ĐÁNH GIÁ HIẾN PHÁP ĐỆ NHẤT CỌNG HÒA 1956
Nguyễn Hữu Châu, Đoàn Thêm, Vũ Văn Mẫu,
Đỗ Mậu, Nguyễn Văn Bông, Nguyễn Quang Duy
LGT - Từ những năm cuối của thập niên 2010’s,
có một hiện tượng mới trong giới gọi là “đấu tranh” của người Việt. Đó là hiện
tượng lực lượng chính trị của Công giáo Việt Nam tung ra một chiến dịch đề cao
nền Đệ Nhất Cọng hòa của miền Nam cũ, và lấy chế độ Ngô Đình Diệm như một thể
chế khuôn mẫu đề hy vọng thay thể chế độ Xã hội Chủ nghĩa trong tương lai, một
khi họ lật đổ được chế độ hiện tại.
Một trong những nỗ lực để phục vụ cho chiến
dịch đó là đề cao bản “Hiến pháp 1956” của chế độ Ngô Đình Diệm. Thế là hằng
năm, cứ đến tháng 11, ta lại đọc được một số bài trên các báo điện tử phụ họa
cho nỗ lực đó. Tác giả những bài viết nầy đa số là viên chức Việt Nam Cọng Hòa
cũ ở hải ngoại, viết theo cảm tính. Nhưng cũng có những trí thức Hà Nội, còn
rất mù mờ về tình hình miền Nam giai đoạn 1954-1963, bây giờ lại mồ côi chính
trị vì “thoát Đảng”, nên viết thiếu dữ liệu và hoàn toàn không có cơ sở.
Vì vậy, chúng tôi đã sưu tầm về đề tài nầy và xin
giới thiệu những đánh giá về bản “Hiến Pháp 1956” của năm nhân vật mà chúng tôi
cho là khả tín hơn vì chuyên ngành của họ, và nhất là vì họ đã sống trong giai
đoạn lịch sử 1954-1963. Trong 5 nhân vật nầy thì có 4 vị đã từng sống và giữ
những chức vụ quan trọng trong nền Đệ nhất Cọng hòa, còn một vị là chính khách
thời Đệ Nhị Cộng hòa đồng thời cũng là giáo sư về Luật Công pháp. Ngoài ra, có
một vị còn trẻ, sống ở Úc châu, là tín đồ Công giáo, đã là người thứ sáu trong
bài nầy, sẽ đánh giá “Hiến Pháp 1956” sau hơn 60 năm sau...
[Sưu tầm, bình luận và nhấn mạnh trong bài nầy là của Kevin
Trần, 11/2016]
--0--
Hiến pháp Việt Nam 1956 của đệ nhất Cọng hòa do Quốc hội biểu
quyết ngày 20/10/1956 được Tổng thống Ngô Đình Diệm ban hành ngày 26/10/1956,
thành lập nền Đệ nhất Cộng hòa. Hiến pháp gồm 98 điều, chia làm 8 thiên. Hiến
pháp tuy là do sự đóng góp của nhiều người, kể cả đóng góp một cách gián
tiếp của các chức sắc trong Giáo hội Công giáo Việt Nam (như linh mục Bữu Dưỡng
và nhóm Tinh Thần), nhưng nội dung chính vẫn do ông Ngô Đình Nhu,
người được cho là lý thuyết gia của chế độ, duyệt xét chung quyết. Bản Hiến
pháp này, ngoài một vài từ ngữ mà trên mặt … tượng thanh có vẻ rút ra từ “chủ
nghĩa” gọi là “Nhân Vị” như “giá trị siêu việt”, “nhân vị”, “duy linh”,
“Đấng tạo hóa”, ... còn nội dung thật sự của nó chỉ là một nỗ lực “đầu
Ngô mình Sở” (từ của ông Đoàn Thêm trong Những Ngày Chưa Quên, Đại
Nam, 1969) của một ít thần học Thiên Chúa giáo Âu châu, pha trộn vài điều của
Tổng thống chế Mỹ và một ít triết lý Đông phương mà thôi.
Nhưng nỗ lực khập khểnh đó đã hoàn toàn thất bại. Có hai lý do
để giải thích sự thất bại này:
● Thứ nhất là vì lúc bấy giờ (và sau đó tan dần không còn dấu
vết gì đáng kể theo sự sụp đổ của chế độ vào năm 1963) thuyết Nhân
Vị của ông Nhu là tổng hợp trụy thai (mượn từ kép của LM Kim Định viết về nhà lập thuyết Lý Đông A) còn
hỗn tạp và còn ở dạng sơ khai nên không có những yếu tính đặc
thù để tạo ra nét độc đáo riêng cho Hiến pháp;
● Thứ hai là vì nhu cầu quyền lực chính trị quá lớn nên
ông Nhu đã bất chấp nội dung “Nhân Vị” - dù còn mơ hồ chưa thành hình - để đưa
vào Hiến pháp những nguyên tắc chuyên chính độc tài, chà đạp sinh hoạt dân chủ
của quốc gia và quyền tự do của công dân, với mục đích tập trung quyền hành vào
một thiểu số thống trị. Nghĩa là áp đặt càng nhiều càng tốt tính độc
tài trong bộ luật căn bản và cao cấp nhất của quốc gia.
Nói chung, để kiểm soát và bóp nghẹt quyền của người dân, Hiến
pháp 1956 đã tung ra một mớ gươm Damoclès treo trên đầu người dân với
những từ ngữ mà chính quyền muốn giải thích thế nào cũng được như “điều
kiện luật định, lý do quốc phòng, an ninh công cộng, an toàn chung, trật tự
chung, lợi ích công cộng, đạo lý công cộng...”. Và để bảo đảm tối đa sự
kiểm soát này, Hiến pháp còn nâng chủ trương nầy lên thành nguyên tắc tổng quát
trong điều 28: “quyền của mỗi người đều được xử dụng theo những thể thức và
điều kiện luật định”. Điều 28 quỷ quyệt này đóng kín một cách hoàn
toàn và vĩnh viễn tất cả mọi hy vọng của người dân về một sinh hoạt dân chủ và
an toàn cá nhân dưới chế độ, đồng thời trao lại một cách hoàn toàn và vĩnh viễn
quyền sinh sát vào tay một thiểu số gia đình họ Ngô đang nắm quyền lực trong
tay.
Theo Wikipedia thì:
“Về mặt pháp lý, bản Hiến pháp Việt Nam Cộng hòa 1956 khẳng định
việc phân chia quyền lực của chế độ là tam quyền phân lập và có mục tiêu
để hai ngành lập pháp và hành pháp kiểm soát lẫn nhau. Về ngành
tư pháp thì quyền lực kém hơn và không được độc lập hoàn toàn vì lệ
thuộc vào Bộ Tư pháp và phủ Tổng thống bổ nhiệm và điều hành. So sánh với các
quốc gia khác thì Hiến pháp 1956 dồn nhiều quyền lực vào ngành hành
pháp hơn cả vì tổng thống có những đặc quyền trong những trường
hợp nội loạn, chiến tranh hay khủng hoảng tài chánh.
Điều đáng ghi nhận là nền tảng của bản hiến pháp nêu ra ba khía
cạnh: "văn minh Việt Nam", "duy linh", và "giá trị con
người" như ghi rõ trong lời mở đầu. Vì văn bản ghi là dân tộc có
"sứ mệnh" trước
"Đấng Tạo hóa"nên có người cho rằng đây chứng minh sự thiên vị của
chính quyền với Thiên Chúa giáo trong
khi các tôn giáo khác không được đề cập đến.”
Ngoài một số nhà nghiên cứu Mỹ như Joseph Buttinger (trong Vietnam,
a Political History, 1968), Stanley Karnow (trong VietnamA
History, 1983), Frances Fitzgeral (trong Fire
in the Lake, 1972), Robert Shaplen (trong The
Cult of Diem, 1972) đã phân tích và chỉ trích nặng nề Hiến pháp 1956
của Đệ nhất Cộng hòa, nhiều luật gia Việt Nam tên tuổi cũng đã nghiêm khắc lên
án Hiến pháp đó là thoái hóa, kỳ thị và độc tài:
■ Luật gia Nguyễn Hữu Châu, giáo sư đại học Luật
khoa Paris, anh rễ bà Nhu (tức chồng bà Trần thị Lệ Chi) , nguyên Bộ trưởng Bộ Nội
Vụ kiêm Bộ trưởng Phủ Tổng Thống năm 1956.
Ông đã có những phán xét không tốt đẹp gì cho “Hiến pháp Nhân Vị
1956” của Đệ nhất Cộng hòa trong Luận án Cao học Luật khoa (Mémoire DES, 1960)
của ông. Thật vậy, sau khi phân tách từng chương từng mục của bản Hiến Pháp
1956, ông đã kết luận rằng:
“Xét đến lịch sử các cơ chế và tư tưởng chính trị của
Việt Nam, thật khó mà không công nhân rằng hệ thống của Hiến pháp ngày
26-10-1956 quả là một sự thoái hóa so với hệ thống chính trị cổ truyền. Tại
vì Hiến pháp 26-10-1956 đã giữ lại những gì kém tiến bộ nhất của chế độ
xưa cũ, rồi bổ túc bằng những sự kiềm chế tân tiến nhất.
Do đó mà cái ý niệm về lãnh đạo (leadership) được trình bày
trong bản dịch chính thức của Hiến pháp Việt Nam Cộng hòa không có cái ý nghĩa
mà các nhà Xã hội học Mỹ trao gửi lúc đầu” .
[Dans l’histoire des institutions et des idées
politiques du Vietnam, il sera difficile de ne pas reconnaitre que le système
de la constitution du 26 Octobre 1956 constitua une regression par rapport au système politique
traditionnel. Car il a repris de l’ancien système ce qu’il a le moins progressiste pour le completer par les moyens de
contrainte les plus modernes. Ainsi cette notion
de Leadership qui figure dans la traduction officielle de la Constitution de la
République du Vietnam n’a pas le sens que les sociologues Américains lui
donnent originalement.]
■ Luật gia Đoàn
Thêm, Đổng lý Văn phòng Phủ
Tổng thống (cho ông Diệm trong hơn 7 năm, cho đến 11/1963), Giáo sư tại Học
viện Quốc gia Hành chánh (Sài Gòn)
Trong tác phẩm “Những Ngày Chưa Quên 1954-1963” (Nam Chi và
Cơ sở Xuất bản Phạm Quang Khai 1967, Sài Gòn), ông đã bỏ ra 11 trang để phân tích
sự liên hệ giữa thuyết Nhân Vị và Hiến pháp Đệ Nhất Cộng hòa, liên hệ giữa Hiến
pháp và Quốc hội, giữa Quốc hội và Tổng thống. Ông đã nhận xét rằng chính “áp lực
rất mạnh mẽ của thực tế, của nhân vật và của thời cuộc” đã “xây dựng nền móng của
chế độ” (chứ chẳng phải là những mỹ từ với nội dung triết lý, chính trị và luật
học được ghi trong Hiến Pháp) như sau đây:
“Triết lý chính trị của
ông (Ngô Đình Nhu) muốn đưa ra, đã được tóm tắt trong đoạn mở đầu và phần căn
bản của Hiến pháp 26-10-1956, lại được nhấn mạnh... đã thành khẩu hiệu chính
thức. Tuy nhiên, những ý tưởng này chỉ
thể hiện ra hai thiên đầu của hiến pháp 1956.
Còn ở phần cơ cấu chính quyền, nghĩa là khi
chuyển sang phần ứng dụng, và nếu
xét về luật công pháp thì rất khó thấy tương quan gì giữa lý thuyết Nhân Vị
và các guồng máy quốc gia. Bởi thế, năm 1956 tôi không hoài nghi,
tuy một số người hài lòng và cho là lần đầu tiên chúng ta mới kiến tạo được
trên một căn bản triết lý chính trị vững vàng. Trái lại, tôi đã ghi nhận áp
lực rất mạnh mẽ của thực tế, của nhân vật và thời cuộc trong việc xây
đắp móng nền của chế độ.”
■ Giáo sư Thạc sĩ Luật Vũ Văn Mẫu (1914-1998),
nguyên Bộ trưởng Ngoại giao của chính phủ Ngô Đình Diệm. Từ chức năm 1963 để phản
đối chính sách kỳ thị Phật giáo của anh em gia đình họ Ngô.
Sau nầy, ông cũng đã tố cáo ý đồ thiên vị Thiên Chúa giáo của
bản Hiến pháp 1956 như sau trong tác phẩm “Sáu Tháng Pháp Nạn” [in Ronéo trong nước năm 1984. Giao Điểm in lại, 2003,
California ]:
Điều 17 của Hiến pháp Việt Nam 1956 đã được giáo sư Bửu
Hội chiếu dẫn trước tổ chức Liên Hiệp Quốc để chứng minh rằng tại Việt Nam
không có sự kỳ thi tôn giáo. Điều 17 này qui định như sau: “Mọi
người dân đều có tự do tín ngưỡng, tự do hành giáo và tự do truyền giáo, miễn
là xử dụng quyền ấy không trái với luân lý và thuần phong mỹ tục.” Hiến pháp 26/10/1956 như vậy đã minh thị
công nhận nguyên tắc tự do tín ngưỡng và bình đẵng giữa các tôn giáo.
Tuy nhiên trong phần “Mở đầu” của Hiến pháp, đã có một đoạn phản
chiếu của một sự thiên vị Thiên Chúa giáo khá rõ rệt như sau:
“Ý thức rằng nước ta ở trên con đường giao
thông và di dân quốc tế, dân tộc ta sẵn sàng tiếp nhận các trào lưu tư tưỡng
tiến bộ để hoàn thành sứ mệnh trước Đấng Tạo Hóa và trước
nhân loại là xây dựng một nền văn minh nhân bản và phát triễn con người toàn
diện....”
Trong đoạn văn trích dẫn này, phần mở đầu của Hiến pháp 1956 đã
đề cập đến sứ mạng trước Đấng Tạo Hóa, tức là trước Đức Chúa trời trong
Thiên Chúa giáo, mà không đề cập tới các tôn giáo khác.
Đoạn văn này đã đượm sắc thái thiên vị Thiên Chúa giáo. Vô
tình hay cố ý, đoạn văn này đã tạo cho Thiên Chúa giáo một địa vị ưu
đãi đặc biệt tại Việt Nam vì Hiến pháp 1956 nói rõ là nhằm mục đích
hoàn thành sứ mạng trước Chúa tức là Đấng Tạo hóa đã tạo dựng ra trời đất
và vạn vật theo như Thánh kinh của Thiên Chúa giáo đã chép.
■ Giáo sư Nguyễn Văn Bông (1929-1971), Thạc sĩ
Công Pháp Đại học Sorbonne (Paris), Viện trưởng Viện Quốc gia Hành
chánh (Sài Gòn).
Trong đoạn kết của Giáo trình năm thứ nhất Cử nhân Luật về môn “Luật
Hiến pháp và Chính trị học” của Đại học Luật khoa Sài Gòn, 1966, ông đã
viết rằng:
“Thật vậy, ngay ở điều khoản thứ ba, chúng ta nhận thấy “Tổng thống Lãnh đạo Quốc gia”. Tổng thống bổ nhiệm và cách chức các sứ
thần cùng công chức cao cấp không cần ý kiến của Quốc hội. Trái với
nguyên tắc phân nhiệm mà điều 3 ghi rõ là “nguyên tắc phân nhiệm giữa
hành pháp và lập pháp phải rõ rệt”. Hiến pháp 1956 dành cho Tổng thống quyền ký
sắc luật giữa hai khóa họp Quốc hội, quyền ký sắc lệnh tuyên bố tình trạng khẩn
cấp, báo động hoặc giới nghiêm.
Một sự tập trung quá mức quyền hành cùng
sự thủ tiêu đối lập và sự hiện diện của một chính đảng
duy nhất đã đưa chế độ Ngô Đình Diệm lần lần đi đến một chế độ
quyền hành cá nhân áp dụng những phương tiện chuyên chế mà tiếng súng
ngày 1-11-1963 đã đưa vào dĩ vãng.”
Hiến pháp là văn bản công khai và là nền tảng quy chiếu luật
pháp của quốc gia mà ngay từ những ngày đầu của chế độ Ngô Đình Diệm, những
người đẻ ra nó còn đưa vào đó một nội dung phi dân chủ và phản
dân quyền độc tài trắng trợn như thế thì trên thực tế, một thực tế đã
được bưng bít và che đậy bằng màng lưới công an mật vụ dày đặc, người dân còn
chịu thống khổ ngần nào, giá trị và vị thế con người còn có nghĩa gì trước mặt
kẻ cầm quyền!
■ Thiếu tướng Đỗ
Mậu (1918-2002), Ủy viên Chính trị của Hội đồng Quân nhân Cách mạng (1964) –
Tác giả cuốn Hồi ký chính trị Việt Nam
Máu Lữa Quê Hương Tôi (Quê Hương, 1986 và Văn Nghệ, 1993).
Trong Chương 8 (1993),
ông phân tích:
“Muốn xem một hiến pháp là dân chủ hay độc tài, ta chỉ cần
nghiên cứu hai quan niệm: một là quyền
lực quốc gia qua hình thái tổ
chức cơ cấu quốc gia thuộc về ai, và hai là quyền
hành của công dân được công
nhận và quy định như thế nào?
Hiến pháp Đệ Nhất Cộng Hòa, trong thiên “Điều khoản Căn
bản”, điều 2, viết rằng “Chủ quyền thuộc
về toàn dân” nhưng đoạn 3, điều 3 thì lại xác định “Tổng thống lãnh đạo quốc dân” (Điều 89 của Hiến Pháp trong mục tu chính còn quy định
rằng không được xâm phạm hay tu sửa điều 3 này) nghĩa là tách rời hai ý niệm “chủ
quyền” và “quyền lực” ra khỏi nhau. Làm sao nhân dân có thể làm chủ được quốc
gia khi Tổng thống - chứ không phải họ - lãnh đạo quốc dân dù “quốc dân ủy nhiệm vụ hành pháp cho Tổng
thống dân cử và nhiệm vụ lập pháp cho quốc hội cũng do dân cử” (điều 3,
đoạn 1). Mà “ủy” theo bản dịch Pháp văn chính thức (Công báo Việt Nam Cọng Hòa (số 48 ngày 26-10-56). Phụ lục trang 2669) lại có nghĩa là “phong” (investir) tức là trao toàn quyền.
Một cách thực tế, cứ 5 năm, người dân cầm lá phiếu để “phong” một ông Tổng
thống để cai trị mình rồi trở về không còn tham dự gì vào quyền lực quốc gia
nữa.
Như ta sẽ thấy rõ trong bản Hiến pháp ở các mục sau cũng
như trên thực tế của 9 năm cai trị, Tổng thống Diệm tập trung trong tay những
quyền hành hợp hiến to lớn mà Quốc hội chỉ là một bộ phận phụ thuộc được dùng
để luật hóa các quyết định chính trị của hành pháp mà thôi. Cũng do đó, nguyên
tắc Phân quyền cơ bản được đề ra trong Hiến pháp chỉ còn là chiêu bài xảo trá
để đánh bóng cho chế độ.
Chủ quyền thuôc về toàn dân và Tổng
thống lãnh đạo quốc dân nghe
không khác gì Đảng lãnh đạo,
nhân dân làm chủ... của Hiến
pháp Cộng Sản hiện nay tại quê nhà. Điểm khác biệt duy nhất là Cộng Sản tập
trung quyền lực vào một chính trị bộ nhiều người còn Hiến pháp 1956 thì tập
trung quyền lực vào một Tổng thống Diệm.
Nguyên tắc chủ quyền đã bị chà đạp như thế, đến quan niệm
toàn dân thì lại càng mơ hồ hơn nữa. Bản dịch tiếng Pháp đăng trên công báo là
“Chủ quyền thuộc về toàn thể quốc dân”
và chữ quốc dân này còn được dùng nhiều lần trong Hiến pháp.
Quốc dân, theo lý thuyết dân chủ Tây phương mà hiến pháp
1956 áp dụng, là một tập thể trừu tượng không những bao gồm thế hệ hiện tại mà
còn cả các thế hệ đã qua và sau này nữa, nó là một “pháp nhân tách rời khỏi
những cá nhân hợp thành quốc gia” (Theo Vedel,
G. Etudes des Constitutions,
tr. 130 (“La nation est une personne juridique distincte des individus qui les
composent”), và luật có thể ấn định những điều kiện để hành xử chức năng
“quốc dân” đó như điều 18 đã quy định rằng “quyền
bầu cử và ứng cử phải theo thể thức và điều kiện luật định” hoặc “quyền bầu cử và ứng cử phải theo thể thức và
điều kiện luật định” hoặc điều 50 xác định rằng phải hội “đủ các điều kiện khác dự liệu trong luật
tuyển cử”.
Vì quốc dân (national Vietnamien) không phải là nhân dân
(peuple Vietnamien) nên ngay cả cái chủ quyền mà người dân miền Nam được nắm giữ một cách trừu tượng ở
phần đầu của Hiến pháp thật ra cũng chỉ là một thứ chủ quyền lý thuyết trên
giấy tờ.
Như vậy, 2 nguyên lý căn bản nhất làm cơ sở chỉ đạo cho Hiến
pháp 1956 là Chủ quyền của ai và Ai lãnh đạo đã nói lên rất rõ ý đồ của ông Ngô
Đình Nhu muốn tập trung quyền lực vào
một cá nhân Tổng thống để có thể cai trị một cách độc tài, phản dân chủ.
Cho nên ta không lấy làm ngạc nhiên khi thấy quyền Hành pháp của Tổng thống
chẳng những đã lấn át quyền của Quốc hội mà có khi còn bao gồm cả nội dung Lập
pháp nữa.
Tổng thống bổ nhiệm và cách chức tất cả các công chức dân và quân sự (điều
37); bổ nhiệm các sứ thần (điều 35), là tổng tư lệnh tối cao của quân đội (điều
37); có quyền ân xá, ân giảm, hoán cải hình phạt, huyền án (điều 37); ký kết,
phê chuẩn các hiệp định quốc tế, thay mặt quốc gia trong việc giao thiệp với
ngoại quốc (điều 35), tuyên chiến và ký kết hòa ước với sự thỏa thuận của chỉ
một nửa túc số quốc hội (điều 36); tuyên bố tình trạng khẩn cấp báo động, giới
nghiêm (điều 44); tổ chức trưng cầu dân ý (điều 40). Và vì các vị thẩm phán tối cao đều do Tổng thống bổ
nhiệm (và vì được xem như một công chức nên có thể bị cách chức) nên trên
thực tế Tổng thống chẳng những đã trực tiếp nắm gần hết mọi cơ cấu của Hành
pháp từ cấp Bộ trưởng, Tướng lãnh cho đến nhân viên hốt rác, anh binh nhì mà
còn có khả năng khuynh loát và điều động Tư pháp nữa.
Quyền Lập pháp tuy nói là thuộc về Quốc hội (điều 55) nhưng
trên thực tế Tổng thống cũng có quyền làm luật; nhưng trong khi quyền làm luật của Tổng thống thì bất khả
xâm phạm ngược lại, quyền làm luật của Quốc Hội có thể bị Tổng thống khống chế.
Thật vậy, ngoài cái quyền đương nhiên được chuyển dự thảo ra Quốc hội (để hầu
hết) được phê chuẩn nhanh chóng (điều 56), hiến pháp 1956 còn cho phép Tổng
thống, vì lý do khẩn cấp, có quyền ban hành sắc luật giữa hai khóa họp Quốc hội
(điều 41), hoặc trong “tình trạng khẩn cấp, chiến tranh, nổi loạn, khủng hoảng
kinh tế hoặc tài chính”, Tổng thống có thể được Quốc hội ủy quyền ra sắc luật
thường xuyên (điều 41). Điều khôi hài là chỉ
có Tổng thống mới được nhận
định và tuyên bố trong trường hợp nào thì tình trạng trở thành khẩn cấp (điều
44).
Vì ngân sách là sức mạnh huyết mạch của chế độ nên ông Ngô
Đình Nhu đã duy trì cho được điều 43 của Hiến pháp để đề phòng đối lập có thể
làm tê liệt chính quyền. Điều 43 viết rằng “trong
trường hợp ngân sách không được Quốc hội chung quyết trong thời hạn ấn định ở
điều 60 thì Tổng thống có quyền ký sắc luật ngân sách cho tài khóa sau” và
“nếu về sau Quốc hội có bác bỏ hoặc sửa
đổi những điều khoản của sắc luật ngân sách thì Quốc hội phải giải quyết các
hậu quả gây nên do việc bác bỏ hoặc sửa đổi”. Thật chưa có một hiến pháp
nào có lối văn vừa cảnh cáo
vừa đe dọa quốc dân như điều
43 này!
Cũng trong hiến pháp này, về thể thức biểu quyết của Quốc
hội, “một dự án hoặc dự thảo luật được Quốc hội chấp thuận chỉ có giá trị nếu
hội đủ túc số 1/3 tổng số dân biểu” (điều 69). Quy định “đa số phục tùng thiểu
số” phản dân chủ này chỉ có thể giải thích bằng ý đồ chính trị đen tối của ông
Nhu muốn đề phòng trường hợp tổng số dân biểu gia nô của mình bị trở thành
thiểu số trong Quốc hội. Nhưng trong khi Quốc hội “dễ dãi” với Tổng thống như
thế thì ngược lại khi Tổng thống phủ quyết một đạo luật của lập pháp, Quốc hội
phải hội đủ túc số 3/4 khó khăn mới được tái thông qua. Mà 3/4 này phải “minh danh đầu phiếu” (điều 58) để Tổng
thống điểm mặt xem ai đã dám chống lại quyền phủ quyết của mình!
Ngoài ra Tổng thống có quyền đình chỉ việc áp dụng một hoặc
nhiều đạo luật trong những vùng mà Tổng thống tuyên bố tình trạng khẩn cấp
(điều 44). Một viện Bảo hiến có được quy định để nghiên cứu và quyết định xem
các điều khoản có bất hợp hiến không, nhưng viện này gồm 9 người thì vị chủ tịch và 4 thẩm phán hay luật gia đã do
Tổng thống bổ nhiệm rồi (điều 86). Cuối cùng, Tổng thống có quyền đề nghị
sửa đổi hiến pháp (điều 90) và Uỷ ban sửa đổi hiến pháp phải “tham khảo ý kiến”
không những của Viện Bảo hiến (bù nhìn) rồi mà còn của cả Tổng thống nữa (điều
91).
Tóm lại, theo Hiến pháp 1956 này, cái Hiến pháp đã làm bình
phong dân chủ cho chế độ Ngô Đình Diệm suốt 7 năm, thì Tổng thống có đầy đủ
quyền lực để triệt tiêu hoặc làm tê liệt các đạo luật nào mà mình không vừa ý
cũng như để ban hành và thi hành các đạo luật nào có lợi cho mình.
Nếu Tổng thống đã khống chế quốc hội như vậy, thì ngược lại
Quốc hội có quyền gì đối với Tổng thống không ? Tổng thống không bắt buộc phải
điều trần trước Quốc hội, không chịu trách nhiệm trước Quốc hội và không thể bị
Quốc hội bất tín nhiệm để lật đổ. Tổng thống tiếp xúc với Quốc hội “bằng thông
điệp” và nếu muốn “có thể dự các phiên họp của Quốc hội”, cũng như chỉ “khi
thấy cần, Tổng thống thông báo cho Quốc hội biết tình hình Quốc gia” (điều 39).
Qua những điều kể trên, ta thấy rõ rằng khi thiết kế ra
Hiến pháp này, quả thật ông Nhu đã muốn cho anh mình trở thành một thứ Đế vương
phong kiến với những hình thức và ngôn ngữ có vẻ dân chủ tự do... Chính ông Ngô
Đình Diệm cũng đã công khai bày tỏ sự tán đồng nội dung của bản Hiến pháp này
trong bài phỏng vấn của nhật báo Pháp Le Figaro ngày 23 và 24 tháng 3 năm 1959:
“Cần phải nhớ lại quá khứ của chúng tôi.
Chế độ chính trị ở Việt Nam thời nào cũng vậy, đã thành lập trên nguyên tắc điều khiển việc nước không
phải do những đại biểu của quốc dân mà
do những ông vua có những tể tướng sáng suốt phụ tá... Chúng tôi phải lập
lại ở Việt Nam hệ thống luân lý
như ngày xưa” (Bản dịch của nhật báo Tự Do ngày 4-4-59)”
■ Nguyễn
Quang Duy – Tác giả bài nầy là một người Việt sống ở Úc, thuộc thế hệ trẻ 1
½, là thành viên hải ngoại của khối Công giáo 8406. Bài viết của ông Nguyễn
Quang Duy được đăng trên BBC-Việt ngữ ngày 25/10/2016. Trong phần về Hiến Pháp
1956, ông chủ yếu khen ngợi nội dung của văn kiện nầy đã tạo ra những tiền để
luật pháp cho công cuộc phát triển quốc gia trong nhiều lãnh vực (lao động,
kinh tế, …). Có điều có lẽ vì tác giả còn nhỏ tuổi, không sống trong thời kỳ
1955-1963, nên không biết có một lổ hổng rất lớn giữa ngôn từ trong Hiến pháp và
Thực tế đời sống. Ví dụ như tác giả không biết đến đối lập chính trị bị đàn áp
khốc liệt (mà cao điểm là cái chết của Nhất Linh), tư pháp bị coi thường (với 2
nhà biệt giam P42 của ông Nhu và Chín Hầm của ông Cẩn không nằm trong hệ thống
Tư pháp), Lập pháp chỉ là bù nhìn (với một Quốc hội toàn nghị gật), … Tuy khập
khiểng khen ngợi “Hiến Pháp 1956” như thế, song tác giả cũng phải công nhận về
cơ bản, Hiến Pháp 1956 có những “mâu
thuẩn căn bản”, “tước quyền người dân”,
“suy tôn” lãnh tụ, “quyền dân chủ bị giới hạn”…
Giá trị tinh thần lập hiến Việt Nam Cộng
Hòa
“Chiếu
điều 95 và 96 của bản Hiến pháp 1956, Quốc hội Lập hiến tự động trở thành Quốc
hội Lập pháp và Quốc trưởng Ngô Đình Diệm trở thành Tổng thống đầu tiên của
Việt Nam Cộng Hòa.
Lẽ
ra hai điều này không nên có vì đã mâu
thuẫn với Điều 2 là điều căn bản nhất của thể chế Cộng Hòa: "Chủ quyền
thuộc về toàn dân".
Nói
cách khác Quốc hội Lập hiến đã tước
quyền người dân bầu chọn một Quốc hội Lập pháp và vị tổng thống đầu tiên
của nước Việt Nam Cộng Hòa.
Điều
3 "Tổng thống lãnh đạo Quốc dân" mang xu hướng suy tôn chức danh Tổng thống. Điều 89 "không thể sửa
đổi hoặc hủy bỏ các Điều 1, 2, 3, 4, và điều này (89) của Hiến pháp,"
nghĩa là Điều 3 được đặt ngang hàng và được bảo vệ tuyệt đối như Điều 2
"Chủ quyền thuộc về toàn dân".
Nói
cách khác, quyền lực tuyệt đối đã được
Hiến pháp trao cho Tổng thống, do đó quyền dân chủ đã bị giới hạn trong
Hiến pháp Đệ Nhất Cộng Hòa.
Trong
khi miền Nam đang bị cộng sản đe dọa, lẽ ra vai trò của các đảng chính trị và
của địa phương phải được đặt lên hàng đầu thì Hiến pháp 1956 lại chỉ tập trung vào trung ương mà không hề đề
cập đến địa phương, thành phố, tỉnh, xã, thị xã… cũng không đề cập đến vai trò các đảng chính trị.
Thiên
thứ 9 quy định việc sửa đổi Hiến pháp với nhiều bước chặt chẽ. Chương này chỉ thuận lợi cho những chính trị gia đã
tham gia guồng máy công quyền, nhưng lại giới hạn cơ hội của dân và của thành phần cấp tiến muốn thay đổi đất
nước thông qua việc sửa đổi Hiến Pháp.”
--0--
Qua
sáu đánh giá nói trên của những nhân vật có thẩm quyền vể chủ đế nầy, ta có thể
khẳng định rằng “Hiến Pháp 1956” mở đầu nền Đệ Nhất Cọng Hòa, ngay cả về mặt lý
thuyết, đã không phải là một văn kiện tốt lành gì! Những bất cập, khiếm khuyết,
giới hạn, nhất là những điều khoản cố tình cho phép việc tập trung quá nhiều quyền
lực vào Tổng thống chỉ chứng tỏ rằng Hiến Pháp đó không phù hợp cho việc xây dựng
một thể chế dân chủ.
Lịch
sử thay đổi với vận tốc chóng mặt, bỏ rơi những quy luật mới hôm qua tưởng là bất
biến, dù người ta vẫn cứ muốn nói đến các “quy luật lịch sử”. Thời đại chuyển mình
với càng lúc càng nhiều thách thức mới và cơ hội chưa từng xãy ra. Trí thức Việt
Nam không thể, và không cần, đi thụt lùi về những giai đoạn tồi tệ của Dân tộc
như thời gian 9 năm của chế độ Ngô Đình Diệm, với hy vọng đào bới trong mớ rác đó
được một nội dung tư tưởng gì khả dụng cho tình hình nước ta trong tương lai. Hãy
đứng vững trên hai đôi chân của chính mình và nhìn về phía trước.
Kevin
Trần
11-2016
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét