NGHĨ VỀ HAI DÒNG HỌ THÔNG GIA HUẾ
Nguyễn Hạnh Hoài Vy
Hai Thượng thư
Nguyễn Hữu Bài (trái) và Ngô Đình Khả
Hai dòng họ Nguyễn Hữu và Ngô Đình nhờ vào mối liên
hệ thông gia tôn giáo-chính trị (Nguyễn Thị Giang, con gái của Nguyễn Hữu Bài
kết hôn với Ngô Đình Khôi) đã đưa dòng họ Ngô Đình bồng bềnh với quyền lực đến
hơn nửa thế kỷ, mang một nét độc đáo vượt trội hơn cả, bao gồm các đặc tính
sau:
- dòng dõi vốn xuất thân từ khố rách áo ôm,
nhờ 'rửa tội' mà mấy đời con cháu no cơm ấm cật.
- cung cúc phục vụ cho ngoại nhân (thế
quyền lẫn giáo quyền).
- tâm chất thì bán nước cầu vinh, nhưng lúc
nào cũng cố mang chiếc áo quốc gia, dân tộc.
- đạo đức qua bộ mặt cuồng tín tôn giáo.
-
cả hai đều phải "vào ra" cánh cửa các nhà tu Công giáo mà tạo
quyền thế về sau.
Theo "Nhân
Vật Giáo Phận Huế", tập I (tác giả Lê Ngọc Bích, tài liệu lưu hành nội
bộ), cho rằng "Nguyễn Hữu Bài vốn nguyên quán Thanh Hóa, là hậu duệ của
Nguyễn Trãi" (trang 110). (Theo bảng phụ chú "Thế hệ dòng
họ" (trang 111), Hoài Vy ghi nhận có rất nhiều dấu hỏi cần phải được đặt
ra trên phương diện sử liệu về mối liên hệ dòng họ của ông Bài với Nguyễn Trãi,
nhưng đây là một vấn đề khác cần được trình bày ở một bài viết khác).
Phêrô Giuse Nguyễn Hữu Bài, sinh ngày 18-9-1863 tại
làng Cao Xá, phủ Vĩnh Linh, Quảng Trị. Thời thiếu niên, cha mất sớm, năm lên 10
tuổi mẹ ông xin linh mục Gioan Châu bảo trợ vào tiểu chủng viện An Ninh. Chính
Linh mục Caspar (tên Việt: Lộc) có lần khen "Bài là một thanh niên tuấn
tú, tương lai thành tài, đạt đức." (trang 112), sau đó gời ông đi học
chủng viện Pénang (Mã Lai).
Học xong, Bài về nước vào đúng lúc hòa ước Patenôtre
Việt-Pháp vừa được ký kết, Bài được giới thiệu làm thừa phái Nha Thương Bạc
(chức nhỏ tùng sự tại cơ quan ngoại giao của triều đình, việc chính là làm
thông ngôn).
Năm 1887, ông được cử đi đánh giặc "thổ
phỉ" miền thượng du Bắc kỳ trong 5 năm (sách đd, trang 113). Đây mới là
chỗ có vấn đề! Giữa lúc thực dân Pháp tác oai tác quái trên khắp lãnh thổ Việt
Nam, giai tầng "phục dịch ngoại nhân bản địa" thăng quan tiến chức,
trong lúc các phong trào Cần Vương yêu nước nổi lên kháng chiến khắp nơi.
Ở Bãi Sậy có Nguyễn Thiện Thuật, Tạ Hiện, Phạm Bành.
Ở Thanh Hóa có Đinh Công Tráng với căn cứ Ba Đình.
Ở Bắc Giang có Hoàng Hoa Thám với chiến khu Yên Thế.
Ở Hưng Sơn (Hà Tây) có Phan Đình Phùng, Cao Thắng...
Cao trào kháng chiến bùng nổ năm 1887, là kết quả một chuổi tiếp nối từ "Sau
biến cố 1885, tầng lớp "ký lục" kiêm "thông sự" được đeo
thẻ bài ở Tòa Khâm, cái giai tầng được sự đỡ đầu bằng đề cử của các giáo sĩ ở
ngoại quốc. Họ thành lập giai tầng trung gian bản xứ thay thế giai tầng Văn
Thân nho sĩ và thường biện minh cho sự hợp tác với Pháp qua chiêu bài
"thánh chiến" lập tân trào." (Vũ Ngự Chiêu, sách đd, tập 2,
trang 484)
Ngược lại với cảnh tượng nhốn nháo trên, hàng
hàng lớp lớp sĩ phu trên lãnh thổ phía Bắc, các anh hùng kháng Pháp nổi lên
khắp nơi, thì ông Nguyễn Hữu Bài lại được triều đình (tất nhiên là qua mật lệnh
của Pháp) được cử đi đánh dẹp "thổ phỉ" (theo Lê Ngọc Bích, sách đd).
Thổ phỉ thật ra là một lối chơi chữ để tránh phải
gọi là các anh hùng nghĩa quân chống Pháp, một lối chơi chữ 'xách mé' vô trách
nhiệm, không biết hổ thẹn với lương tâm, không sợ phải mang tội với lịch sử dân
tộc. Biết bao nhiêu anh hùng kiểu 'thổ phỉ' này đã bị bọn người bản xứ được
"rửa tội" và đeo "thánh giá" vào người gài bẫy, giết hại để
lập công với nước Đại Pháp !
Và cũng nhờ
các công trạng đó, Bài được thăng tiến từ Bố chánh Thanh Hóa rồi ngóc đầu lên
tới Thị lang Bộ Lại, Thượng tá Cơ Mật, Tham tri Bộ Hình, sau cùng là Thượng thư
triều đình.
Năm 1922, được đi sứ sang Pháp, tháp tùng vua Khải
Định với chức Hộ giá Đại thần, Bài ghé thăm kinh đô của con dân Chúa là
Vatican, được Giáo hoàng Piô XI cho quỳ xuống hôn chân, tâm hồn Bài bốc lên tận
mây xanh, làm bài thơ ca ngợi "Nước Thánh" như sau:
"Nghe
rằng La mã, nước văn minh,
Rằng mới qua xem thấy hiện hình.
Cung điện Giáo hoàng còn vị trí,
Thành trì Ý quốc đã kinh dinh.
Thần đồ, từ vũ, nên kỳ tuyệt,
Cổ tích lâu đài thật khủng kinh.
Yết kiến mông ơn chầu Thánh tọa,
Trăm phần danh giá, bội thêm vinh."
("Lịch Sử Giáo Phận Huế", 'Vịnh đi La mã',
trang 116. Theo chú thích của Lê Ngọc Bích, "thần đồ": tượng ảnh,
"từ vũ": đền đài ).
Bài thơ 'xuất thần' ca tụng Vatican này đáng
được Giáo hội Công giáo Việt Nam khắc bảng vàng để ghi nhớ tấm lòng sắt son của
những kẻ biết "hiếu nghĩa".
Bản chất của Bài rất đáng được xếp loại vào giai
tầng "trung gian" mà Vũ Ngự Chiêu đã mô tả rất cụ thể : "Vào
thời điểm 1885, đây không còn là những lời cáo buộc vô bằng chứng nữa. Vì lý do
này hay lý do khác, đa số tín đồ Ki-tô đã bị lọt vào vòng ảnh hưởng của Pháp,
và một thiểu số khác – vì cuồng tín hay vì danh lợi bản thân, hoặc cả hai –
tích cực hợp tác hoặc phục vụ quân viễn chinh Pháp. Trên khắp chiến trường từ
Bình Thuận ra tới thượng du Bắc Việt, đại đa số thông sự, nho, lính tập, điềm
chỉ, dẫn đường cho Pháp là giáo dân Ki-tô." (sách đd, tập 2, trang 456).
Và danh lợi muốn bền vững cũng cần sự kết hợp
gắn bó: "Ông Nguyễn Hữu Bài có một người bạn đồng liêu lớn hơn ông
chừng một con giáp: ông Ngô Đình Khả (1857-1923). Hai vị đều là lương đống của
triều đình, đồng hương, đồng đạo và đồng chí. Mỗi vị có những hoạt động khác
nhau, nhưng hỗ trợ nhau." (Theo Lê Ngọc Bích, sách đd – tập I, trang
125).
Khá khen cho cụ Lê Ngọc Bích dùng chữ để mô tả khá
cụ thể: hai họ có rất nhiều cái "đồng", nhưng đồng chí mang một nét
"độc đáo" nổi bật. Ông Khả và ông Bài đã đồng chí ở những điểm nào ?
Trước hết, hãy nhắc lại tông tích của ông Khả là ai?
– Micae Ngô Đình Khả sinh năm 1857 nguyên quán làng Đại Phong, huyện Lệ Thuỷ,
tỉnh Quảng Bình. Thuở nhỏ, Khả được cha là Giacôbê Ngô Đình Niêm hay cho đi
giúp lễ với một vị linh mục Pháp ở họ đạo Mỹ Duyệt Hạ (tổng Thạnh Xá, Lệ Thuỷ).
Năm 1870, Khả được Linh mục Caspar (Lộc) cho đi học chủng viện Pénang. Học được
8 năm, đến năm 1878, nhưng "không thấy ơn Chúa gọi", nên lấy
vợ cho ấm thân. Lấy vợ lần thứ nhất với Madelêna Chĩu, bà này qua đời, lấy vợ
lần nữa (năm 1889) với Anna Phạm Thị Thân. (Theo Lê Ngọc Bích, sách đd, trang
105-109, tập I).
Chúng tôi chưa biết có tài liệu nào nói đến
việc ông có con cái gì với bà Chĩu hay không, riêng với bà Thân, đã đẻ ra một
loạt quý tử Ngô Đình, có người về sau làm tới tổng thống. Cũng như Bài, ông Khả
đã "vào ra" chủng viện Pénang, làm thông ngôn, Cơ Mật viện triều
đình, quan hàm Chánh Tứ Phẩm, thăng đến Thượng Thư Bộ Công. Nét giống nhau độc
đáo nữa, là 12 năm sau (1895) kể từ ngày Phêrô Giuse Bài ra Bắc trừng phạt
"thổ phỉ", Micae Khả được cử làm Phó tướng cho Nguyễn Thân ra Bắc
đánh dẹp nghĩa quân "phản loạn" Cần Vương ở Vụ Quang (căn cứ kháng
chiến của Phan Đình Phùng). Khả thắng trận, nhưng chưa hả dạ, đào mã lấy xác cụ
Phan trộn thuốc súng làm đạn, bỏ vào súng đại bác bắn cho tiêu xác trên sông
Lam giang.
Đây là "trò chơi" độc đáo nhất của
"cụ" Khả, đúng là "Đức lớn tài cao, trí có thừa; Đại thần Thị
vệ tiếng khi xưa..." ('Nhân Vật Giáo Phận Huế', Lê Ngọc Bích, sách đd,
trang 109).
Cái tâm chất "trí có thừa" này hẳn là một
nhiễm-sắc-thể di truyền khó thoát : các hậu duệ của ông Khả như Ngô Đình Khôi –
đã từng nổi danh với cách dùng mãnh sành và nước lạnh để tra khảo những người
làm cách mạng lúc ông làm Tổng đốc Quảng Nam, hay "cụ Ngô" hồi làm
quan lớn cũng từng dùng đèn cầy hơ nóng hậu môn tù nhân ngay lỗ khoét của ghế
ngồi để tra khảo tù nhân cách mạng. Có người đã cho rằng, một kẻ làm đến tổng
thống, khi đã ra lệnh tấn công chùa chiền, bắt bớ hàng ngàn tăng ni, thì việc
ác nào cũng có thể làm. Hậu duệ Ngô Đình Cẩn với 'Chín Hầm' ở gần Phủ Cam, Huế
là nơi đã bức tử, hại sinh biết bao sinh mạng vô tội; hay một đứa con khác đã
đi tu tới chức Giám mục rồi, mà vẫn đeo đẳng tinh thần:
"Ngô Đình Thục háo danh
thèm chức tước,
Tiếm loạn quyền nên cả nước khinh
khi,
Tu
hành gì mà gian ác sân si!
Thế
mà vẫn nghiễm nhiên làm Giám mục..."
(Nguyễn Mạnh Quang, 'Thực Chất của Giáo Hội La Mã',
tập 2, tác giả xb, trang 571).
Nhận định về công trạng của hai
đại dòng họ Nguyễn Hữu-Ngô Đình đã đóng góp cho thế quyền (Đại Pháp) và giáo
quyền (Giáo hội Công giáo Vatican) lớn tới đâu, chỉ có trong nội bộ của hai
thế lực này biết thôi, nhưng có một câu vè trong dân gian ở Huế về hai nhân vật
này "Đày vua có Khả, đào mã có Bài" vẫn còn là dấu
hỏi. Dấu hỏi bởi, theo các tài liệu lịch sử Giáo hội Công giáo Việt Nam viết
thường là ca tụng hai nhân vật "độc đáo" này hết lời, và tất nhiên
câu vè dân gian trên được sửa lại:
"Phế Vua không
Khả, Đào mã không Bài" ("Nhân Vật Giáo Phận Huế",
sách đd, tập I, trang 115) để ám chỉ tới lập luận của chính họ: Bài đã từng
"lên tiếng" ngăn chận, dù không thành, Khâm sứ Mahé ngang ngược bắt
khai quật lăng Vua Tự Đức lấy vàng ngọc châu báu vào năm 1907, dưới triều Vua
Duy Tân. Ông Thượng Ngô Đình Khả "phản đối" Pháp trong âm mưu truất
phế và đày Vua Thành Thái ('cũng chỉ lên tiếng thôi mà không thành'!). Cho tới
hôm nay, các nhà viết sử ở nước ngoài chưa thấy ai nói rõ điều này một cách
rạch ròi cho thỏa lòng dân Huế. Đến ngay cả tác giả Hoàng Trọng Thược trong
"Hồ Sơ Vua Duy Tân" (Thanh Hương xuất bản 1984, Hoa Kỳ) cũng dùng tài
liệu cũ vốn thiếu phần chính xác để xác nhận việc Ngô Đình Khả không chịu ký tờ
biểu vua thoái vị (trang 410). Nhưng với vai trò "Thị vệ" (đúng nghĩa
là làm nhiệm vụ cảnh sát và báo cáo) báo cáo mọi hành vi, nhất cử nhất động của
Vua Thành Thái lên quan Đại Pháp, thì sự việc ông Khả có lên tiếng "phản
đối' âm mưu "truất ngôi, đày vua" có thật hay không cũng chẳng có giá
trị thuyết phục nhân dân Việt thay đổi cái nhìn về bản chất và hành động của Bài
và Khả.
Theo nhận xét qua phương
pháp phân tích sử liệu của Vũ Ngự Chiêu ('Các Vua Nhà Nguyễn', tập 2), chúng ta
thấy có sự mâu thuẫn giữa Giáo hội Công giáo (bản xứ + truyền giáo) và chính
quyền thực dân về việc truất phế Thành Thái. Báo 'L'Avenir de Tonkin' (có cổ
phần của Hội Truyền giáo) đã báo cáo về Paris rằng: "Có vẻ Thành Thái
đã rửa tội trong một cơn bệnh nặng trước khi lên ngôi (1884). Hội Truyền giáo
chẳng bao giờ chống lại vua; vài năm trước Hội đã vận động để cắt cử một giáo
dân Ki-tô, Ngô Đình Khả, vào chức vụ thân cận cho phép hành xử trên vua những
ảnh hưởng trực tiếp và liên luỹ..." (trang 583).
Quan điểm của chính quyền
thực dân Pháp (qua đại biểu Khâm sứ F. Levecque, có khuynh hướng Tam Điểm
('Freemason' – vốn không ưa Công giáo Rôma) không quan tâm lắm tới một ông vua
bù nhìn có "rửa tội" hay không, mà là một ông vua tương đối "tử
tế", biết vâng lời nước Pháp và quan Đại Pháp.
Trong lúc Hội Truyền giáo và
nhóm Ki-tô thì thích một ông vua đã rửa tội hơn, và điều quan trọng nhất là họ
có khả năng kiểm soát và kiềm chế ông vua này không. "Ngô Đình Khả –
người được giao chức quan Thị vệ và an ninh Cấm thành – bị nghi là gieo rắc
những ảnh hưởng tai hại trên vua." (Vũ Ngự Chiêu, tập 2, sách đd,
trang 585). Trong lá thư ngày 15/8/1907, Khả vận động 154 học sinh Quốc Tử Giám
gởi Khâm sứ Levecque tỏ lộ rằng: "Yêu cầu Pháp ban cho họ một ông vua
mà chỉ nguyên sự hiện diện đủ trấn an tinh thần binh sĩ và các liệt thần của đế
quốc." (sách đd, trang 585). Do đó, vấn đề Khả dù có chống việc
"phế ngôi, đày vua", không phải vì ông ta thương xót gì triều đình
nhà Nguyễn, lo cho sơn hà xã tắc nước Nam, mà do điều đó có phù hợp với mưu đồ
hợp tung giữa Bài và Khả, có được lòng Giáo hội Mẹ, quyền lợi nước Đại Pháp và
khả năng khuynh loát triều chính hay không ? Câu trả lời : ngày 3/9/1907,
Nguyễn Hữu Bài, cùng Phủ Phụ Chính (tất nhiên trong đó có Khả) chấp nhận giải
pháp của nước Đại Pháp, và hơn một tháng sau (17/10/1907), Vĩnh San (hoàng tử
thứ hai mới 10 tuổi) lên ngôi, Thành Thái phải rời Huế đi Bà-rịa, mở đầu cho
cuộc đời tù đày long đong viễn xứ của ông vua giả điên này.
Một tài liệu khác trong
"Lịch Sử Phật Giáo Huế" của Thượng tọa Thích Hải Ấn và Hà Xuân Liêm
(nhà xb TP/Hồ Chí Minh 2000) lại trưng ra những chứng cớ đơn giản hơn, khẳng
quyết Nguyễn Hữu Bài là kẻ đã đồng ý đào mã Vua Tự Đức : "Nguyễn Hữu
Bài là người đã ký giấy để bọn thực dân Pháp quật lăng Vua Tự Đức. Điều này có
thể không sai, bởi vì ông đã nói với ông A. Delvaux là "nước Pháp đã mở
rộng nền bảo hộ của họ một cách "cực chẳng đã", nghĩa là điều nước
Pháp không muốn, họ vẫn bị đẩy bởi sự vi phạm không ngừng các hiệp ước do triều
đình Vua Tự Đức gây nên." (dẫn theo LSPGH, trang 355-356 A. Delvaux,
'Quelques précisions sur une période troublée d'histoire d'Annam' – Bulletin
des Amis du Vieux de Hue số 3, năm thứ 28). Đây là lối luận định - tư tưởng đã
như vậy thì hành động không thể khác. Riêng Ngô Đình Khả "là người đã
ký giấy cho bọn thực dân Pháp đày Vua Thành Thái sang Réunion. Dân Huế còn
truyền tụng "Đày vua ông Khả, đào mã ông Bài"" (trang 356).
"Lịch Sử Phật Giáo Huế" đã kết luận về con người ông Khả rằng :
"Mấy chữ sau đây của ông Nguyễn Đình Hòe nói về ông Ngô Đình Khả, mà
Louis Sogny trích lại trong bài viết của ông ở BAVH (Bulletin des Amis du Vieux
de Hue), tưởng là quá đủ: "...un grand serviteur de la France..." Cho
nên đối với nước Việt Nam và dân tộc Việt Nam, nhất là dân Huế, thì ông Ngô
Đình Khả đã bị "tombé dans l'oubli depuis longtemps" như lời ông
Nguyễn Đình Hòe đã nói vào đầu thế kỷ 20 này là điều hiển nhiên vậy." (LSPGH,
trang 357).
Đúng vậy, cái 'tên' Ngô
Đình Khả – "một đại-tôi-tớ cho nước Pháp" đã bị tiêu trầm trong lòng
người dân Huế một thời gian dài đằng đẳng, nhưng dòng họ Ngô Đình chỉ thật sự
hoàn toàn "xóa sổ" vào ngày 13/12/1984, lúc Tổng Giám mục Ngô Đình
Thục (con trưởng nam cuối cùng của dòng họ Ngô Đình) lìa trần trong tình trạng
"tù đày" (captivity) cô độc sau một thời gian dài công khai chống lại
Vatican. Còn một chút ảo vọng khác là Hồng y Nguyễn Văn Thuận (cháu ngoại của
Ngô Đình Khả (*), trong niềm mơ ước hoang tưởng của một số người Công
giáo hoài Ngô ôm ấp viễn mộng một ông Giáo hoàng Việt Nam đầu tiên – ngày
16/9/2002 cũng đã "về với Chúa". Ngoài những "hậu duệ" bàng
dân thiên hạ như : Nguyễn Văn Lục, Thoma Thiện, Lữ-Giang-Tú-Gàn còn tỏ chút
"Đôi dòng ghi nhớ", và những bùi ngùi, luyến thương công khai
hoặc âm thầm khác; từ đây không biết còn có những tung hô "dựng đền tạc
tượng" dòng họ Ngô Đình nữa hay không – cũng chỉ vì những bâng khuâng tiếc
nuối, mơ tưởng về đống của phù vân đã tan biến theo dòng đời?
Nguyễn Hạnh Hoài Vy
(Thu 2002 - hồi tưởng về
1.11.63)
[(*) Trích sau đây là một đoạn
qua bản tin "Hồng y Nguyễn Văn Thuận từ trần" của website ở Paris
tháng 10 năm 2002 : "Theo thông tín viên của chúng tôi ở Roma, cách đây
vài tháng, em trai của hồng y, ông Nguyễn Văn Tuyên, đã từ trần tại Houston,
Texas. Ông Tuyên sống độc thân sau khi li dị, chết đơn độc không ai hay. Nhiều
ngày sau, bạn bè mới phát hiện khi thấy đàn quạ bay vần vũ trên nóc nhà"].
bọn chó công giáo bán nước hại dân.thăng nhu thằng diệm thằng khả thằng thục một lũ chó săn
Trả lờiXóa