ anh em họ Ngô muốn sử dụng ngày lễ này để
vận động sự ủng hộ của khối giáo dân Ki-tô chống lại Phật Giáo. Bởi thế, ngày
16/6, Tổng Giám Mục Paul [Nguyễn Văn] Bình chỉ thị các họ đạo phải giữ tôn giáo
biệt lập với chính quyền. “Một giáo dân
Ki-tô tốt, và đạo hạnh, là công dân thượng hạng, ràng buộc với tổ quốc, trung
thành với chế độ cầm quyền, bất kể sự chính thống của chính quyền ấy.” Ðó
là lời giải thích của Pie XI, trong Sắc Dụ ngày 31/12/1929.”( 90) Hệ thống
tuyên truyền của chế độ cũng tìm đủ cách hạ giá trị các lãnh tụ và mục tiêu
tranh đấu của Phật tử. Cán bộ chính phủ loan tin Cộng Sản đã nhúng tay vào máu
khi ném lựu đạn vào đám đông đêm 8/5/1963. Khi những cuộc giải phẫu tử thi
không tìm thấy mảnh lựu đạn, câu chuyện biến thành mìn từ lực Cộng Sản. Ít năm
sau, lại mọc ra chi tiết một Ðại úy Mỹ đã chết từng tự nhận đặt chất nổ.
Thượng tọa Trí Quang, linh hồn của cuộc tranh
đấu miền Trung, bị cáo buộc là cán bộ Cộng Sản cao cấp, từng bị Pháp bắt giữ,
âm mưu lật đổ chính quyền từ năm 1960. Hòa thượng Tịnh Khiết, theo những lời
tuyên truyền này, không biết quốc ngữ, chỉ ký vào những gì các sư trẻ, quá
khích bắt buộc phải ký. Cuộc tự thiêu của Quảng Ðức không tự nguyện, mà là một
hình tội sát nhân. Quảng Ðức, theo lập luận này, đã bị chích thuốc trước khi
“sát nhân” đổ dầu và châm lửa đốt cháy. Diệm và Nhu còn đe sẽ truy tố những
người đã trợ giúp thượng tọa hóa thân ra tòa.
Lệ Xuân thì khẳng định rằng cuộc tự thiêu của
Quảng Ðức chỉ là một màn “nướng thịt sư” [barbecue of a bonze] với xăng nhập
cảng. Bác sĩ riêng của Diệm mật báo với Nolting rằng Quảng Ðức bị một số sư trẻ
thuyết phục nên tự thiêu; vì ít năm trước, Quảng Ðức từng hứa với một người bạn
là sẽ “đồng tử,” và nay người bạn đó đã chết, Quảng Ðức cần giữ lời thề. Nói
cách khác, Quảng Ðức không thích chính trị, và không tự thiêu để chống chính
phủ.( 91) Trong khi đó, tại vài địa phương, viên chức thông tin loan tin chống
Phật Giáo, chùa chiền bị phong tỏa, sinh viên, học sinh và thanh niên Phật tử
liên tục bị gây khó khăn, và bắt giữ. Ðiều khiến các lãnh tụ tranh đấu bất mãn
nhất là tổ chức Cổ Sơn Môn công khai tố cáo phe tranh đấu có ý đồ làm chính
trị. Ngày 26/6, Tịnh Khiết phải than với Diệm rằng “tình thế không những không
thay đổi mà còn trầm trọng hơn.”( 92) Ngày 1/7, Hoàng Văn Giàu, Trưởng đoàn
Thanh Niên Phật Tử, gay gắt lên án thái độ của chính phủ và kêu gọi Phật tử
quyết tâm tranh đấu. (93)
B. NỖ LỰC HÒA GIẢI CỦA MỸ:
Kennedy và các cố vấn cực kỳ bối rối. Trong một
phiên họp Hội Ðồng An Ninh Quốc Gia [ANQG], Kennedy đặt câu hỏi phải chăng
Quảng Ðức đã bị “thuốc” [drugged], nhưng các cố vấn khẳng định đức tin đã quá
đủ cho những hy sinh tương tự. Dù là một giáo dân Ki-tô, ủng hộ Diệm từ thập
niên 1950, Kennedy chỉ thị toà Ðại sứ Sài Gòn phải áp lực bắt Diệm đáp ứng ngay
đòi hỏi của Phật giáo. Ngày 14/6 [11 giờ sáng 15/6/1963 VN], Rusk chỉ thị
Trueheart cứu xét việc đưa Phó Tổng thống Thơ lên thay Diệm trong trường hợp
bất trắc, và Trueheart phải tiếp xúc Thơ cùng những người không ủng hộ Diệm.(
94) Nhưng hai ngày sau, Trueheart trả lời là không tiện bàn với Thơ, vì tình
hình đã sáng sủa hơn–Phật giáo và UBLB đạt được thông cáo chung. Trueheart chỉ
hứa sẽ thuyết phục Diệm hoà hoãn với Phật giáo, và nếu Diệm không chịu thực thi
thông cáo chung, sẽ xúc tiến tìm “một giải pháp khác Diệm.”( 95)
Ngày 18/6, Trueheart bảo Thơ rằng chỉ nên coi
những thỏa thuận như bước khởi đầu mà chưa phải hồi kết của cuộc khủng hoảng.
Diệm cần thực hiện những điều đã thỏa thuận. Sáng đó, khi gặp Thuần, Trueheart
cũng nói tương tự, với lời lẽ cứng rắn hơn. Trueheart đặc biệt nhắc Thuần về
luận điệu của tờ Times of Vietnam ngày 17/6 về tuyên cáo chung, và hành vi khiêu
khích của PTPNLÐ.( 96)
Tối 19/6 [8G28 ngày 20/6/1963 tại VN], Roger
Hilsman chỉ thị cho Trueheart nên lưu ý các viên chức Việt là đừng nên đồng hoá
một cá nhân với chế độ. Thí dụ như lời tuyên bố “Phật giáo có thể tin cậy nơi
Hiến pháp, nghĩa là tôi” của Diệm tạo nên những cảm tưởng xấu ở Mỹ. Viên chức
Việt cũng cần tiếp xúc thường xuyên với các lãnh tụ Phật giáo và đối xử đồng
đẳng với họ. Ðặc biệt, thỏa ước 16/6/1963 phải được tôn trọng và nhanh chóng
thực hiện để giảm thiểu sự nghi ngờ của Phật tử.( 97)
Dư luận thế giới cũng đã chú ý hơn đến cuộc
tranh đấu của Phật giáo. Ngày 14/6, Norodom Sihanouk viết thư cho Kennedy, phản
đối việc đàn áp Phật giáo tại miền Nam VN. Sihanouk cũng gửi cho TTK/LHQ U
Thant, Thủ tướng Bri-tên McMillan, TT Pháp de Gaulle và TT India,
Radhakrishnan, thông điệp tương tự. Sihanouk còn trao cho Ðại biện VNCH tại Phnom Penh một công hàm về
vụ tàn sát Phật tử ở Huế.( 98)
Hôm sau, 15/6, lần đầu tiên tin Phật Giáo Việt
Nam được lên trang nhất báo The New York Times [Nữu Ước Thời Báo], tờ báo uy
tín của giới trung lưu Mỹ. Max Frankel, tác giả, cho rằng nhân viên ngoại giao
Mỹ đã nói thẳng với Diệm bằng giọng điệu gay gắt rằng VN phải thỏa mãn các đòi
hỏi của Phật Giáo, bằng không Mỹ sẽ tuyên bố không yểm trợ chính sách Phật Giáo
của Diệm.( 99) Thông báo cho Trueheart tin này, BNG chỉ thị Trueheart nói với
Diệm rằng chính phủ Mỹ vẫn yểm trợ Diệm; tạm thời không đề cập đến bài báo trên
NYT. Hầu hết báo lớn và các lãnh tụ Mỹ đều chỉ trích chế độ Diệm.
Ngày 18/6, Thủ tướng Ceylon
là Bandaranaike cũng gửi thư cho Kennedy, yêu cầu hòa giải để Phật tử, vốn
chiếm đa số tại Việt Nam ,
được quyền tự do tín ngưỡng. Mười ngày sau, 28/6, đại biểu Cambodia, Ceylon và
Nepal tại LHQ gặp đại biểu Mỹ để bày tỏ quan tâm về tình hình Phật giáo Việt Nam.(
100) Ðáng lưu ý là trong hai tháng đầu đấu tranh của Phật Giáo–mặc dù chính phủ
Ngô Ðình Diệm không ngớt vu cáo cuộc tranh đấu do Cộng Sản xúi dục, và sau này
Nguyễn Hữu Thọ đánh gía nó như “món quà từ trên trời rơi xuống”–cả Hà Nội lẫn
MT/GPMN đều chưa bày tỏ một thái độ rõ ràng nào ngoài những phản kháng chung
chung của Võ Nguyên Giáp hay Hà Văn Lâu gửi Ủy Ban Quốc Tế Kiểm soát Ðình
chiến, hay Tuyên cáo của MTGPMN về việc vi phạm Hiệp định “Giơ neo vơ.”( 101)
Mãi tới ngày 15/7 mới có tin tình báo là MTDTGPMN
kêu gọi binh sĩ và cảnh sát ủng hộ cuộc tranh đấu của Phật Giáo. (102) Cũng từ
ngày này, có dấu hiệu cán bộ nằm vùng CS xâm nhập vào các cuộc tranh đấu, lôi
kéo thanh thiếu niên nam nữ. (103) Các cơ quan tuyên truyền của Ðảng Lao Ðộng
Việt Nam
mở nhiều chiến dịch khai thác cuộc tranh đấu:
- Mít tinh, tuyên cáo đả kích Mỹ-Diệm và ủng
hộ cuộc tranh đấu của Phật Giáo trước dư luận quốc nội cũng như quốc tế.
- Xâm nhập cán bộ vào các đô thị và phong
trào tranh đấu
- Gia tăng hoạt động quân sự, đánh phá các
đồn bót và Ấp chiến lược.
- Khoét sâu sự khác biệt giữa chính quyền
miền Nam
và Phật Giáo.
Vì vậy, có lúc an ninh Mỹ phải đặt câu hỏi thực
chăng CS đã bỏ vùng thôn quê, dồn vào mặt trận tỉnh thị.
C. THAY ÐỔI ÐẠI SỨ MỸ:
Giữa thời gian này, Oat-shinh-tân gửi công hàm
hỏi ý kiến Diệm về việc thay Ðại sứ ở Sài Gòn. Ngày 20/6/1963, BNG Mỹ chỉ thị
cho Trueheart xin gặp Diệm để xin ý kiến về việc cử Henry Cabot Lodge thay
Nolting.( 104)
Sau khi tiếp Trueheart khoảng 1 tiếng đồng hồ
chiều ngày 22/6, ba ngày sau, 25/6, Diệm sai Thuần cho Truheart biết Diệm rất
bất mãn. Diệm cho rằng Mỹ đang thay đổi chính sách và nỗ lực bắt Diệm phải làm
theo Mỹ hay sẽ bị loại bỏ [Diem thought a new American policy was involved and
an effort to force him to do our bidding or to unseat him]. Diệm cũng nhắn đến
tai Lodge rằng “họ có thể gửi 10 Lodge tới đây, nhưng tôi không để cá nhân tôi
hay đất nước này bị hạ nhục, kể cả việc họ huấn luyện pháo binh bắn vào dinh
thự này [they can send ten Lodges, but I will not permit myself or my country
to be humiliated, not if they train their artillery on this Palace].( 105) Theo
Thuần, Diệm sẽ trở nên cứng đầu hơn. Truheart bảo thẳng Thuần rằng cách tốt
nhất để tránh đương đầu với Mỹ là chính phủ Diệm nên bắt đầu thay đổi cách làm
việc.( 106)
Ngày 26/6, Thứ trưởng Ngoại giao George W. Ball
chỉ thị cho Trueheart gặp Diệm, giải thích rằng chính sách của Mỹ không thay
đổi; đó là yểm trợ chính phủ chống Cộng miền Nam . Riêng việc bổ nhiệm Lodge đã
được quyết định từ tháng 4/1963, trước khi xảy ra cuộc khủng hoảng Phật giáo,
vì Nolting đã ở Việt Nam
hai năm. Mục đích của Mỹ là cảnh giác Diệm về những hiểm họa có thể tránh,
không để làm suy yếu Diệm. Nhưng quyết định và hành động là trách nhiệm của
riêng Diệm.( 107) Hôm sau, Diệm tiếp Trueheart khoảng 2 tiếng rưỡi đồng hồ,
tuyên bố sẽ thực hiện việc dân chủ hóa từ nông thôn lên, nhưng không muốn vợ
chồng Nhu bị tách xa cá nhân mình.( 108) Thuần cũng thông báo với Trueheart là
Chính phủ Việt Nam sẽ ra chỉ thị cho các tỉnh thi hành nghiêm chỉnh bản tuyên
cáo chung 16/6/1963. Cá nhân Diệm có thể sẽ ra Huế để nghiên cứu và giải quyết
mọi sự; Diệm cũng sẽ đọc diễn văn về việc thực thi tuyên cáo chung.
Nhưng ngày 27/6, Bộ trưởng Nội Vụ Lương lại
tuyên bố với một nhân viên CIA rằng Cộng sản đã xâm nhập phong trào tranh đấu
của Phật giáo, và trong vài ngày tới, sẽ ra thông cáo về việc những người bị
bắt giữ. (109) Lời cáo buộc của Lương báo hiệu chính sách mới của họ Ngô với
Phật giáo. Rất có thể chính sách này được thảo luận kỹ càng hơn trong dịp anh
em họ Ngô về Huế dự lễ kỷ niệm 25 năm ngày thụ phong Giám mục của Thục, trong
các cuộc họp mật vào cuối tháng 6/1963.( 110)
Tại Mỹ, Kennedy và các cố vấn theo dõi những
biến chuyển ở Sài Gòn với mắt nhìn bi quan. Phản ứng tại nội địa Mỹ cũng chẳng
có gì đáng lạc quan. Ngày 27/6, báo New York Times đăng bài cậy đăng nguyên một
trang của 12 lãnh tụ Tin lành Mỹ, kể cả Reinhold Niebuhr và James Pike, yêu cầu
Mỹ triệt thoái khỏi Việt Nam. Bài cậy đăng trên có cả hình Quảng Ðức tự thiêu
của Browne. Chỉ còn vài ký giả ủng hộ Diệm trên những tờ báo mà Giáo Hội Ki-tô
Mỹ có ảnh hưởng.
Quyết định bổ nhiệm Lodge cũng tạo nên những tia
lửa điện trong chính giới và hàng ngũ Tướng tá Việt Nam . Lodge, một lãnh tụ đảng Cộng
Hoà từng đứng phó trong liên danh Richard M. Nixon năm 1960, nổi danh là “vua
đảo chính” (đặc biệt là việc đảo chính Lý Thừa Vãn ở Nam Hàn). Bởi thế, các mưu
toan đảo chính Diệm bắt đầu rộn rịp tại Sài Gòn. Tin đồn đảo chính loan truyền
rộng rãi. Cuối tháng 6/1963, cơ quan CIA đã thiết lập được danh sách các nhóm có
ý làm đảo chính. Ðáng kể nhất có nhóm “Bác sĩ” Trần Kim Tuyến. Tuyến mới mất
chức Giám đốc Mật Vụ, và đang chờ đi ngoại quốc. Quanh Tuyến có một số nhân
viên Bộ Công Dân Vụ của Paul Hiếu, Tổng Nha Thông Tin, Mật Vụ, và một số sĩ
quan trẻ. Nhóm khác do Huỳnh Văn Lang và Trung tá [Albert] Phạm Ngọc Thảo,
Thanh tra Ấp Chiến Lược, chủ trương. Nhóm này gồm hầu hết cựu đảng viên của hệ
Cần Lao “Liên kỳ Nam-Bắc Việt” do Lang thiết lập tại miền Nam, kể cả Thiếu
tướng Trần Thiện Khiêm, Tham Mưu trưởng Liên quân.
Từ ngày 30/5, đã có tin đồn Tuyến và Albert Thảo
mưu làm đảo chính. (Tuyến bị thất sủng; sau đó bị gửi qua Morocco [Ma Rốc] và Cộng Hòa Arab,
nhưng hai xứ này không nhận). Hai nhóm Tuyến và Thảo, phần đông là Ki-tô giáo,
không muốn thấy “thiên mệnh Mỹ” rơi vào tay Phật giáo. (Theo tình báo Mỹ, Tuyến
được sự yểm trợ của Tổng Giám Mục Nguyễn Văn Bình, Hoà thượng Thích Tâm Châu,
Thích Thiện Minh, Trung Tướng Dương Văn “Big” Minh và Thiếu tướng Tôn Thất
Ðính. Lãnh tụ của nhóm Tuyến có lẽ là Nguyễn Ngọc Thơ). Nhưng mạnh nhất, và
được Mỹ tin cậy nhất, là nhóm do Trung Tướng [André] Trần Văn Ðôn, Quyền Tổng
Tham Mưu Trưởng, đại diện. Từ tháng 6/1963, André Ðôn và em rể là Lê Văn Kim đã
xin Nolting cho làm đảo chính, nhưng bị Nolting nghiêm khắc trách mắng: "Ðừng
cho tôi mấy thứ làm loạn và yểm trợ nổi loạn. Tại sao mấy ông không lo làm trọn
nhiệm vụ của các quân nhân? Nước Mỹ không dính líu vào vấn đề đảo chính.(
111)"
Ngày 8/7, André Ðôn nói với một nhân viên CIA là
nhóm mình được đa số cấp chỉ huy ủng hộ, ngoại trừ Thiếu tướng Huỳnh Văn Cao,
Tư lệnh QÐ IV, và Tôn Thất Ðính, Tư lệnh QÐ III.( 112)
Đại sứ Cabot Lodge và ông Diệm - Tướng Dương Văn Minh - Bác sĩ Trần Kim Tuyến
Nhưng khuôn mặt mà chế độ gờm sợ nhất vẫn là
Trung Tướng Dương Văn Minh (1916-2001). “Big” Minh, một thời được ca tụng như
“Anh hùng Rừng Sác,” đang là một Tướng không có quân, vô quyền lực với chức vụ
Cố Vấn Quân Sự Phủ Tổng Thống từ ngày 8/12/1962. Không ai rõ tại sao Tướng Minh
bỗng dưng bị thất sủng. Người nêu lý do Minh đã dấu đi một phuy vàng tịch thu
được trong chiến dịch truy lùng Bình Xuyên. Người suy diễn rằng Diệm không tin
Minh, một Tướng ngoại đạo, do Pháp đào tạo, lại có em trai theo Việt Minh. Thêm
vào đó, một số quan Tướng Mỹ, kể cả Lansdale ,
không ưa “Big” Minh. Ngày 27/12/1961, chẳng hạn, Lansdale phản đối việc cử
“Big” Minh nắm giữ quân đội vì, theo Lansdale, Minh từng công khai nói về ý
định đảo chính Diệm.( 113) Theo Phó Tổng thống Nguyễn Ngọc Thơ, cá nhân ông ta
và Big Minh bị Ngô Ðình Nhu dèm xiểm với Tổng thống Diệm là thành phần “chủ
bại,” nên bị nghi ngờ và thất sủng từ năm 1959.
Cách nào đi nữa, “Big” Minh từng mưu định ám sát
Nhu, nhưng phải bỏ dở. Trong số đồng minh “tự nhiên” của “Big” Minh có Mai Hữu
Xuân, Lê Văn Kim, các sĩ quan gốc miền Nam và một số đảng viên Ðại Việt thời cơ
như Ðặng Văn Sung và Bùi Diễm.
D. ÐỢT TRANH ÐẤU THỨ HAI CỦA PHẬT GIÁO:
Phần Phật giáo vẫn chuẩn bị tiếp tục tranh đấu,
nếu cần. Ngày 26/6, Thiện Minh viết thư phản đối với UBLB về việc thành lập
Phật Giáo Cổ Sơn Môn. Không hài lòng với thư trả lời ngày 28/6 của UBLB, nhóm
tranh đấu quyết định xuống đường. Ngày 30/6, hàng ngàn tăng ni Sài Gòn bắt đầu
tuyệt thực. Qua đầu tháng 7/1963, sinh viên, học sinh Sài Gòn biểu tình trước
Quốc hội để yểm trợ cuộc tuyệt thực của các tăng ni.
Ngày 1/7, tờ Times of Vietnam cho đăng trên
trang nhất bản tin tựa đề: “Băng keo Scotch bí ẩn và Ðoạn kết chứng hoang tưởng
đã ló dạng” [Mysterious Scotch Tape and End to Schizophrenia In Sight]. Bài này
hàm ý có sự chia rẽ giữa Nhu và Thơ-Thuần, cáo buộc Quảng Ðức đã bị “thuốc”
trước khi tự thiêu, và đưa ra nhận định thời gian hưu chiến hai tuần đã qua,
nhưng Sài Gòn vẫn yên tĩnh; ngoại trừ có một biến cố đặc biệt nào, thí dụ như
một cuộc tự thiêu khác, có thể kết luận rằng những đòi hỏi của Phật giáo đã
được thỏa mãn.”( 114) Hai ngày sau, 3/7, Phó TT Thơ tuyên bố là, theo sự điều
tra của chính phủ, chính “Việt Cộng” đã gây nên cuộc thảm sát đẫm máu ở Huế.
(Vì việc này, ngày 10/12/1963, Thơ đã bị chất vấn gay gắt trong một buổi họp
báo ở Sài Gòn sau ngày đảo chính Diệm)
Tại Mỹ, từ ngày Thứ Hai, 1/7, Michael Forrestal
đã yêu cầu cho Nolting trở lại Việt Nam vì Phật giáo có thể biểu tình trở lại
sau thời gian “hưu chiến.” Tối 1/7 đó, Ball chuyển chỉ thị của Hilsman và
Nolting cho Trueheart là phải gặp Diệm ngay, bảo thẳng Diệm rằng dư luận Mỹ
nghĩ rằng người thân của Diệm đang cố tình phá hoại sự thỏa thuận với Phật
giáo. Ðúng hay sai, dư luận Mỹ cũng cho rằng đang có bách hại tôn giáo ở miền Nam . Khi gặp
Thuần, Trueheart yêu cầu Thuần đọc bài viết trên Times of Vietnam, và đề nghị
Mỹ muốn Lệ Xuân đừng nên tuyên bố gì hết; bài báo trên Times of Vietnam hàm ý
thách thức Phật giáo tiếp tục tự thiêu. Rồi thêm chẳng lẽ Diệm không hiểu rằng
chỉ cần một vụ tự thiêu nữa là chính phủ Mỹ sẽ tuyên bố không dính líu gì đến
chính sách tôn giáo của Diệm? Thuần trả lời rằng Diệm không biết điều đó, và đề
nghị Trueheart nên nói thẳng với Diệm.( 115)
Trueheart xin chỉ thị của Bộ Ngoại Giao và Ball
cho gặp Diệm, nói thẳng với Diệm; và nếu cần, gặp cả Nhu. (116) Buổi Diệm gặp
Trueheart chiều ngày 3/7 khiến liên hệ giữa hai bên thêm căng thẳng. Khi
Trueheart đề nghị Diệm đích thân gặp các lãnh tụ tôn giáo để giải quyết, Diệm
nói sẽ nghiên cứu lại. Khi Trueheart đề cập đến bài trên Times of Vietnam, Diệm
cũng chỉ nói sẽ nghiên cứu.( 117)
Hôm sau, Thuần cho Trueheart biết rằng có lẽ
Diệm không hành động gì về những đề nghị của Trueheart và yêu cầu Nolting trở
lại Sài-Gòn càng sớm càng tốt.( 118) Cũng trong ngày 4/7 này Lệ Xuân viết bài “Who Is Spokeman of Whom?” [Ai là phát
ngôn viên của ai?] trên Times of Vietnam , phủ nhận tờ Times of
Vietnam là cơ quan ngôn luận của mình. Nếu những bài trên Times of Vietnam có
trùng hợp ý kiến của Lệ Xuân, đó cũng không phải là quan điểm của chính phủ. Lệ
Xuân cũng khẳng định không đại diện cho chính phủ VNCH, và những kẻ xuyên tạc
có thể bị lợi dụng bởi Cộng Sản và tay sai [lackeys] của chúng. Bài này đã được
phát cho báo chí ngày hôm trước.( 119)
Trong phiên họp HÐ/ANQG từ 11G00-11G45 ngày 4/7
(khoảng nửa đêm ngày 4/7 tại Sài Gòn), ý kiến chung của các viên chức Mỹ là
Diệm không chịu xa Nhu. Hilsman, Phụ tá Ngoại trưởng Mỹ, thông báo cho Kennedy
biết sẽ có đảo chính trong vòng 4 tháng.( 120)
Hôm sau, 5/7, từ Greece về tới Oat-shinh-tân,
Nolting được mời tham dự phiên họp của HÐ/ANQG, rồi nhận lệnh trở lại Sài Gòn
càng sớm, càng tốt, với hy vọng cho Diệm cơ hội chót. Giữa lúc Nolting đang
trên đường về nhiệm sở, ngày Chủ Nhật, 7/7, tại đường Trương Minh Giảng, Công
an hành hung một nhóm ký giả ngoại quốc nổi danh chỉ trích chế độ như Browne,
Trưởng văn phòng hãng AP, Peter Arnett, gốc New Zealand, Sheehan, Halberstam,
v.. v..., khi họ đang quan sát và thu hình cuộc biểu tình của các tăng ni chùa
“Miên.”( 121)
Ngày 10/7, bản ước lượng tình báo đặc biệt [SNIE
53-2-63] của Hội đồng ANQG Mỹ dự đoán rằng nếu Diệm không thi hành nghiêm chỉnh
tuyên cáo chung 16/6, sẽ có đảo chính trong tương lai gần, với hơn 50% cơ hội
thành công.( 122)
E. NỖ LỰC VÔ VỌNG CỦA NOLTING:
Nolting vừa về tới Sài Gòn ngày 11/7 đã được
Diệm mời vào Dinh Gia Long, trình bày tình hình. Ðể trả lời câu tuyên bố của
Nolting với giới truyền thông khi vừa bước xuống phi trường–là mong muốn hai
bên tiếp tục nói chuyện để đạt thỏa thuận–Diệm nói kết quả thương thuyết tùy
thuộc vào phe tranh đấu.( 123) Vì nghi ngờ rằng Phật giáo bị Cộng Sản giật
giây, Nolting nỗ lực nối lại mối giao hảo giữa Toà Ðại sứ và Diệm. Ngày 15/7,
Nolting khuyên Diệm nên công bố một số nhân nhượng cần thiết với Phật giáo.
Diệm đồng ý, nhưng chưa có hành động nào. Theo Nolting, chính Diệm cũng đang
muốn tử vì đạo (124)
Nhưng cuộc diễn hành tới trước tư thất Ðại sứ
Nolting ngày 16/7, do Tâm Châu dẫn đầu, để phản đối việc chính phủ tiếp tục đàn
áp, bắt giữ tăng ni, Phật tử, và khẳng định Phật giáo không phải là Cộng sản
hay bị Cộng sản lợi dụng, khiến Diệm cứng rắn hơn.( 125) Hôm sau, 17/7, Trần
Văn Tư, Giám đốc Nha Cảnh sát Ðô thành, sai Cảnh sát đàn áp dữ dội cuộc biểu
tình bất bạo động ở Sài Gòn và chùa Giác Minh tại Chợ Lớn. Hàng chục xe chở
người bị bắt đến các trại tập trung vào An Dưỡng Ðịa Phú Lâm để sưu tra lý
lịch. Các chùa đều bị phong tỏa.
Sau khi Kennedy tuyên bố trong buổi họp báo ngày
17/7 tại Oat-shinh-tân là hy vọng cuộc tranh chấp tôn giáo sẽ được giải quyết
sớm, ít giờ sau [ngày 18/7 tại Việt Nam], Diệm tuyên bố trên đài thanh không hề
đàn áp Phật giáo, yêu cầu mọi người đoàn kết sau lưng chính phủ, rồi kết luận
bằng câu “Xin ơn trên ban phép lành cho chúng
ta.”
Hôm sau nữa, 19/7, Diệm cho phát lại bài diễn
văn truyền thanh vỏn vẹn 2 phút kể trên. Ngày này, Ủy Ban Liên Phái Tranh Ðấu
Bảo Vệ Phật Giáo tán thành lời kêu gọi của Diệm; và yêu cầu có những biện pháp
cụ thể để thực hiện Tuyên cáo chung 16/6/1963, như phóng thích những người bị
bắt giữ từ ngày 8/5, trừng phạt những người gây nên tội ác trong ngày 8/5, và
bồi thường thiệt hại cho các nạn nhân và gia đình. Hôm sau, 20/7, đích thân
Paul Hiếu và Trần Văn Tư tới Phú Lâm yêu cầu các tăng ni bị bắt giữ được trở
lại chùa Xá Lợi.( 126)
Ngày 22/7, Ủy Ban tranh đấu gửi điện văn thông
báo khắp nơi là cuộc đấu tranh đòi hỏi thực thi Thông cáo chung chưa chấm dứt:
Luân phiên cầu nguyện và tuyệt thực.( 127) Các lãnh tụ tranh đấu cũng tổ chức
họp báo tại chùa Xá Lợi, lên án chính phủ không giữ lời hứa.( 128) Ðiều đó, có
lẽ Nolting rõ hơn ai hết. Chiều ngày 16/7/1963, khi Nolting vào Dinh Gia Long
gặp Nhu, Nhu đã tuyên bố Phật giáo không có sự đe dọa nào đáng kể.
Nhưng các cố vấn của Kennedy nhìn sự việc một
cách khác. Ngày 23/7, Hilsman chỉ thị cho Nolting là Bộ Ngoại Giao dự trù sẽ
còn nhiều cuộc biểu tình của Phật giáo; những cuộc biểu tình này khích động thị
dân, và có thể sẽ có đảo chính trong vài tháng, nếu không phải vài tuần; và
những cuộc đảo chính ấy hy vọng thành công. Bởi thế, Nolting có thể ra tuyên
cáo tự cách biệt với chính sách của Diệm; khuyến khích việc kế vị hợp hiến (Thơ
lên thay); thuyết phục những người muốn đảo chính bỏ ý định; hoặc, tiếp tục chờ
đợi, hy vọng Diệm cải cách. Hiện tại, nên theo đuổi chính sách chờ đợi.( 129)
Nolting vẫn ra công bảo vệ Diệm. Theo Nolting,
Diệm là cơ hội tốt nhất của miền Nam.( 130) Ngày 28/7, Nolting còn tuyên bố với
hãng UPI là không hề có việc đàn áp Phật Giáo ở VNCH, vì Bộ trưởng Nội Vụ Lương
đã cho Nolting biết sẽ không dùng biện pháp mạnh để đàn áp; và dân chúng đã
chán ngán cảnh hỗn loạn. Diệm còn trực tiếp chỉ thị cho Ðại tá Nguyễn Văn Y,
Giám đốc Mật vụ, và Trần Văn Tư, Giám đốc Cảnh Sát Ðô thành, không được dùng võ
lực. Phó Tổng thống Thơ cũng nói đại diện Phật giáo đồng ý gặp Thơ trên căn bản
bán chính thức từ ngày 31/7/1963.
Nhu và Lệ Xuân tiếp tục sử dụng cán bộ Cần Lao
cùng các tổ chức ngoại vi như Thanh Niên Cộng Hoà, Thanh Nữ Cộng Hoà chống Phật
Giáo. Vì quá hăng say phục vụ lãnh tụ và để chuộc tội thua trận Tua Hai (Tây
Ninh) hơn ba năm trước, ngày Chủ Nhật 23/7, Trung Tá Trần Thanh Chiêu, Giám đốc
Nha Thanh Tra Dân Vệ, tụ tập khoảng 100 dân vệ, gia đình tử sĩ và thương phế
binh trước chùa Xá Lợi, yêu cầu “các thày trở lại việc tu hành, ngưng tiếp tục
gây rối loạn chỉ làm lợi cho Cộng Sản.”( 131)
Lỗ mãng nhất là Lệ
Xuân. Không những chỉ thị cho tờ Times of Viet Nam đả kích Phật giáo, mà còn
hàm ý thách thức các tăng ni tiếp tục tự thiêu.( 132) Ðể trả lời Lệ Xuân, ngày
23/7, Sư bà Diệu Huệ, mẹ Giáo sư Bửu Hội, họp báo tuyên bố sẵn sàng tự thiêu
cúng dường tam bảo. Tuy nhiên, cuối cùng Bửu Hội thuyết phục được mẹ mình ngưng
tự thiêu.( 133)
Ngày 1/8, Lệ Xuân
tuyên bố với phóng viên đài truyền hình Mỹ CBS rằng các lãnh tụ Phật giáo đang
âm mưu lật đổ chính phủ; và tất cả những gì Phật tử đã làm chỉ có mỗi việc
“nướng thịt một sư” [barbecue a bonze] với “săng nhập cảng” [imported gas]. Hai
ngày sau, 3/8, Lệ Xuân tuyên bố trước khoá sinh khoá III Phụ Nữ Bán Quân Sự
rằng những vụ tranh đấu chỉ có bề ngoài tôn giáo, nhưng mục đích là chính trị,
với thủ thuật Cộng Sản, cần phải bẻ gãy. Ðại sứ Trần Văn Chương, cha ruột Lệ
Xuân, phải công khai trách Lệ Xuân là “thiếu tư cách và hỗn láo” [impertinent
and disrespectful] trên đài Tiếng Nói Hoa Kỳ [VOA] vào ngày 6/8. Ngày 8/8, để
trả lời Ðại sứ Chương, Lệ Xuân tuyên bố dù có “thiếu lễ độ” cũng phải nói “sự
thực.” Lệ Xuân cũng biện hộ cho những lời tuyên bố trên đài CBS ngày 1/8; khẳng
định các lãnh tụ Phật giáo không đại diện cho Phật giáo hay dân tộc Việt Nam.
Hôm sau nữa, 9/8,
trong bài phỏng vấn của tuần báo Mỹ Newsweek, Lệ Xuân còn hung hăng hơn.( 134)
Ngoài ra, còn có tin em trai Lệ Xuân, Trần Văn Khiêm, lên thay Trần Kim Tuyến
làm Giám đốc Mật vụ, và Khiêm đã lập sẵn danh sách những người chống đối để
quăng lưới. Khiêm mang danh sách trên ra khoe với cả một ký giả Australia.(
135) Nhu cũng tiếp tay vợ trong chiến dịch đả kích Mỹ và Phật giáo. Trả lời câu
hỏi của Reuters ngày 3/8, Nhu tuyên bố chùa Xá Lợi đang trở thành một trung tâm
mưu lật đổ chính phủ, và nếu không giải quyết được vấn đề Phật giáo, sẽ có một
cuộc đảo chính chống Mỹ và Phật giáo.( 136) Ngày 7/8, Nhu nói với Nolting là
hoàn toàn ủng hộ chính sách của Diệm qua bản tuyên cáo ngày 18/7, nhưng Lệ Xuân
có quyền phát biểu ý kiến riêng của một công dân.
Ngày 8/8, nhật báo
New York Times đăng hai bài trên trang nhất về Việt Nam. Bài thứ nhất của
Halberstam, từ Sài Gòn, với tựa “Bà Nhu Tố Cáo Mỹ Bắt Chẹt ở Việt Nam” [Mrs.
Nhu Denounces U.S. for “Blackmail” in Vietnam]. Lệ Xuân, theo Halberstam, tuyên
bố rằng Diệm không có quần chúng ủng hộ, phải dựa vào vợ chồng Nhu. Bài thứ hai
của Tad Szulc ở Oat-shinh-tân, tiết lộ mối quan tâm ngày một gia tăng của chính
phủ Kennedy về việc chính phủ Diệm khó sống còn nếu không hòa hoãn với Phật
giáo. Tính sổ chung với những tuyên bố đòi rút số cố vấn Mỹ trong tháng 5/1963,
kế hoạch âm thầm ve vãn Cộng Sản Bắc Việt và sử dụng Pháp để giải tỏa áp lực
Mỹ, vợ chồng Nhu mới đích thực trở thành Persona Non Grata với Oat-shinh-tân.
Ðặt mình trước
nhiều hơn một lằn đạn–và nhất là đã bị thuyết phục rằng cuộc tranh đấu của Phật
giáo chẳng những không thuần túy tôn giáo mà chỉ là một âm mưu chính trị, nhằm
lật đổ chính phủ, do Cộng Sản xúi dục–mọi nỗ lực của Nolting ở Việt Nam hầu như
uổng phí. Ngày 30/7, Phật tử tổ chức linh đình giỗ thất tuần (49 ngày) Quảng
Ðức. Hôm sau, 31/7, Ủy Ban Tranh Ðấu Bảo Vệ Phật Giáo ra tuyên cáo phản đối lời
tuyên bố ngày 28/7 của Nolting; và hôm sau nữa, 1/8, Tâm Châu gửi thư trách cứ
Nolting, khẳng định “những vụ đàn áp là cực độ của cả một chuỗi lạm quyền, áp
bức giết chóc mà Phật tử phải gánh chịu trong nhiều năm, dưới nhiều hình thức,
do cấp thừa hành bên dưới của một nền hành chánh cố tình dung túng gây ra.”(
137)
Ngày 1/8, Tịnh
Khiết cũng gửi công điện cho Kennedy, phản đối lời tuyên bố của Nolting rằng
không có việc đàn áp Phật Giáo ở VNCH.( 138) Một Nhóm Người Yêu Nước thì ra
tuyên ngôn phản đối Nolting là không hiểu biết gì về tình cảnh Phật giáo tại
Việt Nam.
Ba ngày sau, 4/8,
Ðại Ðức Nguyên Hương (Huỳnh Văn Lễ) tự thiêu trước Dinh Tỉnh trưởng Phan Thiết,
và Phật tử xuống đường biểu tình đòi lại xác đã bị Cảnh Sát lấy đi. Ngày 12/8,
một nữ sinh chặt một bàn tay phản đối chính quyền và luận điệu hỗn hào của Lệ
Xuân đối với các tăng ni. Rồi, ngày 13/8, Ðại Ðức Thanh Tuệ cúng dường tam bảo
ở chùa Phước Duyên, Hương Trà, Thừa Thiên. Hai ngày sau, ni cô Diệu Quang tự
thiêu ở Ninh Hòa. Hôm sau nữa, 16/8/1963, Thượng tọa Tiêu Diêu tự thiêu tại
chùa Từ Ðàm, Huế.( 139)
Bẽ bàng hơn nữa là
anh em họ Ngô cũng bắt đầu coi thường Nolting. Khi Nolting cho Diệm xem bức
công điện khẳng định chính phủ Mỹ không thay đổi chính sách về Việt Nam, Diệm
nói: “Tôi tin ông, nhưng không tin nội dung bức điện ông nhận được.”( 140) Khi
Nolting đề nghị Diệm có biện pháp với Lệ Xuân–người mà theo Nolting đã vượt ngoài
sự kiểm soát của cha mẹ và anh chồng–Diệm chỉ hứa “sẽ cứu xét.”( 141)
Ngày 12/8, khi tiếp
kiến Nolting, Diệm cho rằng các tăng ni không thành thực, và thế giới không
biết đến việc các sư giả muốn lật đổ chế độ. Sau dạ tiệc đưa tiễn Nolting của
Diệm, ngày 13/8, Thơ họp báo, tuyên bố sẽ truy tố một số người tham dự biểu
tình ngày 8/5, và những người bị bắt sau ngày 16/6 có thể không được khoan
hồng. Trong phần hỏi đáp, Thơ so sánh trường hợp Lệ Xuân với những lời chỉ
trích chính phủ VNCH của Thượng Nghị Sĩ Mansfield. Buổi họp báo của Thơ khiến
Ngoại trưởng Rusk phải gửi điện tín cho Nolting, hỏi liệu Diệm có muốn đi nghỉ
mát chung với vợ chồng Nhu chăng? (142)
Sau nhiều lần xin ở
lại Sài Gòn nhưng bị từ chối, ngày 14/8, Nolting vào chào từ biệt Diệm. Gần lúc
chia tay Diệm mới hứa sẽ phủ nhận những lời lỗ mãng của Lệ Xuân. Những lời hứa
cho có. Ngày 15/8, tờ Times of Viet Nam ca ngợi Nolting như “người đầu tiên
xứng đáng với tước hiệu đại sứ.”( 143)
Do sự dàn xếp của
Nolting, báo New York Herald Tribune [Diễn Ðàn Tiền Phong New York] đăng bài
phỏng vấn Diệm của Marguerite Higgins. Higgins trích lời Diệm là chính phủ vẫn
theo đuổi chính sách ôn hoà với Phật giáo. Diệm và gia đình cũng rất vui lòng
về việc bổ nhiệm tân Ðại sứ Lodge.( 144) Thực ra, đây chỉ là món quà tiễn chân
Nolting, và để trấn an dư luận Mỹ, vì Diệm-Nhu đang có kế hoạch xuống tay mạnh
với Phật giáo.( 145)
Tại miền Trung,
việc bắt giữ, hành hung, ám sát Phật tử vẫn diễn ra hàng ngày. Tại Huế, sau
phiên họp giữa Thị trưởng Nguyễn Văn Hà và lãnh đạo Phật Giáo ngày 9/8, thái độ
chính quyền ngày một cứng rắn. Ngày 10/8, Thị trưởng Huế yêu cầu Thượng tọa
Thiện Minh tháo gỡ các biểu ngữ chống chính phủ theo tinh thần buổi gặp mặt
ngày 9/8/1963. (146) Phó Tỉnh trưởng Hồ Ứng Dần cũng yêu cầu Tỉnh hội Phật Giáo
Thừa Thiên chấm dứt việc phổ biến các tin tức và tài liệu bất hợp pháp. Ðồng
thời ra thông cáo cấm dân chúng tập trung đông đảo tại chùa Từ Ðàm và Diệu Ðế
vào những giờ phát thanh của Phật Giáo. (147)
Mờ sáng Thứ Ba,
13/8/1963, Ðại đức Thanh Tuệ tự thiêu tại chùa Phước Duyên. (148) Cuộc tự thiêu
này châm ngòi cho một đợt tranh đấu mới.
Ngày14/8, Hoà
thượng Tịnh Khiết gưỉ văn thư than phiền về việc di chuyển linh cữu Thanh Tuệ.
(149) Thượng tọa Mật Hiển cũng xin gặp Ðại biểu TNTP tường trình về trường hợp
Thanh Tuệ. Trong khi đó, một thợ mộc Phật tử phụ trách việc treo biểu ngữ và cờ
bị bắn chết. (150) Hôm sau, 15/8, khoảng 100 học sinh và sinh viên Huế biểu
tình từ chùa Từ Ðàm về Tòa Hành Chánh tỉnh. Cảnh sát trưởng quận Hữu ngạn chặn
đoàn biểu tình trước trường Ðồng Khánh, bị xô đẩy, mang thương tích cùng một
cảnh binh. Sau đó đoàn biểu tình kéo tới ngồi tại hoa viên trước tòa hành
chính. (151)
Cảnh sát đặt nút
chặn phong tỏa chùa Từ Ðàm. Buổi trưa, khoảng 300 Phật tử tụ họp trên đường
Trần Hưng Ðạo. Chính quyền thả chó đàn áp. Xô xát dữ dội. Một số bị bắt. Ðám
đông bị giải tán trong vòng nửa giờ. 50% nhà hàng, cửa tiệm đóng cửa. 70% sạp
vải Ðông Ba ngưng hoạt động. (152) Ngày này, Ni cô Diệu Quang–tục danh Ngô Thị
Thu (1936-1963), sinh tại Phù Cát, Thừa Thiên, tu tại ni viện Vạn Thạnh, Nha
Trang–tự thiêu tại chùa Ninh Hoà.( 153) Hôm sau nữa, 16/8, Ðại đức Tiêu
Diêu–tục danh Ðoàn Văn Mễ (1893-1963), cha của Ðoàn Văn An, giảng sư Ðại học
Huế; năm 1930 mới đi tu, học trò Tịnh Khiết–tự thiêu ở chùa Từ Ðàm. Chính quyền
ban hành lệnh thiết quân luật từ 6 giờ sáng, xe tăng án ngữ ở một số ngã tư,
kẽm gai kéo ra ngăn chặn. (154) Hội Phật Giáo tung tin quân đội đã cướp thi hài
Tiêu Diêu dấu đi. Anh ruột Tiêu Diêu là Bùi Câu minh xác đã đến tận nơi xin
lãnh thi hài về quê mai táng. (155)
Ngày Thứ Bảy, 17/8,
Thị trưởng Huế Nguyễn Văn Hà lại ra thông cáo: "Yêu cầu đồng bào tuyệt đối
tránh mọi lợi dụng tôn giáo để đả kích chính phủ, vi phạm luật pháp quốc gia và
làm trở ngại công cuộc bảo vệ an ninh trật tự công cộng."
Ðưa ra 4 điểm sẽ
thi hành:
Triệt để thi
hành thông cáo chung;
Phật tử được
hoàn toàn tự do đi chùa dự lễ tôn giáo;
Không hề chủ
trương bắt bớ Phật giáo đồ nếu các đồng bào đó không hành động gì phạm đến kỷ
luật quốc gia; trong trường hợp có sự bắt bớ trái phép yêu cầu cấp tốc can
thiệp với tòa [tỉnh] để giải quyết gấp;
Sẽ thiết lập
một Ủy Ban đặc biệt có nhiệm vụ tiếp xúc với đồng bào Phật Giáo để giải quyết
nhanh chóng những việc liên quan đến vấn đề thực thi thông cáo chung. (156)
Tuy nhiên thông cáo
trên không đủ ngăn chặn tăng ni, Phật tử tấp nập tới chùa Từ Ðàm bái viếng thi
hài Thích Tiêu Diêu. Buổi chiều, Tiểu khu Thừa Thiên mở cuộc họp báo trình bày
vụ Tiêu Diêu. Trong khi đó, Chủ Nhật, 18/8, Thích Minh Nhật, Tổng thư ký THPG
tại Sài Gòn, diễn thuyết tại chùa Diệu Ðế. Ðề tài: “Phật tử trong giai đoạn
hiện tại.” Khoảng 2000 người tham dự. Tại Sài Gòn, Phật tử cũng tụ họp đông đảo
ở chùa Xá Lợi vì có tin chính phủ sẽ ra tay tấn công. Trong khi đó, mười Tướng
lãnh và Tư lệnh đơn vị họp mật. Ðồng ý yêu cầu Diệm thiết quân luật, để bắt
buộc các tu sĩ trở lại chùa.
Thời gian này, sinh
viên Huế cũng bắt đầu xao động. Ngày 15/8, đại diện sinh viên Phật tử gặp Viện
trưởng Ðại học Huế là Cao Văn Luận, xin can thiệp trả tự do cho những người bị
bắt giữ. Mới xuất ngoại trở về, ghi nhận được những đổi thay của chính giới Mỹ,
Luận có phần thiện cảm với phe tranh đấu, nên hứa sẽ can thiệp.( 57) Nhưng ngay
chính Linh mục đang bị thất sủng. Ngày 16/8, trong khi chính quyền địa phương
ban hành lệnh thiết quân luật từ 6 giờ sáng, bố trí xe tăng án ngữ ở một số ngã
tư, kẽm gai kéo ra ngăn chặn dự định tự thiêu của Ðại đức Tiêu Diêu ở chùa Từ
Ðàm, Bộ trưởng Giáo Dục Nguyễn Quang Trình cùng Trần Hữu Thế, tân Viện trưởng
Ðại học Huế, tới cố đô để làm lễ bàn giao với Linh mục Luận vào ngày hôm sau.(
158)
Nhân cơ hội này,
sinh viên tranh đấu khai thác việc thay thế Viện trưởng Luận. Ngày 17/8, lễ bàn
giao chức Viện trưởng được đánh dấu bằng vụ từ chức tập thể của các Giáo sư Ðại
học Huế: Lê Khắc Quyến, Khoa trưởng Y khoa; Bùi Trần Huân, Luật khoa; Tôn Thất
Hanh, Khoa học; Nguyễn Văn Trường, ban Khoa học Sư phạm; Lê Tuyên. Thế phải bỏ
vào Sài-gòn báo cáo. Trong khi Luận lên đường vào Ðà Nẵng, các giáo sư lại ký
kiến nghị phản đối việc cách chức Luận (159)
Buổi chiều 17/8, Tiểu
khu Thừa Thiên mở cuộc họp báo trình bày vụ Tiêu Diêu. Lúc 16G00, ký giả ngoại
quốc kéo nhau rời phòng họp vì có tin khoảng 200 sinh viên Huế bắt đầu biểu
tình tới Tòa Ðại biểu TNTP đưa kiến nghị yêu cầu lưu giữ Viện trưởng Luận.
Nguyễn Xuân Khương và Bộ trưởng Trình ra nhận kiến nghị trước cổng Tòa Ðại
biểu. (160)
Chủ Nhật, 18/8, một
số Khoa trưởng, Giáo sư và khoảng 500 sinh viên hội thảo tại Ðại học Huế. Vận
động bãi khóa, bỏ thi cử, phản đối việc cách chức Cao Văn Luận, và thành lập
một Ban chấp hành Sinh viên mới, hầu mở rộng liên lạc với Tổng hội Sinh viên
Sài Gòn và Ðà Lạt. Họ đưa kiến nghị lên Tổng thống. (161)
Hôm sau, 19/8, sinh
viên Huế hủy bỏ một cuộc biểu tình vì sợ bị chụp mũ Cộng Sản (ngày kỷ niệm Cách
Mạng tháng 8/1945). Nhưng các giáo chức đệ đơn từ chức trong khi sinh viên yêu
cầu tân Viện trưởng Thế–đương kim Ðại sứ Philippines, mới được Ngô Ðình Thục đề
cử thay Linh mục Luận mà không hề thông báo cho Bộ Ngoại Giao–chuyển thỉnh
nguyện mời Cao Văn Luận trở lại. (162) Thứ Ba, 20/8, Viện trưởng Thế cho lệnh
những buổi hội họp trong khuôn viên trường phải xin phép trước. (163)
Giọt nước làm tràn
ly, và cũng là chiếc đinh đầu tiên đóng lên nắp quan tài VNCH, là cuộc tấn công
hầu hết các chùa chiền trên toàn quốc vào nửa đêm ngày 20, rạng ngày 21/8/1963.
Ðây là một tội ác vi phạm nhân quyền khác, nặng nề gấp trăm lần cách dùng đèn
cầy [nến] đốt hậu môn tù nhân mà có nhân chứng tiết lộ rằng Tri huyện Ngô Ðình
Diệm sính dùng để khảo cung nghi can ngày còn làm quan cho Pháp hơn 30 năm
trước. Cuộc tấn công này và những thủ thuật bưng bít, xuyên tạc của anh em ông
Diệm-Nhu trong những ngày kế tiếp–như ông Diệm cả quyết rằng chỉ lục soát vài
chục ngôi chùa lớn trong số 4,700 chùa khắp miền Nam–gỡ xuống chiếc mặt nạ “tiết trực tâm hư” của ông Diệm, và gột
sạch bất cứ thiện cảm nào còn sót lại với ông ta trong đám đông thầm lặng cũng
như viên chức Mỹ. Cho đến nay, vẫn còn người cố tình xuyên tạc về biến cố tấn
công các chùa chiền đêm 20 rạng 21/8. Bởi thế tưởng nên thuật lại tóm lược biến
cố trên.
IV. GIỌT
NƯỚC LÀM TRÀN LY:
Sau khi Nolting rời
Việt Nam, anh em Diệm-Nhu quyết chào đón tân Ðại sứ Lodge bằng vài món quà
ngoạn mục. Hai món quà lớn nhất là cuộc tổng tấn công các chùa trên toàn quốc
và công khai tiếp xúc với sứ giả Hà Nội. Nguyên cớ gần có lẽ là bức điện văn
mật ngày 16/8/1963 của Ðại sứ Trần Văn Chương: Theo Chương, dư luận thế giới và
đặc biệt là tại Mỹ tin rằng Diệm không thể mang lại chiến thắng Cộng Sản. Cuộc
khủng hoảng Phật Giáo vốn dĩ không phải là nguyên nhân, mà chỉ là hậu quả, một giọt
nước làm tràn ly. Bởi thế, Diệm phải ngưng tin dùng các cố vấn Nhu và Cẩn.(
164)
Ðúng ngày 16/8 này,
báo Life đăng lại lời Lệ Xuân tuyên bố là sẽ phá tan Phật giáo. Trong khi đó,
Hòa thượng Tịnh Khiết viết thư cho Diệm, cực lực phản kháng “sự ác độc của một
chế độ xem dân như cỏ rác,” và “mong được chết an hơn sống khổ.”( 165)
Ngày 17/8, Phật tử
tụ họp đông đảo ở chùa Xá Lợi. Hôm sau, hơn 10,000 Phật tử đến chùa Xá Lợi làm
lễ cầu siêu.
A. CUỘC
TỔNG CÀN QUÉT CHÙA CHIỀN:
Ý định tấn công các
chùa chiền và ban hành thiết quân luật từ nửa đêm ngày 20/8 không được giữ bí
mật hoàn toàn như người ta thường nghĩ. Bộ trưởng Nguyễn Ðình Thuần đã cho nhân
viên Tòa Ðại sứ Mỹ biết về Thiết quân luật trước nhiều giờ.( FRUS, 1961-1963,
III:595n2) Một ký giả Mỹ cũng tự nhận được “mật báo” từ một viên chức nào đó
tại Dinh Gia Long, nên đã tới chùa Xá Lợi trước khi xảy ra cuộc tấn công. Và,
thực ra, từ hơn nửa tháng trước, đích thân ông Nhu đã răn đe trong cuộc phỏng
vấn của hãng thông tấn Reuters là sẽ phá tan chùa Xá Lợi, nhưng khi bị Nolting
chất vấn đã qui trách cho ký giả Mỹ dẫn không đúng lời mình.
Từ ngày 7/8/1963,
Hòa thượng Tịnh Khiết cũng đã báo động với Tổng thống Diệm về “Kế hoạch Nước Lũ,” nhằm cô lập và phân
hoá các chùa, đồng thời đàn áp cuộc đấu tranh của Phật Giáo. (165bis) Ngày Chủ
Nhật 18/8, mười Tướng và Tư lệnh đơn vị–kể cả Huỳnh Văn Cao và Tôn Thất
Ðính–họp mật, rồi đồng ý yêu cầu Diệm thiết quân luật, để bắt buộc các tu sĩ
trở lại chùa.( 166) Hai ngày sau, 20/8, các Tướng trình dự thảo Thiết quân luật
lên Nhu và Diệm. Diệm chấp thuận, cho lệnh André Ðôn, mới được cử làm Quyền
Tổng Tham Mưu Trưởng thay Ðại tướng Lê Văn Tỵ, ký tên và công bố ngay nửa đêm
đó. Ðính được cử làm Tổng trấn. Tuy nhiên, Diệm không hề hé môi về kế hoạch
trên trong buổi họp chính phủ suốt chiều ngày 20/8.( 167)
Khoảng nửa giờ sau
khi Thiết Quân luật có hiệu lực, Nhu cho lệnh tấn công các chùa trên toàn quốc.
Tại chùa Xá Lợi Sài Gòn, nơi đặt bản doanh Ủy ban Tranh đấu Liên Phái, hai đại
đội thuộc Liên đoàn 31 Lực Lượng Ðặc Biệt [LLÐB], Ðại đội 16 Bảo An, và Cảnh
Sát mặc giả quân phục đánh chiếm mục tiêu. Hòa thượng Tịnh Khiết, Thượng tọa
Tâm Châu, cùng nhiều tăng sĩ bị bắt giam sau một giờ chống cự. Khoảng 30 tăng
sĩ bị thương, và 2 người bị mất tích. Ðích thân Ðại tá Lê Quang Tung, Chỉ huy
trưởng LLÐB, và Giám đốc Cảnh sát CA Ðô thành, Trần Văn Tư [tài liệu Pháp ghi
là Cò Túc?], chỉ huy, dưới sự điều động của Ðính. Do mật báo từ Dinh Ðộc Lập,
ký giả ngoại quốc biết trước tin này và có mặt tại chùa Xá Lợi để chứng kiến
cuộc “vét chùa”, và quyết tâm bảo vệ đạo pháp của các tăng ni. Các chùa Ấn
Quang, Chantareansay (Sài Gòn) đều bị chiếm. Các tăng trụ trì, Thiện Hoa và Lâm
Em, bị bắt .( 168) Ðồng thời, hai chùa Linh Mụ và Từ Ðàm (Huế), cùng các chùa ở
Ðà Nẵng, Nha Trang v.. v... đều bị chìm trong “nước lũ” bạo lực.
Tại Huế, khoảng 3
giờ đêm tiếng mõ, tiếng chuông, tiếng kêu cầu cứu vang lên khắp nơi. Ðồng bào
quanh chùa đánh mõ, gõ thùng thiếc báo nguy. Ðợt tấn công đầu, Cảnh sát bị đẩy
lui. Sau đó, Ðỗ Cao Trí cho lệnh nổ súng. Những giáo sư, sinh viên và học sinh
tranh đấu cũng bị bắt giữ.( 169) Tổng cộng khoảng 1,400 tăng sĩ, bị bắt trên
toàn quốc. Chỉ có hai sư từ chùa Xá Lợi thoát được tới Phái Bộ Kinh Tế [USOM]
gần đó xin tị nạn. Qua ngày 23/8, Trí Quang cũng trốn được vào Toà Ðại sứ Mỹ.(
170)
Tại Sài Gòn, Diệm
triệu tập Hội đồng chính phủ vào lúc 5G30 sáng. Diệm chỉ giải thích rằng phải
thiết quân luật theo điều 44 Hiến pháp vì Cộng Sản đã xâm nhập một số tỉnh lÿ,
quận lÿ gần thủ đô; nhưng tuyệt nhiên không đả động đến vụ tấn công chùa Xá
Lợi. Vì đã được một nhân viên báo tin cuộc tấn công chùa Xá Lợi, Ngoại trưởng
Mẫu phản đối. Phó Tổng thống Thơ cũng ngả theo Mẫu.( 171) Nửa giờ sau, đài phát
thanh bắt đầu loan đọc Tuyên cáo ban hành lệnh giới nghiêm trên toàn lãnh thổ,
hiệu lực từ ngày 21/8: “Chiếu điều 44 Hiến Pháp, kể từ ngày 21/8/1963, tôi
tuyên bố ban hành lệnh giới nghiêm trên toàn thể lãnh thổ Quốc Gia. Ủy nhiệm
cho QÐVNCH tận dụng mọi phương tiện và thi hành mọi biện pháp cần thiết bảo vệ
Quốc Gia chiến thắng Cộng Sản, xây dựng tự do, dân chủ”. “Số người đầu cơ chính
trị, lợi dụng tôn giáo, lợi dụng thái độ hòa giải tột bực của chính phủ liên
tiếp hành động bất hợp pháp để tạo nên một tình trạng rối loạn phá hoại chính
sách ấy và cản trở chủ trương dân chủ pháp trị, rất tổn thương cho uy tín Phật
Giáo, chỉ lợi cho Cộng Sản.” (HS 8501 & 8506) Quân đội VNCH từ nay “chịu
trách nhiệm hoàn toàn về an ninh công cộng, có quyền xét các tư gia bất cứ giờ
nào, bắt giữ những người xét ra có hại cho an ninh công cộng; cấm mọi cuộc hội họp,
tụ tập có thể phương hại cho an ninh trật tự công cộng; hạn chế tự do báo chí,
kiểm soát hệ thống phát thanh, kiểm soát phim ảnh kịch trường; cấm tàng trữ,
lưu hành những ấn loát phẩm, tài liệu, truyền đơn xét có hại cho an ninh công
cộng (điều 3); tất cả mọi vi phạm đến trật tự công cộng đều thuộc thẩm quyền
của Tòa án quân sự (điều 4). (Sắc lệnh này gồm 5 điều, công bố theo tình trạng
khẩn cấp. (172) Nhu cũng đọc diễn văn, yêu cầu Thanh Niên Cộng Hòa yểm trợ
chính phủ. (173)
Trong phiên họp
hàng tuần về Ấp Chiến Lược ngày Thứ Sáu, 23/8, Ngô Ðình Nhu dành nhiều thì giờ
giải thích về cuộc đấu tranh của Phật Giáo. Theo Nhu, tình trạng trầm trọng
trong nước từ hơn 3 tháng qua là “do một số Sư Sãi đã tiếm đoạt địa vị của Phật
Giáo và có những hành vi, ngôn ngữ và thái độ hoàn toàn trái ngược với Pháp
Chánh của Ðạo Phật và luật pháp của Quốc Gia, đồng thời bất chấp đến ý chí hòa
giải tột bực của Tổng thống và chính phủ… Thiện chí ôn hòa của chính phủ đã bị
số sư sãi trên coi là biểu hiệu của một sự nhu nhược, nên họ càng làm tới. Họ
đã biến các chùa chiền nhất là chùa Xá Lợi thành những trung tâm khuấy rối,
khủng bố các vị chân tu, hàng ngày mạt sát và đả kích chính phủ, rồi cứ thế
được đà, họ đã tiến tới những âm mưu vận động phá hoại quốc gia, và tổ chức đảo
chánh cố kềt với Cộng Sản và Ngoại quốc.” Họ dùng phương pháp “bình nghị” để
cưỡng ép các vị chân tu phải lần lượt tự thiêu để họ liên tục khai thác bên
cạnh những xác chết đó hầu thực hiện những âm mưu chính trị của họ. Ban Trị sự
Giáo Hội Tăng Già Nam Việt phải bỏ chùa Ấn Quang về miền Tây.
“Thiêu đốt Thượng
tọa Thích Quảng Ðức.” [tr. 7] Có người bật quẹt đốt Quảng Ðức vì hộp quẹt trong
người Thượng tọa bị ướt, không cháy. Vị sư đưa hộp quẹt đốt Quảng Ðức hối hận
bỏ trốn, bị lùng bắt để thủ tiêu. Với chính phủ thì bọn người lợi dụng tôn giáo
này đã đi từ khiêu khích này tới khiêu khích khác liên tục. . . Chính phủ tự
mình đặt vào một thế bất động trong lúc bọn người lợi dụng tôn giáo cứ tiến tới
vừa khiêu khích vừa ru ngủ mình [Tâm Châu và Thiện Minh xin gặp Nhu nhưng không
đến, không viết thành văn lời yêu cầu; không tham gia Ủy Ban Hỗn Hợp] Ai ưng tu
hành thì quyết tâm tu cho đắc đạo, và ai ưng làm chính trị thì phải từ bỏ áo
tu, ra hẳn ngoài đời để làm chính trị, chứ không thể kéo dài tình trạng mập mờ,
nửa đạo nửa đời như từ hơn ba tháng nay được. (174) Ngày này, các cấp TNCH gửi
kiến nghị ủng hộ Diệm. (175) Tại Huế, ngày 24/8, Tỉnh trưởng Nguyễn Mâu sử dụng
TNCH xét giấy người khả nghi. Hôm sau, 25/8, tổ chức “50,000 người” biểu tình
trước bến Phú Văn Lâu chống và “lên án bọn lưu manh phản động đội lốt tôn giáo
âm mưu phá rối an ninh công cộng,” và lên án bọn phản loạn đội lốt tôn giáo.
(176) Mâu còn cho lệnh bắt giữ Thích Trí Hữu, Tổng Thư Ký Phật Giáo Trung Phần,
cùng hai người tháp tùng. (177)
Chiến dịch Nước Lũ
nhằm đánh chiếm chùa và bắt giữ tăng ni là một thứ chiến thắng cay đắng cho chế
độ Diệm-Nhu. Mặc dù hầu hết các lãnh đạo phong trào tranh đấu đều bị bắt
giữ–ngoại trừ Thượng tọa Thích Trí Quang và hai tăng trốn vào được Tòa đại sứ
Mỹ tại Sài Gòn–biến cố này gây nên một chuỗi phản ứng giây chuyền mà kết quả
chung cuộc là cái chết bi thảm của ba anh em họ Ngô. Trên bình diện quốc nội,
sinh viên, học sinh Huế–có sự tiếp tay của cán bộ Cộng Sản hay chăng–xuống
đường biểu tình dữ dội. Ðường phố Ðà Nẵng cũng rung chuyển khí thế đấu tranh và
quyết tâm đánh dẹp biểu tình của nha trảo chế độ. Thục, rồi Nhu yêu cầu Linh
mục Luận, lúc đó đang tạm trú ở Ðà Nẵng, trở lại Huế giải quyết. Luận từ chối,
dù là một cán bộ Cần Lao cao cấp–chuyến tham quan Mỹ trong mùa Hè 1963 cho Luận
nhận hiểu ngày tàn của chế độ đã điểm.( 178)
Một biến cố chấn
động dư luận là chiều ngày 22/8, Ngoại trưởng Vũ Văn Mẫu đột ngột xuống tóc, đệ
đơn xin từ chức. Sau đó, tiếp kiến các phái đoàn Ngoại giao (Trung Hoa Quốc
Gia, Thái Lan, Ðại Hàn, Nhật Bản, Lãnh sự India, Chủ tịch UHQTKSÐC), và chào từ
biệt Nguyễn Ngọc Thơ tại Hội trường Diên Hồng. Sáng ngày Thứ Bảy, 24/8, Mẫu tới
Ðại học Luật khoa nói chuyện với khoảng 3000 sinh viên các phân khoa sinh viên.
Hô hào sinh viên tranh đấu bất bạo động. Có Vũ Quốc Thúc và Nguyễn Văn Bông
xuất hiện. Hẹn sẽ gặp lại vào ngày hôm sau. Nhưng từ ngày này, bị giam lỏng tại
gia. (179) Ngày 23/8, Diệm đã không chấp thuận cho Mẫu từ chức, mà chỉ cho nghỉ
dài hạn ba tháng, qua Nepal hành hương. Ngày 26/8, trên đường ra phi trường qua
India, Mẫu bị Tổng trấn Tôn Thất Ðính cản lại tịch thu thông hành. Mãi tới ngày
29/8, Mẫu mới được rời nước.
Biến cố thứ hai là
sự nhập cuộc của giới sinh viên, học sinh Sài Gòn. Ngày 22/8, 1253 sinh viên
trường Kỹ thuật Phú Thọ (trên tổng số 1291 người) bãi khoá. Chỉ có 15/80 sinh
viên ban Cao đẳng hỗn hợp, 7/302 sinh viên Công chánh và 16/189 sinh viên ban
Ðiện đi học. (180) Hôm sau, 23/8, sinh viên Y-Dược Sài Gòn xuống đường ủng hộ
cuộc tranh đấu của Phật tử và sinh viên, giáo chức tại miền Trung. Cảnh sát đàn
áp mạnh, bắt giữ nhiều người. Việc sinh viên Y-Dược, được coi là cốt cán của
chế độ và những thành phần bảo thủ nhất trong xã hội, nghiêng về phe Phật Giáo
cho thấy uy tín chế độ đã suy tàn. Anh em Diệm-Nhu tìm cách vuốt ve, nhưng
không thành công. Nhiều người trong số 19 thành viên ủy ban đại diện bị bắt.
(181) Sáng Chủ Nhật 25/8, hàng chục ngàn sinh viên học sinh biểu tình tại Chợ
Bến Thành và nhiều địa điểm khác trong thủ đô. Hai anh em Diệm-Nhu thẳng tay
đàn áp. Nhiều người chết, bị thương, hay bị bắt giữ. Vì dám chống đối chế độ,
sinh viên, học sinh được chụp ngay cho cái mũ “Cộng Sản.” Trong khi đó, Trần
Văn Chương–cha vợ Nhu, đương kim Ðại sứ tại Mỹ –cũng từ chức phản đối, hoặc bị
Diệm cách chức, từ ngày 22/8/1863. Mẹ Lệ Xuân, Thân Thị Nam Trân, từ chức Quan
sát viên tại Liên Hiệp Quốc.
Từ ngày 17/8,
Chương đã gửi mật điện cho Diệm, báo cáo rằng dư luận thế giới và đặc biệt tại
Mỹ tin rằng Diệm không thể mang lại chiến thắng Cộng Sản. Cuộc khủng hoảng Phật
Giáo vốn dĩ không phải là nguyên nhân, mà chỉ là hậu quả, một giọt nước làm
tràn ly. Phải ngưng tin dùng các cố vấn Nhu và Cẩn. Nội các cho rằng điện văn
đó không thể chấp nhận được, “khiêu khích và huênh hoang,” nên ngày 21/8/1963
bị Diệm cách chức trước khi xin từ chức. Diệm tuyên bố phải loại trừ bọn phá
hoại, không đàn áp Phật Giáo, và tin tưởng ở quân đội. (182) Tối 27/8, hai vợ
chồng Chương còn thúc dục Tướng Lansdale là Mỹ phải lật đổ ngay Diệm-Nhu, bằng
không dân chúng sẽ trở thành chống Mỹ. Ðích thân Nam Trân yêu cầu Lansdale qua
ngay Sài Gòn, khuyên anh em Diệm rời nước. Nam Trân nhấn mạnh: "Dân chúng đã ghét họ, và họ không nên ở lại
để chờ dân chúng giết. Họ chắc chắn sẽ bị giết nếu còn ở lại, và chẳng có ai
trong Dinh [Gia Long] bảo thẳng với
họ về cảm tưởng của dân chúng. Họ đã bị cách biệt hẳn với thực tế. Sau chín năm
cầm quyền, tại sao họ còn muốn tiếp tục nếu toàn gia bị chết. Nước Mỹ đã bảo
Syngman Rhee [Lý Thừa Vãn của Nam Hàn]
rời nước [năm 1961]. Tại sao không
làm như thế với Diệm và Nhu?( 183)"
Ngày 24/8, Vũ Văn
Thái–cựu Giám đốc Ngân sách và Ngoại viện, hiện đang làm việc cho cơ quan LHQ
tại Lome, Togo– cũng viết thư cho Harriman, đề nghị Diệm và gia đình phải ra
đi. Nội dung thư Thái tương tự như thư riêng của Vũ Văn Mẫu gửi Chester Bowles
từ New Dehli.( 184) Trong khi đó, cuộc tấn công chùa chiền ngày 21/8 gây nên
những phản ứng sâu đậm khắp thế giới. Từ ngày 11/6, bức hình tự thiêu của
Thượng tọa Quảng Ðức đã trở thành biểu tượng của cuộc tranh đấu của Phật giáo
và chính sách giáo phiệt Ki-tô của anh em Diệm. Vào thượng tuần tháng 8/1963,
một số nước Phật giáo chính thức yêu cầu triệu tập Ðại Hội Ðồng Liên Hiệp Quốc
thảo luận. Ngày 22/8, từ Nam Vang, chính phủ Cao Miên ra tuyên cáo: “Chính phủ
Hoàng gia Căm-bốt kinh hoàng đón nhận tin chính phủ Sài-gòn đàn áp man rợ các
tăng ni và Phật tử Nam Việt Nam vào rạng sáng ngày 21/8/1963. Việc tấn công các
chùa bằng lực lượng tinh nhuệ của chính phủ, việc tàn sát tăng ni, việc bắt
giữ, việc phong tỏa các nơi thờ tự đang diễn ra tại thủ đô Việt Nam là một
thách thức thế giới văn minh. Trong lịch
sử hiện đại chỉ có chế độ Hitler mới dám vi phạm những tội ác chống lại quyền
tối thượng của con người như thế.” Tiếp đó, chính phủ Sihanouk kêu gọi các quốc
gia tố cáo và ngăn chặn tội ác đàn áp Phật giáo của chính phủ Diệm. Nam Vang
còn kêu gọi Vatican cho lệnh chính quyền Diệm và tín đồ Ki-tô phải theo đúng
nguyên tắc cao cả của Ki-tô giáo. (185)
Ngay đến Vatican,
điểm tựa vững chắc nhất của chế độ Diệm, cũng bất bình. Khâm sứ Vatican d’Asta
từng bảo thẳng Diệm rằng việc tấn công chùa chiền và đàn áp Phật Giáo làm hại
cho uy tín Vatican và đi ngược lại quyền lợi của quốc gia Việt Nam. Tại Mỹ, hầu
hết các cơ quan ngôn luận đều yêu cầu chính phủ Mỹ có thái độ tức khắc. Tờ New
York Times kịch liệt lên án chính phủ Diệm, mà sự mất lòng dân, độc tài và tàn
bạo biểu lộ qua cuộc đàn áp Phật giáo. Báo này cũng chỉ trích chính phủ Kennedy
đã không sử dụng áp lực thích đáng với Diệm và chậm trễ trong việc minh định
thái độ. (186) Những báo khác gọi chế độ Diệm là độc tài, cảnh sát trị, làm mất
giá trị sự tham chiến của lính Mỹ trong cuộc chiến chống Cộng. (187)
Chỉ riêng tờ New
York Herald Tribune muốn chính phủ Kennedy tiếp tục yểm trợ chính phủ Diệm
trước hiểm họa Cộng Sản. Marguerite Higgins, trong loạt bài viết về chế độ
Diệm, lập lại hầu như nguyên văn lời tuyên truyền của chế độ Diệm: không có kỳ
thị tôn giáo mà những biến động thuần có tính cách chính trị, do Cộng Sản giật
dây, với sự hỗ trợ của báo chí ngoại quốc, đặc biệt là Mỹ. Bối rối và giận dữ
nhất là các viên chức Mỹ. Tại Sài Gòn, để bảo mật, ngay sau nửa đêm 20/8, Nhu
cho lệnh cắt đứt dây điện thoại tới Tòa Ðại sứ Mỹ và tư gia các viên chức Mỹ.
Bởi thế, ngày 21/8, từ Trueheart tới Chánh sở CIA John H. Richardson đều không
biết rõ chính Diệm đã cho lệnh, hay các Tướng lãnh đã làm đảo chính, đánh chiếm
chùa chiền. Ngộ nhận các Tướng làm đảo chính, đài VOA và Bộ Ngoại Giao Mỹ
nghiêm khắc qui trách cho quân đội.( 188) Mãi tới 6G00 sáng ngày 21/8–sau khi
Diệm đã cho công bố lý do hành quân cảnh sát lục soát một số chùa, và giới
nghiêm vì Cộng Sản xuất hiện gần Sài Gòn–Tướng André Ðôn mới điện thoại cho
Paul Harkins thông báo về lý do ban hành thiết quân luật. Theo Ðôn, Diệm cho
lệnh Thiết quân luật để chống lại Phật giáo. Lệnh này chắc không kéo dài quá
ngày bầu cử [Quốc Hội dự trù vào ngày 31/8/1963]. Ðôn cũng tiết lộ mới chỉ sử
dụng 1 tiểu đoàn Dù, 1 tiểu đoàn TQLC, và quân cảnh ở Sài Gòn.
Tuy nhiên, các đơn
vị ven đô đều đặt trong tình trạng báo động. Thiết giáp cũng xuất hiện tại thủ
đô và Chợ Lớn. Ðại sứ Nolting–đang dự hội nghị Honolulu với tân Ðại sứ Lodge,
Hilsman, Ðề Ðốc Harry D. Felt, và Paul Kattenburg, tân Chủ tịch Ủy Ban Ðặc
Nhiệm Việt Nam tại Bộ Ngoại Giao Mỹ–gửi cho Diệm một công điện phản đối, trách
móc Diệm: “Ðây là lần đầu tiên ông không giữ lời hứa với tôi.” (189) Hôm sau,
22/8, Tổng thống Kennedy chỉ thị Lodge nhận nhiệm sở càng sớm càng tốt, vì
Lodge dự định ghé thăm Hong kong ít ngày, rồi trình ủy nhiệm thư vào ngày 26/8.
Oat-shinh-tân vội gửi một phi cơ quân sự đặc biệt cho Lodge tới ngay Sài Gòn.
Khoảng 21G30 ngày 22/8, Lodge mới có mặt tại thủ đô miền Nam. Tới trước Lodge
vài tiếng đồng hồ là mật điện của Hilsman, chỉ thị phải tìm cách giảm quyền lực
Nhu. (190)
Lodge là một lãnh
tụ quan trọng của Ðảng Cộng Hòa Mỹ. Năm 1960, Lodge từng đứng chung liên danh
với Richard M. Nixon, nhưng bị liên danh Kennedy-Johnson của Ðảng Dân Chủ đả
bại khít khao. Từ tháng 6/1963, khi Oat-shinh-tân hỏi ý kiến về việc đề cử
Lodge, Diệm không phản đối, nhưng không dấu sự bất mãn và lo ngại. Nhu mỉa mai
gọi Lodge là Toàn quyền [Gouverneur General], trong khi Diệm tuyên bố dù có gửi
10 Lodge qua Việt Nam, Mỹ vẫn phải huấn luyện người bắn pháo binh vào Dinh Gia
Long. Trong buổi tiếp kiến Kennedy vào trưa ngày 15/8, Lodge có cảm tưởng rằng
Kennedy đặc biệt lo ngại về tình hình Việt Nam, và hàm ý rằng chế độ Diệm đang
đi vào đoạn kết. Cuộc tấn công chùa ngày 21/8 đặt Lodge trước một việc đã rồi.
Một cái tát xiếc, như một ký giả Mỹ nhận định, nếu xét kỹ những áp lực và đòi
hỏi “hòa hoãn với Phật giáo” của Oat-shinh-tân. Ngay trong ngày 23/8, Lodge cho
nhân viên đi tiếp xúc hầu hết các nhân vật cao cấp Việt để có được một hình ảnh
rõ ràng về tình hình. Lodge còn mời các ký giả Mỹ tới tham khảo hầu cải thiện
liên hệ giữa Tòa Ðại sứ với các ký giả. Không kém quan trọng, Lodge cho người
đi tháo gỡ dây kẽm gai mà Cảnh sát giăng kín trụ sở USOM, đích thân tiếp xúc
hai nhà sư xin tị nạn, và gặp đại diện nhóm Caravelle. Lodge còn tiếp xúc với
Ðại sứ Italia Giovanni d’Orlandi và Khâm sứ Vatican Salvatore d’Asta.
Chỉ trong vòng 24
giờ, Lodge đã nắm vững được tình hình. Trước hết, quân đội không dính líu gì
đến cuộc tấn công chùa chiền, và nhiều nhóm muốn làm đảo chính. Nhân viên CIA
Lucien “Lu” Conein và Rufus Phillips được Nguyễn Ðình Thuần, Võ Văn Hải, Chánh
văn phòng của Diệm, André Ðôn, và Lê Văn Kim, khẳng định rằng chính Nhu cầm đầu
cuộc tấn công chùa chiền.( 191) Buổi nói chuyện giữa Ðôn và Conein tại Bộ Tổng
Tham Mưu khiến Lodge chú ý nhất. Ðôn yêu cầu đài VOA cải chính là không phải
quân đội đã tham gia cuộc đàn áp, tấn công các chùa chiền, mà chính Cảnh sát
đặc biệt của Nhu. Theo Ðôn, khoảng 1,420 tăng ni bị bắt giữ khắp miền Nam trong
ngày 21/8. Nhu là “khối óc” [thinker] của Diệm; nhưng Diệm có quyền quyết định.
Lệ Xuân hành xử như “vợ” [platonic wife] Diệm. Diệm chưa bao giờ lấy vợ và
không quen có đàn bà bao quanh. Chín năm qua, Lệ Xuân chăm sóc Diệm sau mỗi
ngày làm việc mệt nhọc. Lệ Xuân nói chuyện, giúp Diệm giải tỏa áp lực, và giống
như bất cứ người vợ nào, thống trị gia đình. Giữa Diệm và Lệ Xuân không có liên
hệ tình dục, vì Diệm chưa hề trải qua mùi vị nam nữ. Diệm và Lệ Xuân, theo Ðôn,
giống như Hitler và Eva Braun. Ðôn cũng tiết lộ Diệm rất thích những thanh niên
đẹp trai. Một Trung sĩ làm vườn đã được cất nhắc lên Trung tá, trông coi dinh
điền quân đội, nhờ đẹp trai. Theo Ðôn, không thể tách rời Diệm với vợ chồng
Nhu. Nếu phải chọn giữa Diệm và Nhu, Ðôn muốn Nhu ra đi.( 192) Tướng Lê Văn
Kim, phụ tá báo chí của Ðôn, tâm sự với Phillips, Giám đốc Phòng Cải Cách Ðiền
Ðịa của cơ quan USOM, đặc trách Ấp Chiến Lược, là quân đội đã trở thành “tay
sai” của Nhu. Chính Nhu đã bầy mưu để các Tướng yêu cầu ban hành thiết quân
luật. Và, 1426 tăng ni, Phật tử đã bị bắt giữ.
Sáng ngày 23/8,
sinh viên Y khoa và Dược đã bắt đầu biểu tình. Nhu đã cho lệnh Cao Xuân Vỹ tổ
chức phản biểu tình vào ngày 25/8. Trong bữa điểm tâm tại tư dinh Nguyễn Ðình
Thuần ngày 24/8, Thuần cũng nói với Phillips rằng vợ chồng Nhu phải ra đi. Theo
Thuần, ngày hôm trước (23/8), Diệm đã viết thư cho Lệ Xuân, yêu cầu từ nay đừng
tuyên bố gì nữa. Diệm cũng đã chuyển cho Bénoit Trần Tử Oai và Tổng Giám Ðốc
Thông Tin [Phan Văn Tạo?] biết lệnh này. Theo Thuần, Mỹ đừng lo ngại việc mở
cửa cho Cộng Sản với cái giá phải yểm trợ một chính phủ có Nhu. Nếu Mỹ cả
quyết, các Tướng sẽ hành động.( 193) Vị đắng của cảm giác bị anh em Diệm-Nhu
“phản bội” và ý niệm vai trò Diệm đã mất đi sự tối thiết hoặc hữu dụng trong
chiến lược của Mỹ khiến Lodge giữ thái độ xa cách với Dinh Gia Long. Sách lược
của Lodge là giai đoạn mềm mỏng dưới thời Nolting đã qua. Diệm phải tìm đến
Lodge–như ngày nào Diệm đã phải tìm đến tu viện Maryknoll ở New Jersey và
Oat-shinh-tân cầu viện trợ. Vì, thực ra Diệm cần Mỹ hơn Mỹ cần Diệm. Chỉ có
Tướng Harkins vẫn ủng hộ Diệm.
Trong báo cáo ngày
22/8 về Oat-shinh-tân, Harkins tán thành việc tấn công các chùa, vì muốn ổn
định tình hình. Harkins cũng không đồng ý việc đặt Ðôn lên chức Tổng Tham Mưu
trưởng, hay Ðính nắm Quân đoàn III và Biệt Khu Thủ Ðô, vì việc bổ nhậm này tạo
cho phe đảo chính cơ hội nắm quyền dễ dàng.( 194) Tuy nhiên, phe Cố vấn ANQG
Bundy cùng Harriman và Hilsman tại Bộ Ngoại Giao cảm thấy đã quá đủ với họ Ngô.
Ngày cuối tuần 24/8, XLTV Ngoại trưởng George Ball bật đèn xanh cho Lodge tìm
một giải pháp khác Diệm.
KẾT TỪ:
Mùa Phật Ðản 2507 (1963) đã đi vào lịch sử Phật
giáo Việt Nam
như một trong những trang bi hùng nhất. Bảy ngọn lửa cúng dường cho đạo pháp
của tăng ni làm rúng động lương tâm nhân loại, ngoại trừ anh chị em nhà họ Ngô
và nha trảo, trong “cơn điên cuồng tập
thể của một gia đình cai trị chưa từng thấy từ thời các Nga hoàng.”( 195)
Ðây là lần đầu tiên Phật Giáo đã vượt ra ngoài thế thụ động, “xuất thế” quen
thuộc, đứng lên tranh đấu cho quyền tự do và bình đẳng tín ngưỡng của mình. So
với đồng đạo ở phía Bắc vĩ tuyến 17, lãnh đạo Phật Giáo miền Nam đã chứng tỏ
một lòng vì đạo cao sâu hơn nhiều bậc. Họ đã giành đoạt được quyền tự do và
bình đẳng tôn giáo bằng máu, nước mắt và mồ hôi, mà không chờ đợi, van vái ân
sủng của nhà cầm quyền. Cuộc tranh đấu của Phật Giáo miền Nam trong năm 1963, qua những tài
liệu văn khố hiện đã giải mật, nặng tính chất tôn giáo hơn chính trị. Mặc dù
chế độ Diệm-Nhu-Thục cố tình diễn giải cuộc tranh đấu của Phật Giáo dưới góc
cạnh xấu xí nhất–như nặng mang tính chất chính trị hơn tôn giáo, có bàn tay
Cộng Sản giật giây, có bàn tay ngoại cường (hiểu như người Mỹ), v.. v...– mùa
Phật đản đẫm máu 1963 là cao điểm của phong trào duy tân Phật Giáo Việt Nam từ
thập niên 1920. Tính cách phi-chính-trị của cuộc tranh đấu khiến người Mỹ, đặc
biệt là Cố vấn ANQG Bundy và Ðại sứ Lodge ra sức tiếp trợ.
Nói cách khác, cuộc tranh đấu của Phật Giáo đã
khơi động niềm cảm phục của các viên chức Mỹ cũng như dư luận thế giới, nơi
giáo hội và chính phủ đã hoàn toàn biệt phân, và tự do tín ngưỡng được coi như
nhu cầu tối thiết, một quyền người cơ bản. Ngay đến đại diện Vatican ở Sài Gòn
cũng phải cảnh cáo Diệm rằng việc đàn áp Phật Giáo là một tội ác, làm giảm uy
tín giáo hội Ki-tô. Các tăng ni lãnh đạo phong trào tranh đấu không chỉ chứng
tỏ tinh thần Bồ tát đại dũng trước bạo lực, sẵn sàng dùng nhục thân bảo vệ Phật
pháp, mà còn chứng tỏ một chiến thuật vận động đấu tranh tỉ mỉ, xuất sắc. Họ đã
phối hợp giữa vận động quần chúng và các cơ quan truyền thông quốc tế để tạo
nên những biến động thu hút dư luận và cảm tình của ngay những người chưa đủ
khả năng tìm kiếm ra vị trí Việt Nam trên bản đồ thế giới.
Cuộc tranh đấu của Phật Giáo hẳn có thể đã không
xảy ra, hoặc giảm bớt cường độ và rút ngắn về thời gian, nếu nhà cầm quyền khéo
léo kiểm soát và giảm thiểu những hậu quả tại hại. Nhưng chế độ Diệm-Thục-Nhu,
giống như bất cứ một chế độ giáo phiệt tương tự nào, đã đánh giá thấp biên độ
và khả năng phát triển của phong trào tranh đấu. Họ đã sử dụng nguyên vẹn những
thủ thuật đã áp dụng đối với Cao Ðài, Hòa Hảo, Bình Xuyên của tám chín năm
trước, khi người Mỹ can đảm hy sinh cả giao tình với nước Pháp để giữ Diệm ở
lại chiếc ghế Thủ tướng. Nhưng hơn tám năm đã qua, hơn hai tỉ Mỹ kim đã đổ vào
Việt Nam .
Viễn ảnh thua trận bắt đầu ám ảnh những chuyên viên về Việt Nam , mà Fishel, Mendendall hay Mansfield chỉ là ít nhân vật tiêu biểu. Dù
rằng vẫn chưa có một con ngựa nào khá hơn Diệm xuất hiện, các viên chức Mỹ đã
mất đi ảo tưởng về khả năng duy trì một miền Nam chống Cộng của họ Ngô. Ðó là
chưa nói đến mối bận tâm canh cánh bên lòng về âm mưu ve vãn Cộng Sản của anh
em Diệm-Nhu trong mùa Xuân-Hè 1963, hoặc mối đại họa là bỗng một ngày nào đó
Diệm-Nhu công khai đòi Mỹ triệt thoái khỏi Nam Việt Nam. Cuộc tranh đấu của
Phật Giáo cũng bùng nổ trong một tình thế an ninh-quân sự đặc biệt.
Từ năm 1962-1963, Bắc Kinh đã sốt sắng hơn trong
việc sử dụng thanh nam, thanh nữ và tài nguyên Việt Nam, Lào, Kampuchea–cùng
cái gọi là học thuyết Mao về “chiến tranh giải phóng”–để gạt ảnh hưởng Mỹ khỏi
ngưỡng cửa chiến lược Ðông Nam. Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam đã có cả lực lượng vũ trang lên
tới cấp trung đoàn, và một hệ thống hành chính nông thôn, cùng tình báo tại các
thành thị. Mặc dù không chính thức ủng hộ cuộc tranh đấu của Phật Giáo, Trung
Ương Cục Miền Nam–mới được cải tổ vào cuối Hè 1961–đã lợi dụng cơ hội gửi cán
bộ tình báo chiến lược xâm nhập vào thành thị, khoét dần những lỗ hổng làm cơ
sở tiềm sinh trong giới sinh viên, học sinh, tôn giáo. Cho đến một lúc, các
lãnh đạo Phật Giáo mới khám phá ra rằng chiến thắng của Phật Giáo năm 1963 mới
chỉ là chiến thắng phiến diện. Giai đoạn 1966-1968, khi Cố vấn QNQG Bundy đã
rời chính quyền và Lodge cùng Ellsworth Bunker đã mất hết thiện cảm, các lãnh
tụ Phật Giáo sẽ tri nghiệm được rằng đừng nên trộn lẫn giữa tôn giáo và chính
trị.
Phụ chú:
1. CÐ số 9195, ngày 6/5/1963; Kho Lưu Trữ
Quốc Gia [KLTQG] II (Thành phố Hồ Chí Minh), Phủ Tổng thống Ðệ Nhất Việt Nam
Cộng Hòa [PTT/Ð1CH], HS 8501; 8352; Lê Cung, Phong trào Phật Giáo miền Nam Việt
Nam năm 1963 (Huế: Thuận Hóa, 2003), tr. 131-132.
2. Xem, chẳng hạn, lời khai của Bénoit Trần
Tử Oai, Bộ trưởng Thông tin, UN/GA Official Records, Agenda Item 77: “The
violation of Human rights in South Vietnam;” Doc. A/5630, 7/12/1963, tr. 12-16.
[Sẽ dẫn UNGA Doc. A/5630]. Bùi Văn Lương khai với Phái đoàn LHQ ngày 30/8/1963,
là đích thân Lương cho lệnh tạm hoãn treo cờ, và các lãnh đạo Phật giáo rất mãn
nguyện. [I also gave instructions to the administrative local authorities
provisionally, not to apply the circular [of 6 May 1963]. The leaders of the
monks are very pleased. They . . . told me I had given complete satisfaction to
their desires.]; Ibid., tr. 22, 23. Xem thêm lời Ngô Ðình Diệm, Ibid., tr. 16;
Ngô Ðình Nhu: Ibid., tr. 16-20; Nguyễn Ngọc Thơ: Ibid., tr. 20-21; Nguyễn Ðình
Thuần: Ibid., tr. 25-27; Hồ Ðắc Khương, Ðỗ Cao Trí: Ibid., tr. 27-29; Trương
Công Cừu: Ibid., tr. 29-31. Ðể chuẩn bị đón phái đoàn LHQ điều tra về việc vi
phạm nhân quyền ở Nam Việt Nam, cơ quan Việt Tấn Xã [VTX] của chính phủ Diệm,
do Tôn Thất Thiện cầm đầu, cũng lưu hành một tài liệu bằng ba thứ tiếng Việt,
Anh, Pháp, gồm 3 tập. Xem Vấn đề Phật giáo [The Buddhist Questions]; KLTQG II
(TP/HCM), PTT/Ð1CH, HS 8506, 8511. Xem thêm Thích Trí Quang, “Cuộc vận động
Phật giáo Việt Nam :
Giai đoạn phát khởi;” Liên Hoa nguyệt san (29/1/1964), tr. 22, 28; dẫn trong Vũ
Văn Mẫu, Sáu tháng pháp nạn 1963 (Giao Ðiểm: 2003), tr. 91.
3. Tác giả luật hạn chế treo cờ là Lâm Lễ
Trinh, Bộ trưởng Nội vụ; KLTQG II (TP/HCM), PTT/Ð1CH, HS 8368. Ngày 29/5/1963,
chính phủ ra thông cáo: “Khi qui định thể thức treo quốc kỳ và đạo kỳ, chánh
phủ chỉ muốn nhắc nhở Quốc kỳ là tượng trưng cho chánh nghĩa, là kết tinh ý
thức đấu tranh toàn diện, toàn dân, toàn quân.” Vấn đề Phật giáo (1963), I:1;
Ibid., HS 8511. Xem thêm chi tiết trong Ibid., HS 8507.
4. Xem, chẳng hạn, thư ngày 11/3/1955, gửi
Thủ tướng, của Ðoàn Trung Côn [Còn], Hội trưởng sáng lập Tịnh Ðộ Tông Việt Nam,
TTK Uy ban vận động Phong trào Phật Giáo Xã hội; KLTQG II (TP/HCM), Phủ Thủ
tướng [PThT], HS29229: (Phật Giáo, 1954-1955). Xem bảng tổng kết số chùa tại
miền Nam vào tháng 9-10/1963 trong Ibid., PTT/Ð1CH, HS 8506, & 8512. Tại
Sài Gòn có 180 chùa: 69 thuộc THPGVN, 22 thuộc Cổ Sơn Môn, và 89 thuộc các môn
phái khác và chùa tư. Ibid. Từ 1954 tới 1963, chính phủ trợ cấp 24 tổ chức Phật
Giáo 3,681,000 đồng, quá chênh lệch so với trợ giúp cho Ki-tô; Ibid, HS 8540.
5. Xem, thư ngày 20/2/1962, Thích Tịnh Khiết
gửi Ngô Ðình Diệm, về việc đàn áp Phật Giáo tại Phú Yên, Bình Ðịnh, Quảng Ngãi,
Quảng Nam; KLTQG II (TP/HCM), PTT/Ð1CH, HS 7941; thư ngày 17/2/1962, Wesley
Fishel gửi John A. Hannah, Viện trưởng Ðại học Tiểu bang Michigan (MSU);
Foreign Relations of the United States [FRUS], 1961-1963, II:148-52; báo cáo
của Ðại sứ Roger Lalouette ngày 10/3/1962; Chính Ðạo, Việt Nam Niên Biểu,
1939-1975 [VNNB], I-C: 1955-1963, tr. 248-250. Xem thêm chú [32] infra.
6. Archives du
Ministère des Affaires Etrangères [AMAE] (Paris), Cambodge-Laos-Vietnam [CLV],
Sud Vietnam [SV], 17:70-73.
7. Xem Phụ Bản
I, Chính Ðạo, Tôn Giáo & Chính Trị: Phật Giáo, 1963-1967 (Houston: Văn Hóa,
1994). Ða số chi tiết dưới đây rút từ tài liệu Mỹ ngữ trên. Chúng tôi chỉ ghi
những tài liệu khác nếu cần thiết. Xem thêm Cao Văn Luận, Bên Giòng Lịch Sử
(Sài Gòn: 1972), tr. 328. Ngày 16/9/1963, Lãnh sự Pháp ở Tourane báo cáo rằng
theo Tướng Nghiêm chính sách bài Phật giáo chỉ là của Thục. Ngày 8/5, khi Nghiêm
vào Sài Gòn gặp Diệm, Diệm cho lệnh phải thẳng tay với Phật giáo, và nhận lệnh
từ Cẩn. Ðại tá Ðỗ Cao Trí, Tư lệnh Sư đoàn 1, được lệnh “duy trì trật tự ở
Huế.” Sau đó Trí được thăng cấp Tướng, thay Nghiêm nắm Vùng I. AMAE (Paris),
CLV, SV, 17:70-73. Về những việc làm của Trí, xem KLTQG II (TP/HCM), PTT/Ð1CH,
HS 8527.
8. Ngày
5/5/1963 này, Diệm long trọng tổ chức Lễ Tạ Ơn chào mừng ngày thụ phong của
Tổng Giám Mục Thục tại nhà thờ Dòng Cứu Thế trên đường Kỳ Ðồng, Sài Gòn. Thục
cũng tham dự. Ngoài lễ nghi quân cách, cờ Ki-tô giáo chi chít khắp nơi. Xem
KLTQG II (TP/HCM), PTT/Ð1CH, HS 8425.
9. Nguyễn Văn
Ðẳng, “Phúc trình của Tòa Hành chánh tỉnh Thừa Thiên về lễ Phật Ðản tại Huế
(20/5/1963),” tr. 2; KLTQG II (TP/HCM), PTT/Ð1CH, HS 8529. Theo một nguồn tin,
Cẩn còn sai Hồ Ðắc Khương, Ðại biểu Chính phủ tại Trung nguyên Trung Phần, gửi
điện tín xin hoãn thi hành lệnh trên. Cẩn cũng bảo Ðẳng đừng can thiệp vì có
giao tình với Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam và, theo lời đồn, bài vị Ngô Ðình
Dinh, cha Ngô Ðình Khả, còn đặt tại chùa Diệu Ðế. Dinh theo đạo thờ cúng tổ
tiên. Khả (1856-1914)Ư, cha Diệm, là người đầu tiên theo đạo Ki-tô, và hành
nghề thông ngôn trong thời gian Pháp đánh chiếm Bắc và Trung Việt. Chức vụ cuối
cùng của Khả là Ðề đốc kinh thành vào cuối đời Thành Thái, và được hàm Thượng
thư khi về hưu. Nhờ tước hàm Thượng thư này của Khả, năm 1917 Diệm được tập ấm
chức cửu phẩm, làm việc tại Tân Thư viện Huế, tức Musée Khải Ðịnh. Xem Chính
Ðạo, “Jean Baptiste Ngô Ðình Diệm (1897-1963);” Cuộc thánh chiến chống Cộng
(Houston: Văn Hoá, 2004). Cũng có tin bài vị Dinh đặt tại chùa Từ Hiếu. Tuy
nhiên, vào tháng 12/2004, chưa thể khẳng định có chăng bài vị nói trên (tiếp
xúc với một tăng của chùa này).
10. Báo cáo số
249-VP/M, ngày 10/5/1963; [KLTQG II (TP/HCM), TNTP.167;] Lê Cung, 2003:136.
11. Báo cáo số
2262-TT/VP/BTM, ngày 9/5/1963, Thừa Thiên gửi BNV; KLTQG II (TP/HCM), PTT/Ð1CH,
HS 8529.
12. UN Doc.
A/5630, 7/12/1963:22, col2. Xem thêm Thích Trí Quang, “Cuộc vận động Phật giáo
Việt Nam: Giai đoạn phát khởi;” Liên Hoa nguyệt san (29/1/1964), tr. 22, 28;
dẫn trong Vũ Văn Mẫu, Sáu tháng pháp nạn 1963 (Giao Ðiểm: 2003), tr. 91.
13. Xem thêm
Nguyễn Ngu Í, “Ðại học Huế tranh đấu chống chế độ cũ qua hai giờ nói chuyện với
Giáo sư Lê Tuyên;” Bách Khoa, số 171 (15/2/1964), tr. 37-47, và số 172
(1/3/1964), tr. 27-42. Sẽ dẫn: Nguyễn Ngu Í, 1964a, và Nguyễn Ngu Í, 1964b.
14. US-Vietnam Relations, 1945-1967, Bk 3,
p. 5; CÐ số 5, 10/5/1963, Huế gửi BNG; US Department of State, Foreign
Relations of the United States [FRUS], 1961-1963, III:284; Airgram A-20,
3/6/1963, Helble gửi Sài Gòn; III:277,n2; Chính Ðạo, VNNB, I-C:1955-1963, tr.
279-280.
15. Xem danh sách các nạn nhân trong Phụ lục
đính kèm của báo cáo của Nguyễn Văn Ðẳng ngày 20/5/1963; TTLTQG II (TP/HCM),
PTT/Ð1CH, HS 8529. Sỹ sau này bị kết án chung thân khổ sai, nhưng được Nguyễn
Văn Thiệu ân xá vào năm 1966Ô sau cuộc nổi dạy của miền Trung.
16. CÐ số 100/MM, ngày 9/5/1963, TNTP gửi
Ðổng lý VPTT; TTLTQG II (TP/HCM), PTT/Ð1CH, HS 8523.
17. KLTQG II (TP/HCM), PTT/Ð1CH, HS 8529
[?].
18. Xem, chẳng hạn, báo cáo của Thị trưởng
Huế và các cấp chỉ huy cảnh sát, quân đội trong KLTQG II (TP/HCM), PTT, Ð1CH,
HS 8529.
19. Ibid., HS
8506.
20. UN/GA Doc. A/5630, 1963, tr. 12, col.2.
21. “I had concluded, according to the
specialists in artillery and artificiers, whom we had consulted in Hue and Sai
Gon, that it was probably bombs of plastic . . . that we had many bullets
because the United States had given us many free, but we had no plastic;
plastic is the arm of the Viet Cong guerilla.” A/5630, 1963:24, col 1.
22. Theo Lương, Trí Quang đã âm mưu chống
chính quyền từ năm 1960, với sự xúi dục của Cộng Sản. Ðặng Ngọc Lựu, thân cận
của Trí Quang, cung cấp tin này; UN/GA Doc. A/5630, 1963:22-23.
23. FRUS, 1961-1963, III:284-285.
24. Tâm thư 10/5/1963, công điện cùng ngày
của Thích Tịnh Khiết, và tài liệu giải thích ngày 16/5/1963, 23/5/1963 (Tịnh
Khiết, Mật Nguyện, Mật Hiền, Trí Quang, Thiện Siêu ký) có thể tìm thấy trong
KLTQG II (TP/HCM), PTT/Ð1CH, HS 8541. Tường Vân là tên chùa Hòa thượng Tinh
Khiết trụ trì. TT Mật Nguyện, tục danh Trần Lộc, 56 tuổi, tu tại chùa Linh
Quang. TT Mật Hiển, tục danh Nguyễn Duy Quang, 56 tuổi, tu tại chùa Trúc Lâm.
TT Trí Quang, tục danh Phạm Trí Quang, sinh năm 1922, và TT Thiện Siêu, tục
danh Vũ Trọng Tường, 43 tuổi, tu tại chùa Từ Ðàm; Ibid., HS 8531. Bản dịch Mỹ
ngữ trong FRUS, 1961-1963, III:287-288.
25. Công báo Việt Nam [CBVN], III:3
[19/8/1950]:434-437. Người soạn thảo luật này là Nguyễn Khắc Vệ, Tổng trưởng Tư
Pháp của chính phủ Trần Văn Hữu. Bản dịch Anh ngữ Dụ số 10 ngày 6/8/1950 cùng
hai tu chính ngày 19/12/1952 và 3/4/1954 trích in trong phần phụ bản XV của
UNGA, Doc. A/5630, 7/12/1963:86-89.
26. Nguyễn Ngu Í 1964a:40-41. [Xem chú 13
supra]
27. FRUS, 1961-1963, III:288, n3. Ðại biểu
chính phủ cũng yêu cầu hoãn ngày cầu siêu cho nạn nhân Huế từ 14/5 tới 21/5; CÐ
ngày 13/5/1963, Thừa Thiên gửi BNV; KLTQG II (TP/HCM), PTT/Ð1CH, HS 8529.
28. Tâm Châu, Bạch Thư về vấn đề chia rẽ của
Ấn Quang với Việt Nam
Quốc Tự (Montréal: Tổ đình Từ Quang, 1994), tr:17. Một nhân chứng khai
UBLP/BVPG gồm 14 hội đoàn. Xem thêm Việt Nam Cộng Hòa, Phủ Tổng thống, Phủ Ðặc
Ủy Trung Ương Tình Báo, “Bảờn nghiên cứu đặc biệt: Phật Giáo Việt Nam ” [n.d.];
PTTÐ1CH, HS 8573.
29. Tục danh là Ðoàn Văn Hanh, sinh khoảng
năm 1922 tại Ninh Bình, Bắc Việt. Tu tại chùa Xuân Dương, huyện Ða Phúc, Phúc
Yên (Phái Vĩnh Nghiêm). 1951: Cùng Tố Liên vào Huế tổ chức Ðại hội thống nhất
Phật giáo. 1952: Phó Trị sự Giáo Hội Tăng Già Toàn Quốc Việt Nam . 1955: Tham
gia Giáo Hội Tăng Già Bắc Việt tại miền Nam . 1959: Thành lập Hội Phật Giáo
Quán Âm Phổ Tế. Trụ sở tại 584/1 đường Phan Thanh Giản Sài-gòn. 1/1963: Lập Ủy
Ban Liên Phái chống phim Sakya. 9/5/1963: Thành lập Ủy Ban Liên Phái Bảo Vệ
Phật Giáo, qui tụ 11 hội đoàn. Trụ sở đặt tại chùa Xá Lợi. 25/5/1963: Phát động
phong trào tranh đấu tích cực ở miền Nam . 30/5/1963: Tuyệt thực 48 giờ
cùng hàng trăm tăng ni. Thứ Sáu, 14/6/1963: Tham gia phái đoàn Phật Giáo nói
chuyện với Ủy Ban Liên Bộ của chính phủ Diệm. 16/7/1963: Dẫn đầu một đoàn biểu
tình trước tư dinh Ðại sứ Nolting. 21/8/1963, mờ sáng: Bị bắt tại chùa Xá Lợi
cho tới ngày 1/11/1963. 31/12/1963: Tham dự Ðại Hội Thống Nhất Phật Giáo ở Chùa
Xá Lợi [cho tới ngày 4/1/1964]. Ðược bầu làm Chủ tịch Viện Hoá Ðạo với nhiệm kỳ
2 năm. 13/1/1964: Nhận chức Viện trưởng Hoá Ðạo. 20/1/1965: Cùng Trí Quang,
Pháp Tri, Thiện Hoa và Hộ Giác tuyệt thực chống chính phủ Trần Văn Hương.
27/1/1965: Hội Ðồng Quân Lực ra tuyên cáo nắm lại chính quyền. Viện Hoá Ðạo ra
lệnh ngừng tranh đấu. Các sư ngưng tuyệt thực. 24/8/1964: Khánh yêu cầu Trí
Quang, Tâm Châu và Thiện Minh kêu gọi sinh viên, học sinh và Phật tử ngưng biểu
tình. Các lãnh tụ Phật giáo ra điều kiện: hủy bỏ hiến chương Vũng Tàu, thành
lập chính phủ dân sự, bảo đảm tự do tôn giáo, và tổ chức bầu cử ngày 1/11/1965.
/1975: Tị nạn ở Pháp, rồi Canada .
Hiện tu tại Tổ đình Từ Quang, Montréal, Québec. 9/1/1995: Cùng 126 tăng sĩ ký
tên vào kháng thư phản đối việc bắt giữ Huyền Quang và Trí Ðộ. 2/5/1995: Tham
dự biểu tình ở Oat-shinh-tân.
30. Thiện Hoà, tục danh Hứa Khắc Lợi, sinh
tại Chợ Lớn, đi tu từ năm 1935. 1935: Theo học Phật học đường Lưỡng Xuyên.
1936-1938: Theo học An Nam
Phật học đường tại chùa Tây Thiên, Huế. 1938-1939: Theo học Phật học đường Long
Khánh, Bình Ðịnh. 1939: Theo học Phật học đường Báo Quốc, Huế. 1945-1950: Ở
Bắc. 5/1950: Về Sài Gòn. Dạy tại Phật học đường Sùng Ðức. 1951: Giám đốc Phật
học đường Nam
Việt tại chùa Ấn Quang. 1953: Trị sự trưởng GHTGNV. 1959: Trị sự trưởng GHTGTQ.
15/5/1963: Gặp Ngô Ðình Diệm về 5 nguyện vọng của Phật Giáo. 26/8/1963: Chủ tịch
Ủy Ban Liên Hiệp Bảo Vệ Phật Giáo Thuần Túy, ủng hộ Ngô Ðình Diệm. 1967: Tổng
Vụ trưởng TV Tài chính & Kiến thiết của GHPGVNTN tại Ấn Quang. 1973: Phó
Tăng Thống. 7/2/1978: Chết tại chùa Ấn Quang.
31. CÐ 1066, ngày 9/5/1963, BNG gửi Sài Gòn,
FRUS, 1961-1963, III:283. Xem thêm báo cáo ngày 18/6/1962 của Bùi Văn Lương;
KLTQG II (TP/HCM), PTT/Ð1CH, HS 7941.
32. FRUS, 1961-1963, III:310.
33. Bộ Công Dân vụ [Civic Action] bao gồm
Tổng Nha Thông tin dưới quyền Phan Văn Tạo.
34. FRUS, 1961-1963, III:309-310; Mẫu
2003:246-255.
35. Tâm Châu, Bạch Thư về vấn đề chia rẽ của
Ấn Quang với Việt Nam
Quốc Tự (Montréal: Tổ đình Từ Quang, 1994), tr. 18.
36. Không rõ Lương hay VTX của Tôn Thất
Thiện và Ðặng Ðức Khôi đã phát minh ra lối giải thích mới này.
37. FRUS, 1961-1963, III:311.
38. Ðề nghị này Nolting đã trình về BNG ngày
18/5 và được Rusk chấp thuận ba ngày sau, 21/5; FRUS, 1961-1963, III:312,n3.
39. FRUS, 1961-1963, III:314. Sau này, Nhu
còn phát minh ra lối giải thích “pain of growth” [sự đau đớn khi phát triển] của
Phật giáo Việt Nam ,
một hiện tượng quen thuộc của các nước chậm tiến.
40. Gravel, II:226. Theo Trueheart, Diệm có
vẻ “giận dữ” [quite agitated], và không muốn nghe theo lời khuyên của Mỹ; FRUS,
1961-1963, III:338.
41. CÐ ngày 19/5/1963, Thừa Thiên gửi BNV;
KLTQG II, PTT/Ð1CH, HS 8529.
42. Ibid., HS 8541.
43. Ibid.
44. CÐ 1136, 9/6/1963, Trueheart gửi BNG;
FRUS, 1961-1963, III:368.
45. KLTQG II, PTT/Ð1CH, HS 8541.
46. VNCH, Vấn đề Phật Giáo: Lập trường của
chính phủ VNCH: Văn kiện căn bản, Tập I (từ 6/5/1963 tới 21/8/1963), tr. 1;
Ibid., HS 8511. Người chủ biên tập tài liệu này là Tôn Thất Thiện, Giám đốc
Việt Tấn Xã.
47. Nguyên văn: The Buddhists (estimated at
some ten million) have long been resentful of the mandarins of Hue and their ruling Catholic oligarchy; the
Buddhists particularly resent a host of restrictions imposed on their religious
freedom by President Diem. Most of Ngo Dinh Diem’s high Government officials,
chiefs of provinces and military officers are Catholics, and most young army
officers are convinced that they must be at least nominal Catholics if they
wish to rise above the rank of captain. Diem apparently believes (and with some
reason) that Catholics are more loyal to him personally and also more genuinely
dedicated in their anti-Communism. Catholicism, therefore, seems to have become
a kind of status symbol, as well as a prerequisite for advancement . . .
The Buddhists say that most Government
supplies pass through Catholic hands and are distributed chiefly to Catholics.
One American adviser has reported that Catholic battalion commanders in South Vietnam ’s
army get better equipment and heavier weapons than the non-Catholics. In the
countryside, there are a number of villages where Christian priests are in
control and maintain their own private armies. In the northern coastal region
around Hue ,
small units of these troops, known as the ‘Bishop’s Boys’, are directly
responsible to the Archbishop, and their primary mission is to protect churches
and priests. They are armed with United Sattes weapons and trained at least in
part by United States
advisers.
Vast supplies of United
States food relief (wheat, flour, rice, cooking oils) are
distributed in South Vietnam
through Catholic Relief Services to Catholic priests in the provinces. Some Viet-Namese
are convinced that many of these supplies never reach the intended
beneficiaries but find their way into the black market instead.” A/5630:90.
48. NYT, 29/5/1963; FRUS, 1961-1963,
III:335-336.
49. CÐ 1162, 30/5/1963, BNG gửi Sài Gòn;
FRUS, 1961-1963, III:337n3.
50. Thư ngày 28/5/1963, Tâm Châu gửi TT; Báo
cáo ngày 30/5/1963 của Q. Ðô trưởng Vũ Tiến Huân; KLTQG II, PTT/Ð1CH, HS 8501.
51. FRUS, 1961-1963, IV:340-341.
52. Xem Trần Ngọc Châu, “Phúc trình về cuộc
tranh chấp của Tỉnh hội Phật giáo tại Ðà Nẵng” (19/9/1963); TTLTQG II (Sài
Gòn), HS 8520.
53. KLTQG II, PTT/Ð1CH, HS 8520.
54. FRUS, 1961-1963, III:343-347; A/5630.
55. FRUS, 1961-1963, III:348-349. Tướng Ðôn
báo cáo rằng đây là loại lựu đạn cay Pháp sử dụng trong Thế chiến thứ nhất
(1914-1918).
56. Ngày 26/2/1964, Thích Trí Quang yêu cầu
Thủ tướng Nguyễn Khánh điều tra và trừng trị thủ phạm; đồng thời bồi thường
xứng đáng cho các nạn nhân. Ngày 7/3/1964, đích thân Trí Quang gặp Thiếu tướng
Tôn Thất Xứng, Tư lệnh QÐ I, Vùng I Chiến thuật, yêu cầu giải quyết. Ngày
17/3/1964, Thiếu tướng Xứng xác nhận một đơn vị quân đội đã nhận lệnh xua chó
berger và ném lựu đạn cường toan vào đám đông Phật tử đang tiến đến chùa Từ
Ðàm. Ngày 5/3/1964, Nha CS Trung nguyên Trung phần đã xác nhận việc này. “Hiện
còn khoảng 40 nạn nhân bị xuất huyết, mắt càng ngày càng mờ, cơn điên cuồng
ngày càng tăng.” [41 người bị thương trong các ngày 3, 4, 5, và 6/6/1963 điều
trị tại Huế. 20 người xin về nhà. 47 người trong số trên là Phật tử. Danh sách
do Nha CSBTNTP: 45 người. Phật tử trở lại điều trị ở Huế, 10 người]; (PThT, HS
29369) Ngày 21/3/1964, do sự can thiệp của Ðại tá Nguyễn Chánh Thi, 12 nạn nhân
được phi cơ quân sự đưa từ Huế vào Sài Gòn. 5 người điều trị tại Grall, 7 người
khác ở Tổng Y Viện Cộng Hòa. (Tờ trình số 330/BYT/VP/M, ngày 13/4/1964, Ðại tá
Vương Quang Trường gửi Phó Thủ tướng đặc trách Văn Hóa-Xã hội; (PThT, HS 29369)
57. FRUS, 1961-1963, III:349-352.
58. Xem Chính Ðạo, “Phiến Cộng trong Dinh
Gia Long;” Ði Tới (Montréal , Canada ), số 73 & 74, 9-10/2003, tr. 46-77;
Idem., Cuộc thánh chiến chống Cộng (Houston ,
TX : Văn Hoá, 2004). Bản cập nhật
đăng trên Hợp Lưu online.
59. Xem báo cáo của Nha Cảnh Sát Bắc Trung
nguyên Trung Phần về những hành động và âm mưu của người Mỹ có liên hệ đến cuộc
đấu tranh của Phật Giáo, 12-16/9/1963 [Thiếu tá Ðào Quang Hiếu, 16/9/1963]; HS
8502.
60. FRUS, 1961-1963, III:356-358; KLTQG II,
PTT/Ð1CH, HS 8509.
61. FRUS, 1961-1963, III:359-360, 360-361.
Sau này, mới xác nhận “phần tử quá khích” là nhóm “Phật giáo nhập thế,” hay
“tân tăng,” mà người dưới phố gọi là “sư hổ mang”–và đa số đi tu để trốn lính.
Họ gọi phái Lục Hòa Tăng là “thày cúng.”
62. FRUS, 1961-1963, III:360; Vấn đề Phật
Giáo, I:1; TTLTQG II, PTT/Ð1CH, HS 8511.
63. CÐ ngày 4/6/1963, Nguyễn Quang Trình gửi
Viện trưởng Huế; Ibid., HS 8501. Giáo sư Wulff, một chứng nhân của cuộc thảm
sát 8/5 tại Huế, đã viết hồi ký về biến cố trên, và bạn ông chụp được nhiều
hình ảnh tại nhà xác Huế. Các tài liệu này được nạp cho Liên Hiệp Quốc, khiến
LHQ quyết định mở cuộc điều tra. Trong dịp viếng thăm Bệnh viện Huế ngày
18/4/1964, Ðại tá Nguyễn Chánh Thi đã yêu cầu di tản những bệnh nhân bị phỏng
vì chất cường toan trong ngày 4/6/1963 tại Huế vào Sài Gòn điều trị. Xem tờ
trình ngày 13/4/1964, Bộ trưởng Y tế gửi Phó Thủ tướng đặc trách Văn hoá-Xã
hội; TTLTQG II, Phủ Thủ tướng, HS 29369.
64. FRUS, 1961-1963, III:367-368.
65. “Quyết nghị của Phong Trào Phụ Nữ Liên
Ðới Việt Nam ”
(Sài Gòn, 7/6/1963), KLTQG II (TP/HCM), PTT/Ð1CH, HS 8515; FRUS, 1961-1963,
III:362n2.
66. The Pentagon Papers (Gravel), II:208;
FRUS, 1961-1963, III:366-369.
67. Năm 1956-1957, Hồ Vinh, một giáo sư Pháp
văn trường Phan Châu Trinh Ðà Nẵng từng bị tra tấn đến chết trong nhà lao Thừa
Phủ (Huế). Nguyễn Ðăng Ngọc, hiệu trưởng, một cán bộ Cần Lao, đích thân đến các
lớp đọc bức công điện mật, loan tin “tên Cộng Sản Vinh” đã “tự tử” trong ngục.
Xem thêm lời khai của Phan Quang Ðông, và bản án Ngô Ðình Cẩn ngày 22/4/1964 về
những cuộc thủ tiêu những người bị vu cáo là Cộng Sản hay gián điệp Pháp, như
Nguyễn Văn Yến, v.. v...
68. CÐ 1194, 8/6/1963 & 1196, 8/6/1963,
BNG gửi Ðại sứ Việt Nam; FRUS, 1961-1963, III:363-364, 364-366. Trong số các đề
nghị, BNG yêu cầu VNCH “ít nữa cũng tạm thời ít nhắc đến thuyết Nhân Vị trước
công chúng và tuyên truyền của chính phủ vì đám đông đồng hóa Nhân Vị với Ki-tô
giáo; bổ nhiệm các tuyên úy Phật giáo; thành lập một Hội Ðồng Tôn Giáo Quốc
Gia, vài tăng hay lãnh tụ Phật tử ứng cử trong cuộc tranh cử vào Quốc Hội tháng
8/1963, và cho họ đắc cử [at least temporarily playdown Personalism in public
pronouncements and GVN propaganda because of popular identification Personalism
with Catholicism; appoint Buddhist chaplains; create National Religious
Council, permit several monks or lay Buddhist leaders run for and win seats in
August National Assembly elections [NVN: two monk representatives]; Ibid.,
III:364-365. Trong báo cáo về Oat-shinh-tân, Trueheart nói không có ý định gặp
Diệm, vì Thuần đã đạt được một số tiến bộ. BNG Mỹ đồng ý.
69. FRUS, 1961-1963, III:369-371. Giao tình
giữa chính phủ Diệm và báo chí Tây phương đầy sóng gió từ năm 1957, sau khi
Diệm được tâng bốc như “Winston Churchill của Ðông Nam Á.”
70. FRUS, 1961-1963, III:371-373. Về lễ cầu
hồn cho John XIII, Paul Hiếu không nói đúng sự thực. Xem văn thư về lễ trên
trong KLTQG II, PTT/Ð1CH, HS 8428.
71. FRUS, 1961-1963, III:374. Hiện nay, tại
góc đường Cách Mạng Tháng Tám và Nguyễn Ðình ChiểƯu (trụ sở UyỰ Ban Nhân Dân
Quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh, tức Tòa Ðại sứ Cao Miên cũ), còn một miếu nhỏ
thờ Thượng tọa Quảng Ðức)
72. FRUS, 1961-1963, III:375-376.
73. FRUS, 1961-1963, III:376-378.
74. FRUS, 1961-1963, III:376-378.
75. Mẫu, 2003:277.
76. “Thông điệp của Tổng thống gởi đồng bào
thủ đô ngày 11/6/1963;” KLTQG II, PTT/Ð1CH, HS 8506, 8501; NYT, 12/6/1963. Sau
này, có lẽ do áp lực Mỹ, bản dịch tiếng Anh được viết nhẹ hơn: “Buddhism in Vietnam finds
its fundamendal safeguard in the Constitution of which I personally am the
guardian.”
77. Nguyên văn: “If Diem does not take
prompt and effective steps to reestablish Buddhist confidence in him we will
have to reexamine our entire relationship with his regime;” CÐ 1207, 11/6/1963,
BNG gửi Ðại sứ Việt Nam ;
FRUS, 1961-1963, III:383.
78. FRUS, 1961-1963, III:385-387. Theo tài
liệu Bạch Cung ngày 14/6/1963, Kennedy không biết gì về đe dọa giải kết
[disassociation] này, và nhấn mạnh rằng đây là lần chót; từ nay bất cứ lời đe
dọa chính thức nào cần được sự phê chuẩn của Kennedy. Ibid., III:386-387.
79. Tâm Châu 1994:19; FRUS, 1961-1963,
III:384.
80. FRUS, 1961-1963, III:387-389. Theo
Thuần, Phật giáo đã sửa đổi đôi chút các đòi hỏi, nhưng Trueheart nhấn mạnh nên
bỏ các tiểu tiết để đạt ngay thỏa ước.
81. FRUS, 1961-1963, III:391.
82. KLTQG II, PTT/Ð1CH, HS 8509. [Xem Phụ
Bản] Xem thêm Tâm Châu, 1994:41-4; The Pentagon Papers (Gravel), II:226-7;
FRUS, 1961-1963, III:Tài liệu 177, 178, 179.
83. NYT, 16/6/1963; FRUS, 1961-1963,
III:396-397.
84. NYT, 17/6/1963; FRUS, 1961-1963,
III:396-397. Theo bản tin AP ngày 17/6, đây là cuộc biểu tình chống chính phủ
bạo động nhất từ nhiều năm qua; Ibid., III:397n3.
85. Lãnh đạo hệ phái này cho rằng họ là hệ
phái lâu đời nhất tại Việt Nam, với hai triệu Phật tử. Mãi tới năm 1964, Cổ Sơn
Môn mới gia nhập Giáo Hội Phật Giáo Thống Nhất.
86. KLTQG II, PTT/Ð1CH, HS 8501; Mẫu,
2003:302-304.
87. KLTQG II, PTT/Ð1CH, HS 8501; Mẫu,
2003:307-313. Theo Nhu, TNCH lên tới 1.5 triệu đoàn viên; Ibid., tr.300, 304,
310.
88. FRUS, 1961-1963, III:401. Gene Gregory
từng quen biết Diệm từ thập niên 1950.
89. FRUS,
1961-1963, III, tr. 409-410.
90. Nguyên văn
bản dịch tiếng Pháp: “Un bon catholique, en vertu même de la doctrine
catholique, est le meilleur des citoyens, attaché à sa patrie, loyalement
soumis à l’autorité civile établie, sous n’importe quelle légitime de
gouvernement.” Ainsi s’explique Pie XI dans l’encyclique illius Magistri du 31
décembre 1929.”
91. Nolting, From Trust to Tragedy: The
Political Memoirs of Frederick Nolting [Từ tin cậy tới thảm kịch: Hồi ký chính
trị của Frederick Nolting] (New York: Preager, 1988), tr. 115-116. Lập luận của
Nolting giống hệt tuyên cáo của chính phủ Diệm ngày 21/8/1963–“lợi dụng tín
ngưỡng cho mục đích chính trị.”
92. Thư ngày 26/6/1963, Tịnh Khiết gửi TT;
KLTQG II, PTT/Ð1CH, HS 8541.
93. Ibid., HS 8541.
94. CÐ 1219, 14/6/1963, BNG gửi Ðại sứ SG;
FRUS, 1961-1963, III:394-395. Charles Ben Wood, người phụ trách Phòng Ðông
Dương, soạn thảo Kế hoạch này từ tháng 5/1963, chuyển về Oat-shinh-tân ngày
23/5/1963, và được Bạch Cung chấp thuận ngày 6/6/1963; FRUS, 1961-1963, III:Tài
liệu 133. Ngày 16/6, Sài-gòn mới nhận được lệnh trên.
95. Chính Ðạo, VNNB, I-C:1955-1963, tr. 296,
298.
96. FRUS, 1961-1963, III:400-401.
97. FRUS, 1961-1963, III:402-404.
98. FRUS, 1961-1963, III:392.
99. Max Frankel, “US Warns South Viet-Nam on
Demands of Buddhists” [Mỹ cảnh giác Nam Việt-Nam về những đòi hỏi của
Phật tử]; NYT, 15/6/1963. Tài liệu BNG ghi là ngày 14/6/1963; FRUS, 1961-1963,
III:393.
100. FRUS,
1961-1963, III:392.
101. Báo cáo
của Ðại tá Nguyễn Văn An ngày 22/5/1963 & 15/6/1963; KLTQG II, PTT/Ð1CH, HS
8508.
102. Ngày 18/7,
Cảnh sát Quận 5 bắt giữ ba người bị tình nghi hoạt động nội tuyến cho CS trong
hàng ngũ Phật Giáo; Ibid., HS 8501.
103. Hội nghị
Khu Ủy Khu V mở rộng [từ 15/7 tới ngày 31/7/1963] ra nghị quyết: “trước mắt ra
sức nuôi dưỡng mở rộng cuộc đấu tranh của đồng bào Phật Giáo và nhân dân các
tầng lớp chống địch đàn áp Phật Giáo, chia rẽ các tôn giáo.” [tr. 942] (Huế:
thuộc Liên tỉnh 1 của Khu V) Tuy nhiên, đường lối tổng quát không thay đổi: Cần
phải và có khả năng kiềm chế địch trong loại chiến tranh thứ ba và thắng địch
trong loại chiến tranh ấy [tr. 907]; trường kỳ kháng chiến, đánh địch trường
kỳ, giành thắng lợi từng phần [tr. 908]; ở miền núi, đấu tranh võ trang là
chính [tr. 910]; ở đồng bằng, đấu tranh chính trị, vũ trang song song.[
tr.910]; ở đô thị đấu tranh chính trị là chủ yếu, có kết hợp đấu tranh vũ trang
trong một mức độ nhất định.[ tr. 911] [VKÐTT, 24:895-954]
Nghị quyết
tháng 10/1963 của Khu VI mới ghi nhận “cần chú ý tranh thủ xây dựng cơ sở trong
tín đồ Phật Giáo và từng mặt liên minh hành động tiến tới nắm một số sư sãi
tiến bộ, có uy tín trong giới Phật Giáo, cũng như phải tích cực tranh thủ xây
dựng những phấn tử lớp trên . . . có xu hướng tiến bộ để tiến tới hình thành
Mặt Trận lâm thời của thành phố.” (VKÐTT,
24:989)
104. CÐ số 1250 gửi Sài Gòn, DOS, Central
Files, PER-Lodge, Henry Cabot. (Ngày 22/6, Trueheart báo cáo là Diệm đồng ý
tiếp Trueheart vào chiều ngày 22/6; CÐ số 1230 từ Sài Gòn; Ibid)
105. FRUS, 1961-1963, III:414. Diệm khẳng
định với Trueheart là sẽ tôn trọng những điều thỏa thuận với Phật giáo; phủ
nhận không có việc Nhu sử dụng Thanh Niên Cộng Hoà để chống lại Phật giáo;
nhưng không đề cập gì đến Bạch thư của Lệ Xuân. Về Cổ Sơn Môn, Diệm nói họ có
quyền tự do họp Ðại Hội và bày tỏ ý kiến. Việc phóng thích những người tham dự
biểu tình, Diệm nói cần thanh lọc; nếu họ không Cộng sản sẽ được phóng thích.
Tóm lại, chính Diệm tách dần khỏi những lời cố vấn của Mỹ; Ibid., III:411-413.
106. Ibid.
107. CÐ 1271, 26/6/1963, Ball gửi Ðại sứ VN;
Ibid., III:415-416.
108. FRUS, 1961-1963, III:427-428.
109. FRUS, 1961-1963, III:426n3.
110. FRUS, 1961-1963, III:429-431; Chính
Ðạo, VNNB, I-C:1955-1963, tr. 304-305.
111. Nolting, 1988:126.
112. The Pentagon Papers (Gravel), II:236;
FRUS, 1961-1963, III:474; Chính Ðạo, VNNB, I-C:1955-1963, tr. 307.
113. US-Vietnam Relations, 1945-1967, Bk 11,
tr. 427.
114. FRUS, 1961-1963, III:433n2.
115. FRUS, 1961-1963, III:441-443.
116. FRUS, 1961-1963, III:443-444.
117. FRUS, 1962-1963, III:445-447.
118. FRUS, 1962-1963, III:449-450.
119. Thời thực dân Pháp, cái mũ “Cộng Sản”
đồng nghĩa với “phản loạn.” Nhưng hiện tượng chụp mũ “Cộng Sản” cho người khác
ý kiến hoặc mình không ưa còn phát triển rộng rãi hơn, vì quốc sách miền Nam là
“chống Cộng.” Tàn tích của thói quen “Tố Cộng” này được bảo quản tốt đẹp ở hải
ngoại.
120. FRUS, 1962-1963, III:451-453.
121. Hôm sau, Browne và Arnett bị truy tố về
tội hành hung hai Phó Thẩm sát viên công nhựt Nguyễn Văn Lăng và Lâm Văn Lý.
Xem báo cáo của Phạm Công Kỉnh, Quận trưởng Cảnh Sát Q. 3, trong KLTQG II, PTT,
Ð1CH, HS 8536. Theo Trần Thiện Khiêm, các ký giả này dùng đá và máy ảnh để đánh
trả Cảnh sát. Một viên chức nào đó, phê bằng mực đỏ: “Có thực không?” Ibid., HS
8527. BNG Mỹ chỉ thị Trueheart can thiệp để miễn tố. Thoạt tiên, Diệm không
đồng ý. Mãi tới ngày 17/7 mới thuận. FRUS, 1962-1963, III:470-472.
122. The Pentagon Papers (Gravel),
II:729-33; US-Vietnam Relations, Bk 12:534;
123. FRUS, 1962-1963, III:483-485.
124. Nguyên văn: [He is hurt by what he
considers misrepresentations and calumnies (both in Vietnam and outside), torn
by conflicting advise, resentful of US pressure, and not completely in control
of his government’s actions (Nhus). He is, in brief, in a martyr’s mood
himself.]; CÐ 85, ngày 15/7/1963, Nolting gửi BNG; FRUS, 1961-1963, III:487;
Nolting 1988:113.
125. Khán giả và công an, mật vụ khoảng 500
người. Khoảng 11G45, đoàn biểu tình kéo về chùa Xá Lợi, tuyên bố sẽ tuyệt thực
48 giờ. FRUS, 1961-1963, Tài liệu 221; Tâm Châu, 1994:19. Ngày 9/7/1963, Tâm
Châu đã viết thư cho Ðại sứ Mỹ, yêu cầu Mỹ cho quân bảo vệ chùa Xá Lợi vì đang
có dấu hiệu Diệm-Nhu sẽ đánh chùa. Ibid., III:478-479.
126. Mẫu, 2003:353.
127. Báo cáo ngày 23/7/1963 của Ðại biểu CP
tại Cao nguyên trung phần; TTLTQG II, PTT, Ð1CH, HS 8501.
128. Mẫu,
2003:354-360.
129. FRUS,
1961-1963, III, Tài liệu 234. Tưởng nên ghi nhận Hilsman từng là Giám đốc cơ
quan sưu tầm và tình báo, từng ghé thăm Sài Gòn vào tháng 1/1963 và gặp gỡ
nhiều nhân vật quan trọng, kể cả Ngô Ðình Diệm. Xem
FRUS, 1961-1963, vol III: Jan-August 1963 (Washington, DC: GPO, 1991), tr.
1-16.
130. FRUS, 1961-1963, III, Tài liệu 237.
131. Ngày 24/7, Thuần cho Nolting biết Chiêu
đã bị phạt kỷ luật. Báo chí loan tin Chiêu bị 40 ngày trọng cấm. Ngày 26/7,
Tịnh Khiết viết thư xin Diệm nhẹ tay hơn với Chiêu. Ngày 30/7, Nhu định truy tố
Chiêu ra tòa để có dịp nói rõ “nguyên do thúc đẩy Chiêu biểu tình ... cho báo
chí ghi chép.” CÐ ngày 31/7/1963, Ðổng lý văn phòng Phủ TT gửi Bộ trưởng Phụ tá
Quốc Phòng; TTLTQG II, PTT/Ð1CH, HS 8501. Sau đó, Chiêu được ân thưởng “Trung
dũng bội tinh.” Theo Vũ Văn Mẫu, các thương phế binh đều là giả; Mẫu,
2003:313-314.
132. FRUS, 1961-1963, III:Tài liệu 198, 200.
133. TTLTQG II, PTT/Ð1CH, HS 8501. Hội còn
đại diện chế độ qua New York
trình bày với Tổng thư Ký LHQ về cuộc tranh đấu của Phật Giáo vào tháng
10/1963. Tưởng cũng nên ghi nhận, Hội chỉ bênh vực Nhu, và đồng ý bắt Thục cũng
như Lệ Xuân phải rời nước để trấn an dư luận.
134. Newsweek, 9/8/1963; Chính Ðạo, VNNB,
I-C:1955-1963, tr. 314.
135. Ngày 11/8, Thuần báo cáo với Nolting là
Lệ Xuân giao cho Khiêm tổ chức một lực lượng Mật vụ riêng; nhưng Nhu phủ nhận.
Ngày Thứ Bảy, 31/8, khi được ký giả người Úc, Denis Warner, phỏng vấn, Khiêm
cho Warner coi một danh sách các viên chức mà Khiêm định ám sát. Theo CIA,
Chương, cha Khiêm và Lệ Xuân, coi Khiêm như “bất lực, tham nhũng và hèn nhát;”
FRUS, 1961-1963, IV:Tài liệu 68.
136. Ngày 5/8, báo NYT đăng lại tin này;
Chính Ðạo, VNNB, I-C:1955-1963, tr. 312. Tại Việt Nam, Tịnh Khiết cũng viết thư
cho Diệm, báo động về Kế hoạch Nước Lũ, gồm hai giai đoạn đảo chính và phản đảo
chính giả; Thư ngày 5 & 7//8/1963, Tịnh Khiết gửi TT; TTLTQG II, PTT/Ð1CH,
HS 8541.
137. Ibid., HS 8541; Mẫu, 2003:344-346.
138. TTLTQG II, PTT/Ð1CH, HS 8541; Mẫu,
2003:343-344.
139. Chính Ðạo, Tôn Giáo & Chính trị,
1994:334-335. Xem thêm TTLTQG II, PTT/Ð1CH, HS 8541 (Thanh Tuệ), 8532 (Diệu
Quang), 8534 (đô thành)
140. Nolting 1988:117.
141. Trong báo cáo ngày 10/8, Nolting cho
biết Thơ, Thuần, Nhu, Mẫu, Bửu Hội v.. v... đưa ra giải pháp sau: Lệ Xuân đi
“nghỉ dài hạn,” Tổng Giám Mục Thục sẽ được thăng cấp [về Roma]. Thuần còn mật
báo rằng các Bộ trưởng đều đồng ý đã đến giờ thứ 11 của Diệm. Lệ Xuân cùng em
ruột là Trần Văn Khiêm tổ chức một toán cảnh sát đặc biệt để bắt cóc đối thủ.
Chắc chắn Nhu cũng biết việc này.
142. FRUS, 1961-1963, III:Tài liệu 252;
Chính Ðạo, VNNB, I-C:1955-1963, tr. 315.
143. Nolting, 1988:119.
144. NYHT, 15/8/1963; Nolting 1988:118;
KLTQG II, PTT, Ð1CH, HS 8506.
145. Ngày 9/8/1963, trong phiếu trình lên
Kennedy về vợ chồng Nhu, Michael Forrestal tiết lộ Miên, Ceylon [Sri Lanka ],
và Nepal
đã đưa vấn đề Phật giáo ra trước văn phòng Tổng Thư Ký Liên Hiệp Quốc. Có thể
sẽ họp Ðại Hội Ðồng LHQ.
146. Văn thư số 4406/NA/CT ngày 10/8/1963;
HS 8529)
147. CÐ số 4435-TT/NA/CT/M ngày 12/8/1963,
Thừa Thiên gửi BNV; HS 8529)
148. Tục danh Bùi Huy Chương (1945-1963), 17
tuổi, tu tại chùa Phước Duyên, Hưng Long, Thừa Thiên; HS 8541; Nguyễn Ngu Í
1964a:42.
149. HS 8541.
150. Nguyễn Ngu Í 1964a:42.
151. CÐ số 4470-TT/NA/CT/M ngày 15/8/1963,
Thừa Thiên gửi BNV; HS 8529; Nguyễn Ngu Í, 1964a:42-43. [Xem chú 13 supra]
152. CÐ số 4470-TT/NA/CT/M ngày 15/8/1963,
Thừa Thiên gửi BNV; HS 8529; Nguyễn Ngu Í 1964a:43)
153. (HS 8532)
154. HS 8527; Nguyễn Ngu Í 1964a:43.
155. CÐ số 4545-TT/NA/CT/M ngày 17/8/1963,
Thừa Thiên gửi BNV; HS 8529)
156. CÐ số 4545-TT/NA/CT/M ngày 17/8/1963,
Thừa Thiên gửi BNV; HS 8529)
157. Nguyễn Ngu Í 1964a:43)
158. Nguyễn Ngu Í 1964a:43-44. [Xem chú 13
supra]
159. Nguyễn Ngu Í 1964b:28)
160. CÐ số 4545-TT/NA/CT/M ngày 17/8/1963,
Thừa Thiên gửi BNV; HS 8529; Nguyễn Ngu Í 1964a:46.
161. CÐ số 4529-TT/NA/CT/M ngày 18/8/1963,
Thừa Thiên gửi BNV; HS 8529.
162. Nguyễn Ngu Í 1964a:33.
163. Nguyễn Ngu Í 1964b:35-6. Theo Vũ Văn
Mẫu, Thế đã lẻn về Sài-gòn, xin cho trở lại nhiệm sở cũ. Ngày 19/8,ờ Mẫu ký
giấy cho Thế ra đi; Mẫu, 2003:218-221, 387.
164. Phạm Trọng Nhân, “Cuốn sổ tay của một
nhân viên ngoại giao nhân vụ tấn công chùa Xá Lợi,” Bách Khoa, số 169
(15/1/1964), tr. 34. [Sẽ dẫn: Nhân 1964a]
165. Mẫu, 2003:377-379.
165 bis. KLTQG II, PTT/Ð1CH, HS 8541.
166. Phiếu trình ngày 17/8/1963 của Bộ TTM
v/v Cộng Sản đang lợi dụng Phật Giáo; TTLTQG II, PTT/Ð1CH, HS 8501.
167. Thông cáo của TT/VNCH ngày 20/8/1963;
Ibid., HS 8501.
168. Theo tờ trình của Tôn Thất Ðính ngày
22/8/1963, phía Tăng ni không có ai bị thương; phía công lực, 20 người bị
thương. Tại Sài Gòn, 389 sư ni, 106 Phật tử và 133 học sinh bị bắt giữ. Phiếu
Ðệ Trình số 0289/QÐIII/VPTL, ngày 22/8/1963, Tôn Thất Ðính kính đệ Tổng thống;
TTLTQG II, PTT/Ð1CH, HS 8527 [số cũ: TM-HS.209]; Lê Cung, 2003:312-316. Xem
thêm The Pentagon Papers (Gravel), II:232; Tâm Châu 1994:19. Nguyễn Ngu Í
1964b:37-44. [Xem chú 13 supra]
169. Nguyễn Mâu, “Bản tổng kết thành tích kế
hoạch thanh toán vụ tranh chấp bạo động của Phật Giáo tại Thừa Thiên-Huế, từ
21/8 tới 20/9/1963 (3/10/1963);” TTLTQG II, PTT/Ð1CH, HS 8501. Theo Mâu, 964
người, kể cả 100 tăng ni, 42 giáo chức, 40 công chức bị bắt, nhưng 638 người,
trong đó có 96 tăng ni, được phóng thích; Ibid.
170. Nhân, “Cuốn sổ tay;” Bách Khoa, số 169
(15/1/1964), tr. 31-43, và số 170 (1/2/1964), tr. 21-31); Mẫu, 2003:390-398.
Riêng tại Sài-gòn, số tăng ni Phật tử bị bắt lên tới 2,000 người.
171. Nhân 1964a:35-36; Mẫu, 2003:399-418.
172. Sắc Lệnh số 84-TTP, ngày 20/8/1963;
KLTTƯ II, PTT/1CH, HS 8501 & 8506 [SC.04-HS.8466; Cung, 2003:311]. Lệnh này
hết hiệu lực từ 12G00 ngày 16/9/1963; SL số 104-TTP, ngày 14/9/1963. Tuy nhiên,
tình trạng khẩn cấp ban hành ngày 15/10/1961, qua SL 209-TTP, được duy trì cho
đến khi có lệnh mới.; Ibid. [8561?] [SC.04-HS.8466]; Lê Cung, 2003:311. “Sắc
lệnh tuyên bố tình trạng giới nghiêm” trên toàn quốc.
173. Ngày 6/9, ông Nhu biện bạch với một
viên chức CIA Mỹ rằng không liên quan gì đến việc ban hành thiết quân luật hay
tấn công chùa chiền. Tối ngày 18/8, các Tướng đã yêu cầu Diệm ban hành thiết
quân luật. Ngày 19 hay 20/8, Ðỗ Cao Trí cũng vào gặp Nhu trình bày một kế hoạch
tấn công các chùa và danh sách những người cần bắt mà Trí đã chuẩn bị từ một
tháng trước. Nhu chỉ là con dê tế thần trong cuộc khủng hoảng này. Từ sau ngày
21/8, Nhu vẫn theo đuổi chính sách hòa hoãn. Nhân viên CIA có cảm tưởng Nhu dấu
diếm sự thực [deception]; FRUS, 1961-1963, IV, Tài liệu 69.
174. VNCH, UBLBÐTACL, Biên bản số 62: Phiên
họp của UBLBÐTACL tại Dinh Gia Long ngày 23/8/1963, tr. 6-12; PTT/1CH, HS 8278.
175. PTT/1CH, HS 8511.
176. HS 8530; CÐ ngày 29/8/1963, Thừa Thiên
gửi BNV; HS 8530) Tài liệu Việt Tấn Xã tăng lên 80,000 người “lên án bọn người
lợi dụng tôn giáo để đầu cơ chính trị;” HS 8511.
177. CÐ ngày 29/8/1963, Thừa Thiên gửi BNV;
HS 8530.
178. Cao Văn Luận 1972:352-386.
179. Phủ Ðặc Ủy Trung Ương Tình Báo, Bản tin
đặc biệt ngày 24/8/1963; HS 8513; Nhân 1964a:37, 39.
180. PTT ICH, HS 8501.
181. PTT ICH, HS 8513.
182. HS 8511; Herald Tribune, 24/8/1963;
Nhân 1964a:34.
183. Nguyên văn: “You must go to Saigon fast and tell Diem and the Nhu’s to leave the
country now. The people hate them and they shouldn’t stay for the people to
kill them. They will surely be killed if they stay, and nobody at the Palace
now is telling them how the people really feel. They are cut off from reality.
Why do they need power, after nine years of it, if the family is killed? The US told Synman Rhee
to leave. Why not Diem and Nhu?” JFK Library, NSF Country File, Vietnam; FRUS,
1961-1963, III:666; William C. Gibbons, The U.S. Government and the Vietnam
War, 3 vols (Princeton, NJ: Princeton Univ Press, 1993), II:155.
184. FRUS, 1961-1963, IV:114-5. Ngày
5/9/1963, Harriman mới chuyển thư này cho Bundy, Cố vấn ANQG của Kennedy.
185. CÐ số 896, ngày 23/8/1963, Phnom Penh
gửi Paris; CLV, SV, d. 17)
186. Bộ Ngoại Giao Pháp, CÐ số 4879/83, Ðại
sứ ở Mỹ gửi BNG; CLV, SV, 17:29.
187. CLV, SV, 17:33.
188. Từ ngày 11/7/1963, cơ quan an ninh Mỹ
đã ghi nhận có dấu hiệu là các sĩ quan cao cấp và ngay chính Nhu đang âm mưu
đảo chính. Trong hai buổi tiếp xúc với “khoảng 14 Tướng,” kể cả tân Thiếu tướng
Ðỗ Cao Trí, Tư lệnh QÐ I, Nhu tuyên bố có thể có một cuộc đảo chính nếu Diệm
trở thành “nô bộc” của Mỹ [if he believed the government, meaning Diem, was
becoming servile to the United States, he himself would lead a coup d’Etat].
Ngày 25/6, chính Nhu cũng nói với một quan sát viên Mỹ như trên. FRUS,
1961-1963, III:490-491. Ngày 13/7, cơ quan CIA báo cáo Ðôn tự nhận nằm trong
một nhóm âm mưu đảo chính; Ibid., III:491. Ngày 15/7, một cá nhân thuộc nhóm
Trần Kim Tuyến tuyên bố sắp có đảo chính, nhưng không trước ngày 20/7. Ngày
16/7, Big Minh nghĩ cần phải có sự thay đổi chính phủ; Ibid., III:491n8.
189. Nolting, 1988:121.
190. FRUS, 1961-1963, III:605.
191. The Pentagon Papers (Gravel), II:234.
192. FRUS, 1961-1963, III, tài liệu 275;
Chính Ðạo, VNNB, IC: 1961-1963, tr. 208, 322-323. Trong hồi ký của McNamara,
đoạn nói về Lệ Xuân, tương tự như nhận định này. McNamara còn gọi Lệ Xuân là
“một mụ phù thủy.” Theo cựu Ðại tá Phạm Văn Liễu, năm 1954, đài phát thanh Quân
Ðội Quốc Gia đã phát thanh hầu như mỗi ngày một câu đồng dao: “Nực cười cho họ
Ngô Ðình, Trai không có vợ, mượn tình em dâu.” Trai không có vợ ám chỉ Ngô Ðình
Diệm, và “em dâu” là Lệ Xuân; Trả Ta Sông Núi (Houston : Văn Hóa, 2001), tập I, tr. 310.
193. FRUS,
1961-1963, III, Tài liệu 174, 273.
194. FRUS,
1961-1963, III:607-610.
195. FRUS, 1961-1964, IV:175.
9/2003 - 8/5/2008
Chính Ðạo
[Source: Tạp chí Hợp Lưu số 88, 89 và 90
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét