NGÔ ĐÌNH DIỆM TRONG LIÊN MINH MỸ-VATICAN
Nguyễn Mạnh
Quang
[Trích từ tác phẩm Lịch
sử và Hồ sơ Tội ác của Giáo hội Công giáo La Mã, Phần 5, Mục VIII]
Grégoire Pierre Agagianan
của Giáo triều Rôma (1959)
và với Tổng thống Mỹ
Dwight Eisenhower (1957)
Với chủ tâm dựa vào Mỹ để duy trì quyền lực ở Việt Nam, tháng 8 năm
1950, Vatican cho người đưa ông Ngô Đình Diệm sang Hoa Kỳ để vận động liên kết
với siêu cường này trong một thế liên minh mới mà các nhà viết sử gọi là Liên
Minh Mỹ – Vatican hay Trục Washington –
Vatican (The Vatican – Washington
Axis) thay thế cho liên minh cũ Pháp và
Vatican. Như vậy là Vatican đã tự động bỏ rơi nước Pháp và Liên Minh Đế Quốc
Thực Dân Pháp- Vatican coi như bắt đầu tan vỡ kể từ đây.
Cũng xin nói rõ là Liên Minh Đế
Quốc Thực Dân Xâm Lược Pháp-Vatican do Vatican chủ xướng, vốn bắt nguồn từ một Sắc Lệnh Romanus Pontifex được ban hành vào ngày
8/1/1454 trong thời Giáo Hoàng Nicholas V (1447-1455), khởi sự vận động vào đầu
thế kỷ thứ 17, cũng do người của Giáo Hội La Mã là Linh-mục Alrexandre de
Rhodes đề nghị với nước Pháp kèm theo với bản tường trình thành quả công tác
tình báo tại Việt Nam và lá thư yêu cầu Pháp Hoàng Louis XIV phái quân đi chinh
phục Đông Dương (đã được trình bày đầy đủ trong Chương 20.) Vì hoàn cảnh khó
khăn lúc đó, Pháp Hoàng Louis XIV không đáp ứng được yêu cầu của Giáo Hội lúc
bấy giờ. Trong thập 1780, lại cũng người của Giáo Hội là Giám-mục Pigneau de
Béhaine lặn lội từ Việt Nam đem Hoàng Tử Cảnh mới có 5 tuổi đến triều đình Pháp
Hoàng Louis XVI, thỉnh cầu viện trợ quân sự cho Nguyễn Ánh để đánh bại nhà Tây
Sơn với chủ ý là Vatican và nước Pháp sẽ lợi dụng công ơn viện trợ để:
1.- Khuyến dụ Nguyễn Ánh, một
khi đã chiến thắng, thì phải chiều theo những đòi hỏi Vatican và Pháp. Nếu
Nguyễn Ánh chiều theo thì cả Vatican và Pháp lần lần nắm thế thượng phong, áp
dụng chính sách “được đằng chân lân đằng đầu” như Vatican đã từng làm đối với
Pháp trong thời Pháp Hoàng Henry IV (1589-1610), dần dần áp đảo và biến triều
đình Việt Nam trở thành một thứ chính quyền tay sai cho cả Vatican và Pháp.
2.- Nếu Nguyễn Ánh không thành công hay không thỏa mãn những đòi hỏi
của Vatican và của Pháp, thì các nhà truyền giáo của Giáo Hội tại Việt Nam sẽ
xúi giục giáo dân Việt Nam nổi loạn, bất tuân lệnh chính quyền, nhằm tạo nên
loạn lạc khắp nơi, và mỗi xóm đạo sẽ là một ổ phiến loạn, lúc bấy giờ Giáo Hội
mới công khai nhẩy vào thừa nước đục thả câu, kết hợp với Pháp đem quân đến
đánh chiếm và thống trị Việt Nam.[i] Giáo Hội cũng đã tiến hành sách lược nầy ở
East Timor mấy năm vừa qua.
Cố đạo Alexandre de
Rhodes (1591-1660) – Giám mục Pigneau de Béhaine (1741-1799) –
Vua Louis XVI (1754-1793):
Ba con bài chủ của Trục xâm lược Pháp-Vatican
Giám-mục Pigneau de Béhaine đại
diện cho phe đảng Nguyễn Ánh, tiếm danh là đại diện cho Việt Nam, thương thuyết
với triều đình vua Louis XVI và đã đạt được một hiệp ước ký tại Điện Versailles vào ngày 28-11-1787.
Theo hiệp ước này, Pháp sẽ viện trợ quân sự cho Nguyễn Ánh 4 chiến hạm, 1750 sĩ
quan và binh sĩ, và Nguyễn Ánh phải nhượng cho Pháp và Giáo Hội La Mã một số
quyền lợi. Nhưng Hiệp Ước Versailles vừa
ký xong thì nước Pháp rơi vào tình trạng khủng hoảng tài chánh và kinh tế do
bất công trong xã hội gây nên, rồi lan sang lãnh vực chính trị và chuyển thành
Cách Mạng 1789. Vì thế mà Pháp không thể viện trợ cho Nguyễn Ánh được. Pháp
bỏ cuộc, nhưng Vatican vẫn không nản lòng và vẫn còn bám lấy Việt Nam. Được
Vatican triệt để ủng hộ, Giám-mục Pigneau de Béhaine nhân danh Vatican bỏ tiền
ra mua sắm súng đạn và thuê mướn được
một số binh lính đánh thuê đem đến viện trợ cho Nguyễn Ánh đánh bại nhà Tây
Sơn.
Giáo Hội La Mã thường dạy là phải
sống nghèo. Sao ông Giám-mục Pigneau de Béhaine của Giáo Hội tiền của đâu mà
giàu thế? Nếu không phải do Vatican cung ứng để mua sắm các chiến tầu, súng đạn
cũng như trang trải tiền trả lương cho quân lính, quân cụ, quân trang, quân
dụng và quân nhu trên đây, thì tiền bạc ở đâu để ông giám-mục này mua sắm chiến
tầu, khí giới, tuyển mộ quân lính, nuôi quân và trả lương cho lính? Nhưng, lại
cũng chữ “nhưng” một lần nữa, "mưu
sự tại nhân, thành sự tại thiên". Công lao và tiền của bỏ ra viện trợ
thì có, nhưng những yêu sách của Giáo Hội thì lại không được Nguyễn Ánh (khi
thành công là Gia Long), đền bù. Giám-mục Pigneau de Béhaine và Hoàng Tử Cảnh
lại sớm lên thiên đường, khiến cho Giáo Hội đã thất bại nặng nề ván bài
Béhaine-Nguyễn Ánh.
Tuy nhiên, như đã nói trước đây, kế hoạch xâm thực của Giáo Hội là một kế
hoạch dài hạn và trường kỳ mai phục.
Thua keo này, Giáo Hội lại bày keo khác. Cuối cùng, vào đầu thập niên 1850, Giáo Hội cũng đã
thành công trong việc vận động được chính quyền Pháp cùng với Giáo Hội bỏ công
bỏ của đem quân đến chinh phục Việt Nam và Liên Minh Đế Quốc Thực Dân Xâm Lược
Phap-Vatican thực sự thành hình và tích cực hoạt động kể từ đây.
Trở lại vấn đề vận động thành lập Liên Minh Chống Cộng Hoa Kỳ-Vatican,
để cho kế hoạch này được thành công, tất cả những tín đồ của Giáo Hội tại Hoa
Kỳ cũng như tại Pháp tùy theo khả năng đều được huy động để góp công vào việc
vận động với chính quyền Hoa Kỳ làm áp lực với chính quyền Pháp và Quốc Trưởng
Bảo Đại để đưa ông Ngô Đình Diệm về Việt Nam làm thủ tướng. Từ bà Ngô Đình Nhu
ra vào thủ thỉ với ông Bảo Đại, Bà Nam
Phương Hoàng Hậu với tình chăn gối trong chốn phong the, khối dân Kitô La Mã
người Pháp cùng với đảng Da-tô Mouvement Republique Populaire (MRP) do ông
Da-tô George Bidault làm đảng trưởng cho đến các ông Hồng Y Spellman, Thượng
Nghị Sĩ John F. Kennedy, Thượng Nghị Mike Mansfield, Dân Biểu Walter Judd, ông
Tòa Tối Cao Pháp Viện William Douglas đều được huy động để vận động vào việc
làm áp lực với các thế lực liên hệ để cho ông Diệm về Việt Nam cầm quyền.
Việc Vatican cho người
dẫn ông Ngô Đình Diệm sang Mỹ giao cho Hồng Y Francis Spellman vận động những
tín đồ Da-tô có thế lực trong chính quyền Hoa Kỳ để đưa ông ta (Ngô Đình
Diệm) về cầm quyền làm tay sai cho Giáo Hội La Mã Mã được rất nhiều sách sử trình bầy đầy đủ. Dưới
đây là một số sách sử nói về sự thật lịch sử này:
1.- Sách Vietnam: A History (Stanley Karnow) viết:
“Diệm rời Việt Nam vào năm 1950 với danh nghĩa đi dự
lễ năm Thánh ở Vatican. Cuối cùng, ông ta
đi Hoa Kỳ và lưu ngụ hai năm ở
Chủng Viên Maryknoll ở
Lakewood thuộc tiểu bang New Jersey, làm những công việc rửa chén, lau
sàn nhà và cầu nguyện giống như một
người mới đi tu. Quan trọng hơn, ông ta được giới thiệu gặp các vị chính
khách nổi như Hồng Y Francis Spellman của địa phận New York, Thẩm Phán Tối Cao
Pháp Viện William O. Douglas, Thượng
Nghĩ Sĩ Mike Mansfield và Thượng Nghị John F. Kennedy. Ông Diệm biện
minh cho trường hợp của ông với một lý luân đơn giản có thể lôi cuốn được cả
những người bảo thủ và tự do. Lý luân
đơn giản này là ông chống lại cả cộng sản và thực dân Pháp thống
trị Việt Nam. Như vậy, ông trở thành người đại diện cho chủ nghĩa
quốc gia. Điều hấp dẫn đối với Hồng Y Spellman là ông Diệm
là một tín đồ Kitô La Mã. Nhờ vậy mà Hồng Y Spellman
đã tích cực ủng hộ ông Diệm”.[ii]
2.- Sách Vietnam: A Dragon Embattled
(Joseph Buttinger) viết:
“Sau khi được chính quyền Pháp cho phép đi dự lễ Năm Thánh ở La Mã, ông Diệm rời Việt
Nam vào tháng Tám năm 1950. Trạm đầu tiến, ông ghé Đông Kinh đến thăm ông Cường Để. Ông này đã lưu vong ở Nhật từ năm 1906. Đồng thời, ở
Đông Kinh, ông Diệm cũng gặp một số người Hoa Kỳ. Họ dặn dò ông khi đến thủ đô Washington phải nên nói những gì với những nhân vật ông được tiếp
kiến. Ông Diệm lưu lại ở Hoa Kỳ trong hai tháng 9 và 10 năm 1950. Trong thời
gian này, ông được làm quen với một số
chính khách người Hoa Kỳ rất quan tâm đến Việt Nam nhưng lại không hiều rõ tính
cách phức tạp về tình hình chính trị và quân sự ở Đông Diương. Luận cứ đơn giản của ông Diệm là nếu chấm được chế độ
thực dân và Việt Nam có được một chính quyền quốc gia thực sự thì Việt Minh sẽ
bị đánh bại nhanh chóng. Hồng Y Spellman, người mà Giám-mục Ngô Đình Thục đem ông Diêm đến giới thiệu, có
lẽ là người Hoa Kỳ đầu tiên đang tìm một tín đồ Kitô La Mã như ông Diệm để lành
đạo chính quyền Việt Nam.
Thời kỳ ở La Mã của ông Diệm rất ngắn. Ở đây, ông được Giáo Hòang XII tiếp kiến, rồi
ông đi Thụy Sĩ, Bỉ và Pháp. Tại các nước này, ông nói chuyện với những người
Việt lưu vong. Những vì thấy rằng đối
với Pháp, ông chẳng có cơ may nào, ông trở lại
Hoa Kỳ vào đầu năm 1951 và lưu ngụ trong các Chủng Viện Maryknoll ở New Jersey và Chủng Viện Ossining ở
New York. Thời gian này kéo dài
tới hai năm và thỉnh thoảng ông đi thuyết trình tại các Đại Học ở miền Đông và miền Trung Tây. Nhiều lần ông đi
Thủ Đô Hoa Thịnh Đốn để nói chuyện vớ các chính khách người Hoa Kỳ và chiếm được cảm tình của họ đối với quan điểm của ông. Trong những chính
khách ủng hộ quan điểm và khát vọng cá nhân của ông, có Thượng Nghị Sĩ.Mike
Mansfield, Thượng Nghị Sĩ John F. Kennedy, Dân Biểu Walter Judd và Thảm Phán Tối Cao Pháp Viện William
Douglas. Nhưng những việc vận động của
họ cho nền độc lập của Việt Nam không được chính quyền của Tổng Thống Truman và chính quyền của Tổng Thống Eisenhower
quan tâm, vì rằng lúc đó Hoa Kỳ vẫn còn theo đuổi chính sách viện trợ vô
điều kiện cho người Pháp. Chán nản với những biến cố này, ông Diệm quay ra dõn
nỗ lực vào việc suy tưởng và cầu nguyện, một phương cách rất thích hợp với bản chất của ông ta để tìm ra phương cách được chấp nhận đưa về Việt Nam cầm quyền hơn
là tích cực tổ chức để thu hút sự ủng hộ cho việc làm của ông.
Thực ra, giả
thuyết về việc ông Diêm được đưa lên làm thủ tướng được nhiều người chấp nhận
là lúc bấy giờ Hồng Y Spellman với sự tiếp tay của các thành phần trong Phong Trào Cộng Hòa Bình Dân Kitô La Mã và
chính quyền Pháp làm áp liực mạnh với ông Bảo Đại.”[iii]
3.- Chuyện Vatican cho người dẫn dắt
ông Diệm đi Vatican và Hoa Kỳ để chạy chọt cho lên cầm quyền ở Việt Nam được
tác giả Hoành Linh Đỗ Mậu ghi lại trong sách Việt Nam Máu Lửa Quê Hương Tôi đầy đủ hơn cả. Dưới đây là nguyên
văn:
“Trở lại năm 1950, khi tôi bắt đầu một giai đoạn nổi
trôi lăn lóc trong những năm tàn khốc của cuộc chiến Pháp Việt từ Trung ra Bắc,
thì tháng 8 năm đó, sau một thời gian vận động ngầm của Giám-mục Ngô Đình Thục,
ông Diệm và người anh có ảnh hưởng lớn lao trên Giáo Hội Thiên Chúa Giáo Việt
Nam này, lên đường đi La Mã dự lễ Năm Thánh để che đậy âm mưu đi Mỹ vận động
chính trị.
Lộ trình không đi thẳng đến La Mã mà còn ghé qua Nhật
Bản thăm Kỳ Ngoại Hầu Cường Để (một giải pháp hầu như không có giá trị nữa kể
từ năm 1945) và nhất là để ông Diệm có cơ hội gặp giáo sư Wesley Fisher, một cựu sĩ quan tình báo Hải
quân thuộc Đệ Thất Hạm Đội Hoa Kỳ thời
Đệ Nhị Thế Chiến và đang là một nhân viên cao cấp của CIA. Buổi họp mặt với
viên chức quan trọng này của cơ qua tình báo Mỹ đưa đến kết quả là trường Đại Học Michgan sẽ bảo trợ chuyến
đi Mỹ của ông Diệm.
Sau đó, ông Diệm lên đường đi La Mã dự Năm Thánh và
yết kiến Đức Giáo Hoàng, rồi từ đó bay đi Mỹ. Qua trung gian của Giám-mục Ngô
Đình Thục, ông được Hồng Y Spellman, thuộc dòng Franciscain, tiếp kiến.
Từ Mỹ, ông Diệm lại quay về La Mã mấy ngày rồi mới đi
Thụy Sĩ, Bỉ và Pháp để thảo luận với một số chính khách Việt Nam mà phần đông
là Thiên Chúa Giáo đang cư ngụ tại các
nước này. Năm 1951, Ông Diệm trở lại Hoa Kỳ hai năm, sống trong tu viện
Maryknoll tại Lakewood (New Jersey) và Ossining (New York). Nhờ sự giúp đỡ của Hồng Y Spellman,
thỉnh thoảng ông lại được mời đi thuyết trình tại các đại học miền Đông và Trung-Tây Hoa Kỳ. Ông cũng diễn thuyết tại
thủ đô Hoa Thịnh Đốn. và với lý luận
rằng “chỉ cần chấm dứt chính sách thực dân Pháp và chỉ cần Việt Nam có một chính
phủ do người quốc gia lãnh đạo là có thể đánh bại được Cộng Sản” mà ông đã chiếm
được cảm tình và lời hứa sẽ yểm trợ của các chính trị gia Mỹ như Nghị Sĩ Mike Mansfield, John F. Kennedy, Dân
Biểu Walter Judd, Chánh Án Williams
Douglas và nhiều chính khách Thiên Chúa giáo khác. Phê bình câu nói của ông
Diệm, giáo sư Buttinger cho rằng luận cứ này phối hợp được sự đơn giản rất hấp
dẫn và sự hợp lý khó cãi được.
Chính vì “sự hấp dẫn không cãi được” đó và quyết tâm
của Hồng Y Spellman muốn có một chính
phủ Việt Nam do người Thiên Chúa giáo lãnh đạo mà ông Diệm đã trở thành một “giải pháp” khả
dụng và khả thị cho chính sách của Mỹ tại Đông Dương trong tương lai rất gần..
Nhưng cái luận cứ “đơn giản và hợp lý” này đã chứng tỏ tính cách thiếu khoa học
và không thực tế của nó khi ông Diệm,
với một chính phủ quốc gia và 9 năm cai trị, ông Thiệu với một chính phủ
quốc gia và 11 năm cai trị khác, vẫn không đánh bại được Cộng Sản. Nếu không
muốn nói rằng chính phủ quốc gia của ông Diệm đã chính nghĩa hóa sự hiện diện
ngụy trang của Cộng Sản tại miền Nam, và chính phủ quốc gia của ông Thiệu đã
kiện toàn hóa chiến thắng “tự nhiên thành” của Cộng Sản tại miền Nam. Như
vậy, rõ ràng hai chế độ quốc gia đã quản
trị đất nước trong khoảng thời gian từ 1954 đến 1975 quả thật đã không xứng
đáng trên cả hai mặt nội dung cũng như thực tế để mang nhận danh từ này.
Theo dõi hành trình
vận động quốc tế của ông Diệm, ta thấy gồm 6 chặng đường.(1) Đi Đông
Kinh gặp một nhân viên tình báo Mỹ, (2) đến Vatican gặp Đức Giáo
Hoàng, (3) đi Mỹ gặp Hồng Y Spellman, (4) trở lại Vatican
không biết làm gì trong một thời gian ngắn, (5) rồi lại trở qua Mỹ gặp
tiếp Hồng Y Spellman, (6) sau đó là các chính khách Hoa Kỳ. Sáu chặng đường đó thật ra chỉ gồm trong
hai danh từ lẫy lừng: Vatican và Mỹ.
Tháng 5 năm 1953,
theo lời mời của một số chính khách Việt Nam lưu vong mà đa số là người
Thiên Chúa giáo, ông Diệm tiừ giã Hoa Kỳ về Pháp rồi đi Bỉ và trú ngụ tai tu
viện Bénédictine de St. André les Purges. Đúng một năm sau, năm 1954, khi số
phận Việt Nam bắt đầu bị cột chặt bởi chiến bại của Pháp tại Điện Biên Phủ vào
ngày 7 tháng 5 và cuộc mặc cả tại Hội Nghị Genève thì ông Diệm trở lại Paris và
sống tại ngôi nhà ông Tôn Thất Cẩn. Tại đây, với sự yểm trợ đắc lực của người
em là Ngô Đình Luyện, ông bắt đầu mở các cuộc thăm dò và vận động trong giới
chính khách Việt Nam cũng như với các thế lực quốc tế.
Theo giáo-sư Buttinger thì tại Sàigòn, ông Nhu biết rằng anh mình không đủ khả năng
đối phó với những vận động chính trị quốc tế khó khăn và phức tạp, bèn vội vàng
phái cộng sự viên thân tín là ông Trần Chánh Thành và Lê Quang Luật qua Paris
để tăng cường thêm cho ông Diệm. Ông Trần Chánh Thành nguyên là tri huyện thời
Pháp thuộc, sau theo Việt Minh làm chánh án Liên Khu Tư, rồi bỏ kháng chiến về
Tề vào năm 1952. Còn ông Lê Quang Luật là một trí thức Thiên Chúa giáo Bắc
Việt, người thân tín của Giám-mục Lê Hữu Từ.
Ba mục tiêu vận động quan trọng và quyết định nhất của
ông Diệm là (1) đạt được sự yểm trợ của chính quyền Mỹ, (2) tranh thủ được sự
thoả thuận của chính quyền Pháp, và (3) cuối cùng là thuyết phục được Quốc Trưởng Bảo Đại bổ nhiệm làm thủ
tướng. Ba vận động liên hệ chặt chẽ của hàng triệu người Việt Nam mà sức mạnh
vô địch của chính hàng triệu người Việt Nam đó không hề được vận dụng tới. Thật ra ba bước vận động này tròng vào nhau
như ba mắt xích mà trong bối cảnh chính trị quốc tế lúc bấy giờ, mở được mắt
xích thứ nhất là hai mắt xích còn lại sẽ bị tháo tung. Mắt xích thứ nhất, Hồng Y Spellman đã giúp ông Diệm mở ra từ
năm 1953 rồi cho nên Bảo Đại và chính phủ Pháp lúc bấy giờ không đồng ý
“con người Ngô Đình Diệm”, nhưng dưới áp lực của Ngoại Trưởng Mỹ Foster Dulles và sự can thiệp
mạnh mẽ của Hồng Y Spellman vào chính sách của Phong Trào Cộng Hòa Bình Dân Thiên Chúa Giáp Pháp (MRP),
cuối cùng chính phủ Pháp và Bảo Đại đành phải chấp thuận bổ nhiệm ông Diệm làm thủ
tướng.
Trong cuốn hồi ký Le
Dragon d’ Annam, trang 328, ông Bảo
Đại đã cố tình không nói rõ những áp lực này dù những vận động chính trị của
các nước liên hệ đến chính tình Việt Nam lúc đó, (xem thêm Bên Giòng Lịch Sử 1940-1975, ấn bản Hoa Kỳ, của Cao Văn Luận). Một
cách thật tinh tế, để nói lên áp lực của
người Mỹ, ông Bảo Đại đã cho biết rằng “Sau
khi gặp ông Foster Dulles để cho ông ta biết dự án của tôi, tôi đã gọi ông Diệm
đến và nói rằng: (“Après m’ être entretenu avec Foster Dulles, pour lui faire
part de mon projet...”). Sự kiện trước
lúc lấy một quyết định nội bộ quan trọng (chỉ định một thủ tướng) mà vị
nguyên thủ quốc gia phải hội ý với Ngoại
Trưởng của Mỹ (không như trước đó, Bảo Đại đã chỉ định 5 thủ tướng không
cần phải qua “thủ tục” này) đã chứng tỏ
áp lực của Mỹ quả thật có tác dụng lên quyết định của Bảo Đại. Hơn nữa,
ngay ở trang 329 sau đó, Bảo Đại còn viết thêm:
“Thật vậy từ
nhiều năm nay, ông ta được nhiều người Mỹ biết và thích nhờ tính cứng rắn. Dưới mắt họ,
ông Diệm là người hùng phù hợp một cách đặc biệt cho hoàn cảnh hiện tại,
vì vậy mà Hoa Thịnh Đốn không ngần ngại gì mà không ủng hộ ông ta. (En effet, depuis de
nombreuses années, il était connnu des Americains qui appréciaient son
intransigeance. À leurs yeux, il était l’homme fort convenant particulièrement
à la conjoncture, aussi Washington ne lui ménagerait pas son appui).
Nêu lên nhận định
này, Bảo Đại ngầm cho ta biết sự can thiệp của người Mỹ trong quá trình chọn lựa Ngô Đình Diệm
làm thủ tướng của ông là một sự can thiệp có thật. (Những người không hiểu rõ
cá tính của ông Bảo Đại và ông Diệm, lại không nắm vững những vận động quốc tế
cũng như nội bộ Việt Nam lúc bấy giờ đã nhầm lẫn và không hiểu rõ được sự can
thiệp này nên đã hiểu sai luôn những biến cố lịch sử sau đó là lẽ dĩ nhiên). ”
Sự kiện ông Diệm được Vatican và Mỹ ủng hộ là một yếu tố quan trọng xoay chuyển lịch sử
Việt Nam trong chiến tranh Quốc Cộng nên tôi cần trích dẫn ra dưới đây những
đọan sách khả tín của các ký giả, nhà văn nổi tiếng Anh, Mỹ để thêm tài liệu
cho các nhà nghiên cứu sử sau này.
Theo John
Cooney thì Giáo Hoàng Pius XII
(1939-1958) muốn Hồng Y Spellman vận động với Hoa Kỳ tham dự vào chánh tình
Việt Nam và ủng hộ cho Ngô Đình Diệm cầm quyền tại nước này:
“Theo
Malachi Martin, một giáo sĩ Dòng Tên
đã từng làm việc tại Vatican trong những
năm Mỹ gia tăng sự tham dự vào Việt Nam, thì lập trường của Hồng Y Spellman hợp
với ý của Giáo Hoàng (in accordance with the wishes of the Pope...) Giáo Hoàng muốn
Hoa Kỳ ủng hộ Diệm vì Ngài bị ảnh hưởng của Giám-mục Thục là anh của Diệm. Ông Martin xác nhận rằng: “Giáo Hoàng lo ngại Cộng Sản sẽ bành trướng
thêm làm suy hại đến Giáo Hội. Giáo Hoàng đã nhờ Hồng Y Spellman khuyến khích người Mỹ can dự vào Việt Nam.”
(The American Pope, John Cooney, tr.
241, 242).
Vì vậy Spellman đã bắt tay vào việc điều động kỹ càng
một chiến dịch xây dựng chế độ Diệm (carefully orchestrated campaign to prop up the Diem regime).
Spellman và Kennedy cũng thành lập một tổ chức ở Hoa Thịnh Đốn để vận động cho
Diệm. Chiêu bài vận động là Chống Cộng và Thiên Chúa Giáo (the rallying cries
were anti-Communism and Catholicism). Sách đã dẫn, trang 242.
Tháng 10 năm 1950, hai anh em Thục Diệm gặp các viên
chức Bộ Ngoại Giao tại khách sạn Mayflower ở
Hoa Thịnh Đốn, có sự tham dự của Dean Rusk . Diệm và Thục được Linh-mục
McGuire và giáo sĩ chính trị gia (political churchmen) đặc trách chính sách
Chống Cộng tháp tùng, đó là Cha Emmanuel Jacque, Giám-mục Howard Carroll và Edmund Walsh của Đại Học
Georgetown. Mục đích của cuộc gặp gỡ là để tìm hiểu tình hình Việt Nam và để
xác định lập trường chính trị của hai anh em Diệm-Thục. Hai anh em tin rằng Diệm đã được an bài để cai trị đât nước (Both Diem and Thuc believed that Diem was destined to rule his nation). Sự kiện giáo dân Việt Nam chỉ chiếm mười
phần trăm chẳng làm cho hai ông bận tâm. (The fact that Vietnam’s
population was only ten percent Catholic mattered little as far as the brothers
were concerned...) như Diệm đã nói trong bữa ăn tối rằng hai lập trường không
lay chuyển của ông ta đã quá rõ ràng. Ông
tin ràng vào quyền lực của Tòa Thánh và ông chống Cộng kịch liệt (He
believed in the power of the Catholic Church and he was virulently
anti-Communist). Sách đã dẫn, trang 241.
Thật vậy, ngoài cuốn “The Ameican Pope - The Life and Times of Francis Cardinal Spellman”
của John Cooney do Times Books phát
hành, trong quyển “Vietnam - Why did We go?” của Avro Manhattan (trang 58, ấn
bản 1984), chuỗi sự kiện này cũng đã được trình bày rõ ràng:
Tạm dịch: “Hồng
Y Spellman đã giới thiệu ông Diệm với ông William O. Douglas., Thẩm Phán Tối
Cao Pháp Viện. Ông này lại giới thiệu ông Diệm với ông Mike Mansfield và ông
John F. Kennedy, cả hai đều là Thượng Nghị Sĩ the Thiên Chúa Giáo. Ông giám đóc
CIA Allen Dulles cũng đã đỡ đầu cho ông Diệm - tiếp theo quyết định của anh ông
ta là (Ngoại Trưởng) John Foster Dulles.và của Hồng Y Spellman, người đại diện
của Giáo Hoàng Phêrô XII. Ông Diệm đã
được họ tuyển chọn, ông sẽ là người câm đầu chính phủ Nam Việt Nam.
Sau khi lấy
quyết định xong, ông (Ngoại Trường Mỹ) Dulles khuyến cáo chính quyền Pháp hãy
nói với Bảo Đại bổ nhiệm ông Diệm làm thủ tướng. Vì lưc bấy giờ đã có quyết
định bỏ Việt Nam nên Pháp đồng ý. Ông Diệm trở thành thủ tướng vào tháng 6 năm
1954. Ngày 19 cùng tháng đó, Bảo Đại phong cho ông Diệm toàn quyền, không những quyền kiểm soát dân sự mà còn cả
quân sự nũa trên toàn quốc. Ông Diệm về tới Sàgòn ngày 26 tháng 6 và thành lập
chính phủ vào ngày 7 tháng 7 năm 1954.”
Những bí ẩn lịch sử trên đây cho ta thấy ngay từ trước
năm 1950 ông Diệm vì không thể cộng tác được với Pháp và cựu hoàng Bảo Đại nữa
nên hướng về Hoa Kỳ mà cuộc vận động nhịp nhàng của Vatican và cơ quan CIA
đã đưa ông thành công với chức vụ thủ thướng khi Pháp thất bại tại Điện Biên
Phủ. Bây giờ thì ta thấy rõ ràng tại sao trên đường xuất ngoại vào năm 1950 hai
ông Diệm và Thục lại gặp giáo sư Wesley Fisher tại Nhật Bản, một nhân viên cao
cấp của Tình Báo Trung Ương Mỹ, tại sao trong “Bên Giòng Lịch Sử” Linh-mục Cao
Văn Luận khoe khoang: “Có thể nói rằng
nếu không có Cha Houssa, thì số phận Việt Nam không chừng đã khác”, tại sao
khi đến Saigon thăm lính Mỹ, Hồng Y Spellman tuyên bố: “Các bạn chiến đấu cho văn minh
Thiên Chúa Giáo”. Từ nay ông Diệm trở thành ngươi lính tiền đồn ngăn
chặn Cộng Sản cho Vatican và Hoa Kỳ.”[iv] [Ngưng
trích sách Việt Nam Máu Lữa Quê Hương
Tôi]
4.- Trong bài viết “Bài Học Chiến Tranh Việt Nam Nhìn Từ Hậu
Trường Chính Trị Hoa Kỳ” đăng trong
cuốn Sự Thật (Đặc San Xuân Đinh Sửu
1997), ông Lương Minh Sơn cho chúng ta một cái nhìn rõ ràng và đầy đủ về bàn
tay của Giáo Hội La Mã trong việc chạy chọt cho ông Ngô Đình Diệm về cầm quyền
ở Viêt Nam. Dưới đây là mấy đoạn văn
quan trọng nói về những việc làm của Giáo Hội ở Hoa Kỳ trong những cố
gắng chạy chọt với Hoa Kỳ cho ông Diệm về Việt Nam cầm quyền.
“Năm 1861, người Pháp đem quân đội và tôn giáo vào để
cai trị Việt Nam nhưng năm 1954, người
Pháp chỉ có thể triệt thoái quân đội mà không có một kế hoạch thỏa đáng để cứu
vãn tình thế cho giáo dân Việt Nam đã từng đặt niềm tin nơi người Pháp. Trong
lúc hồi tưởng về những ngày cuối cùng ở miền Bắc, Đại-tá Vanuxem của Quân Đội Viễn Chinh (Pháp)
đã kể lại những lời lẽ trách cứ của Giám-mục Phạm Ngọc Chi, một người bạn thân
của Vanuxem, khi đơn vị của ông sửa soạn rút khỏi giáo phận Bùi Chu, như sau:
“Chúng tôi cứ
tưởng rằng chúng tôi xứng đáng được hưởng sự độc lập (1) mà chúng tôi đã có bổn
phận góp công giúp đỡ, nhưng đến khi
nhận ra thì đã quá muộn. Những người mà chúng tôi đã trông cậy lại là những kẻ
thù đang muốn chúng tôi bị mất linh hồn” [VAN, Tr. 158-159].
Ở Vatican, Đức Giáo Hoàng Pius XII có lẽ cũng đã dự
đoán được tình trạng cực kỳ nguy hiểm cho giáo dân Việt Nam một khi quân đội
Pháp rút khỏi miền Bắc, nên kể từ cuối thập niên 1940, Ngài đã khuyến khích Đức Hồng Y Francis Joseph Spellman vận động chính
phủ Hoa Kỳ sửa soạn can dự vào Việt Nam. Điều này có thể là một thắc
mắc không nhỏ đối với những người chuyên nhìn trên phương diện tôn giáo thuần
túy. Tuy nhiên, dưới khía cạnh chính
trị, ngoài nhiệm vụ lãnh đạo đời sống tâm linh của giáo dân trên thế giới, Đức
Giáo Hoàng của Thiên Chúa Giáo La Mã (The Roman Catholics) còn có trách nhiệm
đại diện cho Hội Đồng Giáo Hội (The Council) và quốc gia Vatican để phản ảnh
quan niệm và phát huy ảnh hưởng chính trị của Tòa Thánh đối với thế giới. Thành
thử, muốn tìm hiểu về quan niệm và ảnh hưởng chính trị của quốc gia Vatican
trong cuộc chiến tranh “Quốc Cộng” ở Việt Nam nói riêng, và trong cuộc Chiến Tranh Lạnh nói chung,
lịch sử cần nhìn lại quan điểm chính trị của một số giáo hoàng, bắt đầu từ Đức
Giáo Hoàng Pius XII.
Giáo Hoàng Pius XII tên thật là Eugino Pacell, sanh
năm 1876 ở Ý Đại Lợi. Năm 1930, Ngài được cử làm Ngoại Trưởng cho Đức Giáo Hoàng
Pius XI (1922-1939). Năm 1933, Ngài lập công lớn với Tòa Thánh vì đạt được thỏa hiệp dung hòa với Phát Xít Đức
(The 1933 Concordat). Theo thỏa hiệp này, Tòa Thánh coi như sẽ không phát biểu
ý kiến về tình hình chính trị của Đức Quốc Xã, chẳng hạn như chuyện Đức Quốc Xã
đang chuẩn bị guồng máy chiến tranh cho
Đệ Nhị Thế Chiến. Ngược lại, Đức Quốc Xã coi như sẽ tôn trọng thực thể và chủ
quyền của Tòa Thánh. Sau này, trên đường tiến vào thôn tính thủ đô La Mã, thiết
đoàn chiến xa Panther của biệt đội SS Phát Xít Đức phải chẻ thành hai đường đi
vòng qua Tòa Thánh thay vì có thể san bằng để băng qua, nếu họ muốn.
Trong suốt cuộc Đệ Nhị Thế Chiến, quan điểm của Đức
Giáo Hoàng Pius XII về đường lối tiến tới hòa bình là duy trì tư thế trung lập
cho Tòa Thánh đối với mọi phe lâm chiến. Tuy nhiên, lịch sử thế giới Tây Phương
chỉ trích Ngài nặng nề nhất là vì Tòa
Thánh đã không lên án Đức Quốc Xã khi quốc gia này thẳng tay tàn sát 6 triệu người Do Thái, và vì Tòa
Thánh đã không tận dụng khả năng để che chở cho những người Ý gốc Do Thái khi
mật vụ SS Đức lùng bắt họ ở Ý Đại Lợi.
Khi một số giới chức lãnh đạo Tây Phương khuyên Joseph
Stalin, chủ tịch Đảng Cộng Sản Nga Sô nên cho người Thiên Chúa Giáo La Mã giảng
đạo tự do ở Nga để lấy lòng Đức Giáo Hoàng, Stalin hỏi, “Đức Giáo Hoàng? Đức
Giáo Hoàng có mấy sư đoàn?” [WIN], [CDQ]. Năm 1949, Đức Giáo Hoàng Pius XII kêu
gọi giáo dân trên thế giới đứng lên chống lại chủ nghĩa Cộng Sản, và đồng thời
tuyên bố “phạt tuyệt thông”
(excommunicate) tất cả những giáo dân nào theo Cộng Sản [CUP, Pope Pius XII].
Nhưng, tại sao chính trị lại có tôn giáo, và tôn giáo
lại có chính tri? Tổng Thống Richard M.
Nixon (1969-1974) đã từng nói: “Mặc dù người Cộng Sản là những
người vô thần nhưng chủ nghĩa Cộng Sản lại là một tôn giáo với hơn một phần tư
tín đồ trên thế giới,” [NIX, chg. 5]. Thành thử, ngoài vấn đề “an ninh phòng
thủ” cho Hiệp Chủng Quốc, sự bành trướng của khối “tôn giáo vô thần” Cộng Sản
trong thập niên 1950 còn là một mối đe dọa trực tiếp đến ảnh hưởng của Vatican
nói riêng, và của khối Thiên Chúa Giáo
hữu thần nói chung. Giáo-sĩ Malachi Martin,
người đã từng phục vụ trong Tòa Thánh Vatican cũng đã xác nhận. “Đức
Giáo Hoàng (Pius XII) lo ngại Cộng Sản
sẽ bành trướng và làm suy hại đến uy tín của Giáo Hội,”[COO, Tr. 241-242].
Nhưng quan điểm của quốc gia Vatican có ảnh hưởng gì
đến chiến tranh Việt Nam? Các dữ kiện của đầu thập niên 1950 cho thấy Ngô Đình Diệm được Đức Giáo Hoàng Pius XII
gởi gắm cho Đức Hồng Y Spellman dẫn qua Hoa Kỳ để vận động chính trị vì
quan niệm tôn giáo nhiều hơn là quan niệm cho phép một quốc gia nhược tiểu như
Việt Nam được sống lại sau hơn 80 năm bị đô hộ.
Tháng 10 năm 1950, Đức Hồng Y Spellman, Linh-mục
McGuire, và ba nhân vật Ủy Viên Chính Trị (political churchmen) của một số giáo
phái Thiên Chúa Giáo ở Hoa Kỳ như Cha Emmanuel Jacque, Giám-mục Carroll và
Gíáo-sư Edmund Walsh đưa Ngô Đình Diệm
và Đức Cha Ngô Đình Thục đi gặp một số nhân viên của Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ tại Khách Sạn
Mayflower ở Washington. Ông Dean
Rusk là một trong những nhân vật của Bộ Ngoại Giao có mặt
trong buổi cơm tối hôm đó. Sau này, ông
Rusk làm Ngoại Trưởng từ năm 1961 đến 1969. Mục đích của cuộc gặp gỡ xã giao
này là để chính phủ Hoa Kỳ tìm hiểu về tình hình Việt Nam và để xác định lập
trường của ông Diệm và Đức Cha Thục. Sự kiện 90% người dân Việt Nam không phải là tín đồ Thiên Chúa Giáo không
làm cho ông Diệm quan tâm vì ông đã tuyên bố trong bữa cơm tối hôm đó rằng ông
“tin tưởng vào quyền lực của Vatican và ông chống Cộng một cách cực lực,”
[COO. Tr. 242].
Với hai yếu tố vì tôn giáo và vì chống Cộng, ông Diêm
được Đức Hồng Y Spellman tiếp tục giới thiệu với William O. Douglas, Thẩm Phán
Tối Cao Pháp Viện, Thượng Nghị Sĩ Mike Mansfield, Thượng Nghị Sĩ John F.
Kennedy, Allen Dulles, Giám Đốc Trung Ương Tình Báo CIA, và anh của ông Dulles là Ngoại Trưởng John Foster Dulles [MAN, Tr.
58]. Từ đó, ông Diệm trở thành con đáp
số gần như mỹ mãn trong bài toán chính trị của một phe phái có ý muốn can dự
vào Việt Nam:
1.- Chính sách đối ngoại đang đòi hỏi Hoa Kỳ phải xây dựng một thành trì chống
Cộng ở Việt Nam.
2.- Ngoại Trưởng John Foster Dulles đang muốn tìm một lãnh tụ chống Cộng theo khuôn mẫu
đạo đức và xã hội Thiên Chúa Giáo.
3.- Đức Hồng Y Spellman đang cần Hoa Kỳ thay thế Pháp
ở Việt Nam, và cũng cần một giáo dân
trung kiên như ông Diệm để lãnh đạo công cuộc chống Cộng như lời kêu gọi của
Đức Giáo Hoàng Pius XII.
Điều còn lại sau cùng cho kế hoạch chính trị hỗn hợp
này là làm thế nào để giải thích cho Hội Đồng Chính Phủ và Quốc Hội Hoa Kỳ về kinh nghiệm chính trị và khả năng lãnh đạo
của ông Ngô Đình Diệm? Tổng Thống Eisenhower cũng chỉ có thể trấn an Hội Đồng Chính
Phủ bằng câu nói, “Trong đám mù, thằng chột làm vua,”.[HER]. Điều này cho thấy:
một là ông Diệm không có một thành tích chính trị nào đáng kể, hai là ông Diệm
không có khả năng lãnh đạo, hoặc ba là người Mỹ hoàn toàn không biết gì về ông
Diệm.
Đầu năm 1954, Ngoại Trưởng John Foster Dulles khuyến dụ Pháp khuyên nhủ Bảo Đại bổ nhiệm
ông Ngô Đình Diệm về Việt Nam làm thủ tướng.” [v]
[Ngưng trích tài liệu của Lương Minh Sơn]
Giáo hoàng Pius XII (1876-1958) – Hồng y Mỹ Francis
Spellman (1889-1967) – Ngoại trưởng Mỹ Foster Dulles (1888-1959): Ba con bài chủ
của Liên minh thánh Mỹ-Vatican
*
* *
Tạm kể ra bốn tài liệu
trên đây để độc giả thấy rằng vai trò
của Giáo Hội trong việc chạy chọt với
Hoa Kỳ cho ông Diệm lên cầm quyền ở Việt Nam nhằm để làm tay sai phục vụ cho quyền lực và quyền lợi của
Vatican.
Để cho kế hoạch này được thành
công, tất cả những tín đồ của Giáo Hội tùy theo khả năng đều được huy động để
góp công vào việc vận động với chính quyền Hoa Kỳ làm áp lực với chính quyền
Pháp và Quốc Trưởng Bảo Đại để đưa ông Ngô Đình Diệm về Việt Nam làm thủ tướng.
Từ bà Ngô Đình Nhu ra vào thủ thỉ với ông Bảo Đại, Bà Nam Phương Hoàng Hậu với tình chăn gối
trong chốn phong the, khối dân Kitô La Mã người Pháp cùng với đảng Da-tô
Mouvement Republique Populaire (MRP) do ông Da-tô George Bidault làm đảng
trưởng cho đến các ông Hồng Y Spellman, Thượng Nghị Sĩ John F. Kennedy, Thượng
Nghị Mike Mansfield, Dân Biểu Walter Judd, ông Tòa Tối Cao Pháp Viện William
Douglas đều được huy động để vận động vào việc làm áp lực với các thế lực liên
hệ để cho ông Diệm về Việt Nam cầm quyền.
Về việc tín đồ Da-tô có thế lực Pháp và đảng Da-tô MRP của Da-tô Georges
Bidault vận động cho ông Da-tô Ngô Đình Diệm được đưa lên cầm quyền, sách Việt Sử Khảo Luận kể lại lời cựu
Luật-sư Trần Văn Tuyên với nguyên văn như sau:
“Dư luận Việt Nam thường coi ông Ngô Đình
Diệm là “người của Hoa Kỳ” và việc ông lên
cầm quyền là do Hoa Kỳ thúc đẩy.
Thực ra,
ông Ngô Đình Diệm không phải là “con ngựa” của Hoa Kỳ mà là “người cưng”
của Pháp hay đúng hơn của một đảng Công Giáo Pháp, “Mặt Trận Bình Dân”
(M.R.P.), mà lãnh tụ là Bidault, bộ trưởng ngoại giao, trưởng phái đoàn Pháp ở
Hội Nghị Geneve.
Năm 1953, ông Diệm được nhóm chính trị
Công Giáo Pháp - Việt ở Paris mời về Pháp để “tính toán” công việc với Bidault.
Khi Bảo Đại giải tán chính phủ Nguyễn
Văn Tâm (tháng chạp 1953), Pháp (của đảng Da-tô MRP - NMQ) muốn vận động cho
ông ta về làm thủ tướng Việt Nam. Tuy nhiên,
những người tay chân của ông trong nước đã hành động vụng về hấp tấp,
khi họ muốn lợi dụng Phong Trào Đại
Đoàn Kết để đưa ông lên cầm quyền (muốn dùng tất cả giáo phái Cao Đài – Hòa Hảo
và nhóm Bình Xuyên để làm hậu thuẫn cho ông Diệm chống Bảo Đại). Vận động đó
thất bại, Bảo Đại không dùng ông Diệm mà
cử ông Bửu Lộc ra lập chính phủ thay ông Nguyễn Văn Tâm.
Trước những khó khăn nội bộ cũng như trước
trách nhiệm nhận chia đôi đất nước, Bửu
Lộc xin từ chức, giữa lúc Hội Nghị Genève tới chỗ bế tắc (trung tuần tháng
6/1954), Bidault lại tấn công Bảo Đại, yêu cầu ông chỉ định Ngô Đình Diệm làm
thủ tướng, Bảo Đại ngần ngừ. Ngày 12/6 (1954), Bảo Đại đánh điện triệu tôi và Đại-tá Lê Văn Kim
xuống Cannes để hỏi công việc. Ông ra tận sân bay Nice để đón chúng tôi. Sau
khi nghe báo cáo về tình hình hội nghị,
ông hỏi tôi: “Bửu Lộc từ chức. Pháp (của đảng Da-tô MRP – NMQ) đề nghị
ông Ngô Đình Diệm lập chính phủ. Hoa Kỳ có ủng hộ ông Ngô Đình Diệm hay không?”
Tôi trả lời: “Không thấy các đại biểu Hoa
Kỳ nói gì về ông Diệm và xin về Genève
hỏi ý kiến các bạn Hoa Kỳ của chúng tôi trong Hội Nghị Genève.”
Đây là một câu trả lời của nhân viên cao cấp Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ khi
tôi hỏi về ông Ngô Đình Diệm: “Ông Diệm và anh ông là Thục có đến thăm Bộ Ngoại
Gíao Hoa Kỳ. Sau khi nói chuyện, chúng tôi đều đồng ý là nên để ông giám mục làm chính trị và nhà chính trị làm giám mục thì
đúng hơn. (ý nói ông Diệm không xứng đáng bằng cha Thục). Về ông Bedell
Smith, thì cho chúng tôi biết: “Hoa Kỳ không ủng hộ một cá nhân ai cả, sẵn sàng
ủng hộ chánh phủ quốc gia chánh thức chống Cộng, dù ai cầm đầu cũng được.”[vi]
Về việc Vatican vận động bà Nam
Phương Hoàng Hậu thủ thỉ với Quốc Trưởng Bảo Đại bổ nhiệm ông Diệm là Thủ Tướng
được, ông Đại Mạc viết trong Nguyệt San Người
Dân số 77 (tháng 1/1997) như sau:
"Lại cũng có ký giả ngoại quốc (Bernard Fall)
viết rằng chính bà Nam Phương, do khuyến cáo của giáo hội, đã bảo đảm với ông Bảo Đại để ông giao chính
phủ cho ông Diệm. Ông Diệm đã quỳ lạy thề cùng cả hai người là sẽ trung thành
với nhà Nguyễn. Sự phản bội của ông Diệm khiến bà Nam Phương giận giáo hội, và
đã tự tử để chứng tỏ bà không còn thuộc giáo hội nữa. Ông ký giả lập luận rằng,
trong y bạ, bà Nam Phương không hề có triệu chứng về tim. Mà bà lại mất bất
ngờ, đến nỗi chính ông Bảo Đại cũng không hay biết gì. Tuy ông Bảo Đại vợ nọ
con kia, nhưng vẫn là người chồng cha tốt với gia đình chính thức cũng như rất
hiếu đễ với mẹ." [vii]
Tóm lại, ngay từ mùa hè năm 1950,
Giáo Hội La Mã đã chạy chọt lo lót với
các nhân vật quyền thế trong chính quyền Hoa Kỳ để cùng với Giáo Hội làm áp
lực với chính quyền Pháp và Quốc Trưởng Bảo Đại đưa ông Ngô Đình Diệm lên làm
thủ tướng chính phủ của chế độ Bảo Đại.
Sự thật là Hoa Kỳ đồng ý với Vatican
trong việc dùng áp lực với chính quyền Pháp và với Quốc Trưởng Bảo Đại để đưa
ông Ngô Đình Diêm về Việt Nam cầm quyền với toàn quyền dân sự và quân sự. Sự kiện này cho ta thấy rõ Liên Minh Thánh Mỹ
- Vatican đã được thành lập kể từ đây. Cái Liên Minh Thánh này được sử gia
Chính Đạo tức Vũ Ngự Chiêu gọi là “Cuộc Thánh Chiến Chống Cộng”.
(Houston, TX: Văn Hoá, 2004).
Nhận xét về vai trò của Vatican trong việc vận động Hoa Kỳ đưa ông Ngô
Đình Diệm về Việt Nam cầm quyền, rất
nhiều sử gia và chính khách thời bấy giờ đều cùng một nhận xét đại khái như
sau:
Nếu không có Hồng Y Francis
Spellman và những tín đồ Kitô có thế lực và ảnh hưởng lớn trên sân khấu chính
trị ở Pháp như ông Georges Bidault cũng như các chính khách Hoa Kỳ vốn là những con chiên của Giáo Hội như các ông
Thượng Nghị Sĩ John F. Kennedy, Thượng nghị Sĩ Mike Mansfield, Dân Biểu Walter,
Thẩm Tối Cao Pháp Viện William Douglas, Ngoại Trưởng John Foster Dulles, Giám
Đốc Cơ Quan Tình Báo Trung Ương (CIA) là ông Allen W. Dulles đỡ đầu, thì Hoa Kỳ có thể đã đưa một trong
các ông Phan Quang Đán, Phan Huy Quát, Trần Văn Tuyên, Nguyễn Tường Tam và
Nguyễn Hữu Trí lên làm thủ tướng rồi. Lý do dễ hiểu là ông Ngô Đình Diệm không những
đã có thành tích phản quôc đối với nhân dân Việt Nam, mà lại không có
tài năng chính trị, không có thành tích cách mạng và cũng không có một uy tín
nào đối với nhân dân Việt Nam và nhân dân Hoa Kỳ. Cũng vì thế mà sau khi
đưa ông Diệm lên cầm quyền rồi, Tổng Thống Eisenhower mới bị nhiều người cật
vấn khiến cho ông lúng túng mà đành phải
tuyên bố rằng "Trong đám thằng mù,
thằng chột sẽ làm vua.”
Hoa Kỳ có ngờ đâu sau khi đưa
"cái thằng chột" Ngô Đình
Diệm này về làm vua ở Miền Nam Việt Nam
thì nó lại làm hỏng hết cả chương trình viện trợ của Hoa Kỳ cho mục đích
chống Cộng và làm mất hết đi cái ý nghĩa cao đẹp của lý tưởng tự do dân chủ mà
nhân dân Hoa Kỳ hằng theo đuổi từ khi phát động cuộc chiến Cách Mạng
(1776-1783) đánh đuổi Đế Quốc Thực Dân Anh để giành lại quyền tự chủ và quyền
tự do bất khả nhượng của Trời đã ban cho. Tất cả cũng chỉ vì "cái thằng chột"
Ngô Đình Diệm mang căn bệnh cuồng tín về tín ngưỡng, chỉ biết nghe lệnh Vatican, theo đuổi “chính sách bất khoàn dung" đối với
các thành phần thuộc tam giáo cổ truyền của dân tộc, tiến hành "kế hoạch Da-tô hóa" miền Nam Việt
Nam bằng bạo lực, cho nên chính sách viện trợ của Hoa Kỳ cho Miền Nam mới rơi
vào thảm cảnh đau thương nhất trong lịch sử ngoại viện của Hoa Kỳ. Sự kiện này
được ông Lương Minh Sơn nói rõ như sau:
"Năm 1971, dựa theo tập tài liệu "Hồ Sơ
Ngũ Giác Đài", bình luận gia Neil Sheehan có đúc kết một phần nhận định về
chính quyền của Tổng Thống Ngô Đình Diệm như sau: "Ngay từ những ngày đầu, chính cá nhân
của Tổng Thống Diệm và quan niệm chính trị của
ông đã làm giảm thiểu hiệu năng của chính quyền... Được trưởng thành trong một gia đình vừa cuồng tín theo Thiên Chúa
Giáo, vừa mang nặng tính cách phong kiến của giai cấp quan lại thống trị, ông
Diệm là một người độc đoán, cố chấp, thơ lại, đa nghi và câu nệ về phương diện
luân lý. Tinh thần của ông là tinh thần của một "Spanish Insquisitor"...,"
một loại hung thần của Tây Ban Nha thời Trung Cổ , [SHE, Trg 70-72].”[viii]
Phần trình bày trên đây cho chúng
ta thấy rõ ràng là ngày từ năm 1950, Vatican đã sử dụng tất cả những tín
đồ Da-tô của Giáo Hội có thế lực ở Hoa
Kỳ, ở Pháp và cả bà Nam Phương Hoàng Hậu
để vận động đưa ông Ngô Đình Diệm về
Việt Nam cầm quyền để làm tay sai cho Giáo Hội. Dĩ nhiên, khi đưa ông Diệm
về Việt Nam cầm quyền, Hoa Kỳ cũng đã coi ông Diệm như là một thứ làm tay sai cho Hoa Kỳ và coi miền
Nam như là thuộc địa của Hoa Kỳ. Đây là sự thật lịch sử và sự thật này không
những các nhà viết sử chân chính đều khẳng định như vậy, mà ngay cả bọn văn nô
Da-tô như Tú Gàn (một bút hiệu của cựu thầm phán Nguyễn Cần) cũng phải nhìn
nhận sự thật này bằng mấy đoạn văn dưới
đây:
“Coi miền Nam như thuộc Mỹ: Cảm tưởng đầu tiên của chúng tôi khi đọc Công
Điện mang số Deptel 243 và các tài liệu tiếp theo của chính phủ Hoa Kỳ là Washington coi miền Nam như thuộc địa của
Mỹ.
Nước Pháp ngày xưa khi đến đô hộ miền Nam và
“bảo hộ” miền Bắc và miền Trung Việt Nam đều có ký hiệp ước với Triều Đình Huế.
Đến năm 1887, Pháp hợp Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ, và Cao Mên lại thành Liên Bang
Đông Dương (Union Indochinoise) do một Toàn Quyền Đông Đương (Gouverneur
Général de l’ Indochine) ở Hà Nội cai trị và đặt dưới quyền của Bộ Thuộc Địa
(Ministère des Colonies). Các quan lại lở tỉnh đều đặt trực thuộc một Công Sứ
(Résident) Pháp.
Đầu năm 1956, do áp lực của Mỹ, Pháp đã phải ký thỏa ước với Việt Nam rút Quân
Đội Pháp khỏi miền Nam trước ngày 30/6/1956. Nhưng đến ngày 26/4/1956, Quân Đội
Pháp đã rút hết khỏi miền Nam. Ngày 26/4/1956, Pháp tuyên bố bãi bỏ chức Cao Ủy
Đông Dương và ngày 28/4/1955 tuyên bố giải tán Bộ Tư Lệnh Pháp tại Đông Dương.
Người Mỹ âm thầm vào thay Pháp.
Tuy chính phủ Mỹ không hề ký với các chính
phủ Việt Nam một hiệp ước nào về “quyền bảo hộ” như chính phủ Pháp đã ký trước đây, nhưng Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ đã tự động biến thành Bộ Thụôc Địa để áp đặt mọi
chính sách và đường lối lên trên miền Nam và Đại Sứ Mỹ tại Sàigòn nghiễm nhiên
trở thành Toàn Quyền Đông Dương hay Cao Ủy Mỹ tại Đông Dương, thường được
người Việt gọi là “Quan Thái Thú”. Các lãnh sự Mỹ ở tỉnh cũng đóng vai trò của
các Công Sứ Pháp. Một số đã tình nguyện làm lính Khố Xanh (Gardes Indigènes)
hay lính Khố Đỏ (Tiraillers) cho Mỹ. Trạm CIA (CIA Station) của Mỹ tại Sàigòn
đã hoạt động giống hệt Sở Mật Thám hay Sở Liêm Phóng Đông Dương (Service de
Sureté Générale de L’Indochine của Pháp ngày xưa!
Chúng tôi xin nhắc lại: Năm 1963, khi tiếp
Đại Sứ Frederick Nolting, ông Diệm có nói: “Chúng tôi không muốn thành một xứ bảo hộ của Hoa Kỳ.”[ix]
Qua mấy đoạn văn trên đây, chúng ta thấy được hai điểm: Thứ nhất, ông Da-tô Tú Gàn trách móc
người Hoa Kỳ đã coi miền Nam như là thuộc địa của Hoa Kỳ. Thứ hai, ông Tổng Thống
Da-tô Ngô Đình Diệm nói với Đại-sứ Hoa Kỳ Frederick Nolting rằng: “Chúng tôi không muốn trở thành một xứ bảo
hộ của Hoa Kỳ.” Sự kiện này chứng
tỏ rằng (1) cả hai ông Da-tô Ngô Đình
Diệm và Tú Gàn đều không học sử Việt Nam (quốc sử) và sử thế giới, và (2) cả
hai ông Da-tô này đều thiếu thông minh.
Vì không học quốc sử cho nên hai ông Da-tô này không biết lấy chuyên
ông vua Lê Chiếu Thống để suy ra thân
phận ông Da-tô Ngô Đình Diệm. Vào cuối năm 1788, khi Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ
kéo quân ra Bắc dẹp tên ma đầu chính trị Nguyễn Hữu Chỉnh, Lê Chiêu Thống bỏ
trốn Thăng Long chạy sang Tầu cầu cứu nhà Thanh đem quân sang Việt Nam tái lập
vương quyền cho ông ta. Đáp lời cầu cứu của Lê Chiêu Thống, Vua Càn Long sai
Tôn Sĩ Nghi, Tổng Đốc Lưỡng Quảng, đem 280 ngàn quân Tàu đưa Lê Chiêu Thống về
Thăng long cho ngồi vào ngai vàng, nhưng hàng ngày chính nhà vua và Lê Quýnh
cùng mấy chục tên lính hầu phải thân hành đến phủ của Tốn Sĩ Nghị ở Tây Long
Cung để chầu chực, chờ nhận lệnh cho phép làm gì thì mới được làm.
Sự kiện này ông Hoa Bằng kể lại trong cuốn Quang
Trung Nguyễn Huệ Anh Hùng Dân Tộc 1788-1792 với nguyên văn như sau:
“Dẫu được người Thanh “ban” cho
danh hiệu hờ, vua Lê vẫn khép nép e dè,
không dám đường hoàng trên văn thư dùng niên hiệu Chiêu Thống, mà vẫn phải để
hiệu Kiền Long nhà Thanh (bấy giờ là năm Kiền Long thứ 53 tức năm Mậu Thân
1788).
Hằng ngày, Chiêu Thống cưỡi ngưỡi đi trước, Lê Quýnh
cưỡi ngựa theo sau, với vài chục lính hầu, cong cóc sang Tây Long Cung, nơi Sĩ
Nghị đóng, chầu chực công việc quân quốc. Có khi Chiêu Thống tiến yết, Nghị
không tiếp, chỉ sai người đứng dưới gác chuông, truyền ra bảo vua Lê rằng: Nay
không có việc quân quốc gì, hãy cứ về cung mà nghỉ.”[x]
Trong những năm 1950-1954, Vatican cho người dẫn ông Da-tô Ngô Đình
Diêm sang Mỹ, sang Pháp rồi lại sang Mỹ để khẩn khoản nhờ Mỹ đưa về Việt Nam
cầm quyền. Nhưng phải chờ tới khi có hoàn cảnh thuận tiện Mỹ mới thực hiện
được. Mãi tới mùa xuân năm 1954, lúc đó, quân dân Việt Nam sắp đánh bại Liên Quân Xâm Lăng Pháp – Vatican tại tập đoàn cứ điểm Điện Biên
Phủ, Mỹ mới ra tay hành động, gửi Đại-Tá tình báo Edward G. Lansdale tới Việt
Nam dọn đường, rồi tới ngày 26/6/1954 mới đưa ông Diệm về Sàigòn cho ngồi vào
ngội vị thủ tướng với toàn quyền về quân sự và dân sự, dĩ nhiên là dưới quyền
chỉ đạo của Mỹ.
Trường hợp này của ông Da-tô Ngô Đình Diệm được Mỹ đưa về ngồi vào ghế
thủ tướng ở Sàigòn và tổng thống trong những năm 1954-1963 giống y hệt như
trường hợp Lê Chiêu Thống được nhà Thanh đưa
về Việt Nam cho ngồi vào ngôi vua ở Thăng Long vào cuối năm Mậu Thân
1988. Có một điều hơi khác là vào thập
niên 1950, người Mỹ tương đối khôn khéo
và tế nhị hơn Tôn Sĩ Nghị:
Tôn Sĩ Nghị đòi hỏi Lê Chiêu Thống hàng ngày phải thân hành đến phủ Tôn
Sĩ Nghị để chầu chực việc quân quốc. Người Mỹ khôn ngoan hơn, họ để cho anh em ông Diệm và các tu sĩ Da-tô được
nắm trọn quyền quản lý nhân dân miền Nam miễn là đừng quá trớn khiến cho họ
mang tiếng là thủ phạm tạo nên một thứ Spanish Inquisitor ở miền Nam Việt Nam
vào giữa thế kỷ 20. Còn họ, họ lo việc
biến miền Nam thành tiền đồn chống Cộng ở Đông Nam Á Châu và biến đạo quân đánh
thuê người Việt do người Pháp để lại thành một đạo quân hùng mạnh nhất trong
vùng này để đánh thuê cho họ trong việc đối phó với phong trào Cộng Sản đang
dâng tràn từ phương Bắc.
Thế nhưng anh em ông Diệm và các ông tu sĩ Da-tô không nhớ lời quan
thày Mỹ đã dặn rằng đừng quá trớn. Vì thế họ mới hăng say theo đuổi chính
sách Ki-tô hóa miền Nam bằng bạo lực, tàn sát hơn 300 ngàn người dân không
chịu theo đạo Da-tô ở những vùng hẻo lánh xa Sàigòn, và công khai bách hại Phật
giáo ở ngay cố đô Huế, ở ngay Sàigòn và ở nhiều nơi khác trên toàn lãnh thố, Vì
thế chính phủ Mỹ mới ra lệnh cho ông Đại Sứ Frederick Nolting đến Dinh Gia Long
ra chỉ thị cho ông Tổng Thống Da-tô Ngô Đình Diệm phải ngưng tức khắc chính
sách bách hại Phật Giáo và không được
tiến hành kế hoạch Ki-tô hóa nhân dân miền Nam bằng bạo lực nũa. Do đó mới có
chuyện ông Diệm nói với ông Đại Sứ Hoa Kỳ Frederick Nolting rằng: “Chúng tôi không muốn thành một xứ bảo hộ
của Hoa Kỳ.”
Sự thật rõ ràng là như vậy, mà cả ông Da-tô Tú Gàn, tức Lữ Giang, tức
cựu thẩm phán Nguyễn Cần lại không nhìn ra. Phải chăng vì thiếu thông minh hay
vì không học quốc sử và không học lich sử thế giới, cho nên ông ta mới không
nhìn ra vấn đề này? Dù là ở vào trường hợp nào đi nữa, trong thực tế, ông Tú
Gàn cũng ở vào tình trạng chậm hiều về
cái thân phận của ông Da-tô Ngô Đình Diệm, và chính ông Da-tô Ngô Đình Diệm
cũng thiếu thông minh, cho nên mới không nhìn ra cái thân phận của ông trong
những năm 1954-1963 không khác gì thân phận của Lê Chiêu Thống vào cuối năm Mậu
Thân 1788. Hậu quả là anh em ông đã phải đền tội trước nhân dân Sàigòn vào sáng
ngày 2/11/1963.
Nếu năm 1889, người Pháp có thể đưa Thành Thái lên làm vua bù nhìn tại
triều đình Huế để làm cảnh trang tri cho nền thống trị của họ ở Việt Nam, thì năm 1907 họ cũng có thể phế
bỏ ông ta khi thấy rằng ông ta trở mòi nghe lời
xúi giục của thằng Việt gian Ca-tô Ngô Đình Khả ngã theo Vatican chống
lại người Pháp trong mưu đồ giành thế thượng phong trong bộ máy cai trị tại
Việt Nam. Tương tự như vậy, nếu năm
1954, người Mỹ đã có thể đưa tên phản
thần tam đại Việt gian Ngô Đình Diệm lên
cầm quyền ở miền Nam để làm tay sai cho họ trong nhu cầu biến miền Nam
thành tiền đồn chống Cộng ở Đông Nam Á, thì năm 1963, họ cũng có thế lôi ông
xuống hay khử diệt ông khi họ thấy rằng ông đã tỏ ra khăng khăng chỉ biết phục
vụ cho quyền lợi của Vatican mà bất cần đến uy tín và quyền lợi của họ,
đúng như lời Giáo-sư Lý Chánh Trung ghi nhận:
“ông đã tưởng mình có thể nhẩy vào vòng tay người Mỹ trong một giai
đoạn ngặt nghèo rồi thoát khỏi vòng tay đó khi tình hình sáng sủa hơn, ông đã
tưởng có thể chấp nhận làm con cờ trong một ván cờ rồi ngay trong ván cờ đó, có
thể tự động đi một nước cờ riêng của ông.
Khi ông nhìn thấy đó
chỉ là ảo tưởng thì đã quá trễ: Ông đã chết vì ảo tưởng đó. Và cái chết bi thảm
của ông cho thấy một sự thật hết sức tầm thường: Không một con cờ nào có thể tự động đi một nước cờ cho riêng nó, dầu
con cờ đó mang tên Ngô Đình Diệm, và không một nước nhỏ nào có thể lợi dụng một nước lớn, nhất là
nước đó mang tên Hoa Kỳ.” [xi]
Nguyễn Mạnh Quang
[Nguồn: Lịch
sử và Hồ sơ Tội ác của Giáo hội Công giáo La Mã, Phần 5, Mục VIII]
Cước chú:
i - Nguyễn
Xuân Thọ. Bước Mở Đầu Của Sự Thiết Lập Hệ
Thống Thuộc Địa Pháp Ở Việt Nam 1858-1897 (Santa Ana, CA: Tác giả xuất bản,
1998, trang 17, 86-87 và 361.
ii - Stanley
Karnow, Vietnam: A History (New York:
Viking Press, 1983), p 217.
iii - Joseph Buttinger, Vietnam: A
Dragon Embattled, Vol. II (New York:
Frederich A. Praefer, 1967) pp, 846-848.
iv - Đỗ Mậu, Việt Nam Máu Lửa Quê Hương Tôi
(Wesminster, California: Văn Nghệ, 1993), trang 87-91.
v - Lê Hữu
Dản,. Sự Thật - Đặc San Xuân Đinh Sửu 1997 (Fremont, Calìornia, 1997),
trang 23-24.
vi - Hoàng Cơ Thụy, Việt Sử Khảo Luận
- Cuốn 5 (Paris: Nam Á, 2002), tr. 2621-22.
vii - Đại
Mạc. “Bảo Đại Đời Tư Và Đời Công"
Người Dân số 77 tháng 1/997.
viii - Lê Hữu Dản. Bđd., tr 27.
ix - Tú Gàn. “Ra Lệnh Đảo
Chánh” Sàigòn Nhỏ, Số 568, phát ngày
ngày 2/22/2007, phổ biến trên nhóm điện thư SAIGON_9 ngày1/11/2007.
x - Hoa Bằng, Quang Trung Nguyễn Huệ Anh Hùng Dân Tộc
1788-1792 (Glendale, CA: Đại Nam, không đề năm xuất bản), tr.171.
xi - Lý Chánh
Trung, Những Ngày Buồn Nôn (Sàigòn:
Đối Diện, 1971), tr. 137.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét