BỐN TUYÊN BỐ “ĐỂ ĐỜI”
CỦA ÔNG NGÔ ĐÌNH DIỆM
Sưu tầm của Kevin Trần
Bốn ảnh gốc từ LIFE Magazine, 1963
KT bố cục và chỉnh đổi
lại, 2017
Mỗi
lãnh tụ lớn, nhất là lãnh tụ chính trị, sau khi qua đời thường để lại một số di
sản cho hậu thế. Di sản đó có thể là thành quả cụ thể của những chính sách, có
thể là những dấu ấn chính trị lâu dài, cũng có thể là một số tư tưởng lập thuyết
… Trong số di sản đó, nỗi bật nhất là những câu nói ngắn gọn và dễ nhớ như một
tuyên ngôn, phản ảnh tâm nguyện hay lý tưởng hay nhân cách của vị lãnh tụ trước
một biến cố nào đó.
Tổng
thống Mỹ Abraham Lincoln: “Một chính phủ
của dân, do dân và vì dân” (Government of the People, by the People, for
the People). Anh hùng đấu tranh bất bạo động Ấn Độ Mahatma Gandhi: “Kẻ yếu không bao giờ có thể tha thứ cho ai cả.
Lòng tha thứ là đặc tính chỉ người mạnh mới có” (The weak can never
forgive. Forgiveness is the attribute of the strong). Tín đồ Công giáo độc tài Quốc xã Adolf Hitler:
“Ai dám nói rằng ta không được Thiên Chúa
che chở một cách đặc biệt?” (Who says I am not under the special protection
of God?)
Hay
gần gũi với chúng ta hơn, nhà vua thiền sư Trần Nhân Tông hai lần đánh bại quân
xâm lược Nguyên Mông: “Một tấc đất của tiền
nhân để lại cũng không được để lọt vào tay kẻ khác”. Vị anh hùng áo vãi cờ đào
Quang Trung Nguyễn Huệ: “Đánh cho để dài
tóc, đánh cho để đen răng, đánh cho Sử tri Nam quốc anh hùng chi hữu chủ”. Linh
mục lãnh tụ Khu An toàn Phát Diệm Hoàng Quỳnh: “Thà mất nước chứ không thà mất Chúa”.
Ông
Ngô Đình Diệm là Tổng thống đầu tiên của nước Việt Nam Cộng hòa. Là một lãnh tụ
chính trị nên ông cũng để lại nhiều tuyên bố trong quá trình xây dựng sự nghiệp
chính trị của ông. Trong số đó có bốn tuyên bố “để đời” mà cho đến nay, hằng năm,
vẫn được nhiều người nhắc đến mỗi độ tháng Mười Một về:
1- Tuyên bố về quan
điểm dụng nhân trong bộ máy cai trị quốc gia: “Chỉ có dân miền Trung mới có khả năng lãnh đạo quốc gia. Dân miền Bắc hợp với buôn bán, còn dân miền Nam chỉ làm tướng võ biền”
Câu
nói nầy được trích từ đề mục “Ngô Đình Diệm”, tiểu mục “Trở thành Tổng thống” trong
Bách khoa Toàn thư mở Wikipedia tiếng Việt. Nguyên văn như
sau:
“Ông Diệm là người phân biệt cá nhân theo vùng miền. Ông chỉ thích nâng đỡ
người gốc Huế. Ngô Đình Diệm thường nói: "Chỉ có dân miền Trung mới có khả năng
lãnh đạo quốc gia. Dân miền Bắc hợp với buôn bán, còn dân miền Nam chỉ làm tướng
võ biền". Cách hành xử của ông Diệm cũng rất cao ngạo. Ông xem Việt
Nam Đệ nhất Cộng hòa là quốc gia của riêng ông và của gia đình ông.”
Qua
câu nói nầy, ta thấy cách ông Diệm phân biệt vùng miền và đánh giá gốc gác địa
phương như thế, chưa nói đến đúng hay sai trong một nhận định khái quát hóa không
có cơ sở khoa học, thì cũng đã phản ảnh đầu óc cục bộ của một viên quan lại hẹp
hòi và cao ngạo (với cái gốc miền Trung của ông). Chẳng trách gì sau nầy khi làm
tổng thống, với tâm phân biệt ông đã dựng lên quanh mình ông những vòng rào khu
biệt phân cách rạch ròi: Trong cùng là vòng rào anh em dòng họ Ngô Đình như 5
con chuôt mà họa sĩ Phạm Tăng vẽ trên bìa báo Tự Do
Xuân Canh Tý 1960,
rồi đến vòng rào Công giáo mà Sử gia Tạ Chí Đại Trường
gọi là đám “kiêu dân”, rồi đến vòng rào
đảng Cần Lao với một bầy Mật vụ khuyển ưng, và cuối cùng là vòng rào gốc miền
Trung của hai tỉnh Huế và Quảng Bình. Còn bên ngoài mênh mông là bàn dân thiên
hạ thuộc thành phần “buôn bán” và “võ biền”. Ngất ngưỡng trên chóp đỉnh quyền lực
ở trung tâm 4 vòng đồng tâm nầy, ông đặt lòng tin và ban phát đặc quyền đặc lợi
theo đúng độ gần xa của mỗi vòng. Cơ chế hành chánh quốc gia và bộ máy chính trị
của ông, do đó, cũng theo một mô hình hướng tâm (centripetal) độc tài như vậy.
Đến nổi khi nói đến “gia đình trị”
hay “Công giáo trị” … thì ai cũng biết
là nói dến chế độ nào. Và chính ông bố vợ của ông Ngô Đình Nhu là ông Trần Văn
Chương, Đại sứ Việt Nam Cộng Hòa tại Hoa Kỳ, cũng đã phải lên án chế độ Ngô Đình
Diệm là một “chế độ toàn trị” (FRUS
1961-1963 Volume IV, Doc.118).
2- Tuyên bố về bản
chất của mối quan hệ giữa Mỹ và Việt Nam: “Liên
quan tới vấn đề an ninh, biên giới của Mỹ
không ngừng ở bờ biển Đại Tây dương và Thái Bình dương mà kéo dài, tại Đông Nam
Á, tới sông Bến Hải, vốn chia đôi Việt
Nam ở vĩ tuyến thứ 17, tạo thành cái biên giới đã bị đe dọa của Thế giới Tự do
mà chúng ta đều trân trọng”
Tuyên
bố nầy nguyên được phát biểu bằng tiếng Anh từ bài diễn văn của ông Diệm tại khách
sạn Waldorf-Astoria ở New York City ngày 13-5-1957, trong bửa tiệc trưa mà vị
Thị trưởng Thành phố New York chiêu đải ông. Nguyên văn tiếng Anh như sau:
“With regard to security, the frontiers of the United States do not stop at the
Atlantic and Pacific Coasts, but extend, in South East Asia, to the Ben Hai
river, which partitions Viet-Nam at the 17th parallel, and forms the
threatened border of the Free World, which we all cherish”.
Toàn
bộ bài diễn văn, sau đó, được Tòa Đại sứ Việt Nam Cộng hòa (2251 R Street N.W.,
Washington DC) in lại và phổ biến với nguyên văn câu tiếng Anh như trên.
TRÁI – Trang bìa: Address by His Excellency Ngo Dinh Diem President
of the Republic
of
Viet Nam at Luncheon in His Honor by The Mayor of The City of New York –
Waldorf-Astoria
Hotel – May 13, 1957 / Embassy of Vietnam, 2251 R Street N.W., Washington DC,
Adams 4-3301.
PHẢI – Cuối trang 3 và đầu trang 4: Câu trích dẫn “With regard … which we all cherish”
[Nguồn: Texas Tech University, The Vietnam Center
and Archive, Lubbock, TX: https://www.vietnam.ttu.edu//virtualarchive/items.php?item=2321507006 ]
Trong
tuyên bố nầy, cụm từ “biên giới của Mỹ … tới sông Bến Hải”
đã làm cho mọi người sửng sốt và tức giận vì thấy hậu ý “bán nước” của ông Diệm
là như muốn biến miền Nam Việt Nam thành “Tiểu bang thứ 49” của Hợp Chủng quốc
Hoa Kỳ. Nhất là lời tuyên bố đó đã “tạo cơ hội cho đài phát thanh Hà Nội lợi dụng
tuyên truyền về bản chất tay sai của chính quyền miền Nam trong quan hệ Mỹ-Diệm,
và đã đập tan cái luận cứ độc lập và dân tộc chống Cọng của chính nghĩa miền Nam
trong nhân dân” (Hồi ký chính trị của Hoành Linh
Đỗ Mậu, Chương 16). Theo sử gia Jacques Dalloz (1943-2005), có lẽ ông Diệm cũng
thấy mình “nói hớ” nên ra lệnh cho báo chí Sài Gòn biên tập lại, thay và đổi “biên giới của Mỹ …” thành “biên giới
của Thế giới Tự do chạy dài từ Alaska đến
sông Bến Hải” [Xem Đề mục “Ngô Đình Diệm”, Tiểu mục “Câu nói” tại Wikipedia,
footnote 151]. Sau 1975, tại hải ngoại, ta còn thấy nhóm Cần Lao hoài-Ngô tìm
cách bênh vực ông Diệm bằng cách phịa ra
nhiều dị bản quái đản khác để bào chữa cho “ý đồ bán nước” của ông Diệm nữa!
Nhưng
tại sao ông Diệm lại “nói hớ” như thế? Đơn giản là tại vì sự hình thành của Đệ
nhất Cộng hòa cũng như chức vụ Tổng thống mà ông nắm giữ đều do người Mỹ vận động,
dàn xếp và thậm chí có khi trực tiếp can thiệp (như Đại tá Tình báo Mỹ
Lansdale) mới có ngày hôm đó của năm 1957 cho ông đứng đọc diễn văn ở New York
City. Ăn cây nào rào cây ấy, ông không
còn biết danh dự dân tộc, chủ quyền quốc gia, tư cách nguyên thủ, nên từ tiềm
thức, ông đã xuống giọng, hạ một câu nói “bán nước” trắng trợn như thế, phản ánh
đầy đủ tư cách của một kẻ “hể đã phi dân tộc thì thế nào cũng phản dân tộc”.
3- Tuyên bố về tư
thế quyền lực giữa ông và bộ luật cao nhất của Đệ Nhất Cộng Hoà là Hiến Pháp
1956: “Không nên tin có âm mưu trì hoãn
giải quyết các vấn đề, sau lưng Phật
giáo trong nước hãy còn có Hiến Pháp,
nghĩa là có tôi”
Lời
tuyên bố nầy là một đoạn trích từ thông điệp sáng ngày 14-6-1963 của ông Diệm,
sau một loạt các biến cố dẫn đến bế tắc giữa hai Ủy ban Liên Phái (của Phật
giáo) và Ủy ban Liên Bộ (của chính phủ) trong quá trình đàm phán giải quyết những
đòi hỏi tự do và bình đẳng tôn giáo của Phật giáo đồ. Cao điểm của những biến cố
đó là cuộc tự thiêu của Hòa thượng Thích Quảng Đức ngày 11-6-1963 trước thái độ
sắt đá để đối phó với Phật giáo của ông bà Ngô Đình Nhu.
Hai
ngày sau Thông điệp nầy, hai Ủy ban ra được một Thông Cáo chung (16-6-1963), trả
lời 5 nguyện vọng của Phật giáo. Nhưng Thông Cáo chung đó đã không bao giờ được
chính quyền thực thi vì ông bà Nhu đã có sẳn quyết sách riêng, dẫn đến kế hoạch
Nước Lũ tàn bạo, tổng tấn công chùa
chiền trên toàn miền Nam và bắt giam 1,426 Tăng Ni vào đêm 20-8-1963 [FRUS 1961-1963,
Volume IV, Doc. 274].
Hừmmm! “… có Hiến Pháp, nghĩa là có tôi”. Tôi
là Hiến Pháp! Nền dân chủ và nguyên tắc “Tam quyền phân lập” của chế độ Đệ Nhất
Cọng Hòa bị vất vào sọt rác chỉ với một lời tuyên bố trắng trợn nầy của ông Diệm.
Chẳng trách bốn nhà Luật học là quý ông Nguyễn Hữu Châu, Đoàn Thêm, Vũ Văn Mẫu,
và Nguyễn Văn Bông đã phải kêu trời vì Hiến Pháp 1956 của Đệ nhất Cộng hòa đã dành
cho Hành pháp quá nhiều quyền lực, lấn áp và không chế Lập pháp và Tư pháp, tạo
cơ sở cho ông Diệm làm vua để thiết lập nền độc tài toàn trị tại miền Nam Việt
Nam. (Xem thêm: Đánh giá Hiến
pháp Đệ nhất Cọng hòa 1956)
4-
Lời nguyền trước tình hình bế tắc, dẫn đến tuyệt lộ
trong hồi chung cuộc của một tên bạo chúa : “Tôi tiến thì theo tôi. Tôi lùi thì giết tôi.
Tôi chết thì trả thù cho tôi”.
Đây
là câu nói mà ông sử gia hoài-Ngô là Hoàng Ngọc Thành cho rằng ông Diệm nói khi
tiếp các đoàn thể vào dịp lễ Quốc Khánh 26-10-1963. Nhưng ông Lê Châu Lộc thì lại
kể rằng đã được nghe ông Diệm nói nhiều lần mỗi khi ông được hầu chuyện riêng với
ông Diệm. Tuy nhiên, không những hai câu đó khác nhau về hoàn cảnh nói lúc nào
và nói với ai, hai ông tự cho là biết rất rõ tiểu sử cuộc đời của ông Diệm lại còn
khác nhau về nội dung và từ ngữ xử dụng:
-
Ông Ngọc Thành thì: Tôi tiến thì theo Tôi, Tôi lùi thì bắn Tôi, Tôi chết thì trả thù cho Tôi.
-
Ông Châu Lộc thì: Tôi tiến. Hãy tiến theo tôi! Tôi lui. Hãy giết
tôi!
Tôi chết. Hãy
nối chí tôi!
Khác
hẳn nhau như vậy thì trong hai ông tín đồ Công giáo nầy phải có một ông phạm
vào điều răn thứ Tám của Đức Chúa Trời là “Chớ
làm chứng dối”. Nhiều khả năng ông Sĩ quan Tùy viên Lê Châu Lộc của ông Diệm
đúng là người làm chứng dối vì hai lý do:
(i)
Vế
thứ ba “trả thù cho tôi” nghe có vẽ
nhỏ nhen, hận thù và rất phi-catholic nên để bao che cho Boss của mình, ông Lộc
bèn sửa thành “nối chí tôi” cho có vẽ
“hiền lành” hơn, và cho hợp với nỗ lực “phục hồi tinh thần Ngô Đình Diệm” quái
đãn của Nhà Thờ tại hải ngoại.
(ii)
Cũng
vế thứ ba “trả thù cho tôi” đó, khi
truy cứu nguồn gốc của nó, ta sẽ thấy có một liên hệ chặt chẻ, trong một hoàn cảnh
đặc thù nào đó, với tư duy và tâm cảnh vốn chịu ảnh hưởng văn hóa Pháp và niềm
tin Công giáo của ông Diệm.
Thật
vậy, câu nầy nguyên được hô bằng tiếng Pháp từ năm 1793, đúng 170 năm trước khi
ông Diệm bị giết: “Mes amis, si
j'avance, suivez-moi! Si je recule, tuez-moi! Si je meurs, vengez-moi!”, còn được binh chủng sắt máu Thủy Quân Lục
Chiến Mỹ lấy làm motto là “If I
charge, follow me. If I retreat, kill me. If I die, revenge me.”. “Vengez-moi” của Pháp và “revenge me” của Mỹ thì
chắc chắn không phải là “nối chí tôi”
của ông Đại úy Tùy viên Lê Châu Lộc rồi!
Thật
ra, người nói câu nầy là một sĩ quan người Pháp tên là Henri Duvergier
(1772-1794), còn được biết đến dưới tước hiệu “Bá tước de la Rochejaquelein”. Ông
là một sĩ quan của đội quân phòng vệ (Garde Constitutionelle du Roi) cho Điện
Tuileries của vua Louis XVI vào tháng 4-1792 chống lại lực lượng cách mạng Pháp.
Ngày 20-10 năm đó, mới 20 tuổi, ông được bầu làm Tổng Tư lệnh “Quân đội Công Giáo
và Hoàng Gia” (Armée Catholique
et Royal de Vendé).
Tháng 4-1793, trong một trận đánh tuyệt vọng chống lại đội quân Cọng hòa Pháp
(République Francaise) của lực lượng cách mạng tại thành phố Cholet thuộc vùng
Marne-et-Loire, ông đã động viên binh sĩ bằng câu nói nầy. Qua năm sau, ngày 28-1-1794, trong nỗ lực cuối
cùng nhằm tập họp tàn quân để đánh tiếp, ông đã bị quân Cọng Hòa giết chết tại
tỉnh Nuaillé, vùng Marne-et-Loire.
Tháng
4-1793, ông quan Henri Duvergier là một tín đồ Công giáo thuần thành, muốn bảo
vệ Vương quyền Đế chế đang bị quân đội và nhân dân cách mạng Pháp đẩy vào tuyệt
lộ … sao mà giống tình hình và tâm trạng của “ông quan” Công giáo Ngô Đình Diệm
đang tìm cách bảo vệ chế độ độc tài của gia đình ông trong tuyệt vọng và đang bị
toàn quân dân miền Nam chống đối vào cuối tháng 10-1963 thế! Trong bước đường cùng,
ông Diệm chỉ còn biết nương tựa vào “người xưa”, người giống ông điểm oan trái
nhất: Cả hai đều là tín đồ Công giáo muốn báo thù! Vì vậy, ông Diệm “mượn tạm”
câu nói của người đồng đạo để hô hào “trả
thù cho tôi”. Lời nguyền đó được tàn dư của ông xem như lời di chúc thiêng
liêng, và giải thích vì sao hơn 50 năm sau, vẫn còn những kẻ đồng đạo giáo điều
và quá khích của ông Diệm tiếp tục xuyên tạc lịch sử để kêu gọi hận thù …
* *
*
Năm
2016, trong cuộc tranh cử tổng thống Mỹ thứ 45, ứng cử viên đảng Cọng hòa là tỷ
phú địa ốc Donald Trump đã chiến thắng ứng cử viên Dân chủ Hillary Clinton một
phần nhờ những tuyên bố “hợp lòng dân” và đúng bài bản của một chiến dịch
marketing siêu đẳng. Ông đáng được gọi là … Marketer-in-Chief, hứa hẹn lung
tung miễn sao vừa lòng khách hàng để bán được sản phẩm. Trong quá trình vận động
tranh cử, ông Trump hứa 76
điều
và ai cũng biết là chắc chắn ông không thể thực hiện được hết cả 76 lời hứa đó,
thậm chí có lời hứa ông sẽ còn làm ngược lại là khác. Nhưng it’s OK, ông là Marketer-in-Chief kiểu Mỹ, nói một đàng, làm một nẻo cũng không
sao!
Ông
Diệm dứt khoát không phải là ông Trump. Ông Diệm là sàn phẩm tổng hợp của hai nền
văn hóa bảo thủ, giáo điều và khắc khổ là Tống Nho phong kiến và Công giáo
Trung cổ (Bernard Fall, trong The Two
Vietnams, gọi ông Diệm là
một Đại Phán Quan
– Grand Inquisitor – của các Tòa án Dị giáo). Do đó, điều gì ông Diệm đã tuyên
bố là chắc nịch, chắc như mấy ông “lính thủy đánh bộ” Mỹ, phản ảnh đầy đủ tâm hồn
và phong cách “khổ tu” giáo điều của ông.
Ảnh
chụp một số các Cha dòng Đaminh và Phanxicô cùng hơn 50 Giáo dân
đến
làm lễ tưởng niệm ông Diệm (bia ghi là “Gioan Baotixita Huynh”)
tại
nghĩa trang ở Lái Thiêu ngày 1-11-2013.
Vậy
thì bốn tuyên bố “để đời” của ông ở trên ít nhất cho ta biết gì về con người chính
trị thật của ông Ngô Đình Diệm? Ông là người kỳ thị địa phương, ông là người phi dân tộc, ông là người phản
dân chủ, và ông là người cổ súy hận
thù. Thế mà ông Diệm đó đã từng làm “Ngô
Tổng thống muôn năm” của nền Đệ Nhất Cọng Hòa. Và bây giờ đang được Công giáo
Việt Nam lăng xăng dựng lại cái thây ma của ông để toan tính thực hiện mưu đồ
chính trị trong ván bài của Đế quốc Vatican tại Việt Nam đấy!!!
Kevin
Trần
1-2017
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét