JEAN BAPTISTE NGÔ ĐÌNH
DIỆM :
THỜI KỲ CHƯA NẮM QUYỀN,
1897-1954
Chính Đạo
Ngày 25/4/1961, Tướng Edward G. Lansdale–người được coi như hiểu biết rất rõ
Việt Nam Cộng Hòa [VNCH]–viết báo cáo lên Thứ trưởng Quốc phòng Roswell L.
Gilpatric, Chủ tịch Ủy Ban Ðặc Nhiệm Việt Nam [Presidential Task Force on
Vietnam], về “No Din Zee’em” (Ngô Ðình Diệm) như sau:
Ông ta lùn, mập tròn. . . Nhiều người không chú ý đến cặp mắt đen hay liếc trộm [snapping] của ông ta mà
chỉ chú ý đến cặp giò vừa đủ chạm mặt đất khi ngồi. Tuy nhiên, ông ta không cảm
thấy ngượng ngùng về chuyện lùn, và có vẻ rất tự nhiên chung quanh những người
Mỹ cao lớn. . . .
Ông ta tỏ vẻ ăn uống ngon lành (và thường có sở thích ăn ngon). Nụ cười của
ông ta có vẻ e dè và bất thường. . . . Diệm sinh ngày 3/1/1901. . . Năm 25 tuổi
[1926], Diệm đã được cử làm quan đầu tỉnh. Nhưng sau “sáu tháng làm Thượng thư”
Diệm từ chức, trở thành “người hùng thực sự của người Việt.” Từ đó, anh em Diệm
“âm thầm chống cả Pháp lẫn Cộng Sản.” Diệm là một người độc thân 60 tuổi, “đã
cắt bỏ mối tình với người yêu đầu đời để dâng hiến cho tổ quốc”(1)
Thực ra, Lansdale dường không muốn
viết rõ, hoặc không biết nhiều về Tổng thống Diệm cũng như họ Ngô. Hầu hết chi
tiết về hộ tịch Diệm hay thành tích chống Pháp của Diệm và gia đình Ngô Ðình
Khả, đều thiếu chính xác. Các học
giả thế giới cũng chẳng bận tâm đến việc tu chỉnh lại tiểu sử người cầm đầu phe
thua cuộc.(2)
Ðáng buồn hơn nữa, lịch sử Việt Nam,
dưới mắt nhiều học giả thế giới, chỉ là một thứ câu chuyện thêm thắt vào
[anecdotes] chính sách và sự can thiệp của các cường quốc như Mỹ, Nga, Trung
Hoa, Pháp, Bri-tên, Nhật, v.. v... Người Việt cũng có lý do riêng để không muốn
thấy có một tiểu sử chính xác về Diệm, từ chính trị, tôn giáo, tới ý thức hệ.
Nên chẳng ngạc nhiên khi khối văn chương hiện hữu về họ Ngô hay Ðệ nhất Việt
Nam Cộng Hòa tràn ngập những lời “cung
văn” hoặc “đào mộ,” bất chấp sự thực.
Bài viết này nhằm điền vào khoảng
trống nói trên. Tư liệu chúng tôi sử dụng cơ bản là tập tiểu sử chính phủ Diệm
do cơ quan an ninh Pháp thành lập vào tháng 7/1954, hiện vẫn còn chưa giải mật.
Ngoài ra, còn nhiều tư liệu văn khố Pháp, Mỹ, Nga, Trung Hoa, cùng các tài liệu
nguyên bản khác, kể cả tiểu sử Ngô Ðình Diệm do cơ quan an ninh Mỹ biên soạn
ngày 18/4/1957, nhân dịp Diệm sắp qua thăm Mỹ.(3) Tiểu sử này, dĩ nhiên, không
đầy đủ.
Jean Baptiste Ngô Đình Diệm
(1897-1963)
I. SƠ LƯỢC GIA THẾ:
Ngô Ðình Diệm, ngoài tên “thánh” Jean-Baptiste [Gioan
Bao-xi-ta], còn có bí danh Nguyễn Bá
Chinh. Theo an ninh Pháp, Diệm sinh ngày 27/7/1897 tại Ðại Phong [Phuong]
hay Ðại Phong Lộc, huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình.(4)
Cha là Ngô Ðình Khả (1856-1914), một tín đồ Ki-tô tân tòng,
xuất thân thông ngôn cho Pháp, sau
đổi qua ngạch quan lại Việt, lên tới Ðề đốc Kinh thành (1905-1907).(5) “Mẹ” là
Phạm Thị Thân.
Anh em Diệm khá đông, gồm sáu trai, hai gái. Khôi, con vợ lớn, là anh cả. Diệm, theo lời đồn, đứng hàng em của Khôi,
Thục, và anh Ngô Thị Hiệp (bà Cả Lễ; chồng là Nguyễn Văn Ấm, sinh ra cố Hồng y
Nguyễn Văn Thuận), dù tuổi “chính thức”
Diệm lớn hơn Thục hơn hai tháng. Dưới Diệm có Nhu, Cẩn, Luyện, cùng một
người em gái khác. Vì Khả chết khi Diệm còn nhỏ (17 tuổi khai sinh), Khôi quyền
huynh thế phụ. Khôi chết, Thục có ảnh hưởng nhất trên Diệm, với cương vị một
Giám mục.
Cha đỡ đầu là Nguyễn Hữu Bài
(1863-1935), nhạc phụ Khôi, một thủ hạ cũ của Khả, cũng một Thượng thư uy quyền
và đầy mưu mô tại Huế từ 1907 tới 1933. Theo tài liệu Pháp, Bài đã nuôi dưỡng
Diệm từ nhỏ. Bài cũng có ý định chọn Diệm làm con rể, nhưng vì lý do nào đó
không thành. Con gái Bài sau đi tu dòng kín Carmel.(6)
Sau khi lên cầm quyền, Diệm đổi ngày
sinh thành 3/1/1901. Chẳng hiểu tại sao có việc “thay đổi” hộ tịch trên. Việc thay tên, đổi họ và ngày sinh tháng đẻ
là việc thường xảy ra ở Việt Nam. Trước hết, vào cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ
XX, việc khai hộ tịch không được kiểm soát chặt chẽ. Viên chức xã ấp tại thôn
quê không đặt nặng sự chính xác về ngày sinh của trẻ em. Cha mẹ nhiều khi khai
rút tuổi con cái vì mục đích nào đó, như đi học hay khai sưu thuế. Hơn nữa,
việc đổi từ ngày nhật (dương) lịch qua nguyệt (âm) lịch rất phức tạp, đôi khi
cha mẹ dùng ngày tháng sinh nguyệt lịch làm ngày tháng nhật lịch, rồi dùng năm
nhật lịch tương đương trong khai sinh. Thông thường, cha mẹ hay khai rút tuổi
các con. Nhưng rất hiếm trường hợp cha mẹ khai con mình tăng thêm ba bốn tuổi,
ngoại trừ có biệt lệ nào đó. Phải chăng Diệm rơi vào trường hợp đặc biệt này,
vì nếu sinh năm 1901, Diệm không thể nào được tập ấm chức Cửu phẩm và làm việc
tại Tân Thư Viện Huế năm 1917, khi mới …
16 tuổi.(7)
Theo Luyện, em út trong gia đình họ
Ngô, Diệm đã khai tăng bốn tuổi (tức từ 16 lên 20 tuổi) để có thể vào trường
Hậu Bổ. Ðiều này khó tin, vì mãi tới năm 1918-1919, Diệm mới học trường Hậu
bổ.(8)
Luyện cũng là nhân chứng không đáng tin cậy. Thí dụ như khi được hỏi về
vai trò chính trị của Luyện, Luyện nói được lệnh “đứng ngoài chính trị.” Thực tế, từ thập niên 1940, Luyện đã hoạt
động với các tổ chức thân Nhật, và
trở thành đặc sứ của Diệm với Bảo Ðại, trước khi nắm chức Ðại sứ tại London.
Luyện cũng tung ra những tin đồn về giao tình giữa Luyện và Bảo Ðại, mà theo
Bảo Ðại không hề có.( 9) Và, như đã lược nhắc, Diệm được tập ấm chức Cửu phẩm,
làm việc tại Tân Thư Viện Huế từ năm 1917, trước khi vào trường Hậu Bổ.
Một ký giả ngoại quốc, Robert
Sharplen, ghi rằng theo Diệm, khoảng năm 1915-1916, Diệm đã man khai hộ tịch để
dự thi bằng tương đương tốt nghiệp trung học.(10) Chi tiết này không sát sự
thực. Mãi tới giữa thập niên 1920, mới có những cuộc thi lấy bằng Tú Tài I và
II chương trình Pháp-Nam. Bằng cấp mà Diệm thi tương đương chỉ là bằng Cao đẳng tiểu học (Diplôme), gần tương
đương với bằng Trung học phổ thông đệ nhất cấp. Tài liệu thành văn cũng
chứng minh Diệm đã vào quan trường từ năm 1916 hoặc 1917, với chức cửu phẩm tập
ấm tại Tân Thư viện, mà không phải sau khi đã tốt nghiệp trường Luật Hà Nội năm
1921 như Diệm khoa trương hay
Sharplen ghi. Thực tế, Diệm vào trường Hậu bổ từ niên khóa 1918-1919, và chỉ
học tại Hà Nội một niên khóa 1920-1921.
Một động lực trong việc sửa đổi hộ
tịch có lẽ là để hợp thức hóa vai “em” của Diệm với Giám Mục Thục–Thục sinh
ngày 6/10/1897 tại Phước Quả, Thừa Thiên, thua
Diệm hơn hai tháng. Nhưng cũng có thể, và điều này cần được tra cứu thêm,
Diệm không man khai hộ tịch, mà rất đơn giản là không cùng mẹ (Phạm Thị Thân) với anh chị em khác. Có lẽ vì muốn
che đậy bí ẩn này, tiểu sử Khôi và Thục trong tập Vua chúa và người quí phái
Ðông Dương [Souverains et Notabilités] năm 1943 không ghi ngày sinh.(11)
Tài liệu văn khố Pháp cũng ghi Diệm
sinh tại Ðại Phong Lộc, Lệ Thủy, Quảng Bình, mà không phải Phước Quả, Thừa
Thiên, giống như Thục, Nhu, Cẩn, Luyện, v.. v... Ðịa danh “Ðại Phong Lộc” từng được khai là nơi sinh của Khôi, anh cả trong
gia đình, con Khả và người vợ lớn đã chết sớm, trước khi Khả lấy bà kế thất tên
Thân.(12)
Rất ít chi tiết về học vấn Diệm được công bố. Có tin Diệm tự học ở nhà,
rồi học trường Pellerin ở Huế, và tốt nghiệp Diplôme. Diệm biết cả chữ Nho [Hán
Việt]. Lại có tin Diệm học ở chủng viện, năm 1915, định đi tu, nhưng sau đó bỏ
dở nửa chừng.(13) Bởi thế, nhiều tài liệu cho rằng Diệm thuộc loại “religious fanatic” [cuồng đạo]. (14)
II. “BÁT CƠM” BẢO HỘ PHÁP:
Trong nỗ lực biến hóa Ngô Ðình Diệm
thành một “lãnh tụ anh minh” đủ sức đương đầu với Hồ Chí Minh–kiểu “ăn Ngô thì no, ăn Hồ thì đói”–cơ quan
tuyên truyền Mỹ và Nam Việt Nam tô chuốt cho Diệm những bảng hiệu như “yêu
nước, chống Pháp,” v.. v... “Yêu nước” là một nhận xét khó lượng định, vì chỉ
có mỗi cá nhân mới tự biết rõ mình yêu nước hay không. Có nhiều cách biểu lộ
lòng yêu nước, nên khó thể sử dụng một hệ thống lượng giá cố định. Tấm huy
chương nào cũng có mặt trái của nó. “Chống Pháp” thì dễ lượng định hơn. Tinh
thần chống Pháp của Diệm, hay họ Ngô, chỉ
là những triển biến vào khoảng cuối đời, và động lực không hẳn do lòng yêu nước
thuần túy, mà nặng về tôn giáo cùng quyền lợi bản thân và dòng họ. Thực ra,
Diệm xuất thân từ một gia đình trung gian bản xứ Ki-tô, phục vụ Bảo hộ Pháp rất tận tụy. Khả, cha Diệm, từng lên tới chức
chánh thông ngôn tòa Khâm sứ Huế dưới thời Pierre Rheinart des Essarts, rồi
chuyển sang làm thương biện Viện Cơ Mật. Ngày 10/4/1892 Khả dịch công văn của
triều Huế xin Toàn quyền Jean de Lanessan đừng gửi ra Huế những người như
Petrus [Key], Nguyễn Trọng Tạo, Lê Duy Hinh, hay Diệp Văn Cương, v.. v... Khả cũng tham dự chiến dịch đánh phá phong
trào kháng Pháp tại Hà Tĩnh-Quảng Bình của Ngự sử Phan Ðình Phùng
(1847-1895) trong hai năm 1895-1896, và được đặc cách lên Thái thường tự khanh
(Chánh tam phẩm) năm 1896, sau khi hài cốt Ngự sử Phùng bị đốt thành tro, ném
xuống sông Lam “theo [lối trừng phạt] truyền thống.”(15)
Sau một thời gian làm Phó Giám đốc
trường Quốc Học Huế, đặc trách nhà cửa,
lương bổng và hành chính, Khả được chức Ðề đốc kinh thành, lo bảo vệ và
kiểm soát Thành Thái (1889-1907), cầm đầu một toán thân binh cạo răng trắng,
hớt tóc ngắn, mang súng trường, nhưng nhiệm vụ chính yếu–nếu tin được báo cáo
của Hiến binh Pháp–chỉ để giúp vua lùng
sục và bắt cóc gái đẹp quanh kinh thành. Sau khi về hưu, Khả được hàm
Thượng thư.(16)
Khôi, anh cả họ Ngô, bắt đầu “tham
chánh” năm 1910, sau khi tốt nghiệp trường Hậu bổ. Khoảng 6 năm đầu, Khôi làm
tại văn phòng Bộ Công do cha vợ làm Thượng thư. Sau ngày tiếp tay cho Khải Ðịnh
(1916-1925) lên ngôi, Bài được thăng Thượng thư Bộ Lại, và Khôi bắt đầu đi ngồi
huyện, phủ, rồi lên tới Bố chính, Tuần vũ, Tổng đốc khá nhanh.
Diệm thì năm 1917 được tập ấm chức Cửu
phẩm, làm việc tại Tân thư viện Huế (tức Musée Khải Ðịnh sau này), nơi đặt trụ
sở Hội Bạn của Cố đô Huế, và có bài đăng báo Bulletin des Amis de Vieux Hué [Ðô thành hiếu cổ]. Năm 1918-1919,
Diệm vào trường Hậu bổ Huế. Người đỡ đầu có lẽ là Nguyễn Ðình Hòe, một phụ tá
cũ của Khả trong chiến dịch truy giết Ngự sử Phùng, lúc đó làm Giám đốc trường
(năm 1921 giữ chức Tổng thư ký Viện Cơ Mật). Thời gian này, triều đình đã bỏ
lối thi Hương và thi Hội cũ, và trường Hậu bổ mở thêm phân khoa “pháp chính”
[hành chính và luật] của trường Ðại học Hà Nội. Học viên học tại Huế hai năm
đầu, và năm thứ ba phải ra Hà Nội. Có lẽ Diệm được chuyển qua chương trình này.
Tốt nghiệp, nhờ sự nâng đỡ của Thượng
thư Bài, năm 1922 Diệm được bổ nhậm ngay. Năm 1929 [1926?], Diệm lên tới chức
đầu tỉnh, Quản đạo Ninh Thuận (Phan Rang), rồi Tuần Vũ Bình Thuận (Phan Thiết).
Ðược cấp trên đặc biệt chú ý vì thanh liêm và tinh thần diệt Cộng cao. Một nhân
chứng ghi nhận rằng Diệm, khi làm quản đạo Ninh Thuận, ngoài những ngon tra tấn quen thuộc như tra điện, kìm kẹp, còn bắt tù
nhân Cộng Sản vuốt lạt tre, hay dùng đèn cầy [nến] đốt hậu môn để lấy khẩu cung.
Ít nhất 7 trong số 500 tù nhân Cộng Sản bị tra tấn đến chết.(17)
Có lẽ vì thế, theo Giám Mục Thục, Cộng
Sản đã thuê một sát thủ ra tận Phan Rang mưu sát Diệm, nhưng Diệm chỉ bị
thương.(18)
Tóm lại, từ Khả xuống Khôi, rồi Diệm, tinh thần phục vụ và lòng trung thành với
Pháp khá vững chắc. Khôi từng nhờ
Nhu nói với Tổng Giám Ðốc Cảnh Sát Paul Arnoux ngày 18/8/1944 tại Huế rằng
Khôi “xin thề trên thập tự giá“ là lúc nào cũng coi Bảo hộ Pháp như “bát cơm”
[bol de riz] của họ Ngô. Khôi cũng thường nói với Diệm rằng sở dĩ người
Pháp [Khâm sứ Emille Grandjean] không ưa vì “[họ Ngô] quá toàn vẹn,” và “Phạm
Quỳnh (1892-1945) thì khôn khéo, nên được cả Pháp lẫn Nhật quảng cáo tài
năng.”(19)
Bản tóm lược rõ ràng nhất công lao và
lòng trung thành với Bảo hộ Pháp của họ Ngô, cũng như cá nhân Diệm, do Giám mục
Thục trình lên Toàn quyền Jean Decoux ngày 21/8/1944:
Các anh em tôi cũng liên tục dâng
hiến mạng sống họ cho nước Pháp trong dịp Cộng Sản nổi loạn. Diệm, em tôi,
đã ngã xuống vì những viên đạn súng lục của một người Tàu Chợ Lớn, được gửi tới
Phan Rang, nơi Diệm hăng say ngăn chặn sự xâm nhập của các cán bộ Cộng Sản từ
Nam Kỳ [Mes
frères, eux mêmes ont exposé leur vie continuellement pour la France lors de la
révolte communiste. Mon cadet Diệm a failli tomber sous les coups de révolver
d’un chinois de Cholon, envoyé à cet effet à Phan Rang, où Diệm défendait
énergétiquement l’entrée de l’Annam aux émissaires communistes envoyées de la
Cochinchine]. . (19bís)
Thư của Giám mục Pêrê Ngô Đình Thục gửi Toàn quyền Decoux ngày 21/8/1944
khẳng định
truyền thống phục vụ nền Bảo hộ Pháp của gia đình họ Ngô
Dấu mốc quan trọng trong sự nghiệp
“yêu nước, chống Pháp” của Diệm, là cuộc “đảo chính cung đình” ngày 2/5/1933.
Ngày này, Toàn quyền Pierre Pasquier (12/1928-1/1934) và Quyền Khâm sứ Léon
Thibaudeau (2/1933-7/1934) đột ngột bắt Bài và toàn bộ nội các về hưu. Theo báo
Tiếng Dân, tin trên chấn động dư luận
Huế. Bẽ bàng nhất cho Bài là ngay chính Bài cùng các Thượng thư không hề được
báo trước. Và, khi Thibaudeau tuyên bố danh sách nội các mới, có Trần Thanh Ðạt
thông dịch qua tiếng Việt, một số người vẫn chưa kịp về đến kinh đô.(20)
Nguyên Pasquier, với sự thỏa thuận của
Albert Sarraut, quyết thực hiện một cuộc “đại cải cách” ở An Nam, đánh bóng uy
tín vua Nguyễn để làm giảm bớt và điều-kiện-hóa các phong trào quốc gia mới–như
cuộc khởi nghĩa của Việt Nam Quốc Dân Ðảng năm 1930, và nhất là sự du nhập và
phát triển của phong trào Cộng Sản từ giữa thập niên 1920, bùng nổ thành những
cuộc bạo động, khủng bố tại các đồn điền miền Nam, cùng phong trào Sô Viết Nghệ
Tĩnh trong hai năm 1930-1931. Pasquier và Thibaudeau đoạn tuyệt với nhóm hợp
tác cựu trào (Nguyễn Hữu Bài, Ki-tô giáo). Nhóm này chủ trương đồng hóa và thống trị theo kế sách của Giám mục Paul
Puginier và Louis Caspar–nhằm Ki-tô hóa các vua quan rồi khiến toàn thể dân
Việt sẽ phải theo đạo, và vĩnh viễn trở thành “bạn của nước Pháp.” Từ thập niên 1890, nhóm hợp tác cựu trào
trở thành một thứ kiêu binh của cái mà Phạm Quỳnh cũng như Bảo Ðại gọi là “một văn phòng phụ thuộc nho nhỏ của Tòa Khâm,”
tức triều đình Huế, lúc nào cũng mang
công lao của khối giáo dân bản xứ trong việc thiết lập chế độ Bảo hộ ra áp lực
Pháp. Ngựa mới của Pasquier là phe tân trào (tiêu biểu bằng Phạm Quỳnh, Bùi
Bằng Ðoàn, Nguyễn Bá Trác, Nguyễn Thái Bạt, Lê Dư, v.. v...). Phe này chủ
trương hợp tác tinh thành, hay Pháp-Việt đề huề. Quan chức Pháp đã chọn phe tân
trào, vì chủ trương hợp tác có nhiều triển vọng thành công trước sự lớn mạnh
của các phong trào quốc gia mới. Trong khi đó, nhóm Quỳnh chấp nhận “tôn quân cũng là yêu nước,” tạm ngưng
lại đòi hỏi thể chế cộng hòa.(21) Ðể làm giảm sự bi phẫn của nhóm cựu trào,
Pasquier và Thibaudeau đặc cách Diệm–con nuôi của Bài [son fils putatif], cũng
một trong hai Tuần vũ thanh liêm, chống Cộng nhiệt tình nhất–lên làm Thượng thư
Bộ Lại.(22)
Một số mật báo viên ghi, và ngay chính Diệm đã man khai (ngày 24/12/1947
với Tổng lãnh sự Mỹ tại Hong Kong là George D. Hopper) rằng “Giệm” được làm
“quan đầu triều Bảo Ðại.”(23) Thực ra, từ tháng 5/1933, Bộ Lại mất đi ảnh hưởng
của những năm Bài được kiêm nhiệm chức Tổng lý [Chủ tịch Viện Cơ Mật], và chỉ
ngang hàng với các Bộ khác. Người có uy thế nhất là Phạm Quỳnh, Thượng thư Giáo
dục kiêm Ngự tiền Tổng lý của Bảo Ðại. Quỳnh không những chỉ chuyển lệnh của
Toàn quyền và Khâm sứ Pháp cho Bảo Ðại, mà còn đồng thời dịch, và thiết kế việc
thực thi các lệnh trên, cùng báo cáo kết quả lên Khâm sứ.
Thibaudeau còn cử Diệm làm Tổng Thư ký
Ủy ban Cải Cách, và yêu cầu Diệm làm tờ trình về kế hoạch canh tân Bộ Lại.
Diệm, có lẽ do ảnh hưởng của Bài, đưa ra 2 điều kiện: Phải thống nhất Bắc và
Trung Kỳ; tái bổ nhiệm một Tổng Trú sứ (Résident Général) cho Trung và Bắc Kỳ
như đã qui định trong Hoà ước 6/6/1884; và, cho Viện Dân biểu quyền thảo luận.(24)
Ðề nghị này giống hệt kế hoạch của Bài:
Muốn cải cách, việc đầu tiên phải hủy bỏ chức Thống sứ Hà Nội và Khâm sứ Huế
(tức tái sát nhập Bắc Kỳ vào An Nam), sau đó cho An Nam ngân sách riêng. Nói
cách khác, phải trở lại với Hiệp ước 6/6/1884–đòi hỏi mà Bài đã gieo xuống đầu
óc thơ dại của Duy Tân từ năm 1915-1916, đưa đến việc vua bị truất phế rồi đầy
qua Réunion cùng cựu hoàng Thành Thái (Bửu Lân) vào cuối năm 1916. Pasquier, dĩ
nhiên, không chấp thuận.
Ngày 9/7/1933, Diệm ra Quảng Trị ở với
cha nuôi ít ngày. Trở lại Huế, ngày 12/7, Diệm nạp cho Thibaudeau một bản sao
đơn từ chức đã trình lên Bảo Ðại. Lý do Diệm nêu ra là cơ cấu tổ chức hiện tại
không phù hợp với Hiệp ước 6/6/1884–Hiệp ước này qui định Pháp chỉ giữ một chế
độ bảo hộ kiểm soát (protectorat de contrôle) mà không phải bảo hộ trực tiếp
(protectorat direct).(25)
Thibaudeau gọi Bảo Ðại từ Ðà Lạt về
Huế giải quyết. Bảo Ðại bảo thẳng Diệm rằng không thể viện dẫn lý do chính trị
để từ chức, vì đó là hành động phản nghịch. Diệm đành viết lại đơn từ chức khác ngày 18/7, nêu lý do muốn dành thì
giờ cho việc tu hành. Lần này, Diệm được toại ý. Ngày 22/7, Thibaudeau đổi
Thái Văn Toản qua thay Diệm nắm bộ Lại, và đưa Tôn Thất Quảng, Tổng đốc Thanh
Hóa, mới lập công lớn trong việc đàn áp đẫm máu tại các tỉnh Bắc An Nam, lên
nắm Bộ Công và Nghi Lễ thay Toản.(26)
Ngay sau ngày Bài bị cách chức, vài tờ
báo Nam Kỳ công khai đả kích Pasquier. Theo một mật báo viên (Luật sư Lê Văn
Kim), những bài đả kích trên từ Huế chuyển vào Sài Gòn. Tháng 12/1933, Diệm còn
vào Sài Gòn gặp Nguyễn Phan Long, Lê Văn Kim, Jacques Lê Văn Ðức v.. v... bàn
thảo kế hoạch trả thù Pasquier và Thibaudeau. Tiếp đó, tờ La Tribune indochinoise [Diễn đàn Ðông Dương] và tờ La Lanterne ở Paris mở chiến dịch đòi
thay Pasquier bằng cựu Toàn quyền Alexandre Varenne (7/1925-11/1927) và đưa cựu
Khâm sứ Yves Châtel (6/1931-2/1933) trở lại Huế.
Biết được tin này, Pasquier truất hết
chức tước của Bài, Diệm và Pierre Nguyễn Ðệ, Bí thư riêng của Bảo Ðại, thuộc
một gia đình trung gian bản xứ Ki-tô nổi danh khác ở miền Bắc (Án sát Nguyễn
Liên). Diệm còn bị trục xuất khỏi Huế, chỉ định cư trú tại Quảng Bình.(27)
May mắn cho Diệm, ngày 15/1/1934,
Pasquier chết vì tai nạn máy bay trên không phận Paris. Năm sau, Bài chết tại
Quảng Trị. Toàn quyền René Robin (7/1934-1/1937) và Khâm sứ Maurice Graffeuil
(7/1934-5/1936, 4/1937-8/1941) phục hồi tước vị hàm [honoraire] cho Bài, Diệm
và Ðệ. Diệm được về Huế dạy trường Providence [Thiên hựu] do Linh mục Thục, “anh
trai” Diệm, làm Giám học.(28)
III. HỢP TÁC VỚI NHẬT:
Thế chiến thứ hai (1939-1945) và việc
Nhật xâm chiếm Ðông Dương từ hai năm 1940-1941 khiến Diệm và họ Ngô, do tham
vọng và ý muốn phục thù Pháp, đi tìm một
bát cơm hay thiên mệnh ngoại cường khác. Họ Ngô bí mật yểm trợ Hoàng thân
Cường Ðể và từ năm 1942, công khai hợp
tác với Hiến binh Nhật (Kempeitai). Huân,
con trai lớn của Khôi, làm thông ngôn cho Nhật. Trong khi đó, Nhu
(1910-1963) che chở cho hai con của Cường Ðể, Tráng Ðinh và Tráng Liệt, tại văn
khố Tòa Khâm sứ Huế. Những người thân Diệm cũng làm việc tại tòa Lãnh sự Nhật
từ năm 1942. Ðầu năm 1943, Y sĩ Trương Kế An, thủ lãnh Liên Ðoàn Ái Quốc Việt
Nam, gặp Diệm ở Hà Nội. Pierre Ðệ, anh rể hụt của Nhu, cũng có mặt.(29)
Trong khi đó, Khôi cho Diệm dùng dinh
thự Tổng đốc Nam-Ngãi của mình để tiếp xúc với những cá nhân thân Nhật. Khôi
còn che chở cho tín đồ Cao Ðài (đang bị nghi ngờ thân Nhật, ủng hộ Cường Ðể)
trong vùng cai trị. Mật thám Pháp cũng tìm thấy trong nhà một người cháu họ của
Khôi ở Quảng Nam, Ngô Ðình Dậu (?),tài liệu liên quan đến Việt Nam Phục Quốc
Hội của Cường Ðể. Vì việc này, Khâm sứ Grandjean (6/1941-8/1944) chẳng những
không hồi âm thư chúc mừng của Khôi, mà trong buổi gặp mặt trên đèo Hải Vân,
còn bắt Khôi về hưu không được hàm Thượng thư. Tháng 1/1944, Grandjean còn cho
lệnh Bảo Ðại bí mật trục xuất Diệm khỏi Huế, chỉ định cư trú ở Quảng Bình. Anh em Diệm trút mọi hờn oán lên Quỳnh,
đương kim Tổng lý [Tể tướng] triều đình.(30)
Cường Để (1882-1951) – Phạm
Quỳnh (1892-1945)
Mùa Hè 1944, Mật thám Pháp khám phá ra
tổ chức Ðại Việt Phục Hưng của Diệm, gồm khoảng 50 đảng viên tích cực, kể cả
một số giáo sĩ; nằm ngay trong đội lính khố xanh (Garde indochinoise), cảnh
sát, công chức, v.. v... Một trong những lãnh tụ là Trần Văn Lý, Tuần vũ Hà
Tĩnh. Pháp bèn cho lệnh khám xét tư thất Diệm, nhưng Diệm đã sớm tẩu thoát.
Ngày 12/7, Trung úy Kuga Michio của Hiến binh Nhật bí mật đưa Diệm vào Ðà Nẵng,
rồi đáp phi cơ vào Sài Gòn. Trong thời gian ở miền Nam, Diệm lui tới với
Matsushita [Tùng Hạ] Mitsuhiro, Chủ công ty Dainan Koosi [Ðại Nam hay Dainan
Konsi], trưởng lưới tình báo dân sự của
Nhật, cũng người tự nhận là bạn thân của Cường Ðể.(31)
Một tháng sau, ngày 12/8, Nguyễn Huy
Tân, Cán sự Công chính ở Quảng Ngãi, một cán bộ của Diệm, khai rằng Nhật đã
chọn Diệm làm Thủ tướng, trong một chế độ quân chủ lập hiến mà người làm vua
không nhất thiết phải là Cường Ðể. Hai ngày sau, 14/8, Paul Arnoux, Giám đốc
Cảnh Sát, được lệnh bí mật khai thác Nhu và Khôi ngay tại Huế. Ngày 18/8,
Arnoux báo cáo rằng Nhu nhìn nhận việc
làm tội lỗi của Diệm, nhưng Khôi không dính líu, xin “thề trên thập tự giá” là chỉ muốn duy trì “bát cơm” Pháp.(32)
Ngày 20/8, vì tình hình Âu Châu đang
rối loạn, phe “Pháp tự do” của Charles de Gaulle đang tiến vào Paris, Decoux
đồng ý với đề nghị của Arnoux là chỉ trừng trị những cán bộ hạng trung, tránh
khiêu khích Nhật.
Trong khi đó, ngày 21/8, Thục – đã
được thụ phong chức Giám mục Vĩnh Long từ năm 1938 –viết thư xin Decoux nghĩ
đến công lao hãn mã của cha mình với chính phủ Pháp trong việc “đánh dẹp phản loạn” (tức những phong trào Văn Thân và Cần Vương kháng Pháp)
khi xét xử Khôi và Diệm. Anh em họ Ngô, Thục nhấn mạnh, cũng đã nhiều lần dâng hiến thân tâm cho Bảo hộ Pháp, bất kể
mạng sống. Chẳng hiểu vì công lao của Khả (đặc cách từ Thương biện Cơ Mật
viện lên Thái thường tự khanh, năm 1896), vị thế Giám Mục của Thục, thành tích
phục vụ Bảo hộ của anh em Diệm-Khôi, hay vì mối lo ngại cho sự an nguy chính
bản thân Decoux, Pháp không truy cứu việc này.(33)
Cuối năm 1944, đầu năm 1945, Diệm tá
túc trong bệnh viện Chợ Quán, được trưng dụng làm trụ sở quân sự của Nhật, sau
này đổi tên thành bệnh viện bài lao Hồng Bàng. Tại đây, Diệm cùng Y sĩ Nguyễn
Xuân Chữ, Y sĩ Lê Toàn, Kỹ sư Vũ Văn An, Ký giả Vũ Ðình Dy (1906-1945) thành
lập Ủy Ban Kiến Quốc, phò trợ Cường Ðể. Cuối năm 1944, khi chuẩn bị kế hoạch
Mago để lật đổ chế độ thân Vichy Decoux, Hiến binh Nhật đã dự trù Diệm sẽ trở
thành Thủ tướng. Tuy nhiên, tình hình ngày một đổi thay mau chóng. Tướng
Tsuchihashi Yuitsu, Tư lệnh Quân đoàn 38–lực lượng trách nhiệm phòng thủ Ðông
Dương chống lại cuộc đổ quân Ðồng Minh–dồn mọi nỗ lực cho mục tiêu quân sự hơn
chính trị. Bởi thế Tsuchihashi giữ Bảo Ðại làm vua một nước Việt Nam “độc lập
trong Khối thịnh vượng chung Ðại Ðông Á,” chống việc đưa Cường Ðể về nước. Nhưng
nước Việt Nam này trên thực tế chỉ bao gồm 12 tỉnh miền Trung, vì Nam Kỳ cũng
như Bắc Kỳ được trù liệu sẽ trở thành hai trung tâm tử thủ chống lại sự đổ bộ
của quân Ðồng Minh. Giám đốc Kempeitai yêu cầu phe Diệm-Chữ tham gia chính phủ
độc lập tại Huế, nhưng cả hai đều từ chối.(34)
Tháng 3/1945, sau cuộc Hành quân Meigo
(9-10/3/1945) loại bỏ Decoux, Bảo Ðại hai lần nhờ Nhật mời Diệm làm Thủ tướng,
nhưng không có hồi âm. Mãi sau này, Bảo Ðại mới được Nhật thông báo rằng họ
không muốn dùng Diệm. Thay vào đó, tháng 4/1945, Trần Trọng Kim (1883-1952)
được đưa từ Krung Thêp về Huế làm Tổng lý nội các [Thủ tướng] “Ðế quốc Việt
Nam” (4-8/1945).(35)
Nhóm Diệm-Chữ đã bị phân tán ra khắp
ba miền. Y sĩ Chữ về lại Nam Ðịnh, rồi Hà Nội, và cuối cùng trở thành Chủ tịch
Ủy Ban Lãnh Ðạo Chính trị miền Bắc, thay Khâm sai Phan Kế Toại từ chức vào giữa
tháng 8/1945. Diệm về lại Vĩnh Long, tá túc trong giáo phận của Giám mục Thục.(36)
IV. DIỆM & VIỆT MINH:
Mặc dù sau này Ngô Ðình Diệm thường
tuyên bố tại Việt Nam chỉ nổi danh thua Hồ Chí Minh, khoảng thời gian từ tháng
8/1945 tới đầu năm 1947 là một giai đoạn bí mật nhất đời Diệm.
Như chúng ta đã biết, ngày 19/8/1945,
Việt Minh lên nắm chính quyền ở Hà Nội. Ngày 25/8, Bảo Ðại ra thông cáo thoái
vị. Khôi và con trai trưởng là Huân bị Việt Minh bắt, rồi thủ tiêu ở vùng Phong
Ðiền, Thừa Thiên. Riêng Diệm và Thục đều có tin bị Việt Minh bắt. Thục, thực ra
được tự do sống ở vùng Vĩnh Long, dưới sự che chở của viên chức Việt Minh.
Tháng 10/1945, Thục định ra Bắc, nhưng bị quân Bri-tên chặn bắt ở Biên Hòa, rồi
sau đó âm thầm trở lại giáo phận Vĩnh Long.
Phần Diệm, tông tích bất minh. Ngày 7/5/1953, trong buổi ăn trưa và thảo luận
[lunch talks] về tình hình Ðông Dương tại Tối Cao Pháp Viện Mỹ, Diệm tuyên bố
từng bị Hồ “cô lập” trong một làng thiểu số năm 1946. Sau 6 tháng, Hồ yêu cầu
Diệm tham gia chính phủ, nhưng Diệm trả lời rằng vì biết Hồ là CS, Diệm muốn
được toàn quyền và thông báo mọi tin tức. Những người ủng hộ Diệm đòi Diệm phải
được giao Bộ Nội Vụ và nắm ngành Cảnh Sát. Hồ do dự ít tuần, rồi cuối cùng từ
chối.( 38) Gần một thập niên sau, ngày 16/1/1962, Diệm còn lập lại chi tiết bị
bắt giữ ở vùng thượng du Bắc Việt với các viên chức Mỹ tại Sài Gòn.(39)
Diệm còn tuyên bố rằng Diệm bị Việt
Minh bắt vào tháng 9/1945, khi từ Sài Gòn ra Huế ngăn Bảo Ðại đừng theo Hồ. Sau
đó, bị giải lên thượng du gần biên giới Hoa-Việt, suýt chết vì bệnh sốt rét.
Sáu tháng sau, HCM mang Diệm về Hà Nội, thuyết phục Diệm theo mình. Diệm không
đồng ý, HCM bèn thả Diệm. Sau này, Hoàng Tùng cho rằng tha Diệm là một sai
lầm.(40)
Việc Diệm bị Việt Minh bắt được nhiều
nguồn tin khác xác nhận. Hạ tuần tháng 11/1945, Giám mục Thục khai với Pháp
rằng Khôi và Diệm đã bị Việt Minh bắt và có thể đã bị xử bắn.(41) Ngày
28/12/1945, Tổng Giám mục Antonin Drapier cũng viết cho Trưởng đoàn Truyền giáo
Hải ngoại Pháp ở Sài Gòn, rằng Diệm đã bị Việt Minh bắt.(42)
Một nguồn tin khác nữa ghi vào khoảng
tháng 6/1946, khi Diệm đến ở nhà Linh mục Ðộ, chính xứ Tuy Hoà, cán bộ VM đã
“khéo léo” mời được Diệm lên miền Thượng (Mọi). Người gia nhân thoát chạy ra
Phát Diệm, xin Giám mục Lê Hữu Từ giúp, sợ bị giống như Khôi. Từ bèn cùng Linh
mục Phạm Quang Hàm và Dân biểu Ngô Tử Ha vào Bắc bộ phủ xin Hồ tha Diệm. Chính
Hồ cũng không biết việc này, và hứa sẽ can thiệp. Khoảng một tháng sau, Diệm về
tới Hà Nội, Võ Nguyên Giáp cho gọi Nhu tới lĩnh về.(43)
Những chi tiết quanh việc Diệm bị Việt
Minh bắt có nhiều nghi vấn:
1. Xét về ngày tháng Diệm bị
bắt, có phần không ổn.
1a. Tài liệu Bộ Ngoại Giao Mỹ và Karnow
dẫn lời Diệm là Diệm bị bắt vào tháng 9/1945, và trả tự do vào khoảng tháng
3/1946.
1b. Ngày tháng mà Lê Hữu Từ hoặc tác giả
viết hồi ký cho Từ ghi là Diệm bị bắt đúng vào giai đoạn HCM đang ở Pháp, và
mãi tới ngày 22/10/1946 Hồ mới về tới Hà Nội. Vậy Từ can thiệp vào dịp nào?
(Diệm cũng không hề nhắc đến việc được Từ và Hạ can thiệp).
1c. Ngay chính Diệm, ngày 7/5/1953, chỉ
nói mơ hồ đã bị “cô lập” tại một làng thiểu số trong 6 tháng vào năm 1946.
2. Không ai rõ Diệm được tha ngày nào,
và cũng chẳng ai rõ hành tung Diệm từ lúc được tự do tới khi xuất hiện ở Hà Nội
vào đầu năm 1947 trong bộ đồ tu hành.
3. Theo thư gửi Decoux đề ngày
21/8/1944, Thục nói Cộng Sản từng sai sát thủ người Hoa ra Phan Rang mưu sát
Diệm, nhưng Diệm chỉ bị thương. Nếu bắt được Diệm năm 1945 hoặc 1946, ngay tại
miền Trung, cách nào Cộng Sản tha Diệm? Người ta chưa quên số phận những Tạ Thu
Thâu, Vũ Ðình Dy, v.. v... ở Quảng Ngãi; và nhiều cảnh “mò tôm” khác khắp ba
miền.
4. Anh em Diệm rất thành thạo thủ thuật
tự đánh bóng (kiểu Diệm “làm Tể tướng cho Bảo Ðại,” Khả làm “thượng thư đầu
triều Thành Thái,” hay “đầy vua không Khả”). Thành tích “bị giam lỏng” tại miền
thượng du năm 1946, hay đòi Hồ cho nắm Bộ Nội vụ có thể chỉ để tăng thêm vốn cho việc rao bán lập trường chống Cộng hầu
xin viện trợ Mỹ của Diệm. Hy vọng sẽ có dấu vết việc bị “cô lập” này trong
văn khố Ðảng Cộng Sản Việt Nam hay Pháp.
Cho tới khi có tài liệu rõ ràng, có
thể tin Diệm đã trốn trong nhà tu
[Redemptoristes hay Dòng Cứu thế] ở Huế như tài liệu văn khố Pháp ghi nhận.
……..
… Từ năm 1947, Ngô Ðình Diệm đã liên
lạc với viên chức Mỹ, xin viện trợ. Ðây chẳng phải là sáng kiến mới mẻ gì của
họ Ngô. Hầu hết chính khách Việt đều nhận rõ vị thế siêu cường của Mỹ, nhưng
không có đường giây móc nối như anh em họ Ngô. Ngay chính Hồ cũng đã hoạt động
cho Sở tình báo chiến lược [OSS] Mỹ trong hai năm 1944-1945, và lực lượng võ
trang đầu tiên của Việt Minh được OSS Mỹ trang bị và huấn luyện. Hồ còn được
đặt cho bí danh Lucius. Ðiều khiến Mỹ
e ngại, và cuối cùng theo đuổi chính sách "hands-off" [không nhúng
tay] khi Pháp tái xâm lăng Việt Nam là thành tích hoạt động cho QTCS của Hồ.
Việc Hồ quyết định giải tán Ðảng CSÐD từ ngày 11/11/1945 vẫn chưa đủ thuyết
phục các viên chức Mỹ–những người vẫn chủ trương chỉ có Âu Châu mới đáng chú
tâm hàng đầu.(82) Dẫu vậy, trong hai năm 1945-1946, chính phủ Truman vẫn dành
cho Hồ và Việt Minh đôi chút thiện cảm. Có lẽ nhờ sự can thiệp của Mỹ, Moutet
đã đồng ý ký modus vivendi ngày
14/9/1946 cho Hồ an toàn trở lại Việt Nam vào hạ tuần tháng 10/1946. Hơn một
tháng sau, dù biết rõ liên hệ giữa Hồ với QTCS, Bộ Ngoại Giao Mỹ vẫn chỉ thị
cho đặc sứ Moffat tìm cách gặp Hồ để giải quyết sự khác biệt Việt-Pháp bằng
đường lối ngoại giao.(83)
Sau khi Bollaert ký thông cáo chung Hạ
Long (6-7/12/1947) với Bảo Ðại, ngày 21/12, Diệm cùng Trần Văn Lý lên Hong Kong
gặp cựu hoàng. Trước khi qua Geneva ngày 24/12, Bảo Ðại ủy Diệm về nước tham
khảo ý kiến các phe phái để thành lập chính phủ thống nhất. Diệm từ chối vì
những nhượng bộ của Pháp quá ít. Ngày 26/12, Diệm trở lại Sài Gòn chờ đợi tình
thế chuyển biến.
Ðiều ít ai biết là phía sau hậu
trường, ngày 24/12/1947, Diệm bí mật gặp Tổng lãnh sự Mỹ tại Hong Kong là
George D. Hopper, trình bày về nội tình VN và giải pháp Bảo Ðại. Mục đích chính
của "Giệm," theo Hopper, là xin viện trợ Mỹ. Hopper chỉ ghi nhận mà
không hứa hẹn gì.(84)
Tại Việt Nam, đa số các chính khách
chống Cộng đã tạm thời thỏa mãn. Ngày 25/12, mặc dù không ưa Xuân, Hoạch thành
lập Việt Nam Quốc Gia Liên Hiệp để ủng hộ "giải pháp Bảo Ðại."(85)
Riêng Diệm, qua đường giây Giám mục
Thục, tổ chức một nhóm chống Cộng thân Mỹ. Tại miền Bắc, Diệm có những thân hữu
cũ như Trần Trung Dung, Nguyễn Xuân Chữ, Nguyễn Ðình Thuần, v.. v... Tại miền
Trung, Trần Văn Lý thành lập Ðảng Xã Hội Công Giáo. Tại miền Nam, Diệm được
Nguyễn Phước Hậu, Bertin, Nguyễn Bửu, Trần Tử Hoàng, v.. v... yểm trợ.(86)
Tuy nhiên, vai trò Diệm bị lu mờ trước
những khuôn mặt được Pháp chọn lựa. Một trong những lý do là thành tích hợp tác với Nhật của Diệm.
Chuyến viếng thăm Sài Gòn ngày
25/5/1948 của Hồng y Francis Spellman mở
thêm đầu mối liên hệ với Mỹ cho anh em Diệm. TGM Sài Gòn, Cassaigne, mời
Thục tham dự buổi tiếp đón Spellman.(87) Trong tháng 6/1948, Trần Văn Lý chính
thức thành lập Ðảng Xã Hội Công Giáo, do Thục bảo trợ. Diệm được coi như lãnh
tụ tối cao của đảng này.( 88) Tại Ðà Lạt, Nhu cùng nhóm Linh mục Parrell tụ họp
hạt nhân đầu tiên của chủ thuyết "Nhân vị." Thuyết này dựa theo
thuyết Personalisme [Nhân vị] của
Emmanuel Mounier, đặt trên cơ bản thần
quyền Ki-tô giáo.
Hồng y Giám đốc Tuyên Úy
Quân đội Mỹ Francis Spellman (1889-1967)
và Giáo hoàng
Pius XII (1939-1945)
… Ngày, 15/7/1949, Giáo hoàng Pius XII
(1939-1958) ra lệnh "rút thông công" bất cứ ai có liên hệ với Cộng
Sản. Thánh lệnh này phần nào giải tỏa mối lo ngại của Diệm, nhưng Diệm vẫn chưa
chịu hợp tác với Bảo Ðại. Trong khi đó, các cộng đồng Ki-tô ngày một nghiêng về
phía Thế giới Tự Do, thắp hồng "cuộc
thánh chiến" chống Cộng Sản.
Ngày 21/9, Diệm về Huế, sống ở nhà Ngô
Ðình Cẩn (1911-1964), em trai áp út. Ngày 22/11–trong khi Hồng quân Trung Cộng
đang tiến sát dần tới biên giới Việt-Hoa–Diệm rời Huế vào Sài Gòn, rồi Vĩnh
Long, và Ðà Lạt (2/1950).
Tháng 3/1950, Giám mục Từ tại Phát
Diệm sai Lê Quang Luật vào Nam yêu cầu Diệm đừng "chùm chăn" và
"ngang bướng" nữa, cần yểm trợ Bảo Ðại.(122) Ngày 9/4/1950, Tổng lãnh
sự Mỹ Edmund Gullion, XLTV Ðại sứ, báo cáo chính phủ Nguyễn Phan Long sắp đổ và
Trần Văn Hữu có thể lên thay. Gullion nghĩ rằng Pháp hẳn muốn Diệm, nhưng Bảo
Ðại không đồng ý.
Giữa năm 1950, Diệm có ý định thành
lập một lực lượng thứ ba, thân Mỹ, chống Pháp để lôi kéo những người bất mãn
trong hàng ngũ Việt Minh. Cuối tháng 6/1950, tổ chức Phong Trào Quốc Gia Quá
Khích ra đời ở Trung và Nam Việt, có liên hệ với Diệm.
V… "LÊ GÓT NƠI QUÊ NGƯỜI":
Trong bài hát "Suy Tôn Ngô Tổng Thống," để tô hồng
cho thành tích cách mạng của Diệm, nhà văn Thanh Nam viết: "Ai bao năm
từng lê gót nơi quê người, cứu đất nước, v.. v..." Thực tế, cuộc hành trình ra ngoại quốc của Diệm
chẳng có vẻ gì gian khổ. Trước hết, qua Mỹ, được gặp gỡ những nhân vật
quyền thế; rồi qua Vatican gặp Giáo hoàng Pius XII; trở lại Mỹ, tu học ở các tu
viện và diễn thuyết đó đây; và cuối cùng qua Belgium, vận động làm Thủ tướng.
A. QUA MỸ XIN VIỆN TRỢ:
Ngày 18/6/1950, Giám mục Thục gặp XLTV
Ðại sứ Gullion tại Sài Gòn, xin giấy nhập cảnh Mỹ trên đường qua Roma dự năm
Thánh cho mình và Diệm. Tháng 7/1950, có tin Diệm nhiều lần bị Việt Minh đe dọa
đến tính mạng. Ngày 15/7, Diệm về Huế thăm mẹ bị đau nặng. Ngày 2/8, Diệm trở
lại Sài Gòn sau khi ghé ngang Ðà Nẵng. Ngày 14/8, Diệm cùng Thục rời Sài Gòn
trên tàu La Marseillaise. Gặp Cường Ðể ở Nhật, bàn việc thành lập một chính phủ
chống Cộng.(127)
Ngày 2/9, Diệm và Thục tới Mỹ. Hơn hai
tuần sau, ngày 21/9, William S. B. Lacy, Trưởng Nha Philippines và Ðông Nam Á,
tiếp Diệm và Thục. Thục tuyên bố phải
lập một quân đội quốc gia, lấy giáo dân Ki-tô làm hạt nhân để không sợ đào
ngũ mang súng hàng VM. Lacy nhận xét rằng Thục
mới là phát ngôn chính, trong khi Diệm chỉ tán thưởng ý kiến Thục.(128)
Ngày 15/10, Diệm và Thục rời Mỹ qua
Paris. Sau đó, xuống Roma, rồi trở lại Paris vào trung tuần tháng 11/1950. Ngày
8/12/1950, Thục rời Âu Châu trở lại Việt Nam. Cuối tháng đó, Diệm, qua trung
gian Bửu Kĩnh, Nghị viên Hội Ðồng Liên Hiệp Pháp, gửi cho Bảo Ðại một thư
riêng, đề nghị một chương trình hoạt động.(129) Sau đó Diệm lại sang Mỹ. Ngày
15/1/1951, Diệm khai với nhân viên Bộ Ngoại Giao Mỹ là mới từ Paris qua được
khoảng một tháng để nghiên cứu về giáo lý và cơ cấu chính quyền Mỹ. Nói thêm là
đã cho Bảo Ðại biết sẵn sàng làm Thủ Tướng với một số điều kiện.(130)
Trong thời gian ở Mỹ, nhờ sự che chở
của Francis Spellman, Hồng Y Giám đốc
Tuyên úy Ki-tô Roma trong quân đội Mỹ, Diệm tá túc tại Tu viện Maryknoll,
thuộc tỉnh Lakewood, tiểu bang New Jersey. Có dịp làm quen với Thẩm phán Tối
cao Pháp viện William O. Douglas, nhiều Thượng Nghị sĩ, Dân biểu như Mike
Mansfield (Montana), John F. Kennedy (Massachusetts), Walter Judd, v.. v...
Diễn thuyết tại nhiều nơi. Từ ngày này, Diệm trở thành một lá bài "chí sĩ
quốc gia chống Cộng" trừ bị của Mỹ. Diệm cũng thường tuyên bố mình là nhân
vật được biết nhiều nhất tại Việt Nam, chỉ thua có Hồ Chí Minh.(131)
Hai chính trị gia quyền lực
Mỹ là Mike Mansfield và John Kennedy đã chấm lá bài Ngô Đình Diệm cho chính sách
Mỹ tại Đông Nam Á – Tu viện Maryknoll tại Lakewood, New Jersey
Ðại sứ Heath nhiều hơn một lần tiến cử
Diệm trong các cuộc khủng hoảng chính phủ, nhưng cả Bảo Ðại lẫn Pháp chỉ muốn
những người đáng tin cậy như Trần Văn Hữu, Nguyễn Văn Tâm, v.. v... Ngày
12/5/1952, chẳng hạn, Heath đề nghị cho Bảo Ðại nắm chức Thủ tướng, và mời
những người có khả năng như Nguyễn Hữu Trí hay Ngô Ðình Diệm vào nội các, với
chức vụ Phó Thủ Tướng; Pháp ra tuyên ngôn về một chính sách "tiến
hoá" (evolutionary statement) đối với nền độc lập của Việt Nam; sửa đổi
một số điều khoản lỗi thời trong Hiệp định 8/3/1949 và Hiệp ước Pau; đẩy mạnh
hơn việc thiết lập QÐVN.( 132) Khoảng một năm sau, ngày 28/4/1953, Heath nhận
xét rằng Bảo Ðại thông minh và hữu dụng như biểu hiệu đoàn kết Bắc-Nam, nhưng
không có khả năng cỡ Churchill và đại loại; Tâm nhiệt tình và hữu hiệu, nhưng
không đủ khả năng đoàn kết toàn quốc vì tính tình và lập trường thân Pháp; chỉ
còn lại hai ứng cử viên Diệm và Trí. Hiện tại, Diệm không được vì cứng cổ
[intransigence], chống Pháp, không được Bảo Ðại ưa, và không ưa Bảo Ðại. Chỉ
còn lại Trí xứng đáng nhất.(133)
B. QUA ÂU CHÂU:
Sau khi Joseph Laniel (6/1953-6/1954)
đồng ý trả độc lập hoàn toàn cho Việt Nam ngày 3/7/1953,(134) họ Ngô ráo riết
vận động lên cầm quyền. Tại Việt Nam, Thục và Nhu mở rộng hoạt động với các tổ
chức tôn giáo và chính trị. Nhu hợp tác với Lê Văn "Bảy" Viễn, Phạm
Công Tắc, v.. v... mưu toan thành lập một liên minh chính trị vào cuối năm
1953. Ðầu năm 1954, Thục, Nhu cùng nhóm Tinh
Thần của Y sĩ Trần Văn Ðỗ và Liên Ðoàn Thanh Lao Công của Trần Quốc Bửu lập
ra tổ chức tiền thân của Cần Lao Nhân Vị
Cách Mạng Ðảng, tức Cần Lao.(135)
Diệm cũng từ Mỹ sang Belgium lo tiếp
xúc Bảo Ðại, mới từ Việt Nam qua Pháp chữa bệnh sán gan. Ngày 14/5, Bảo Ðại gọi
Diệm qua Paris, và Diệm đồng ý hợp tác. Ba ngày sau, Bảo Ðại cử em trai Diệm,
Ngô Ðình Luyện, làm "đặc phái viên" tại Hội nghị Geneva để bí mật
tiếp xúc với Mỹ. Ngày 24/5, khi được nhân viên Tòa Ðại sứ Mỹ ở Paris tiếp kiến,
Diệm tiết lộ đã được Bảo Ðại ủy quyền về Việt Nam nghiên cứu việc thành lập một
chính phủ mới. Diệm dự định rời Pháp ngày 26/5, nhưng sau đó hủy bỏ.
Vua Bảo Đại và Ngoại trưởng Foster Dulles, hai người cuối
cùng quyết định
sự nghiệp
chính trị về làm Thủ tướng Việt Nam năm 1954 của ông Diệm.
Sau cuộc gặp gỡ này, Mỹ chấp thuận
Diệm, không phải vì Diệm là nhân vật lý
tưởng, mà vì những người tiền nhiệm quá kém cỏi, và Diệm có hậu thuẫn của một
số giáo mục Ki-tô. Tuy nhiên, Ngoại trưởng Dulles vẫn còn chủ trương khuyến
khích Pháp tiếp tục hiện diện ở Ðông Dương, nên chưa thuận yểm trợ trực tiếp
cho QGVN như Bảo Ðại và Diệm yêu cầu. Phần Bảo Ðại cũng được một nhóm cực hữu
Pháp áp lực đưa Diệm lên thay Bửu Lộc. Nhưng cái giá Diệm đòi hỏi khá cao: Toàn
quyền về dân sự và quân sự. Trước ám ảnh đại họa Pháp sẽ cắt nửa nước cho Việt
Minh, và tổng tuyển cử trong một thời gian ngắn để giải quyết thể chế chính trị
tương lai, Bảo Ðại đành nhân nhượng–chỉ
bắt Diệm phải thề trước thập tự giá là tuyệt đối trung thành, và duy trì ngôi
báu nhà Nguyễn.
Cuối cùng, ngày 16/6/1954, giữa lúc
chính phủ Laniel đã từ chức và Pierre Mandès-France có nhiều triển vọng lên làm
Thủ tướng, Bảo Ðại bổ nhiệm Diệm làm Thủ tướng toàn quyền. Ngày 25/6/1954, Diệm
cùng một đoàn tùy tùng nhỏ lên đường về nước.
Chính Ðạo
[Trích một
phần từ Cuộc Thánh Chiến Chống Cộng của Sử gia Vũ Ngự Chiêu]
Phụ chú
1. Department of Defense, US-Vietnam Relations, 1945-1967,
12 books, (Washington, DC: GOP, 1971), Bk 11, tr. 36-41. Xem thêm chú 3 infra.
2. Xem, chẳng hạn, Bernard B. Fall, The Two Vietnams: A Political and Military Analysis (New York:
Praeger, 1965), tr. 235ff. Fall ghi nhận Khả là "Thượỳng thư Bộ Lễ"
sau khi từ chức đã cắt mọi liên lạc "với những kẻ xâm lăng đáng
ghét," "ủng hộ Phan Bội Châu," và truyền xuống cho các con như
Khôi và Diệm một tinh thần quốc gia nồng nhiệt;" Ibid., tr. 235. Fall, một
học giả gốc Pháp viết khá nhiều về Việt Nam và chết tại Việt Nam, nhận định:
"Sự kiện Bảo Ðại là người kế thừa của các hoàng đế yếu ớt trong việc chống
lại Pháp cũng có thể gây ra sự khinh thường ông ta trong Diệm" [The fact
that Bao Dai was the descendant of emperors who had been weak in their
resistance to the French may also account for Diem’s contempt for him]; Ibid.,
tr. 475n3. Một lời võ đoán dễ hiểu trong thập niên 1950-1960. Thực ra, từ thời
Ðồng Khánh (1885-1889), các vua nhà Nguyễn do Khâm sứ và Toàn quyền Pháp lập
nên, và chỉ còn công dụng của "một vòng hoa," để hợp thức hóa chế độ
"Bảo hộ" Pháp. Quan lại thì được tuyển từ giới trung gian bản xứ mà
đa số là giáo dân Ki-tô hay cựu bồi bếp của viên chức, sĩ quan Pháp. Thành phần
"tân trào" này hiểu rất rõ vị thế "làm kiểng" của các vua
Nguyễn. Ngoài ra, Khả còn có liên hệ thân thiết với phòng Thành Thái
(1889-1907), và từng nuôi tham vọng biến Thành Thái thành một vua theo Ki-tô
giáo đầu tiên. Sự khinh thường phòng Khải Ðịnh (1916-1925) và Bảo Ðại
(1926-1945) là điều dễ hiểu. Xem Vũ Ngự Chiêu, Các vua cuối nhà Nguyễn,
1883-1945, 3 tập (Houston: Văn Hóa, 1999-2000). [Sẽ dẫn: Các vua cuối] Ngoài
ra, Diệm không ưa Bảo Ðại vì đã hai lần ký Dụ đầy Diệm ra Quảng Bình. Xem chú
18 infra.
3. Department of State, Office of Libraries and
Intelligence Acquisitions, "Biographic
Report: Ngo Dinh Diem, President of the Republic of Vietnam, To Visit
Washington [May 8-10, 1957]," BR No. 203 (April 18, 1957); Richard
Nixon Library (Yorba Linda, CA), Prepresidential Papers, PPS 320.99.33.1-2. [Sẽ dẫn, Ngo Dinh Diem (1957)]
4. Direction des Services Francais de
Securité en Indochine [DSFSI], "M. Jean Baptiste Ngo Dinh Diem, dit Nguyen
Ba Chinh;" SHAT (Vincennes), Indochine, [10H 4195]. Tài liệu này hiện vẫn
chưa giải mật. Xem phóng ảnh trong Nguyên Vũ, Paris Xuân 96 (Houston: Văn Hóa,
1997), tr. 165; Chính Ðạo, Cuộc thánh
chiến chống Cộng (Houston: Văn Hóa, 2004), tr. 15-16. Những chi tiết không
có phụ chú trong bài này đều trích dẫn từ tài liệu trên. Xem thêm Chính Ðạo, Việt Nam Niên Biểu [VNNB], tập III: Nhân vật
chí, tái bản có bổ sung (Houston: Văn Hóa, 1997), tr. 262. Sẽ dẫn: Nhân vật
chí, 1997.
5. Tình báo Mỹ ghi Diệm sinh trong một
gia đình đã theo đạo Ki-tô từ thế kỷ 17 và nhiều thế hệ đã sản xuất ra những
bậc tu hành và quan chức nổi danh. Cha là Thượng thư bộ Lễ và Lord Chamberlain
cho vua Thành Thái, từng du học ở Malaya; Ngo Dinh Diem (1957) [Giốạng tài liệu
của Fall & Sharplen]]
6. Theo Lansdale, Diệm "đã cắt bỏ mối tình với người yêu đầu đời để
dâng hiến cho tổ quốc" nên 60 tuổi vẫn còn độc thân. Xem chú 1 supra.
Nhưng nhiều người đương thời, như Tướng Trần Văn Ðôn André, cho rằng Diệm thiếu
khả năng tình dục.
7. Xem Ngô Ðình Diệm, "L’Encrier de S. M. Tu-Duc: Traduction des
Inscriptions [Nghiên mực của vua Tự Ðức: Bản dịch những chữ khắc];"
Bulletin des Amis du Vieux Hue [BAVH], Bộ IV, số 3 (Tháng 7-9/1917), tr. 209.
8. Phỏng vấn ngày 2/11/1985 tại Paris;
Ngô Ðình Diệm, "L’Ambassade de Phan Thanh Gian (1863-1864);" BAVH, Bộ
VI, Số 1bis và 2 (Avril-Juin 1919), tr. 161. Ở đầu bài, Diệm được giới thiệu là
"học sinh trường Hậu bổ," và bài này đã được đọc tại các buổi họp
[hôi thảo] ngày 27/8 và 3/12/1918, và 4/3/1919. Ibid. Diệm chỉ dịch một phần
tập tâu của Phan Thanh Giản và Phạm Phú Thứ, dưới sự hướng dẫn của Nguyễn Ðình
Hòe. Phần còn lại (thiếu đoạn đi sứ Espania) do Trần Công Tạn dịch; BAVH
(1921), tr. 147-187.Tác giả đa tạ ông Nguyễn Ðắc Xuân đã cung cấp phóng ảnh bài
viết này của Ngô Ðình Diệm.
9. Xem báo cáo về cuộc đàm thoại ngày
28/4/1955 giữa Bảo Ðại với William Gibson, Ðệ nhất thư ký Tòa Ðại sứ Mỹ; FRUS,
1955-1957, I:332-336; Chính Ðạo, Việt Nam Niên Biểu [VNNB], 1939-1975, tập I-C:
1955-1963 (Houston, TX: Văn Hóa, 2002), tr. 54-55.
10. Nguyên văn: "A
year after his decision to give up becoming a priest. Diem falsified his age
and took competitive examinations for the equivalent of a highschool diploma;"
Robert Sharplen, The Lost Revolution (New York: Harper & Row, 1966), pp.
106-107.
11. Xem tiểu sử Thục trong CAOM (Aix), GGI, CP 125; Chính
Ðạo, Nhân vật chí, 1997:312; Idem., Cuộc thánh chiến chống Cộng (Houston:
Văn Hóa, 2004), tr. 464-465. Tại Việt Nam, tưởng cũng nên ghi nhận, có tục
lấy tên "mẹ già," tức vợ chính thức, để khai sinh cho các con ngoại
hôn hoặc thê thiếp.
12. Xem Chính Ðạo, VNNB, Tập I-C: 1955-1963, tr. 110.
13. [After being instructed at home and attending the
Pellerin school in Hue, he studied briefly for the priesthood]. Ngo Dinh Diem
(1957)] Năm 1957, an ninh Mỹ chỉ ghi Diệm là "a devout Catholic."
14. Theo Bernard Fall, niềm tin tôn giáo của Diệm là một
loại hiếu chiến tàn bạo của một Quan tòa Dị giáo [ruthless militancy of the Grand
Inquisitor]. Khi một người Pháp nói "tín ngưỡng chung của chúng ta,"
Diệm thản nhiên trả lời: "Tôi tự cho tôi là một tín đồ Ki-tô Spain [Tây
Ban Nha]," tức cuồng đạo hơn là hòa hoãn theo kiểu Ki-tô Pháp; Two
Vietnams, 1965:236.
15. Xem Chính Ðạo, Hồ Chí Minh (1892-1969), Con người &
Huyền thoại, 3 tập (Houston: Văn Hóa, 1993-1997), tập I:161-162; Phụ bản 5,
trong Vũ Ngự Chiêu, Các vua cuối, 1883-1945, tập II:602-604. Trần Trọng Kim,
trong Việt Nam Sử Lược, đã dẫn lời "một đại quan về hưu" để bài bác chi
tiết trộn tro than Ngự sử Phùng bắn xuống sông Lam. "Ðại quan về hưu"
này chắc không thể biết rõ sự việc bằng Khâm sứ Huế, người viết báo cáo vào
tháng 2/1896, hay báo cáo của chính Nguyễn Thân. Ðó là chưa nói đến thói quen
chối tội của các phạm nhân chiến tranh [war criminals], hoặc âm mưu ngụy tạo
lịch sử để bảo vệ cho thượng cấp và đồng đạo (kiểu "Việt Cộng ném lựu đạn
trước đài phát thanh Huế tối ngày 8/5/1963," "nhân viên an ninh Mỹ
ném mìn plastic tối 8/5/1963," "toàn dân Việt Nam ghi ơn Ngô Tổng thống").
Xem, Vũ Ngự Chiêu, "Vài Ý Nghĩ Về Thượng Tọa Thích Quảng Ðức;" Ði Tới
(Montréal, Québec), XII, số 83 (7-9/2005), tr. 4047; Hợp Lưu (Santa Ana, CA),
số 84 (8/2005), tr. 194-206. Ðáng tiếc vì không được huấn luyện về phương pháp
nghiên cứu và viết sử, lại không có tư liệu, Trần Trọng Kim khiến tập phổ thông
lược sử của ông chứa nhiều dữ kiện và nhận định lầm lạc.
16. Có tài liệu ghi Khả là Chưởng giáo đầu tiên của trường
Quốc Học; E. Le Bris, "Le Quoc Hoc;" BAVH (1916), số 1, tr. 80. Ðây
có lẽ dựa theo Dụ năm 1896 của Thành Thái, nhưng Toàn quyền Pháp không chấp
thuận. Giám đốc trường này là một người Pháp. Về chức "Thượng thư"
của Khả, chúng tôi chưa thấy một tài liệu nào. Trong bài "Une ascension
sur l’écran du roi: Poésie de S. M. Tu Duc, traduite par Ngô Ðình Khả, Ministre
honoraire; BAVH, số 2 (4-6/1916), tr. 223-227–bản dịch một bài thơ nói về
chuyến du ngoạn của vua Tự Ðức–Ngô Ðình Khả chỉ ghi "hàm Thượng thư,"
khác xa với chức Thượng thư thực sự, nói chi "Thượng thư đầu triều."
Trần Lục, hay cha Sáu [Père Six] ở Phát Diệm, một tay chân tín cẩn của Giám mục
Puginier, cũng được thưởng hàm Thượng thư và Bắc đẩu Bội tinh.
17. Lời chứng của Nguyễn Thi, cựu Ủy viên Hành Kháng tỉnh
Ninh Thuận, trên báo Nhân Dân ngày 16/7/1954, dẫn trong Trần Văn Giàu, Miền Nam
giữ vững thành đồng, 5 tập (Hà Nội: NXB Khoa Học, 1964-1978), tập I (1964), tr.
36. Hai tác giả khác ghi là việc Diệm dùng đèn cầy đốt hậu môn tù nhân CS khi
làm Tri phủ Hòa Ða; Nguyệt Ðàm và Thần Phong, Chín năm máu lửa dưới chế độ gia đình trị Ngô Ðình Diệm (Sài Gòn:
1964), tr. 18. Theo hai tác giả này, nhân chứng là Cử nhân Nguyễn Trác, cựu
Nghị viên trưởng An Nam. Xem thêm, Bùi Nhung, Thối nát (Sài Gòn: 1969); Hoàng
Trọng Miên, Ðệ nhất phu nhân (Los Alamitos, CA: 1989), I:128-129. Theo tài liệu
Bộ Ngoại Giao Mỹ, Diệm tốt nghiệp thủ khoa năm 1921; năm 1929 đã làm quan đầu
tỉnh. Khi ở Quảng Trị năm 1930- 1931, Diệm dùng những thủ đoạn nghiêm khắc để
đàn áp, v.. v... ["From 1922 to 1929 he was a district chief in the
territorial administration of Annam and during the next four years he served as
a province chief. While in Quang Tri province during the 1930-1931
Communist-led insurrections he used drastic methods in repressing agitators and
revolutionaries, thus incurring the enmity of left-wing nationalists. In
1932-1933 he headed a commission to investigate charges of corruption in the
upper echelons of the Annamese administration;" Ngo Dinh Diem (1957)
[p.5]].
18. Thư Ngô Ðình Thục gửi Decoux ngày 21/8/1944; CAOM
(Aix), PA 14, c. 2. Thư này do tác giả công bố lần đầu trong Luận án Tiến sĩ
tại Ðại học Wisconsin-Madison năm 1984, rồi trên báo Lên Ðường (Houston) năm
1989; in lại trong Chính Ðạo, Việt Nam Niên Biểu [VNNB], 1939-1975, tập I-A:
1939-1946, tr. 200. Vài cá nhân đặt nghi vấn là Pháp ngụy tạo tài liệu trên.
Nghi vấn này do sự thiếu hiểu biết về phương pháp bảo quản tài liệu văn khố.
Hơn nữa thủ bút và chữ ký của Thục khó thể giả mạo. Tưởng cũng nên ghi thêm
rằng một vài cá nhân (như Lê Trọng Văn, Bùi Kha) đã tự động tẩy xóa bút phê của
Decoux cũng như ghi chú của nhân viên văn phòng Toàn quyền và dấu cùng chữ ký
thị thực của Văn khố Aix-en Provence Pháp trên phóng ảnh tài liệu trên, in vào
sách họ.
19. Nguyên văn: "Francais ne
veulent pas de nous, parce que nous sommes trop entiers, à fortiori Japonais
qui préfèraient souplesse PHAM QUYNH dont ils vantent talent." Báo cáo số
1806, A,B,C,D ngày 18/8/1944, Surete gửi DirSurGe; CAOM (Aix), 14 PA, c.2,
d.19; trích đăng trong Vũ Ngự Chiêu, Các vua cuối, III:856.
19bís. Thư Ngô Ðình Thục gửi Decoux
ngày 21/8/1944; CAOM (Aix), PA 14, c. 2.
20. Xem chi tiết trong Vũ Ngự Chiêu,
Các vua cuối, III:1111-1145.
21. Nói rộng hơn, nhóm
Sarraut-Pasquier áp dụng chính sách "hợp tác" [collaboration]. Giữa
thập niên 1920, Pasquier còn chiêu hồi những thành phần chống Pháp như Phan Bội
Châu và sử dụng các văn thân từng bị dính líu vào phong trào chống sưu thuế
1908 tại miền Trung. Huỳnh Thúc Kháng, chẳng hạn, được cử làm Chủ tịch Hội đồng
Dân cử Trung Kỳ, và xuất bản tò Tiếng Dân bằng quốc ngữ để quảng bá chủ trương
"thờ người Pháp để cầu tiến bộ."( TTLTQG 2 (TP/HCM), RSA/HC, HS 1869.
22. "Ngôi sao" thứ hai của
Pasquier là Bùi Bằng Ðoàn (1890-1955), từ Tuần phủ lên chứÔc Thượng thư Bộ
Hình. Ngày 6/5/1933, năm tân Thượng thư mới có mặt đầy đủ tại Huế nhân dịp gắn
huy chương cho Bài và 4 ngườợi khác. Ngày 17/5, Thibaudeau chủ tọa phiên họp
Hội đồng Nội các đầu tiên. Mười ngày sau, 27/5, tân Nội các họp dưới sự chủ tọa
của Bảo Ðại và Pasquier. Xem Vũ Ngự Chiêu, Các vua cuối, tập III:793, 1111-1129
(Phụ bản bài tường thuật trên báo Nam Phong số 184 (5/1933). Ðoàn sau này hợp
tác với Hồ Chí Minh.
23. Theo Tổng Lãnh sự Hong kong, Diệm
tuyên bố là bạn lâu đời của Bảo Ðại, đã phục vụ như "Tể tướng" những
năm cũ, và hai gia đình có liên hệ gần gũi [Ngo Dinh Giem [Diem] claimed that
he was an old friend of Bao Dai, had served as his Prime Minister in former
years, and that their families enjoyed close relations"]; CÐ 450, 30/12/1947,
Hongkong gửi BNG; FRUS, 1947, VI:153. Việc tự đánh bóng để "bán mình"
[sell yourself] cho Mỹ này không được tài liệu văn khố Pháp chứng minh. Thực
tế, Diệm, như đã lược nhắc, chỉ được đặc cách lên hàng Thượng thư Bộ Lại, mà
phận sự và quyền lợi đồng đều với bốn bộ khác, và năm 1935, chỉ được Bảo Ðại
cho lại chức Thượng thư hàm. Xem chú 21 infra.
24. Báo cáo ngày 10/5/1933, Pasquier
gửi Colonies; CAOM [Aix], INF, c.366/d.2905; trích in trong Vũ Ngự Chiêu, Các
vua cuối, tập III:785-809, 1111-1145. Xem Phụ bản báo Tiếng Dân trong sách này.
25. Báo cáo số 303-A.P., 22/7/1933,
Gougal gửi Colonies; CAOM (Aix), INF, c.366/d.2905; Vũ Ngự Chiêu, Các vua cuối,
III:804-806.
26. Vũ Ngự Chiêu, Các vua cuối,
III:806-807. Gần ba chục năm sau, Diệm tuyên bố với một viên chức Mỹ rằng sở dĩ
Diệm từ chức, ngoài tinh thần chống thực dân, còn vì không đồng ý với chính
sách "chống Cộng" của Pháp. Theo Diệm, Cộng Sản là sản phẩm của các
chính phủ tả phái Pháp. Xem Memorandum of a Conversation, Saigon, Jan 16, 1962;
FRUS, 1961-1963, II:41-42. Nội dung buổi nói chuyện này chứng tỏ Diệm, dù tự
nhận đã nghiên cứu về Cộng Sản từ năm 1922 qua các tài liệu Switzerland, chẳng
biết gì vai trò của địa bàn Trung Hoa cùng hoạt động của DALBURO Liên Sô Nga ở
Vladivostok, Thượng Hải hay Hong Kong. Ngoài ra, Diệm có vẻ "rất linh động
và sáng tạo" trong việc diễn giải thành tích dĩ vãng của mình. Năm 1963,
Ðại sứ Henry Cabot Lodge đi đến kết luận, không hẳn đã chủ quan, rằng Diệm và
họ Ngô thuộc loại "dối trá và tội phạm" (liars and criminals); Ibid.,
IV:tài liệu 69 (deception, IV:127),77 (medival view of life; IV:143), 221.
27. CAOM (Aix), INF, c.366/d.2905; Vũ
Ngự Chiêu, Các vua cuối, III:808.
28. Năm 1934, Thục cũng tìm cách đả
kích Bảo Ðại bằng cách áp dụng "giáo luật" vào đám cưới của Bảo Ðại
với Nam Phương hoàng hậu (tức bắt Bảo Ðại phải "rửa tội" trước khi
làm đám cưới). Pháp giải quyết bằng cách cho một linh mục Pháp cử hành lễ cưới
trong bí mật.
29. Note số 2995-SP/C, Huế, 4/4/43;
CAOM (Aix), 14 PA, c.1. Ít tháng sau, do sự dàn xếp của Thân Thị Nam Trân
(1905-1986), vợ Luật sư Trần Văn Chương (1898-1986), Nhu khiến gia đình Nguyễn
Liên phải hủy bỏ cuộc đính hôn để Nhu kết hôn với Lệ Xuân, con gái thứ hai của
Nam Trân và Chương, thua Nhu tới 14 tuổi.
30. Mối hiềm khích, nếu không phải hận
thù, giữa họ Ngô và Phạm Quỳnh, là điều bất cứ giới chức quan lại nào ở Huế đều
rõ. Các viên chức Pháp quyết định không ngả theo phe nào, theo đúng chủ trương
chia để trị. Theo an ninh Pháp, "những phần tử trong họ Ngô, đặc biệt là
Khôi, nuôi dưỡng lòng hận thù ngày một sâu đậm đối với Phạm Quỳnh người đã thụ
hưởng nhiều lợi lộc nhất trong ‘cuộc đảo chính ngày 2/5/1933.’ Từ một nhà báo,
Quỳnh đã trở thành Thượng thư Bộ Quốc Dân Giáo Dục, rồi thăng lên chức Tổng lý
khá nhanh, nắm giữ tước cao nhất của hệ thống quan lại (Tứ trụ triều đình) năm
1944. Từ từ theo sự thăng tiến về danh vọng của Phạm Quỳnh, hận thù giữa họ Ngô
với Phạm Quỳnh càng gia tăng . . . .;" "M. Jean Baptiste Ngo Dinh
Diem, dit Nguyen Ba Chinh," tr. 2; SHAT (Vincennes), 10H 4195. Xem thêm chi tiết trong Vũ Ngự Chiêu, "Social and
Cultural Change in Vietnam Between 1940 and 1946," Ph.D. dissertation,
December 1984, Univ. of Wisconsin-Madison, Part I, chapters 3, 4 & 6. Báo
Tiếng Dân trong tháng 5/1933 cũng có bài xa gần nhắc nhủ "những người được
cái của người khác đừng nên vội mừng" (có lẽ ám chỉ Phạm Quỳnh) và kết
luận rằng mọi việc đều do Pháp chủ xướng. Huỳnh Thúc Kháng, tưởng nên nhấn
mạnh, cùng chủ trương "thờ người Pháp làm bậc thầy để cầu tiến bộ"
như Phạm Quỳnh, Nguyễn Bá Trác, v.. v...
31. CAOM (Aix), GGI, 7F 29, tr. 56. Matsushita [Tùng Hạ] đã
tới Ðông Dương từ thập niên 1920. Năm 1938, bị trục xuất; nhưng trở lại Sài Gòn
từ năm 1941. Matsushita thường tuyên bố là bạn thân và đại diện của Cường Ðể.
32. Xem chú 13 supra. Anh em Diệm, thường rất thích
"thề trên thập tự giá" nhưng ít khi giữ những lời thề này, kể cả lời
thề "trung thành" với Bảo Ðại trước khi về làm Thủ tướng toàn quyền
dân và quân sự vào tháng 6/1954. Xem infra.
33. Thời gian này, Decoux như ngồi trên lửa. Một mặt, phe
Gaullist tăng gia hoạt động "kháng Nhật," và Paris hoàn toàn im lặng
trước nỗ lực xin qui phục của Decous. Mặt khác, Decoux đang đối diện mối hiểm
họa sẽ bị Nhật tước đoạt quyền lực. Xem Vũ Ngự Chiêu, Các vua cuối, III:
858-862.
34. Nguyễn Xuân Chữ, Hồi
ký Nguyễn Xuân Chữ (Houston: Văn Hóa, 1996), tr. 243-249.
35. Vũ Ngự Chiêu, The Other Side of the 1945 Vietnamese
Revolution: The Empire of Vietnam (4-8/1945) / Phía bên kia cuộc cách mạng
1945: Ðế Quốc Việt Nam (4-8/1945) (Houston: Văn Hóa, 1996). Bản Anh ngữ tập
sách nhỏ này, trích ra từ luận án năm 1984, đã in trong Journal of Asian
Studies vào tháng 2/1986; Bảo Ðại, Le Dragon d’Annam (Paris: Plon, 1980), tr.
106. Mùa Thu 1945, Giám mục Thục cho rằng sở dĩ Diệm không nhận lời vì thấy chế
độ do Nhật lập nên khó tồn tại lâu dài; hơn nữa quanh Bảo Ðại có những thành
phần tả phái và franc-macỄon [tam điểm]. CAOM (Aix), GGI, CP 125. Lời chứng này
khó tin cậy. Mục đích của Thục là biện minh cho sự hợp tác với Nhật của Diệm,
một tội ác chiến tranh ở thời điểm này. Và có thể Thục cũng không biết đến,
hoặc tảng lờ quyết định của Tsuchihashi hay lời tuyên bố sẽ tống giam Cường Ðể
vào Côn đảo nếu Hoàng thân về nước. Nhân viên an ninh Pháp, năm 1954, cho rằng
Diệm từ chối lời mời lập chính phủ vì Nhật không chịu cho thống nhất ba miền
Bắc, Trung, Nam; SHAT (Vincennes), 10H 4195. Theo ký giả Sharplen, "Diem
refused, not because he objected to the Japanese but because he did not feel he
would be able to establish a free government–among other things, the
southernmost area of Cochin China was initially be excluded from it.
Furthermore, he now saw the handwriting on the wall and did not want to put
himself in the position of being declared a collaborator when the war was over.
He returned to Saigon and waited;" 1966:110.
Ngo Dinh Diem is thought to have spent a good deal of time
in Japan in the 1930’s, when he had many contacts with the exiled nationalist
Prince Cuong De. He returned to Vietnam before World War II broke out. . . .
Ngo Dinh Diem ( 1957)]
36. Cuối tháng 7, đầu tháng 8/1945, có những vận động đón
Cường Ðể hồi hương làm Cơ Mật viện trưởng cho Bảo Ðại, nhưng Cường Ðể không về
nước được vì chiến tranh chấm dứt đột ngột vào giữa tháng 8/1945.
38. FRUS, 1952-1954, XIII:554.
39. FRUS, 1961-1963, II:42.
40. [In September 1945 he was arrested by the Viet Minh and
held until March 1946, being offered a cabinet post by Ho Chi Minh and refusing
it]; Ngo Dinh Diem ( 1957) [p.5]; Stanley Karnow, Vietnam: A History (New York:
Viking Press, 1983), tr. 216-217.
41. CAOM (Aix), GGI, CP 125; Nhân vật chí, 1997:313.
42. Vẫn theo Drapier, Nhu, lúc ấy đang làm việc tại Hà Nội,
không dám ra khỏi nhà vì sợ bị bắt cóc. Tại Huế cũng có tin Thục bị Việt Minh
bắt; CAOM (Aix), GGI, CP 125.
43. Giám mục Lê Hữu Từ & Phát Diệm, 1945-1954 , tr.
117.
…….
82. Văn khố Nga và Trung Cộng chưa công bố hết tài liệu về
những cuộc gặp gỡ giữa Hồ và Stalin trong tháng 2/1950, nhất là lý do biện minh
cho việc giải tán Ðảng Cộng Sản ngày 5/11/1945.
83. CÐ số 305, 5/12/1946, Acheson gửi Moffat; FRUS 1946,
VIII:67-69; Department of Defense, US-Vietnam Relations, 1945-1947 (Washington,
DC: GPO, 1971), Bk 8, tr. 85-86.
84. Ngày 18/12/1947, Tổng Lãnh sự Charles Reed đã từ
Sài-gòn điện trước cho Hopper rằng có thể "Giệm" [Diệm] sẽ ghé thăm;
FRUS, 1947, VI:152-155.
85. CAOM (Aix), 7F 27.
86. Theo tình báo Pháp, ngày 8/2/1848, Diệm đồng ý với lập
trường của VNQGLH: Ðộc lập - thống nhất. Năm Lửa Trần Văn Soái cùng lập trường,
và tỏ ý quí trọng Diệm. Ngày 11/2/1948, Tiết [Thiet], một người thân cận Diệm
và Nhu, từ chức Giám đốc báo Thống Nhất ở Huế, về Quảng Nam làm Giám đốc trị sự
công ty bảo hiểm Le Secours. Lý do chính là không đồng ý với Trần Văn Lý. Ngày
12/2/1948, Diệm cử Ðông đi Hà Tiên, Sa Ðéc, Cần Thơ, Vĩnh Long gặp một số linh
mục kháng chiến cùng đại diện Cao Ðài, Hoà Hảo để vận động cho Bảo Ðại. Theo
Ðông, phần lớn giáo dân trong vùng Việt Minh ủng hộ kháng chiến; nhưng sẽ ngả
theo Bảo Ðại nếu được độc lập, thống nhất. Cũng định gửi một số sách báo vào
vùng Việt Minh, như cuốn Tôi Muốn Tự Do. Nhu sẽ lên đường qua Pháp chừng hai
tháng. Dự trù gặp Bảo Ðại, và xuống Roma; SHAT (Vincennes),10H 4201.
87. Tháp tùng Spellman có Fulton G. Green. Thời Sự (Hà
Nội), 7/3/1949.
88. CAOM (Aix), Indochine, 7F 29, tr. 57.
.............
122. Ngày 24/3/1950, Luật tiết lộ với
cơ quan tình báo Pháp (SEHAN) rằng Diệm không thân cận được với Bảo Ðại vì bản
tính nhu nhược (faible) và thiếu cương quyết (indécis) của Bảo Ðại. Nếu lên nắm
quyền, Diệm sẽ chống Cộng thẳng tay, mà muốn thế cần có sự tín nhiệm và yểm trợ
tuyệt đối của Bảo Ðại. Ðiều này chắc không có. Ngoài ra, lập trường chính trị
của Diệm cũng khác biệt. Thứ nhất Diệm muốn biết chắc thể chế độ chính trị của
Việt Nam sẽ được tương tự như India trong Liên Hiệp Bri-tên. Nhưng sự bảo đảm
chắc chắn này không được chứng tỏ qua thực tế, như việc bàn giao chủ quyền, hay
qua sự tiến hoá của các khuynh hướng chính trị tại Pháp. Luật thêm rằng tại
miền Bắc, Diệm chẳng có bao nhiêu người ủng hộ, ngoại trừ phe Ki-tô chịu ảnh
hưởng Phát-diệm. Tại Hà-nội, theo Luật, có thể có Trần Văn Lai, Trần Trung Dung
và Nguyễn Xuân Chữ. SHAT (Vincennes), Indochine, 10H 1039.
127. Sau đó, có tin đồn Cường Ðể về Bangkok, được một cán
bộ CS tên Quy hết sức chiều đãi. Tuy nhiên, hiện chưa có tài liệu nào minh
chứng việc này.
128. FRUS, 1950, VI:884-886. Tối ngày 25/10/1950, Acheson
điện cho Heath về việc thành lập QÐGVN. Theo Acheson, viên chức Pháp nghĩ rằng
có thể đưa các lực lượng giáo phái vào, tổng số chừng 75,000 người. Thục, Chi
và Diệm cũng muốn biến lực lượng Ki-tô Giáo thành một phần quân đội; Ibid.,
VI:909-10. Ý kiến của Thục, thực ra, chẳng có gì mới lạ. Từ năm 1947, quan
tướng Pháp đã khéo léo sử dụng các sứ quân tôn giáo, và ngay cả băng đảng, để
ngăn chặn Việt Minh. Các Ðơn Vị Lưu Ðộng Bảo Vệ Ki-tô Giáo của Leroy [UMDC]
hoạt động không xa giáo phận của Thục. Tháng 7/1950, Bộ Chỉ Huy UMDC rời về
tỉnh lÿ Bến-tre. Trung tá Leroy được làm Tỉnh trưởng tỉnh này [cho tới ngày
25/11/1952; SHAT (Vincennes), 10H 643.
129. Ngày Thứ Tư, 24/1/1951, XLTV Ðại sứ Mỹ Gullion báo cáo
là Bảo Ðại đã nhận được thư của Diệm. Nhưng Bảo Ðại không ưa Diệm vì Diệm từng
nhiều lần từ chối hợp tác. Phần anh em Diệm và Thục chủ trương giải pháp lập
Bảo Long lên ngôi, với Nam Phương và Cường Ðể làm Nhiếp Chính; FRUS, 1951,
VI:359-61.
130. FRUS, 1951, VI:348.
131. Ngày 21/6/1954, Diệm nói với Ðại sứ Heath: "I am
best known figure in Vietnam after Ho Chi Minh;" FRUS, 1952-1954,
XIII:1727. Khi đại ngôn điều này, Diệm quên mất Bảo Ðại, Nguyễn Thế Truyền,
Nguyễn Tường Tam, v.. v... Phê bình về lời hợm hĩnh của Diệm, một viên chức
ngoại giao Mỹ nhận xét Diệm là "nhân vật thứ hai, cách rất xa, Hồ Chí
Minh."
132. FRUS, 1952-1954, I:134-41.
133. FRUS, 1952-1954, I:522-523.
134. Thương thuyết bắt đầu từ ngày 8/3/1954. Ngày 4/6/1954
[28/4/1954], Laniel và Nguyễn Trung Vinh ký thoả hiệp "kiện toàn
[perfection] nền độc lập của Việt Nam." Hiệp ước này chỉ được
"paraphé" [ký tắt]; SHAT (Vinvennes), 1K 233, d. 40.
135. Xem chi tiết về tổ chức này trong Chính Ðạo, VNNB, Tập
I-C: 1955-1963 (Houston: Văn Hóa, 2000) & Tập II-B: Các tổ chức chính trị
(Houston: Văn Hóa, đang in). Xem thêm Phạm Văn Liễu, Trả Ta Sông Núi,
I:333-342. Nên lưu ý, trong Chính Cương của Cần Lao, không hề đề cập đến thuyết
"sáng tạo" hay "tạo hóa" mà đôi lần đề cập đến thuyết
"tiến hóa." Ðiều này chứng tỏ Nhu có thể là một tín đồ Ki-tô, nhưng
"chống Giáo sĩ" [anti-clerical] như Nhu thú nhận với Phái đoàn điều
tra LHQ vào ngày 28/10/1963; UNGA, Agenda Item 77, Doc. A/5630, 7/12/1963.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét