Thứ Bảy, 30 tháng 7, 2016


BẦU TỔNG THỐNG MỸ 2016
Nước Mỹ dưới cái nhìn của Trump và Clinton

Joe Heller / Kevin Trần sưu tầm

 

ỨNG VIÊN CỌNG HÒA DONALD TRUMP
(Đọc từ trên đọc xuống)

“Tình hình càng lúc càng tồi tệ
Do đó, đừng cố gắng thuyết phục tôi rằng
Tương lai nước Mỹ thì sáng ngời
Tại vì nếu nhìn kỹ,
Sẽ thấy giận dữ + căm thù
Ngay cả nếu
Là một quốc gia, chúng ta đâu có ứng xữ như thế
Nhưng
Ta nên sợ hải
Tội ác, Khủng bố, Nhập cư lậu
Chúng ta phải hành động
Hảy tin tôi đi,
Sợ hải
Thì lớn hơn
Hy vọng
Chúng ta không thể lạc quan được
Và bạn sẽ không bao giờ nghe tôi nói rằng
Nước Mỹ thì cần những cây cầu chứ không cần những bức tường”



ỨNG VIÊN DÂN CHỦ HILLARY CLINTON
(Đọc từ dưới đọc lên)
              
  “Nước Mỹ thì cần những cây cầu chứ không cần những bức tường
Và bạn sẽ không bao giờ nghe tôi nói rằng
Chúng ta không thể lạc quan được
Hy vọng
Thì lớn hơn
Sợ hải
Hảy tin tôi đi,
Chúng ta phải hành động
Tội ác, Khủng bố, Nhập cư lậu
Ta nên sợ hải
Nhưng
Là một quốc gia, chúng ta đâu có ứng xữ như thế
Ngay cả nếu
Sẽ thấy giận dữ + căm thù
Tại vì nếu nhìn kỹ,
Tương lai nước Mỹ thì sáng ngời
Do đó, đừng cố gắng thuyết phục tôi rằng
Tình hình càng lúc càng tồi tệ”


Sưu tầm của Kevin Trần


Thứ Sáu, 29 tháng 7, 2016


HOÀNG NGUYÊN NHUẬN
(1938 – 24.07.2016)
Mối Tình Đoàn Hữu Hơn Ba Mươi Năm

Quán Như

Tôi gặp Hoàng Nguyên Nhuận, anh em hay gọi là Anh Giàu, lần đầu tại chùa Ấn Quang sau khi cuộc cách mạng 63 thành công. Đây là lần đầu ban chấp hành hai Đoàn Sinh Viên Phật Tử Sài Gòn và Huế gặp nhau. Không khí dĩ nhiên là phấn khởi vì tất cả đang bận rộn tổ chức đại hội Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất lần đầu tiên, kể từ khi vấn đề thống nhất Phật Giáo được đặt ra từ năm 1950. Người quen biết cả hai bên là Tôn Thất Chiểu, đứng ra giới thiệu. Anh Giàu và anh Phan Đình Bính lúc đó là hai người được anh em Sài Gòn ngưỡng mộ nhiều nhất vì thành tích gan lì trong tù. Không hiểu sao tôi vẫn còn nhớ rõ ràng anh mặc áo sơ mi tay ngắn mầu xanh nhạt, ít nói chỉ cười, khi cần phê bình thì giọng nói như đanh đóng cột. Hai ban chấp hành Sài Gòn và Huế đang thảo luận phương thức thống nhất để thành lập Vụ Sinh Viên Phật Tử. Một tháng sau, giáo hội thưởng công cho anh chị em sinh viên Phật Tử Sài Gòn bằng cách tổ chức chuyến viếng thăm Huế. Ra Huế tôi ít khi gặp anh xuất hiện, chỉ gặp các lãnh tụ khác như Vĩnh Kha và Bửu Tôn. Nhưng anh em trong đoàn không ai quan tâm, vì phái đoàn được mấy chị đoàn viên thuộc hai trường Nữ Hộ Sinh và Cán Sự Điều Dưỡng xinh như mộng, dịu dàng như các cành trúc la đà và hấp dẫn hơn bánh bèo Vỹ Dạ, tiếp đón! Không ai buồn nhớ tới Anh Giàu!

Từ năm 1964 đến 1966 Phật Giáo dùng sức mạnh của dân chúng - People Power - trong những cuộc vận động để làm giảm cường độ chiến tranh, trong khi bộ ba McNamara, MacGeorge Bundy và Maxwell Taylor nhất quyết leo thang chiến tranh. Anh em học sinh, thanh niên, sinh viên và Gia Đình Phật Tử dĩ nhiên là đóng một vai trò nồng cốt trong các vụ biểu tình chống Hiến Chương Vũng Tàu vào tháng 8 năm 1964 và Thủ Tướng Hương vào đầu năm 1965. Đây là thời gian mà sinh viên Phật Tử Huế hoạt động hứng khởi nhất, và Anh Giàu "oai" như nhân vật Lý Hoàng Phong trong quyển truyện Bản Tango Cuối Cùng của Lệ Hằng. Hai hoạt động nuôi dưỡng trí thức và nghệ sĩ, con tim và khối óc của phong trào tranh đấu miền Trung, là tờ Lập TrườngTuyệt Tình Cốc và một sản phẫm thành công nhất làm rung động con tim của nhiều thế hệ là Trịnh Công Sơn.

Hoàng Văn Giàu
Bút danh Hoàng Nguyên Nhuận
(1938-2016)
Tôi chỉ bắt đầu thân cận với Anh Giàu vào năm 1967. Lúc đó nhờ Nguyễn Long, người tổ chức tất cả các cuộc biểu tình chống Khánh, chống Hương và Thiệu-Kỳ ở Sài Gòn Chợ Lớn, giới thiệu với thầy Minh Châu. Thầy xin biệt phái ba giáo chức từ Bộ Giáo Dục về làm việc tại Đại Học Vạn Hạnh, là Long, Đoàn Viết Hoạt và tôi. Long được Thầy Minh Châu thương mến nhất vì gan dạ và thường phải lẫn trốn cảnh sát tại chùa Pháp Hội, tiền thân của Đại Học Vạn Hạnh. Tôi xin được một phòng nhỏ trên lầu ba Trung Tâm Quảng Đức và Anh Giàu và một số sinh viên chạy thoát từ Huế vào như Vĩnh Tùng, Vĩnh Kha, Huỳnh Ngọc Ghênh, Nguyễn Thế Côn, Trần Xuân Kiêm và nhiều anh em khác nữa cũng vào ở lẫn lộn trong cư xá. Sau khi thi hành chiến dịch ba giai đoạn của Rostow, chủ tịch Hội Đồng An Ninh Quốc Gia Mỹ, dưới sự trợ giúp công khai của Cabot Lodge, Kỳ dẹp tan được phong trào tranh đấu miền Trung [1]. Kỳ và Loan cũng cho người ném lựu đạn ám sát Thầy Thiện Minh. Hai người được lệnh ám sát sau đó đến gặp Thầy xin sám hối. Sau khi tạm bình phục và trong khi Thầy Trí Quang đang tuyệt thực 100 ngày, Thầy Thiện Minh nắm vai trò lãnh đạo và là người thực sự chủ động tất cả những chiến thuật chính trị để đối phó với Thiệu-Kỳ. Theo lời thầy Trí Quang trong Tiểu Truyện Tự Ghi, Kỳ lúc đó đang tranh chấp quyền hành với Thiệu để được đại diện quân đội ra tranh cử Tổng Thống, Kỳ có đến gặp các nhà lãnh đạo Phật Giáo nhờ ủng hộ. Kỳ và cảnh sát của Loan biết là các sinh viên trong phong trào tranh đấu miền Trung đến trốn tại Trung Tâm Quảng Đức và tại Đại Học Vạn Hạnh, nhưng Kỳ không dại gì làm ông Ác dưới con mắt Phật Tử.

Thầy Thiện Minh thay đổi chiến thuật, thay vì chống đối trực tiếp chánh quyền, Phật giáo bắt đầu tham dự giới hạn vào các hoạt động chánh trị như đưa người ra tranh cử hạ viện và thượng viện, ủng hộ ứng cử viên hoà bình Trương Đình Dzu trong cuộc bầu cử tổng thống. Nếu Thiệu-Kỳ không gian lận, Dzu đã đắc cử tổng thống [2]. Anh Giàu dĩ nhiên trở thành cánh tay mặt và là một cố vấn của thầy Thiện Minh và chúng tôi thường gọi đùa anh là Ông Cố Vấn. Tôi có mặt trong buổi Dzu đến trình bày về phương thức thực hiện hoà bình để thuyết phục thầy Thiện Minh ủng hộ và Anh Giàu là người đại diện anh em để chất vấn Dzu. Dzu là bạn học, hay là người cùng thời, với các người lãnh đạo trong Mặt Trận và ông cho biết là ông được toà đại sứ Mỹ cam kết bảo vệ an ninh. Có lẽ Mỹ không muốn Thiệu-Kỳ trơ trẽn độc diễn làm mất vết sơn dân chủ lòe bịp đối với các nước khác, nên đưa con bài Trương Đình Dzu và các con bài khác ra tranh cử. Thầy Thiện Minh đồng ý ủng hộ Dzu vì lập trường hoà bình và vì những ứng cử viên khác không đủ tầm vóc lãnh đạo quốc gia.

Người mà Phật Giáo hoàn toàn ủng hộ là Bác Sĩ Phan Huy Quát, nhưng sau khi bị Bùi Diễm phản bội, nhận lịnh Mỹ để tìm cách trao quyền hợp pháp cho quân đội, BS Quát ngán ngẫm nhân tình và nhất quyết giã từ chính trường. Thân phụ của Diễm đã ủy thác cho BS Quát nhờ chăm sóc Diễm và BS Quát xem Diễm như là một đứa con nuôi. BS Quát ngán ngẫm là phải! Tôi và Vĩnh Tùng nhận nhiệm vụ chuyển quyết định ủng hộ Dzu của Giáo Hội cho các quý thầy Chánh Đại Diện tại ba tỉnh Bình Định, Phú Yên và Khánh Hòa. Khi trình bày lý do tại sao giáo hội lại ủng hộ Dzu, tôi còn nhớ rõ phản ứng của thầy Tâm Hoàn. Thầy nói là dù mới gặp chúng tôi lần đầu, Thầy tin tưởng chúng tôi ngay, không phải chỉ vì cái chứng minh thư của Thầy Huyền Quang cấp, mà vì thái độ tha thiết của chúng tôi khi nói về ước vọng hòa bình. Bình Định là quê hương của Dzu và là đơn vị mà Dzu được số phiếu cao nhất, cho chúng tôi thấy rõ ước vọng và sức mạnh của quần chúng Phật tử. Trong thời gian khó khăn sau khi phong trào tranh đấu Miền Trung bị đàn áp, chúng tôi tìm cách tụ tập và củng cố tinh thần "anh em". Một số cán bộ trung kiên của Phật Giáo sau 1966 không có đường lui nên đã vào khu với Mặt Trận. Trường hợp của Hoàng Phủ Ngọc Tường, Nguyễn Đắc Xuân ở Huế, và Trần Triệu Luật ở Sài Gòn là những thí dụ điển hình. Một số khác ra đầu thú và đóng vai một thứ hàng thần lơ láo. Một số cán bộ khác bị Thiệu-Kỳ bỏ tù cho đến sau năm 1975 mới được ra tù [3]. Phần đông vẫn còn trung thành với giáo hội, nhưng tinh thần bắt đầu dao động mạnh. Tôi còn nhớ một sinh viên trẻ, anh Vĩnh Lộc, có lần hỏi tôi : "Mình với họ (Mặt Trận) khác nhau ở chỗ nào?". Ở cư xá Quảng Đức có một sân thượng phía trước, nhưng phải chịu khó trèo mới lên được. Anh Phạm Thế Mỹ và tôi rủ Vĩnh Lộc lên uống trà và giải thích cho Vĩnh Lộc chỗ khác nhau giữa Phật Giáo và Mặt Trận. Không biết lý luận của tôi có thuyết phục Vĩnh Lộc tới mức nào, nhưng Lộc bỏ ý định vào khu. Sau đó Lộc thi rớt bên khoa học, bị kêu động viên vào Thủ Đức, và chừng 2 tháng sau khi ra trường thì bị tử trận.

Trường hợp Lộc ám ảnh tôi một thời gian lâu. Nếu tôi đừng cản Lộc, có thể anh ra khu (có thể không) và có lẽ sống sót và hồ hỡi sau năm 1975 hay có thể bị chết vì bom B52 như Trần Triệu Luật! Tôi nhớ lời đối thoại giữa chị Cao Ngọc Phượng (bây giờ là Sư Cô Chân Không) và Đổ Trung Hiếu tự là Mười Anh - do chính anh ta kể lại... Khi Đổ Trung Hiếu hỏi tại sao Phật Tử chống Mỹ và Thiệu kịch liệt như vậy mà lại không ủng hộ Mặt Trận, chị Phượng trả lời: "Anh có lý tưởng của anh, điểm nào phù hợp tôi sẽ hết lòng giúp anh. Tôi không cản trở hay làm hại anh, nhưng tôi cũng không theo anh". Trong khi bị cộng sản cầm tù, Anh Giàu cũng bị hỏi nhiều lần tương tự và câu trả lời cũng tương tự. Trong thời gian này chính tôi cũng bị dụ dỗ. Anh Phan Long Côn, bạn thân của anh Trần Văn Long, một sinh viên tranh đấu đã nếm mùi chuồng cọp ở Côn Đảo, có một lần đến thăm, cho mấy trái xoài. Sau một hồi chuyện trò, anh nhập đề thẳng, hỏi tôi có muốn vào thăm khu giải phóng không. Nếu muốn anh sẽ đưa đi. Tôi từ chối vì có nhiều người đi trước báo động là khi đã vào thăm khu giải phóng, các cán bộ Mặt Trận sẽ báo tin cho Tổng Nha Cảnh Sát biết để "đóng cửa chặt cầu", lúc đó không muốn ủng hộ hay làm việc cho Mặt Trận cũng không được. Tôi kể dài dòng thể độc giả thấy những khó khăn của Giáo Hội, và của riêng cá nhân Anh Giàu, khi không chịu đầu Hán mà cũng không chịu quy Tào.

Chính trong thời gian này Đức Tăng Thống ra một thông điệp hòa bình kêu gọi cán bộ Phật tử không nên gia nhập các lực lượng chánh trị "thiếu giác ngộ", bên này cũng như bên kia. Trong Thông Điệp Hoà Bình mùa xuân Kỷ Dậu 1969, Đức Tăng Thống Thích Tịnh Khiết xác nhận thế đứng của Phật Giáo rất rõ ràng: Chiến tranh ở Việt Nam là hậu quả của một tranh chấp ý thức hệ và nạn nhân là người dân Việt Nam bình thường, đã bị hy sinh và tiếp tục bị hy sinh và nhục nhằn trong một cuộc chiến bất công. Nếu còn ai nghi ngờ về lập trường chống đối chiến tranh và chống đối các thế lực tranh chấp, Đức Tăng Thống tuyên bố tiếp: "Chúng ta tiếp tục chống đối những thế lực chính trị vô minh đã làm dân tộc đau khổ. Những từ ngữ viện trợ, giúp đỡ cũng như từ ngữ giải phóng cần phải được xem xét cho thật kỹ. Viện trợ không phải để qua mặt những người nhận và bắt buộc họ phải tuân lịnh người cho. Giải phóng không có nghĩa là dùng súng để thanh toán những người không đồng chính kiến với mình" [4]. Những ai quen với lý luận và văn phong của Anh Giàu, đều biết là thông điệp của Đức Tăng Thống có dấu ấn của Anh Giàu.

Những Phật tử trung kiên nhất quyết không chọn con đường chiến tranh của các chánh quyền quân phiệt, nhưng cũng nhất quyết không ủng hộ Mặt Trận, lâm vào một tình trạng lưỡng đầu thọ địch. Anh Giàu là một thí dụ điển hình. Anh bị bọn Giê-Su-Ma fundamentalists (để giữ được ái ngữ, tôi không dịch chữ này ra tiếng Việt!) gọi Anh Giàu là thân cộng, cánh tay nối dài của cộng sản. Bọn hàng thần lê láo như Lê Tuyên và Ngô Văn Bằng tấn công thầy Thiện Minh và nhất là Anh Giàu, gọi bằng những lời lẽ thô bỉ và trân tráo trên tờ Công Luận. Nhóm chủ trương thành phần thứ ba mà không có quần chúng, nhóm Tin Sáng, bất mãn vì Anh Giàu chống phá âm mưu lợi dụng Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất (Ấn Quang), nên đã gọi Anh Giàu là giáo gian. Khi Anh Giàu nhân danh Vụ Trưởng Sinh Viên Phật Tử Vụ giải tán Đoàn Sinh Viên Phật Tử Sài Gòn - Vạn Hạnh đang bị các sinh viên trong Mặt Trận thao túng, sinh viên Trần Văn Long (hiện là Phó Giám Đốc Ban Du Lịch thành phố Hồ Chí Minh) đem súng dọa bắn anh! Thiệu sau khi đã thanh toán tay chân của Kỳ trong vụ "bắn lầm" trong vụ Mậu Thân, Thiệu ra lịnh bắt Thầy Thiện Minh và các sinh viên tranh đấu tại Trung Tâm Quảng Đức, ghép tội Thầy về tội chấp chứa đào binh! Anh Giàu cũng như một số anh em khác vào tù và sau đó đưa nhập ngũ và phục vụ ở Sư Đoàn 21 ở Chương Thiện U Minh.

Khi tôi trở lại làm việc tại Bộ Giáo Dục vào đầu năm 1970, anh đã được biệt phái về Tổng Cục Chiến Tranh Chánh Trị (xem bài phỏng vấn). Sau 1966 tất cả báo chí của Phật Giáo đều bị đóng cửa. Anh Giàu được Vũ Khắc Khoan mời viết cho tờ Vấn Đề. Vấn Đề cũng được sự cộng tác của Nguyễn Trần Kiềm, Kiềm là bạn học của Anh Giàu hồi Trung học và bây giờ là một nhân viên tòng sự tại Tổng Thống Phủ, tức là mật vụ. Thế là Anh Giàu có thêm một cái mũ mới là CIA. Tôi lúc đó cũng phải chạy qua "tỵ nạn", viết cho các tờ bào văn nghệ như Ý Thức của nhóm Việt, tờ Trình BàyLàm Dân của Thế Nguyên. Thế Nguyên là dân "Bắc Kỳ, Công Giáo, Di Cư" ba yếu tố bảo đảm là Thế Nguyên chỉ là những nhà văn phản kháng chế độ nhưng vẫn chống cộng! Nhưng sau 75, Thế Nguyên thực ra là một nhà văn nằm vùng thứ thiệt! Tôi gặp được nhà thơ Sâm Thương và anh chịu chạy tiền để làm tờ Văn Mới. Ra được hai số thì cả hai số đều bị Bộ Thông Tin đưa ra toà! Tuy nhiên Văn Mới ra được hai tập khảo luận, Nỗi Băn Khoăn Của Kim Dung của Nguyễn Mộng Giác, bị Bộ Thông Tin "phối hợp nghệ thuật" bỏ phần bình luận về chánh trị, và quyển Phạm Duy Đã Chết Như Thế Nào, bài diễn thuyết của Nguyễn Trọng Văn ở trường Đại Học Văn Khoa. Sau này tôi mới biết là Anh Giàu không an tâm khi thấy tôi hợp tác với các nhóm các nhà văn đối lập Ki-tô giáo, sợ tôi không đủ bản lĩnh để đối phó! Tuy nhiên có một tai nạn mà Anh Giàu tới ngày nay cũng chưa biết.

Trong tờ Văn Mới số 1 tôi có chỉ trích vụ Nhân Văn Giai Phẩm, cho là chánh quyền đã động tới quyền thiêng liêng của nhà văn. Một nhà văn nằm vùng của nhóm Việt, Hồng Hữu (hình như là bút hiệu của Trần Duy Phiên) viết một bài đả kích tôi thậm tệ trên tờ Đối Diện. Để đả thông vấn đề, Sâm Thương tổ chức một buổi họp thân hữu trong đó có Hồng Hữu, Tiêu Dao Bảo Cự, Nguyễn Trọng Văn, Sâm Thương và hình như có cả Nguyễn Mộng Giác. Cuộc thảo luận không đi đến đâu vì tôi nhất quyết giữ lập trường Trung Đạo của Phật Giáo. Tuy nhiên tôi để ý là bình thường Nguyễn Trọng Văn là một người lý luận sắc bén và nói chuyện rất duyên dáng, thế mà bữa đó dè dặt không dám bênh tôi. Cũng như các văn nghệ sĩ Phật tử khác, một mặt bị chánh quyền Miền Nam kết tội là làm phương hại đến công cuộc chống cộng, một mặt khác các nhà văn đỏ chỉ trích là chỉ có "tình yêu nước chung chung", nghĩa là không chịu ủng hộ Mặt Trận. Trong nhóm Việt tôi thân nhất với Bảo Cự. Khi tôi sắp đi Úc du học, Bảo Cự từ cao nguyên gửi cho tôi một bức thư, khẩn khoản yêu cầu tôi hủy bỏ chuyện du học vì sợ nhiều người hiểu lầm là nhận học bổng của CIA! Nhiều mũ thì không sợ đen da!

Sau 1975, tôi mất liên lạc với Anh Giàu. Khi gặp Hồ Công Lộ, một sinh viên tranh đấu cũ, thì biết là anh đã bị nhốt vào Trại Phan Đăng Lưu tức Đề Lao Gia Định cũ. Và Lộ cũng cho biết là anh đã được thả. Đầu năm 1982 thì mấy ông "oan gia" lù lù sang Úc. Người thứ nhất là nhà thơ Phan Việt Thủy. Thủy ra trường cùng năm, dạy cùng tỉnh. Lúc ở Tuy Hoà, anh rủ tôi và anh Trần Huyền Ân "hốt hụi" làm báo. Nghe lời xúi dại, tôi đồng ý nhưng báo chỉ ra được một số thì chết. Lý do anh Trần Huyền Ân, thay vì làm thơ, viết một truyện ngắn tố cáo ông chỉ huy trưởng Tiểu Khu tham nhũng! Anh Ân bị tống ra mặt trận và anh em viết báo Hiện Diện bị an ninh theo dõi. Vừa mới chân ướt chân rao tới Úc, Thủy lại rủ làm báo. Kỳ này không hốt hụi nữa nhưng mỗi tuần mỗi người nhịn một thùng bia để góp tiền in báo. Anh Giàu cũng lục đục qua và được tôi rủ viết. Tờ Vietnam Times ra đời. Tội nghiệp Phan Việt Thủy, một người hiền lành và ít dính líu đến chánh trị cũng bị liên lụy và chụp mũ vì anh là chủ bút tờ Vietnam Times. Khi Anh Giàu vừa tới Úc được một tuần, tờ Chuông Sài Gòn của bọn Giê-Su-Ma fundamentalist chạy một tít tám cột: Một Tên Việt Cộng Vừa Tới Úc. Tuần sau, tờ báo nay phong anh Giàu từ Việt Cộng lên tới Việt Gian. Lúc bông đùa, Anh Giàu nói thà là mang mũ Việt Cộng hơn là Việt Gian, vì Việt Gian liên hệ đến từ ngữ bán nước. Và tên chủ nhiệm tờ báo này sau đó làm gì? Chỉ vài năm sau y là một trong những thương gia đầu tiên qua Hà Nội để dắt mối cho các công ty Úc.

Đối với cái đám Giê-Su-Ma fundamentalists, chống cộng chỉ là một nghề kiếm cơm, không hơn không kém. Không phải chỉ có đám Giê-Su-Ma fundamentalists tỏ ra thù hận Anh Giàu, có nhiều con sư tử trùng cũng nhào vô đánh hôi. Mấy con sư tử trùng này bu quý thầy như... dòi, mong lợi dụng cửa chùa vào tư lợi riêng. Bọn chúng không ngần ngại gì đem vào chùa cái đám tà ma ngoại đạo để lũng đoạn Phật sự, nên khi nghe quý thầy có ý mời anh về lo việc chùa, các tên sư tử trùng này ra một tờ báo công khai hăm dọa tính mạng anh. Khi thấy anh viết cho tờ Pháp Bảo, và khi thấy ban trị sự của chùa này toàn là những Phật tử có ăn học, nên các con sư tử trùng công khai nhục mạ Thầy trụ trì trong một buổi họp và bỏ hình Hồ Chí Minh vào thư viện và đi bán rao là Thầy trụ trì nhận tiền từ Canberra để xây chùa (Hồng Ân). Về mặt chính trị bọn sư tử trùng theo bợ đỡ cái đám phụ nữ liên đới, phục quốc, giải phóng mà ai cũng biết là cơ sở của đám Giê-Su-Ma fundamentalists. Có những con sư tử trùng đổi mầu như những con thò lò chánh trị, hết viết cho tờ Quê Mẹ (Úc), sau đó nhào vô viết chuyện con gà con chó cho báo chùa, rồi cũng nhào vô hít ra hít vô với pháp hiệu chữ Chân và mới gần đây còn lập hội cư sĩ phục quốc! Những con sư tử trùng bao vây cả hai chùa lớn và không bỏ dịp nào để phá hoại lục hòa của quý Thầy. Một tên Giê-Su-Ma fundamentalist, mà một tờ báo gọi là ông Hoàng Tộc Túng Tiền, đã cay cú vì Thầy trụ trì cho đăng các bài viết của Anh Giàu, có lần nghĩ lầm là những bài viết ký tên Quán Như cũng là bài của anh Giàu, nên đã viết bài ám chỉ anh là Cộng Sản. Lý do: Hồ Chí Minh đã viết sách báo với nhiều bút hiệu như Trần Dân Tiên, Nguyễn Ái Quốc. Anh Giàu cũng viết báo với nhiều bút hiệu, nên Anh Giàu đích thị là cộng sản. Quả thật Anh Giàu lấy nhiều bút hiệu, từ Hoàng Nguyễn Tùy Anh, Chung Hoàng, Ngô Chu Hà ở Lập Trường, Tùy Anh ở Vấn ĐềHải Triều Âm, Giới Tử khi viết những bài về chánh trị tôn giáo và những bài văn nghệ lã lướt thường ký tên là Hoàng Nguyên Nhuận. Lâu lâu nổi hứng anh lấy bút hiệu lạ hoắc như Huỳnh Công Hòe. Nhưng chưa bao giờ bài anh ký tên Quán Như, bút hiệu của tôi đã dùng trên các tạp chí ở Việt Nam từ năm 1969. Năm 1970 nhà văn Võ Hồng đã nêu tên hai cây viết trẻ mà ông thích nhất: Cung Tích Biền về văn và Quán Như về khảo luận. Bọn Giê-Su-Ma fundamentalist đầu óc thường thiếu chất xám, tâm tư chứa đầy sân hận và lợi lộc, bất cần lẽ phải, đặt ra trăm ngàn chuyện, chụp cho anh mọi thứ mũ. Năm 1967 tôi sống, làm việc và ăn nhậu với Anh Giàu bằng xương bằng thịt ở Trung Tâm Quảng Đức, thế mà bỗng nhiên vào 1968, anh trở thành Tướng Hoàng Văn Giàu về Huế lãnh đạo mặt trận Bình Trị Thiên! Từ nhà tù Phan Đăng Lưu bỗng nhiên có nhiều nguồn tin là anh được gửi đi Nga tu nghiệp sau 1975! Hết Giáo Gian tới Việt Gian, hết CIA tới Việt Cộng. Gần đây bọn sư tử trùng còn thì thào là anh và nhóm Chuyển Luân muốn chiếm chùa (sic)!

Bài phỏng vấn của tôi là một trong những nguồn tài liệu để hoàn thành quyển sách nghiên cứu về Phật Giáo Nhập Thế; Phong Trào Tranh Đấu của Phật Giáo Năm 1963 và 1966, được viết bằng Anh Ngữ (Vietnamese Engaged Buddhism., The Struggle Movement of 1963-1966).  Anh bị chụp mũ và kết án quá nhiều, và theo tinh thần pháp lý Tây Phương, anh đã không được xử theo đúng công lý (natural justice). Người kết án phải được quyền biện hộ. Anh rất ngần ngại khi phải biện hộ. Vạn bất đắc dĩ anh mới phải phân trần với đám người mà anh hay nói: "trước mặt tôi không có mấy anh, sau lưng tôi cũng không có mấy anh!" Một trong những câu Anh Giàu hay nói là: "tôi không có thành tích để khoe khoang, tôi chỉ có khổ đau để làm bằng chứng".
Nhưng có những vấn đề lịch sử cần soi sáng. Hy vọng những khổ đau của Anh Giàu, cũng như của hàng triệu người khác trong chiến tranh Việt Nam, sẽ giúp người Phật tử thấy rõ con đường chính trị tỉnh thức mà Phật Giáo đã theo đuổi từ các triều đại Lý Trần, cho đến thập niên 60 và 70 tới nay. Riêng cá nhân tôi, tôi xin cám ơn anh đã nuôi dưỡng tình đạo hữu, đoàn hữu trong suốt hơn ba mươi năm dài.

Quán Như


Thứ Bảy, 23 tháng 7, 2016


TÁM ĐIỀU SÁM HỐI
Góp ý với thầy Thích Chân Tuệ về Phật Ngọc

Nguyên Thọ

Là một người vừa hưu trí nên tôi có thời gian và duyên lành tham dự tất cả các cuộc trưng bày tượng Phật Ngọc tại Bắc Mỹ, kể cả Canada.  Cũng như nhiều đạo hữu lớn tuổi khác trong nhóm Bạch Vân Am (WCH. White Cloud Hut), chúng tôi muốn nhân cơ hội trưng bày tượng Phật Ngọc để đi theo tham dự với tư cách hoàn toàn độc lập. Chúng tôi xem đây như một cuộc hành hương và du lịch trong lứa tuổi về chiều.  Chặng cuối mà chúng tôi theo chân Phật Ngọc là tại lễ hội cung nghinh Phật Ngọc ở chùa Kim Quang, thành phố Sacramento, tiểu bang California.
Tượng Phật Ngọc. Ảnh NKTA
Đêm cuối cùng của thời gian lễ hội kéo dài hai tuần lễ “ngựa xe như nước, áo quần như nêm”, nằm nghỉ trong khách sạn chờ ngày mai về Santa Ana, tôi mới có dịp đọc các trang báo điện tử bằng tiếng Việt chung quanh hiện tượng Phật Ngọc.  Tôi xin cúi đầu đảnh lễ tán dương công đức của chư tôn đức, quý thiện hữu và tín hữu đã viết lên những cảm niệm đầy tinh thần trí tuệ và hoan hỷ chung quanh vấn đề nầy.  Đồng thời, tôi có lời trân trọng góp ý với thầy Thích Chân Tuệ qua bài viết: “Tám điều bất chánh quanh vụ Phật Ngọc hòa bình” của Thầy đã đăng trên các diễn đàn công luận Việt ngữ.  Lần lượt, tôi xin góp ý với tác giả từng điều một trong tinh thần chánh niệm:  Biết phục thiện và cầu tiến bộ để hồi hướng công đức những điều hay, làm đúng và sám hối giải nghiệp những điều quấy, làm sai.

● Điều một: Cầu sám hối để giải trừ vọng ngữ.
Là một nhà tu hay một người Phật tử tại gia thì điều đòi hỏi đầu tiên là ái ngữ và tâm thiện vì đó là trái tim của đạo Phật.  Nói hay viết ra phải có lời từ ái của tâm từ bi và sự trong sáng của trí tuệ.  Mở đầu bài viết, thầy Chân Tuệ đã dùng ngay ngôn ngữ phủ đầu người đọc như “bất chánh”, “tổng nổi dậy” v.v… cho một sự kiện tôn giáo thì quả là dấu hiệu tâm ý khác thường, hiếm thấy ở một nhà sư.  Lời hung dữ, mạ lỵ, ngã mạn thường có tác dụng tâm lý gây thù kết oán, đi ngược lại tinh thần hóa giải của đạo Phật.  Ngay cả đối với kẻ phàm phu còn khó nghe, huống chi đây là người tu sĩ. Và, suốt cả bài viết của Thầy, hình như không có nơi nào thiếu vắng một văn phong thiếu thanh thoát như thế.  Để có sự chia sẻ trọn vẹn, kính mời người đọc xem lại bài viết của thầy Thích Chân Tuệ đã đăng trên nhiều trang báo điện tử tiếng Việt.

● Điều hai: Cầu sám hối để giải trừ vọng niệm.
Đem việc Lương Vũ Đế đối thoại với Đạt Ma Tổ Sư ngày xưa khi luận đàm về căn tính của việc tu phước và tu huệ để so sánh với ý hướng và công quả tạc tượng Phật Ngọc của Lạt ma Zopa Riponche và Phật tử Úc Ian Green ngày nay là không đi đúng đường chính luận về cả hai mặt: Tư tưởng Đại thừa và khuynh hướng Thiền-Tịnh-Mật đồng tu của Phật giáo Việt Nam thời cận đại và hiện đại.  Bất cứ một Phật tử nào mới tu tập, dẫu cho còn ở hàng sơ cơ, khi mở ra phần đầu tiên của cuốn Nghi Thức Tụng Niệm phổ thông đều nhận rõ điều nầy khi đọc các bài chú (Chân ngôn của Mật Tông) song hành với Bát Nhã (Chứng ngộ của Thiền Tông), A Di Đà (Vãng sanh củaTịnh Độ) kết hợp trong cùng một thời khóa tụng.  Đem tư tưởng “trực chỉ chân tâm, kiến tánh thành Phật” của thiền tông Trung Hoa để so sánh và ứng dụng vào sinh hoạt của Phật giáo Việt Nam thì khó lòng tránh khỏi vọng niệm khiên cưỡng và máy móc.

● Điều ba: Cầu sám hối để giải trừ vọng kiến.
Người Phật tử không nhầm lẫn giữa tướng (hình dung) và tánh (bản chất) nhưng thường tạo ra thế song lập (tướng và tánh nương vào nhau) làm phương tiện tu hành cho được dễ dàng hơn: Từ pháp thế giancủa phàm phu tướng tánh nương nhau; bậc tu hành chín chắn quán pháp thế gian để thấy tánh mỗi ngày một hiển lộ; bậc tu hành chứng ngộ vươn lên tâm hành cao tột của pháp xuất thế gian mới thấy toàn chân tánh.  Nay thầy Chân Tuệ muốn đại chúng ai cũng chứng ngộ thấy được chân tánh (như Thầy?) để đừng quan chiêm hình tướng giả lập của ông Phật đẽo ra từ khối ngọc thì quả là vì tâm Thầy quá rộng lượng, nên đã đem ước mơ làm thực tế. Vả lại, vọng nghiệp và tập khí tích lũy nhiều đời, nhiều kiếp làm cho mỗi người có một căn cơ và thức nghiệp khác nhau trong đời sống tâm linh.  Bởi vậy, đức Phật đã dùng dụ “căn nhà lửa” và cổ xe nai, xe dê… để giáo hóa cho từng đối tượng khác nhau như trong kinh Diệu Pháp Liên Hoa.
Nay thầy Chân Tuệ thuyết minh cho luận điểm Ma và Phật qua sắc tướng Phật Ngọc thì rõ ràng Thầy chỉ giới hạn đường tu cho một tầng lớp Phật tử có cùng căn cơ và thức nghiệp như Thầy; chứ không phải Thầy thuyết cho đại chúng đang cần vô lượng pháp môn để tu học.  Đem lý thuyết “nhất niệm khởi, cực lạc sanh” sẽ không thuyết phục được những tín hữu học thuật có trình độ cao thâm; ngược lại đem Trung quán, Tánh không ra thuyết sẽ không chuyển hóa được tâm đạo của người đơn giản chưa hề học Phật.  Bởi vậy, cần thuyết nhơn như đảo mộc, tùy bệnh mà cho thuốc, tùy người mà nói pháp.  Thầy Chân Tuệ đã đem những hiện tượng xuất phát từ tin đồn của nhiều thành phần Phật tử khác nhau như có hoa Mạn đà la, Mạn thù sa… xuất hiện xung quanh tượng Phật Ngọc như chứng lý “mê tín dị đoan” của những người tới viếng Phật Ngọc; rồi cho họ là ngu si, dốt nát thì cũng hơi… oan! Thật ra, tín tâm tôn giáo vẫn thường vượt ra ngoài những giới hạn bé nhỏ của tri thức thuần lý tương tự như biên kiến của thầy Chân Tuệ.

Nhân thể, cũng xin được nói một chút về tin đồn và hiện tượng hoa “Mạn đà la” xuất hiện quanh Phật Ngọc.  Về mặt kỹ thuật thuần túy, những người đã quen và có nghiên cứu chút đỉnh với hệ thống máy chụp hình bỏ túi đời mới (compact digital camera) đều biết rõ lý thuyết tạo hình.  Hiện tượng và lý thuyết “ảo ảnh tạo hình” (ORB: Object Request Broker) ra đời từ năm 1994 và đã đi vào Bách khoa Từ điển toàn cầu Wikipedia: “[ http://en.wikipedia.org/wiki/Orb­_(0ptics) ] chứ chẳng phải là phát hiện gì mới lạ.  Đã 15 năm qua, chẳng ai còn ngây thơ đem những Ma ảnh (Ghost Orbs) để làm chỗ dựa cho đức tin cả.  Nhưng ngôn từ và khái niệm tôn giáo có tính đặc thù riêng của nó.  Khi một tín đồ Thiên Chúa giáo cho rằng: “Một sợi tóc trên đầu rụng xuống cũng do thánh ý của đức Chúa Cha” là cách nhìn thế giới của người đó đã nằm trong phạm trù đức tin tôn giáo. Họ nhìn sợi tóc, nhìn thế giới bằng tâm chứ không phải nhìn qua ống kính máy ảnh.  Trong đại hội Liên Hoa ngày Phật còn tại thế, nếu nhìn bằng mắt trần thì chỉ thấy được một đóa sen trên tay đức Phật.  Nhưng khi nhìn bằng tuệ giác chứng ngộ của Ca Diếp thì đài sen đã mở ra cửa ngỏ của chân tâm.  Vậy nên, tu hành là mở đường chứ không phải là cột buộc.  Đạo Phật là con đường khai phá chứ không phải là ngõ cụt dính mắc.  Nhìn những ảo ảnh tạo hình “orbs” với tâm phân biệt qua vọng kiến ma quỷ thì tức khắc đối tượng nhìn sẽ biến thành ma quỷ.  Nhìn qua tâm từ ái thì đối tượng sẽ biến thành hoa.  Cõi Cực lạc và địa ngục A tỳ cũng chỉ là hai mặt của cùng một tri kiến “tạc nhật dạ xoa tâm, kim triêu bồ tát diện” mà thôi.

● Điều bốn:  Cầu sám hối để giải trừ vọng tư duy.
Thầy Chân Tuệ cho rằng, Phật Ngọc có phần hồn là vị Lạt ma Tây Tạng và phần xác là vị chủ nhân người Úc như đã nói ở trên.  Thế rồi kẻ hồn, người xác mang Phật Ngọc đi bán, dụ quần chúng mê muội (?!) tin theo cúng dường để hốt bạc.  Nói như thế là vô hình chung đồng hóa phương tiện với cứu cánh và người tu sĩ như thầy Chân Tuệ đã tự phủ nhận chính mình.  Từ ngày đức Phật Thích Ca nhập diệt, đã có bao nhiêu chùa chiền, bảo tháp, tu viện dựng tượng của Ngài.  Nhưng đấy chẳng phải là Phật mà chỉ là biểu tượng để hướng vọng về Phật. Đặt vấn đề hồn xác cho một bức tượng mới xuất hiện, không hiểu thầy Chân Tuệ có đặt lại vấn đề tương tự cho bộ áo cà sa mà thầy đang mặc trên người, ngôi chủa mà Thầy đang tu, tượng Phật mà Thầy ngày ngày đảnh lễ, sự cúng dường chư tăng của đàn na tín thí có một loại hồn phách tương ứng nào chăng?  Hay tất cả chỉ là phương tiện, là chiếc bè qua sông mê; khi đến bờ giác rồi thì vất bỏ.  Đức Phật dạy: “Vạn pháp giai thị Phật Pháp”; các pháp đều bình đẳng.  Khi học trò của Ngài như Thầy Chân Tuệ khởi tâm phân biệt bỉ-thử như thế có phải là đang đi trên đường suy niệm chánh tư duy hay không.

● Điều năm:  Cầu sám hối để giải trừ vọng nghiệp.
Thầy Chân Tuệ hỏi: “Tại sao dán bùa ‘hòa bình’ cho tượng Phật Ngọc và chỉ triển lãm ở…  Chùa?” Một câu hỏi không thể trả lời vì trả lời là nghịch lý!  Thế thì kính bạch Thầy, phải dán nhãn hiệu là “thần chiến tranh” lên tượng Phật Ngọc và đem ra bỏ ngoài đường mới đúng chăng?!

● Điều sáu:  Cầu sám hối để giải trừ vọng tưởng.
Thầy Chân Tuệ đã cho rằng tượng Phật Ngọc bị tạc theo gương mặt phụ nữ giống khuôn mặt của bà Judy Green là vợ của người chủ nhân bức tượng.  Chẳng hiểu Thầy có bị ám ảnh bởi lịch sử tượng Nữ Thần Tự Do của Mỹ do điêu khắc gia Pháp, Frédéric-Auguste Bartholdi khắc theo đường nét khuôn mặt của mẹ mình không.  Nhưng tượng Phật Ngọc thì tuyệt nhiên không nằm trong trường hợp này.  Nếu thầy Chân Tuệ đã có cơ hội du lịch qua miền đất Phật ở Ấn Độ và viếng Đại bảo tháp Bồ Đề (Mahabodhi Stupa) nơi có thờ tôn tượng của đức Phật Thích Ca Mâu Ni trong thế ngồi Xúc Địa Ấn (Bhumisparsa Mudra) với một bàn tay bắt ấn chạm đất để trấn áp ma chướng thì có lẽ Thầy sẽ không suy diễn đầy phóng tâm như thế.  Toàn tượng Phật Ngọc, từ khuôn mặt đến thế ngồi đều được làm giống theo gần như phó bản của tượng Phật Thích Ca mâu Ni hiện đang thờ trong Đại bảo tháp Bồ Đề ở miền đất Phật Ấn Độ.  (Thầy có thể đơn giản bấm vào “Google”, tìm tiểu mục “Mahabodhi Stupa in India ” là thấy được ngay điều nầy). Xin đảnh lễ để Thầy phát tâm từ bi nghiên cứu cẩn trọng hơn khi viết về Phật giáo, hầu tránh những suy diễn xuôi dòng làm giảm ân đức của Thầy đối với công hạnh hoằng pháp độ sanh!

● Điều bảy: Cầu sám hối để giải trừ vọng tín.
Thầy Chân Tuệ đã vội vàng dán nhãn hiệu cho chúng sanh khi chưa kiểm nghiệm chín chắn: “Lạt ma Zopa Ronpoche lừa bịp công chúng, chống lại đức Đạt lai Lạt Ma, phá hoại Phật Pháp… ” chỉ vì vị Lạt ma nầy “mắc tội” chú nguyện cho tượng Phật Ngọc với ước mong tượng có công năng mang lại hòa bình an lạc cho thế giới; trong khi đức Đạt lai Lạt Ma đang khổ công vận động cho hòa bình và giải phóng Tây Tạng ra khỏi sự xâm lăng Trung Quốc.  Một lần nữa, thầy Chân Tuệ lại vướng vào vọng tín giới hạn là “chỉ có một con đường duy nhất nào đó (mà sở kiến Thầy cho là duy nhất đúng) mới đạt tới một mục đích nào đó (mà vì từ bi Thầy chưa khai thị cho chúng sanh đang còn non kém hơn Thầy) .  Kính bạch Thầy, như thế thì Thầy nên hoan hỷ đi du lịch môt phen qua miền Tây Tạng hoặc khảo chứng tài liệu Phật giáo kỹ càng hơn.  Nơi đó, đạo Phật là quốc giáo.  Nơi đó, quần chúng đủ mọi thành phần và lứa tuổi, bất cứ khi nào, trên đỉnh núi, trên dòng suối hay trên sông đều thành tâm viết trên lá, trên vải, trên giấy những lời cầu nguyện hòa bình an lạc cho toàn thể thần linh và nhân loại ở địa cầu và ba nghìn thế giới.  Họ thả lời cầu nguyện bay theo chiều gió, thả trôi theo con suối, dòng sông với tất cả tâm thành và lòng ngưỡng vọng thiêng liêng. Đó là văn hóa và đức tin mà tất cả các vị Lạt ma Tây Tạng đều tán thán.  Nay bỗng dưng, có một vị tu sĩ nước Việt Nam ta mới xuất gia không lâu mà phát biểu như thầy Chân Tuệ e sẽ làm cho thế giới Tây Tạng không biết nên khóc hay cười.  Kính thưa thầy Chân Tuệ: “Có thì có tự mảy may, khi không cả thế gian nầy cũng không”, nên Thầy vừa mở đề thì đã thành kết luận.

● Điều tám: Cầu sám hối để giải trừ vọng động.
Khi chưa tinh mà đã tấn thì tinh tấn sẽ thành “vọng tấn” hay vọng động, nghĩa là… chạy bậy!
Xin kể hầu Thầy một câu chuyện có ít nhiều liên quan đến vấn đề mà Thầy đang đặt ra về việc tượng Phật Ngọc được thỉnh về Việt Nam :
Sau mùa An cư kiết hạ, đức Phật và tăng đoàn thường rời thành Xá Vệ đáp lời mời cúng dường của các vương tử và trưởng giả nhiều nơi.  Duy chỉ có thành Ma Đà Hi (Madhahi) là vẫn còn khép kín. Giới cầm quyền chủ trương bài Phật, bài tôn giáo vì họ chỉ tôn thờ thần Chiến tranh A Bạt Đà La (Abadala).  Một hôm, tôn giả Mục Kiền Liên xin đức Phật vào thành du thuyết.  Đức Phật hỏi: “Nếu vào thành mà bị sỉ nhục thì sao.”  Tôn giả đáp: “Bạch Thế tôn, con sẽ thực hành hạnh nhẫn nhục để lấy lòng từ bi mà khuyên nhủ họ”.  Đức Phật lại hỏi: “Nếu họ vọng động hành hung thì sao?” Đáp: “Con sẽ lấy trí tuệ mà né tránh điều hung dữ và lấy tâm hỷ xã mà giải oán và khuyến dụ họ vào con đường chánh.”  Vốn là một đại đệ tử thần thông đệ nhất của Phật, Mục Kiền Liên tuy chưa thành công hoàn toàn trong việc khuyến dụ quan dân thành Madhahi theo chánh đạo, nhưng qua những thử thách khó khăn ông đã được quan cũng như dân đón nhận. Khi trở về đức Phật dạy:  “Chỉ có ánh sáng mới xóa tan bóng tối.  Khi đã chấp nhận nguồn sáng rồi, thì sớm muộn gì bóng tối cũng dần tan.” (Lược trích từ Nhân Minh Luận – Human Rationality.)

Sự kiện Phật Ngọc về Việt Nam làm cho người ta liên tưởng tới Mục Kiền Liên vào thành Ma Đà Hi.  Suốt hơn 2500 năm qua, đạo Phật chỉ có một con đường nhất quán như thế.  Lấy ánh sáng xua tan bóng tối; lấy từ bi vả trí tuệ làm phương tiện tối thắng thù hận, vô minh.
Thầy Chân Tuệ cũng có bàn về những vướng mắc và hệ lụy chính trị khi tượng Phật Ngọc được đưa từ Thái Lan về Việt Nam . Tôn giáo và chính trị không cùng mẫu số chung. Thầy Chân Tuệ chỉ đem sự suy diễn đầy cảm tính của một nhà tu nặng tính chất xã hội và tâm lý học để bàn chính trị nên lời Thầy trong lĩnh vực nầy không có tính thuyết phục.  Trong một thế giới đang chịu nhiều khổ đau vì hận thù và xung đột, người Phật tử có tâm Bồ đề kiên cố thì phải hành trì Trung đạo.  Đi lệch một chặng đường là uổng phí cả công hạnh tu trì.

Kết luận.
Trong phần kết luận của bài viết, thầy Chân Tuệ quyết đoán ngõ lời với đại chúng rằng: “Chỉ có kẻ ngu dốt hay mê muội mới tin tưởng vào lời quảng cáo láo khoét của bọn buôn tượng quý, bán Phật giả này mà đến chiêm bái và cúng dường, làm giàu cho chúng, vô tình tiếp tay chúng phá hoại Phật giáo.”
Không rõ thầy Chân Tuệ căn cứ trên những tiêu chuẩn nào để phân định sự ngu dốt, mê muội và thông thái, sáng suốt của con người trên hành tinh nầy.  Nhưng lời răn đe của Thầy thiếu tính ái ngữ và nghiêng lệnh quá xa tinh thần Từ bi và Trí tuệ của đạo Phật.  Thầy dạy “pháp” như thế thì có khác chi lời hịch truyền “chống dị giáo” của thế lực bảo thủ cực đoan thời Trung Cổ.  Đọc hết cả tám điều trong bài Thầy viết, nơi nào cũng chất chứa âm hưởng đầy bức xúc, miệt thị, công kích…  Trong tinh thần Phật giáo, dẫu cho thân nghiệp chưa có đủ điều kiện nảy sinh, nhưng khi ý nghiệp và khẩu nghiệp phát tác cũng đủ khiến kẻ mang tâm sinh khởi chướng ngại phải chịu đa đoan qua nhiều tiểu kiếp.
Có chăng lời dạy của thầy Chân Tuệ không có tác dụng tích cực nên thực tế diễn ra lại theo chiều hướng ngược lại với công đức tu hành nói pháp của Thầy.  Trong tất cả các cuộc cung nghinh tượng Phật Ngọc, số người tham dự đông đảo và kéo dài gấp cả chục, cả trăm lần so với những lễ hội tôn giáo được xem là lớn nhất trong cộng đồng người Việt hải ngoại từ trước tới nay.  Bên cạnh truyền thông của người Việt, báo chí và các đài truyền truyền thanh, truyền hình chính quy hàng đầu của người Mỹ đều có loan tin hay làm phóng sự. Đặc biệt là tại Lễ hội Phật Ngọc tại chùa Kim Quang, Sacramento , có ngày số người Mỹ và các nước khác đến viếng còn đông đảo hơn là số người Việt.  Các ban nhạc và ca sĩ thành danh luân phiên trình diễn “cúng dường” miễn phí trong suốt thời kỳ lễ hội.  Trong muôn người dự hội, không biết có ai nằm trong đối tượng “ngu dốt, mê muội” như lời điểm mặt của thầy Chân Tuệ hay không.  Nhưng sự thật hiển nhiên là người ta đến dự lễ hội Phật Ngọc bằng nụ cười hoan hỷ và cái tâm an lạc vì tất cả đều xuất phát từ lòng tự nguyện.

Nếu có tiền bạc đóng góp “tùy hỷ công đức” trong lễ hội nầy thì tuyệt nhiên trong cả chục vạn người đi chưa nghe một lời phàn nàn hay trách cứ.  Nếu có chăng lời phàn nàn không ngớt thì đó là sự việc tượng Phật Ngọc để đeo cá nhân không đủ cung ứng cho nhu cầu đại chúng.  Có người thức khuya dậy sớm, đi cả hàng trăm dặm, kiên trì chờ đợi từ ngày nọ sang ngày kia mà vẫn phải quay về tay không.  Có nhiều người nằm trong đối tượng “ngu dốt” hay “mê muội” của thầy Chân Tuệ lại trả lời rất… minh triết sau khi đọc bài của Thầy, rằng: “Muốn mua vàng ngọc ròng thì tôi tới các tiệm kim hoàn để mua chứ mua tượng Phật Ngọc ở chùa mà làm gì.  Tới nơi đây, tôi muốn có được một niềm vui hay một niềm tin với năng lượng lành cho chính mình chứ tôi có đi mua cổ phiếu đầu tư đâu mà quan tâm đến lời bá nhân bá tánh dèm pha thật giả…”
Ước chi, sau hiện tượng Phật Ngọc, những bậc tu hành cao kiến như thầy Chân Tuệ sẽ tìm ra được những biểu tượng khác để lâu lâu đại chúng có cơ duyên họp mặt, tìm lại gần nhau đông đảo và chan hòa như lễ hội Phật Ngọc thì thật là hạnh phúc.

Trong thời đại khoa học kỹ thuật ngày nay, nguồn thông tin đại chúng khổng lồ như bất tận được truyền tải bằng vệ tinh, tín hiệu, tia sáng thì e rằng chỉ có những bồ tát nghịch hạnh, hóa thân làm con ếch ngồi dưới đáy giếng mới gióng chuông âm dương để khai thị về sự “tối tăm, ngu muội” đầy giả định của kẻ khác mà thôi.
Bậc thiên nhân sư thế tôn như Đức Phật khi ra ngoại thành còn vái một đống xương khô và chỉ rõ sự bình đẳng của Phật tính trong mỗi con người. Mọi thái độ cống cao ngã mạn, chấp thủ cái tôi ảo ảnh, nuôi lòng sân hận khinh rẻ tha nhân dù chỉ trong một sát na sinh diệt cũng đủ đốt cháy tất cả năng lượng tu tín của cả một đời.

Làm người đã khó. Làm Phật tử giữ gìn giới luật càng khó hơn. Làm kẻ xuất gia là chuyển hóa thân tâm từ phàm qua thánh. Trong muôn một, vẫn có kẻ chưa trả hết nghiệp tiền kiếp phải biến tướng từ thánh qua phàm.
Nhưng đạo Phật đã nêu cao tầm hóa giải: “tự giác, giác tha, giác hạnh viên mãn” thì dẫu có tới nẻo cuối mà thiện tâm chưa mất thì vẫn còn mở được cánh cửa khai thị, viên thông.
Biết sai thì sám hối.  Dẫu muộn còn hơn không.

(Bài do ông Trần Kiêm Đoàn gửi tới)



Thứ Ba, 19 tháng 7, 2016


ĐỌC LẠI “LA SƠN PHU TỬ ”
CỦA HOÀNG XUÂN HÃN

Cao Huy Thuần

 
Tượng đài La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp (1723-1804) tại xã Nam Kim,
huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An – Hình bìa tác phẩm La Sơn Phu Tử,
ấn bản đầu tiên, nhà xuất bản Minh Tân, Paris 1952

Bác Hãn – xin được gọi như vậy như đã gọi lúc Bác sinh thời – viết lời Tựa cho tác phẩm La Sơn Phu tử vào tháng 5 năm 1945, ba tháng trước Cách Mạng Tháng Tám, lúc mà Bác là nhân vật chủ chốt được vua Bảo Đại mời vào Huế để cùng với một số trí thức danh tiếng khác bàn việc thành lập Chính phủ Trần Trọng Kim, chấm dứt chế độ thuộc địa Pháp. Trong thời gian ấy, quân đội Nhật vẫn nắm giữ thực quyền nhưng tuyên bố ủng hộ Việt Nam độc lập, thống nhất. Pháp chưa đi hẳn, Nhật còn ở lại, chiến tranh giữa phe Đồng Minh và Nhật đã sắp đến hồi ngã ngũ, tương lai Việt Nam chưa biết trôi về đâu, nền độc lập vừa tuyên bố chỉ mới có giá trị trên lý thuyết. Tuy vậy, ai mà không thấy hừng lên một chân trời sáng sau 80 năm mịt mù nô lệ?


Vua Bảo Đại nói gì với bác Hãn và với ông Trần Trọng Kim khi hội kiến? Câu nói mà bác Hãn ghi nhớ nhất là : “Từ trước đến giờ, các anh muốn nước Việt Nam độc lập, bây giờ có cơ hội thì lại chối, mình không chịu độc lập, thế rồi sau này nói thế nào?” (1). Theo bác Hãn, câu nói ấy đã thuyết phục được ông Trần Trọng Kim. Bác Hãn thì khỏi cần phải thuyết phục, chính Bác đã tích cực nhận lãnh trách nhiệm đề cử người vào chính phủ đầu tiên trước tháng Tám.



Tóm tắt tình thế là như vậy để hiểu tâm trạng của Bác khi Bác hạ một câu kín đáo xót xa trong bài Tựa: “Vả bây giờ, nước ta đương qua một thời kỳ biến, nền độc lập mới xây. Từ hồi Pháp thuộc, đến lúc thoát ly, có nên xuất, xử thế nào, cũng có lắm người nghị luận. Họa chăng gương Phu tử sẽ đủ cho người soi”.



Soi ai? Soi Bác. Soi cái gì? Soi lẽ xuất xử. Tại sao? Vì dư luận phân tán. Dư luận thời trước đã phân tán trên thái độ xuất xử của Phu tử. Dư luận thời nay còn có thể phân tán hơn trên thái độ xuất xử của Bác. Và duyên cớ sâu xa gì khiến cho dư luận phân tán? Tính chính đáng của quyền lực đương thời. “Nền độc lập” mà Bác nói ở trên là độc lập khi Nhật chưa đi. Đây là sợi chỉ đỏ nối kết hai trường hợp: của nhân vật trong sách và nhân vật viết sách. Nói một cách khác, bác Hãn mượn sử để bày tỏ nỗi lòng. Một nỗi lòng u uẩn không khuây.



Về nỗi lòng của nhân vật Nguyễn Thiếp, bác Hãn đã phân tích tường tận. Chúng tôi ngày nay chỉ xin trình bày thêm chút ít ý kiến thô thiển, hạn chế vào cái sợi chỉ đỏ vừa nói ở trên. Tôi nghĩ: La Sơn Phu tử là khổ nhân của ba áp lực. Áp lực thứ nhất là chứng bệnh vĩ cuồng, nói nôm là điên. Dù bệnh có khi dài vài tháng, có khi ngắn vài ngày, một chứng bệnh tái đi tái lại từ trẻ không thể không ảnh hưởng đến tâm lý hành động, muốn xông ra với đời hay muốn rút lui về núi. Trong những cái cớ mà Phu tử viện ra để từ chối lời mời tha thiết của Nguyễn Huệ, thân không an lạc không phải là chuyện vẽ vời. Nhưng cớ ấy cũng chỉ là nhỏ thôi.



Áp lực thứ hai là thời thế. Chưa bao giờ lịch sử Việt Nam rối bời đến thế. Trịnh Nguyễn phân tranh, đất nước chia hai, rối bời lãnh thổ đã đành. Chiến tranh, bắt lính, sưu dịch, mất mùa, đói khổ, loạn lạc nổi lên khắp nơi, xã hội bất an, triều đình bất lực, kẻ sĩ bó tay, cả miền Bắc quyền lực rối tung, dân tình than oán. Nếu Phu tử ra làm quan, chẳng lẽ tham gia đàn áp dân? Vậy thì học để làm gì, đi thi để làm gì? Kinh bang tế thế, chắc là Phu tử không có cái chí ấy. Chắc cũng không có cái tài ấy. Nếu Phu tử có cái chí, cái tài ấy, còn hào kiệt nào hơn Nguyễn Huệ để vẫy vùng phỉ chí nam nhi? Lượng sức mình mà không xuất, cớ ấy cũng không phải là bịa đặt ra. Nghĩ cho cùng, thời loạn mà gặp được anh hùng, như Nguyễn Trãi gặp Lê Lợi, kẻ sĩ nào có chí lớn mà không mơ ước? Rồng nào không mơ ước bay lên với mây? Nhưng Nguyễn Huệ không phải là Lê Lợi mà Nguyễn Thiếp cũng không hẳn có “con mắt tinh đời” để “anh hùng đoán giữa trần ai mới già” như Kiều đoán Từ Hải khi vừa liếc mắt. Trong con mắt Nguyễn Thiếp khi nhận được thư đầu, Nguyễn Huệ chỉ là anh phiên bang thuộc người nước ngoài. Tại đâu cái nhìn của bậc danh sĩ ấy có phần hạn chế? Tại vì cái áp lực thứ ba, và đây mới chính là mấu chốt của vấn đề.



Áp lực thứ ba ấy là ý thức hệ Khổng giáo, mà đặc biệt ở đây là tính chính đáng – légitimité trong tiếng Pháp – nguyên tắc mà sách vở chính trị ngày nay dùng để cắt nghĩa tại sao mọi người đều chấp nhận, như một sự thực hiển nhiên, quyền hành nằm trong tay ai đó, một người, một gia đình, một tập thể, một đảng... Với chính thể quân chủ, tính chính đáng ở Việt Nam hồi đó nằm trong tay vua Lê. Nhưng tính chính đáng ấy với quyền lực hồi đó không đi đôi với nhau vì thực quyền nằm trong tay chúa Trịnh. Vua Lê có triều đình, chúa Trịnh cũng có triều đình, mà là triều đình thật. Vua Lê lập thái tử, chúa Trịnh cũng lập thế tử, cha truyền con nối, đúng nguyên tắc. Ý thức hệ Khổng giáo cắt nghĩa nguồn gốc của quyền hành là thiên mệnh. Ai biết ý Trời lúc đó là muốn cái gì, chẳng lẽ là muốn một ông vua cứ việc lung lay nằm trong tay của một ông chúa cứ việc kềm kẹp? Lại như một nguyên tắc cứng nhắc, đạo đức Khổng giáo in vào đầu sĩ tử phương châm “trung thần bất sự nhị quân”. Nghĩa là, trên thực tế, sĩ tử Bắc Hà cứ việc khóc lóc với một ông vua bất lực, và ông ấy càng bất lực lại càng được thương. Một mặt các vị cứ khóc với vua, một mặt cứ cong lưng với chúa. Nguyễn Thiếp khóc vua, nhưng Nguyễn Thiếp không phục chúa, thế thì Nguyễn Thiếp chỉ có một con đường thôi là làm người hiền ở ẩn. Đạo đức Khổng giáo về xuất xử cho phép và hoan nghênh.



Đọc ba bức thư gửi đi của Nguyễn Huệ và thư phúc đáp của Nguyễn Thiếp, người đọc ngày nay có thể chảy nước mắt cho lịch sử bi đát của nước ta hồi đó: Nguyễn Huệ đề niên hiệu là Thái Đức, Nguyễn Thiếp đề niên hiệu là Cảnh Hưng. Nguyễn Thiếp gọi miền Nam của sông Gianh là “quý quốc”, là nước khác, không phải nước tôi. Ý Trời trong đầu Nguyễn Huệ đã đổi khác. Ý Trời trong đầu Nguyễn Thiếp vẫn chặt cứng bê tông dù lịch sử sắp sang trang. Và lịch sử hoành tráng sang trang! Trang mới mở ra với Bắc Bình Vương tung quân ra Bắc, diệt Trịnh, chấm dứt hai trăm năm khống chế vua của con cháu Trịnh Kiểm, hai trăm năm cái mặt trời chính đáng của nhà Lê cứ lặn dần, hai trăm năm sĩ tử Bắc Hà bất lực trong hoàng hôn của một chế độ chính trị không biết thay đổi, hai trăm năm cùng chung nhau bám chặt vào một cái đầu “Tử viết”, không đặt dù một dấu hỏi về cái lẽ thiên mệnh đã hết bùa chú trong tay nhà Lê. Hai trăm năm! Nghĩ lại mà rùng mình. Hai trăm năm đằng đẵng ngâm mãi một bài học. Dù kính bái Phu tử đến đâu đi nữa, người đời nay vẫn phải lạy Phu tử để nói một câu vô lễ: vậy mà Phu tử đem bài học ấy ra dạy lại cho Bắc Bình Vương:



Họ Trịnh tiếm quyền đã hai trăm năm. Tướng quân đánh một trận mà dứt được, lấy đất đai mà trả lại cho nhà Lê. Như thế, ai nói là không phải anh hùng. Nếu nhân người nguy, lợi dụng tai họa người, nếu trước vì nghĩa mà sau vì lợi, thế là gian hùng”.


Bác Hãn khen câu nói. Tôi hiểu, vì Bác là nhà Nho, đại Nho. Nhưng chúng tôi, hậu sinh của Phu tử ở thế kỷ 21 này, chúng tôi không thể nhìn lịch sử như Phu tử nhìn. Chúng tôi không thể quan niệm chữ “đức” một cách cứng nhắc trong bối cảnh đặc biệt ấy. Khổng Tử dạy phải lấy đức để trị nước. Ngài dạy thế không sai. Nhưng, thưa Ngài, nước chúng tôi hồi đó quá loạn, loạn triền miên, loạn đã hai trăm năm, loạn từ trong dân, loạn trong triều đình, loạn cả trong thâm cung bí sử, Ngài nghĩ rằng Nguyễn Huệ vẫy gươm để trả đất cho cái vua Lê bất lực ấy thì nước chúng tôi sẽ yên chăng? Ngài nghĩ rằng một bậc anh hùng như Nguyễn Huệ có thể lui cui làm cái công việc trả đất như một anh tướng quèn chí không cao hơn cái chân vịt? Ngài nghĩ con rồng ấy có thể yên phận làm con dun? Nguyễn Huệ có bao giờ phất cờ “phù Lê diệt Trịnh” giả dối đâu mà sợ mang tiếng gian hùng trong lương tâm? Lịch sử của nước chúng tôi có lúc hưng lúc vong, lúc vong là vì không biết cách chấm dứt một chế độ suy thoái, không biết cách thay đổi từ chế độ này qua chế độ khác, khư khư bám riết vào cái tính chính đáng mà Ngài dạy, dù nó đã hết sinh khí, phản tiến hóa. Với Nguyễn Huệ, nước chúng tôi có cái cơ may thắp lên rạng đông sau hai trăm năm nhấp nhem một chế độ lụi tàn như đèn hết bấc. Có cái đức nào lớn hơn, hợp hơn với dân tộc chúng tôi như cái vận may hai trăm năm một thuở ấy?


Sau câu dạy ấy của Phu tử, gia phả chép: “Huệ sợ”. Chắc chắn gia phả chép đúng sự thật: Huệ sợ. Nhưng sợ cái gì? Sợ một câu nói đúng đạo đức? Sợ lương tâm? Đâu phải thế! Sợ cái mà Nguyễn Huệ đang sợ: chiếm đất không khó, chiếm lòng người mới khó. Nhất là chiếm một cái lòng bo bo dán vào quá khứ, một cái văn hóa không biết mở ra với tương lai, một thổ âm chưa quen với cái giọng Bình Định Tây Sơn khó nghe của một miền Nam đã quá lâu năm biền biệt. Như là một chính trị gia lão luyện, Nguyễn Huệ cần một đại túc nho để làm cái việc mà sách vở chính trị ngày nay gọi là chính đáng hóa (légitimation) nghĩa là xây dựng và củng cố tính chính đáng chưa có ở Bắc Hà. Thời cuộc đã giúp Nguyễn Thiếp giải quyết nhanh cái mối tơ vò trong đầu ông khi Lê Chiêu Thống đã chạy dài và Tôn Sĩ Nghị quỳ gối dâng lên Nguyễn Huệ cái mâm vàng “chính đáng” cùng với một đoàn tùy tùng hai mươi vạn tướng hổ binh hùng. Đống Đa chấm dứt nhà Lê. Thư từ trao đổi không còn vướng vít Cảnh Hưng niên hiệu.



Trở về lại với bác Hãn của chúng tôi, bác Hãn mà chúng tôi đã có cái may mắn gần gũi. Bác soi gương Phu tử và Bác thấy Bác trong đó. Bác thấy ba cái áp lực mà Phu tử đã là khổ nhân. Bác thấy Bác cũng đã nếm mùi ba cái khổ đó.



Áp lực thứ nhất: tất nhiên Bác không có chứng cuồng vĩ. Nhưng nếu đừng hiểu nghĩa đen mà chỉ nói đùa với nghĩa bóng thôi, thì người nào khác thường chẳng có chút gì đó “điên điên” dưới mắt thiên hạ? Cái chút “điên” ấy tạo ra cái duyên, cái đẹp, cái hấp dẫn, cái đặc biệt của một cá tính. Chính bác Hãn, trong bài Tựa lần thứ hai, viết rằng La Sơn Phu tử là một “cá nhân đặc biệt”, một “cá tính đặc biệt”. Chắc Bác cũng vậy. Nói rộng ra thêm, và nới rộng Hà Tĩnh của Bác ra thành Nghệ Tĩnh, hình như đó là cá tính đặc thù mà người đời thường xưng tụng dưới danh hiệu “ông đồ Nghệ”. Một khi “ông đồ Nghệ” đã khí phách rút lui ở ẩn, đã xử, đừng hòng ai kéo được ông ra khỏi núi. Tuế nguyệt cứ xoay, đá vẫn trơ gan với thời cuộc.



Thời cuộc là áp lực thứ hai. Bác Hãn nhấn mạnh câu nói của vua Bảo Đại: các anh nói độc lập, vậy mà khi độc lập đến, các anh không nắm lấy sao? Cho nên Bác nắm. Thế là Bác xuất. Nhưng thời cuộc vượt qua Bác nhanh quá, miệng lưỡi người đương thời chế diễu cái “độc lập bánh vẽ”. Từ trên ban xuống, độc lập ấy bị cuốn phăng trong khí thế hừng hực dâng lên từ một phong trào cách mạng có căn cứ địa, có quần chúng, có lãnh đạo, có gươm dáo, có cả cờ với sao nữa: Bác có con đường nào khác đâu ngoài theo hoặc là xử? Bác xử. Nhầm một bước vào chính trị, Bác không bước một bước thứ hai. Suốt đời. Thậm chí, Bác không bao giờ về nước nữa từ khi rời Hà Nội năm 1951. “Ông đồ Nghệ” tự giận mình chăng? Giận một người thông minh xuất chúng mà để cho chính trị nó lừa quá dễ dàng? Nhưng, thưa Bác, chính trị là nghề của lừa, Bác giận làm gì? Bác cứ sống với chúng cháu như một người trí thức, Bác nghiên cứu, Bác viết sách, ấy là tiên trong đời. Nhưng đâu có phải bác cháu chúng ta không biết nhìn thời cuộc, không biết ông Trời đang ngả cái bóng thiên mệnh về đâu?



Tính chính đáng: ấy là áp lực thứ ba. Ngày trước, Bác có thỉnh thoảng cộng tác với tờ Thanh Nghị mà khuynh hướng chính trị là “Độc Lập và Dân chủ”, có thêm chút đuôi “xã hội”. Thanh Nghị phải chăng giữ vai trò tạo “chất men văn hóa” cho Cách Mạng tháng Tám? Chủ nhiệm tờ tạp chí có tiếng ấy ở Hà Nội, luật sư Vũ Đình Hòe, xác minh rằng nhóm của ông không có ý thức như vậy. Nhưng, ông viết tiếp, theo lời kể của một người khác, “đó chính là ý kiến của Hoàng Xuân Hãn”. Nghĩa là bác Hãn nghĩ rằng trong nhóm Thanh Nghị không phải ai cũng một dòng chính kiến như mình. Mà quả thật vậy, đầu tháng 7 năm 1945, nhiều vị trong Thanh Nghị họp nhau tại Hà Nội “để xác định dứt khoát: theo ai?” Bác Vũ Đình Hòe cho biết như vậy và kể tiếp với một chữ nhưng: “nhưng không thuyết phục nổi nhau. Thế là, tuy vẫn quyến luyến và tin cậy lòng yêu nước của nhau, họ chia tay, người vô Huế, kẻ lên chiến khu”. Bác Hòe lên chiến khu. Phan Anh vô Huế. Nhưng ông Trời nghiêng về ai thì tất cả đều thấy như nhau. Cho nên bác Hãn di chúc với bạn đồng hành: “Trước lúc từ giã Phan Anh, tôi dặn các sự đã bàn: tôi sẽ đồng tình từ chức và khuyên những người cách mạng sẵn sàng lập chính phủ mới”.
 
Hoàng Xuân Hãn (1908-1996)
Giống như Nguyễn Thiếp với Quang Trung, bác Hãn chung thủy với cái tính chính đáng mới mà lịch sử đã trao cho Tháng Tám. Nhưng cũng giống như Nguyễn Thiếp, Bác chọn cái đường lối xin tạm gọi là... thứ ba. Thứ ba giữa xuất thứ thiệt và xử thứ thiệt. Ấy là đường lối mà Nguyễn Thiếp đã đề nghị với Nguyễn Huệ trong thư phúc đáp thứ hai, sau khi “xin được ở yên cho trọn vẹn”. Để làm gì?: “Để ngày khác đứng ngoài mà làm một người cố vấn dự bị, thế mới phải hơn ”. Đã cố vấn mà còn dự bị ! Bác Hãn cũng có lần làm cố vấn như thế, mà hơn cả dự bị: Bác tham gia phái đoàn của chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa dự Hội nghị Đà Lạt tháng 4 năm 1946. Nhưng chỉ lần ấy thôi. Sau đó, thỉnh thoảng Bác cũng có đóng góp ý kiến, nhưng cũng chẳng bao nhiêu, đóng góp cái lòng thiết tha yêu nước thì đúng hơn.

Chính cái đường lối “thứ ba” ấy đã châm mồi cho bao nhiêu dư luận, tất nhiên là từ hai phía. Phe thủ cựu thì chê Nguyễn Thiếp đã xuất. Phe hiện đại thì chê Nguyễn Thiếp đã xử. Phe địch phe ta, hai phe đều xơi ta cả. Tất nhiên là thế thôi. Nếu Phu tử sống ở thời đại này, chắc cụ đã nghe mòn tai cái cụm từ “đi giữa hai lằn đạn”. Có người vì dại dột mà đi. Có người ung dung. Bác Hãn khen Phu tử “ung dung” mà đi, mà đứng, như cột cầu giữa hai dòng nước xoáy. Cũng khen cụ không kém, bác Vũ Đình Hòe, nguyên bộ trưởng tư pháp, dịu một chút giọng, xuống một bémol, nhận định cụ “xuất ít thành công” mà “xử, ở ẩn lâu, quá lâu”, “ra giúp đời quá nhanh, quá ít”. Bác Hòe nhận định như vậy là chung cho cả hai, cả Phu tử và bác Hãn.


Về Nguyễn Thiếp, đúng là ít thành công khi xuất. Tựu trung, đóng góp được Nguyễn Huệ khen ngất trời là chỉ một câu. Câu nói phải đánh nhanh để thắng gọn khi quân Thanh vừa chiếm Thăng Long. Nhưng cái chiến lược thần tốc ấy, Nguyễn Huệ đã tính sẵn trong đầu khi cất quân từ Phú Xuân. Dù sao, nói trúng ý nhau cũng là tri kỷ rồi. Ngoài câu nói ấy, sự nghiệp xuất của Phu tử đúng là chẳng bao nhiêu. Nhưng, xét công của Phu tử, đâu phải chỉ tính mấy cái việc hữu hình. Nguyễn Huệ đâu có chủ yếu chờ đợi ở bậc danh nho ấy việc chấm thi hay dịch kinh. Chủ yếu là cái việc vô hình mà Nguyễn Huệ lo canh cánh bên lòng: chính đáng hóa một giấc mộng đế vương, một triều đại mới, một trang sử mới.


Dù Phu tử rút lên núi, có hề chi! Tấm lòng của Nguyễn Huệ chiếu sáng đến Thăng Long. Ba lần gửi thư, tự tay chấp bút thư nữa, rồi chiếu, rồi gặp, ba lần gặp trước khi vua tôi trùng phùng tại kinh đô mới, chế độ mới, cái gương cầu hiền thiết tha có một không hai ấy trong lịch sử, cái gương ấy, chẳng lẽ Nguyễn Huệ chỉ muốn cho Phu tử soi riêng một mình? Chẳng lẽ Nguyễn Huệ không nhắm đến trí thức Bắc Hà? Chẳng lẽ thời đó không biết vận tốc của tiếng đồn? Chẳng lẽ ngày nay chúng ta không nghĩ: chiến dịch đánh vào lòng người càng mạnh khi lòng thành của Nguyễn Huệ càng lớn?


Nếu Phu tử sống ở thời nay, chắc cụ học thêm được một chữ nữa: chữ “vận”. Ấy là “trí thức vận”. Ấy là “trí vận”. Nói như vậy không phải để hạ giá đạo đức hành động của Nguyễn Huệ xuống hàng mánh lới chính trị. Bởi vì, dù là chiến thuật chính trị đi nữa, Nguyễn Huệ, người thực hiện chiến thuật, đã làm sáng rực một nhân cách anh hùng, cây gươm biết hạ mình trước cây bút, viết lên một trang sử đẹp như tiểu thuyết, đẹp như huyền sử. Nguyễn Thiếp được bác Hãn xưng tụng bởi vì Nguyễn Huệ quá đẹp. Nhưng chính vì Nguyễn Huệ quá đẹp mà nhân vật Nguyễn Thiếp không khỏi bị người đời nay có chút phiền trách, dù là trách yêu. Rất khéo, bác Vũ Đình Hòe trách Phu tử, dù gì đi nữa, cũng “phần nào cố chấp”. Rồi rất khéo, và rất thân tình, bác Hòe nhẹ nhàng đặt câu hỏi: “tôi nghĩ có lẽ học giả Hoàng Xuân Hãn cũng thế chăng?”.



Về Nguyễn Thiếp, cố chấp thì chắc là có rồi, nhưng cố chấp mà vẫn đẹp, vẫn sáng rực một nhân cách để trí thức ngày nay nhìn đó mà cư xử trong mối quan hệ với quyền lực. Một cung cách, một mẫu mực trí thức vượt thời gian: ung dung, thẳng thắn, khiêm tốn, không hề khuất phục.



Còn bác Hãn cố chấp hay không, chúng tôi, trí thức ngày nay, nghĩ rằng chừng nào ước mơ của nhóm Thanh Nghị ngày xưa, “Độc Lập và Dân chủ” chưa thực hiện được trọn vẹn cả hai vế, chừng đó chúng tôi không dám trách Bác là cố chấp.


Cao Huy Thuần


(1) Trả lời phỏng vấn đài RFI (Thụy Khê thực hiện) I. Những cuộc tiếp xúc khó quên, trong : La Sơn Yên Hồ Hoàng Xuân Hãn, Tập I. Nhà xuất bản Giáo Dục, Hà Nội, 1998.

(2) Vũ Đình Hòe: Hoàng Xuân Hãn, La Sơn Phu Tử và nhóm Thanh Nghị, trong: La Sơn Yên Hồ Hoàng Xuân Hãn. Tất cả những trích dẫn sau đó đều cùng một xuất xứ.