MỘT MÙA
XUÂN VATICAN?
New York
Times – 27-2-2013
Tôi dịch và phổ biến
bài nầy với ước mong bạn đọc, nhất là các bạn tín đồ Công giáo Việt
Nam, thấy được (hay ít nhất là bắt đầu
tìm hiểu thêm) về 3 cuộc khủng
hoảng giáo lý, giáo chế, và giáo quyền
của Giáo hội Công giáo được hàm ý trong bài viết nầy, để đừng tiếp tục mang
một ảo tưởng về sức mạnh thần quyền và thế quyền của Tòa thánh Vatican nữa. Tiên
quyết phải được giải phóng khỏi ảo tưởng đó thì tín đồ Công giáo Việt Nam mới có thể
có trí tuệ và ý chí để bắt đầu tiến hành các cải cách cần thiết cho sự sống còn
của Giáo hội mình.
(Nhấn mạnh trong bản dịch là của LND, người dịch – 3/2013)
Mùa
Xuân Ả Rập đã làm chấn động một loạt các chế độ toàn trị. Với hành động từ nhiệm
của Giáo hoàng Benedict XVI, liệu một hiện tượng như thế có sẽ xãy ra cho Giáo
hội Công giáo La Mã không - một Mùa Xuân Vatican chăng?
Dĩ nhiên là hệ thống Giáo hội Công
giáo thì không giống như ở Tunisia hay Ai Cập và lại càng không giống như chế độ
quân chủ tuyệt đối như ở Saudi Arabia. Tại hai nơi nầy, đã không có những cải cách
thật sự, chỉ có những nhượng bộ thứ yếu. Trong cả hai trường hợp, người ta đã
nhân danh truyền thống để chống lại cải cách. Tại Saudi Arabia, truyền thống chỉ
bắt đầu mới hai thế kỷ nay, nhưng chế độ giáo hoàng thì đã 20 thế kỷ.
Tuy nhiên, truyền thống 20 thế
kỷ đó có như thế không? Thật ra, giáo hội đã trải qua một nghìn năm mà không có
một chế độ giáo hoàng quân chủ tuyệt đối như loại mà chúng ta biết ngày nay.
Mãi
cho đến thế kỷ thứ 11 thì “cuộc cách mạng
từ trên xuống”, còn gọi là “Cuộc cải cách Gregorian” do Giáo hoàng Gregory
VII khởi xướng, mới để lại cho chúng ta ba đặc điểm lâu bền trong hệ thống La
mã: Một hệ thống giáo hoàng tập trung
tuyệt đối, một giáo quyền có tính cưởng bách, và Linh mục cũng như các chức sắc thế tục khác phải sống đời độc
thân.
Những
nỗ lực của các công đồng trong thế kỷ thứ 15, các nhà cải cách của thế kỷ thứ
16, thời đại Ánh sáng và cuộc cách mạng Pháp trong hai thế kỷ 17 và 18, và chủ
nghĩa tự do trong thế kỷ thứ 19 … tất cả đều chỉ đem lại những thành công giới
hạn. Ngay cả Cộng đồng Vatican II, từ 1962 đến 1965, dù có đề cập đến nhiều
quan tâm của giới cải cách và của những phê phán hiện đại, cũng đã bị quyền lực
của Giáo triều Rôma (Curia), cơ quan quản trị của Tòa thánh, phá ngang và chỉ thi hành được vài đổi thay
được Cộng đồng đòi hỏi.
Cho
đến hôm nay, Giáo triều Curia trong hình
thức giống như một sản phẩm của thề kỷ thứ 11, chính là trở ngại chính (chief obstacle) cho bất kỳ cải cách rốt ráo nào nhằm
vào Giáo hội Công giáo, cho bất kỳ một hiệp thông hoàn vũ với các Hội thánh Cơ
đốc giáo và các tôn giáo thế giới khác, và cho bất kỳ thái độ phê phán xây dựng
nào đối với thế giới hiện đại.
Dưới
triều đại của hai vị Giáo hoàng gần đây nhất, Gioan Phaolồ II và Bênêđict XVI, ta thấy đã xãy ra một xu thế quay lại tai
hại (fatal return) nhằm xử dụng những tập quán quân chủ của Giáo hội.
Vào
năm 2005, trong một hành động bạo dạn hiếm hoi, Giáo hoàng Benedict đã đàm đạo
thân mật 4 tiếng đồng hồ với tôi trong ngôi nhà nghĩ mùa Hè Castel Gandolfo của
Giáo hoàng tại La Mã. Tôi vốn là đồng nghiệp của Giáo hoàng tại Đại học Tübingen
và cũng là người chỉ trích Giáo hoàng gay gắt nhất. Trong 22 năm, vì quyết định
thu hồi giấy phép dạy đạo của tôi vì đã chỉ trích tính không sai lầm của Giáo
hoàng, chúng tôi đã không có cuộc tiếp xúc riêng tư nào.
Trước
cuộc gặp mặt, chúng tôi đồng ý là sẽ gác những khác biệt qua một bên và chỉ thảo
luận những đề tài mà chúng tôi nghĩ có thể đồng ý với nhau: Quan hệ tích cực giữa
niềm tin Cơ đốc giáo và khoa học, cuộc đối thoại giữa các tôn giáo và các nền
văn minh, và sự đồng thuận đạo đức xuyên qua tín ngưỡng và ý thức hệ.
Đối với tôi, và cả đối với toàn bộ thế giới
Công giáo, cuộc gặp gở là một dấu hiệu của hy vọng. Tuy nhiên buồn thay, triều đại giáo hoàng Benedict đã chỉ được ghi
dấu bởi những tan vỡ và các quyết định sai lầm. Giáo hoàng đã chọc giận
(irritated) các Hội thánh Tin Lành, người Do Thái, người Hồi Giáo, thổ dân châu
Mỹ Latinh, nữ giới, các nhà thần học có khuynh hướng cải cách và tất cả những
tín hữu Công giáo muốn cải cách.
Chúng
ta đều biết những xì-căng- đan lớn dưới triều đại của Giáo hoàng Benedict là
quyết định thừa nhận Hiệp hội Society of
St Pius X, vốn chống đối quyết liệt Công đồng II, của Tổng Giám mục Marcel Lefebvre, cũng
như thừa nhận Giám mục Richard
Williamson, người cho rằng không có diệt chũng (Holocaust) [dưới chế độ Quốc
xã Đức]. Chức sắc giáo hội thì lạm dụng tình dục con nít và trẻ em tràn lan mà Giáo hoàng lại là người trách nhiệm chính
trong việc bao che [những kẻ phạm tội nầy] khi Giáo hoàng còn là Hồng y
Joseph Ratzinger. Và còn vụ rò rĩ “Vatileaks” đã phanh phui ra những mưu đồ khũng khiếp (horrendous
intrigue), đấu đá quyền lực (power
struggles), tham nhũng và trụy lạc tình dục (corruption and
sexsual lapses) trong giáo triều Curia, và hình như đó là lý do chính khiến
Giáo hoàng Benedict đã phải quyết định từ chức.
TGM
Marcel Lefebvre (trái) và GM Richard Williamson
Sau gần 600 năm, sự cố Giáo hoàng từ
chức nầy đã làm hiển lộ cuộc khủng hoảng cơ bản đã từ lâu ẫn hiện trong một
giáo hội hóa thạch lạnh lùng (coldly
ossified church).
Và bây giờ thì cả thế giới đều hỏi liệu vị Giáo hoàng sắp tới, trước tình hình
đó, có khánh thành một mùa xuân mới cho Giáo hội Công Giáo không?
Ta
không thể bỏ qua những nhu cầu tuyệt vọng của Giáo hội. Tình trạng thiếu thốn thê thảm con số Linh mục tại
Âu châu và tại châu Mỹ Latinh cũng như châu Phi. Một lượng khổng lồ tín đồ rời
bỏ Giáo hội hay “di dân tại chổ”
(internal emigration, hàm ý “tự tu”, không chấp nhận quyền lực tinh thần của
giáo hội), nhất là trong các quốc gia kỹ nghệ. Một hiện tượng không nhầm lẫn được
là tình trạng mất lòng kính trọng đối với
giám mục và linh mục, một sự xa lìa, nhất là trong giới phụ nữ trẻ, và sự
thất bại trong nỗ lực kết hợp giới trẻ vào Giáo hội.
Chúng
ta không nên bị lạc dẫn bởi cơn sốt truyền thông của những buổi lễ hoành tráng
của Giáo hoàng hay tiếng vỗ tay hoang dại của những nhóm trẻ Công giáo bảo thủ.
Sau mã ngoài đó là toàn bộ ngôi nhà đang
vỡ vụn. (Behind the façade, the whole house is crumbling)
Trong
tình trạng thê thảm nầy, Giáo hội cần có một vị Giáo hoàng mà về mặt trí thức
thì đừng sống trong thời kỳ Trung cổ,
đừng cổ xúy cho bất kỳ một nền thần học,
một hệ thống nghi lễ hay một hiến chương giáo hội thời Trung cổ nào cả. Giáo hội
cần một vị Giáo hoàng mở lòng với những quan tâm về cải cách, về tính hiện đại.
Một Giáo hoàng đứng lên cho tự do của giáo hội trên thế giới không phải chỉ bằng
các buổi lễ mà còn đấu tranh bằng lời nói và hành động cho tự do và nhân quyền chính
ngay trong lòng giáo hội (freedom
and human rights within the church), đứng lên cho các nhà thần học, cho nữ giới,
cho tất cả mọi tín hữu Công giáo muốn công khai nói lên sự thật. Một giáo hoàng
không còn bắt buộc các giám mục phải rón rén đi theo một con đường phản động
(to toe a reactionary party line), một giáo hoàng thực hiện một nền dân chủ
thích hợp trong giáo hội, vốn đã định hình cho mẫu mực của thời kỳ Cơ đốc giáo
sơ khai. Một giáo hoàng không bị “cái
bóng giáo hoàng” (shadow pope) như Benedict và các cận thần trung tín của
ông ta ảnh hưởng.
Vị
tân Giáo hoàng xuất thân từ đâu đừng đóng một vai trò cốt yếu. Nghị hội Cơ mật
các Hồng y thì chỉ đơn giản bầu lên người tốt nhất. Bất hạnh thay, từ thời Giáo
hoàng Gioan Phaolồ II, một bản câu hỏi (questionnaire) đã được xử dụng để làm
cho tất cả mọi giám mục đều phải tuân thủ học thuyết Công giáo La Mã chính thức
trong những vấn đề gây ra tranh cải, một quy trình được ấn chứng bởi một lời thề,
nguyện vâng lời Giáo hoàng một cách vô
điều kiện (a vow of unconditional obedience to
the pope).
Đó là lý do vì sao cho đến nay ta không thấy có giám mục nào công khai bất đồng
ý kiến.
Thế
nhưng cấp giáo phẩm trong Giáo hội Công giáo đã từng bị cảnh báo về cái hố ngăn
cách giữa họ và tín đồ trong những vấn đề quan trọng cần cải cách. Một cuộc
thăm dò ý kiến tại Đức gần đây cho thấy 85% người Công giáo đồng ý cho phép
Linh mục được kết hôn, 79% đồng ý để những người ly dị được làm đám cưới
lại tại nhà thờ, và 75% đồng ý cho phụ nữ thụ phong Linh mục. Các nước khác hầu
như cũng sẽ có những kết quả tương tự.
Liệu
chúng ta có kiếm ra được một Hồng y hay Giám mục không còn muốn tiếp tục con đường
mòn cũ kỹ không? Một người mà, trước hết, ý thức được rằng cuộc khủng hoảng của Giáo hội thì sâu sắc như thế nào; và tiếp theo
là biết được những con đường dẫn Giáo hội ra khỏi cuộc khủng hoảng đó.
Những
vấn đề nầy phải được công khai thảo luận trước và trong thời gian Mật nghị hội,
với các Hồng y không bị khóa mỏm (muzzled) như họ đã từng bị trong Mật nghị hội
năm 2005 (bầu Giáo hoàng Benedict XVI) để bắt họ theo đúng đường lối (to keep
them in line).
Với
tư cách là nhà thần học còn hoạt động cuối cùng của Công đồng Vatican II (chung
với Giáo hoàng Benedict), tôi tự hỏi lúc bắt đầu Mật nghị hội, liệu có hay
không một nhóm Hồng y can đảm đối đầu với
thành phần cứng đầu của Công giáo La Mã và đòi hỏi một ứng viên sẳn sàng mạo hiểm
chọn lựa những hướng đi mới. Liệu điều nầy có thể thực hiện được với một hội đồng
cải cách mới hay, tốt nhất là, một quốc hội đại biểu gồm những Giám mục, Linh mục
và giáo dân ?
Nếu
Mật nghị hội sắp tới bầu ra một Giáo hoàng đi lại trên lối mòn cũ, thì Giáo hội
sẽ không bao giờ được trải nghiệm một mùa xuân mà chỉ rơi vào một thời kỳ băng
giá, và có nguy cơ teo tóp lại thành một
giáo phái càng lúc càng không còn thích đáng (increasingly irrelevant sect).
LND chuyển dịch
từ bản Anh ngữ của Peter Heinegg
A Vatican Spring?
By HANS KÜNG
Published: February 27, 2013
THE Arab Spring has shaken a whole
series of autocratic regimes. With the resignation of Pope Benedict XVI, might
not something like that be possible in the Roman Catholic Church as well — a
Vatican Spring?
Of course, the system of the
Catholic Church doesn’t resemble Tunisia or Egypt so much as an absolute
monarchy like Saudi Arabia. In both places there are no genuine reforms, just
minor concessions. In both, tradition is invoked to oppose reform. In Saudi
Arabia tradition goes back only two centuries; in the case of the papacy, 20
centuries.
Yet is that tradition true? In fact,
the church got along for a millennium without a monarchist-absolutist papacy of
the kind we’re familiar with today.
It was not until the 11th century
that a “revolution from above,” the “Gregorian Reform” started by Pope Gregory
VII, left us with the three enduring features of the Roman system: a
centralist-absolutist papacy, compulsory clericalism and the obligation of
celibacy for priests and other secular clergy.
To this day the Curia, which in its
current form is likewise a product of the 11th century, is the chief obstacle
to any thorough reform of the Catholic Church, to any honest ecumenical understanding
with the other Christian churches and world religions, and to any critical,
constructive attitude toward the modern world.
Under the two most recent popes,
John Paul II and Benedict XVI, there has been a fatal return to the church’s
old monarchical habits.
In 2005, in one of Benedict’s few
bold actions, he held an amicable four-hour conversation with me at his summer
residence in Castel Gandolfo in Rome. I had been his colleague at the
University of Tübingen and also his harshest critic. For 22 years, thanks to
the revocation of my ecclesiastical teaching license for having criticized
papal infallibility, we hadn’t had the slightest private contact.
Before the meeting, we decided to
set aside our differences and discuss topics on which we might find agreement:
the positive relationship between Christian faith and science, the dialogue
among religions and civilizations, and the ethical consensus across faiths and
ideologies.
For me, and indeed for the whole
Catholic world, the meeting was a sign of hope. But sadly Benedict’s
pontificate was marked by breakdowns and bad decisions. He irritated the
Protestant churches, Jews, Muslims, the Indians of Latin America, women,
reform-minded theologians and all pro-reform Catholics.
The major scandals during his papacy
are known: there was Benedict’s recognition of Archbishop Marcel Lefebvre’s
arch-conservative Society of St. Pius X, which is bitterly opposed to the
Second Vatican Council, as well as of a Holocaust denier, Bishop Richard
Williamson.
There was the widespread sexual
abuse of children and youths by clergymen, which the pope was largely
responsible for covering up when he was Cardinal Joseph Ratzinger. And there
was the “Vatileaks” affair, which revealed a horrendous amount of intrigue, power
struggles, corruption and sexual lapses in the Curia, and which seems to be a
main reason Benedict has decided to resign.
This first papal resignation in
nearly 600 years makes clear the fundamental crisis that has long been looming
over a coldly ossified church. And now the whole world is asking: might the
next pope, despite everything, inaugurate a new spring for the Catholic Church?
There’s no way to ignore the
church’s desperate needs. There is a catastrophic shortage of priests, in
Europe and in Latin America and Africa. Huge numbers of people have left the
church or gone into “internal emigration,” especially in the industrialized
countries. There has been an unmistakable loss of respect for bishops and
priests, alienation, particularly on the part of younger women, and a failure
to integrate young people into the church.
One shouldn’t be
misled by the media hype of grandly staged papal mass events or by the wild
applause of conservative Catholic youth groups. Behind the facade, the whole
house is crumbling.
In this dramatic situation the
church needs a pope who’s not living intellectually in the Middle Ages, who
doesn’t champion any kind of medieval theology, liturgy or church constitution.
It needs a pope who is open to the concerns of the Reformation, to modernity. A
pope who stands up for the freedom of the church in the world not just by
giving sermons but by fighting with words and deeds for freedom and human
rights within the church, for theologians, for women, for all Catholics who
want to speak the truth openly. A pope who no longer forces the bishops to toe
a reactionary party line, who puts into practice an appropriate democracy in
the church, one shaped on the model of primitive Christianity. A pope who
doesn’t let himself be influenced by a Vatican-based “shadow pope” like
Benedict and his loyal followers.
Where the new pope comes from should
not play a crucial role. The College of Cardinals must simply elect the best
man. Unfortunately, since the time of Pope John Paul II, a questionnaire has
been used to make all bishops follow official Roman Catholic doctrine on
controversial issues, a process sealed by a vow of unconditional obedience to
the pope. That’s why there have so far been no public dissenters among the
bishops.
Yet the Catholic hierarchy has been
warned of the gap between itself and lay people on important reform questions.
A recent poll in Germany shows 85 percent of Catholics in favor of letting
priests marry, 79 percent in favor of letting divorced persons remarry in church
and 75 percent in favor of ordaining women. Similar figures would most likely
turn up in many other countries.
Might we get a cardinal or bishop
who doesn’t simply want to continue in the same old rut? Someone who, first,
knows how deep the church’s crisis goes and, second, knows paths that lead out
of it?
These questions must be openly
discussed before and during the conclave, without the cardinals being muzzled,
as they were at the last conclave, in 2005, to keep them in line.
As the last active theologian to
have participated in the Second Vatican Council (along with Benedict), I wonder
whether there might not be, at the beginning of the conclave, as there was at
the beginning of the council, a group of brave cardinals who could tackle the
Roman Catholic hard-liners head-on and demand a candidate who is ready to
venture in new directions. Might this be brought about by a new reforming
council or, better yet, a representative assembly of bishops, priests and lay
people?
If the next conclave were to elect a
pope who goes down the same old road, the church will never experience a new
spring, but fall into a new ice age and run the danger of shrinking into an
increasingly irrelevant sect.
Hans Küng is a professor emeritus of
ecumenical theology at the University of Tübingen and the author of the
forthcoming book “Can the Church Still Be
Saved?” This essay was translated by Peter Heinegg from the German.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét