Thứ Năm, 28 tháng 5, 2015


" CHCHÚA CHỈ LÀ SẢN PHẨM
CỦA SỰ YẾU ĐUỐI CỦA CON NGƯỜI "

Albert Einstein

  
Vào tháng Giêng năm 1954, chỉ một năm trước khi qua đời, Albert Einstein đã viết một bức thư nổi tiếng gửi đến triết gia người Do Thái, Erik Gutkind, sau khi đọc quyển sách của ông ta mang tựa đề “Choose life: The Biblical Call to Revolt”.

Bức thư là cách Einstein thể hiện quan điểm của mình đối với Thiên Chúa giáo nói riêng và các tôn giáo nói chung, cũng như quan điểm đối với với sự khẳng định của tác giả Gutkind trong cuốn sách rằng “Nhân loại đang trở nên u mê suy đồi, nhưng dân tộc Do Thái là một ngoại lệ.”

Bức thư đã được bán đấu giá trên trang eBay vào tháng 5 năm 2008, với giá bán là £170,000 (267,000 USD). Một trong những người không thắng được trong cuộc đấu giá bức thư nầy là Richard Dawkins, một học giả vô thần, giáo sư đại học Oxford và là tác giả cuốn sách nỗi tiếng The God Delusion.

Dưới đây là toàn bộ nội dung của bức thư nổi tiếng này.

“Princeton, 3.1.1954

Kính gửi ngài Gutkind

Sau khi liên tiếp nhận được những lời đề nghị từ Brouwer, tôi đã đọc cuốn sách của ngài rất nhiều lần, và tôi vô cùng cảm kích khi ngài đã cho tôi mượn nó. Điều làm tôi chấn động là chúng ta thực sự có rất nhiều điểm chung trong thái độ đối với cuộc sống, cũng như đối với nhân loại. căn cứ trên sự thật.  Ý tưởng cá nhân của ngài về việc phấn đấu thoát khỏi những ham muốn tự ngã, để làm cuộc sống trở nên tươi đẹp và cao quý hơn, với sự nhấn mạnh vào các yếu tố hoàn toàn nhân bản. Chính những điều đó đã liên kết chúng ta lại trong một “thái độ phi-Mỹ”.

Tuy nhiên, nếu không có lời đề nghị của Brouwer, có lẽ tôi sẽ không bao giờ tìm hiểu cuốn sách của ngài một cách say mê đến vậy, bởi đối với tôi, cuốn sách đã được viết bằng một thứ ngôn ngữ mà tôi không nắm bắt được.
ChChúa Trời, đối với tôi, không gì hơn là một sự biểu hiện, và chỉ là sản phẫm của sự yếu đuối của con người. Kinh thánh là một quyển sách cao quý, nhưng những truyền thuyết trong đó vẫn khá hoang sơ và mang tính cổ tích cho con nít.
Không lời giải thích nào, dù tinh tế đến đâu, có thể thay đổi định kiến này của tôi.

Đối với tôi, tôn giáo của người Do Thái cũng giống như mọi tôn giáo khác, là hóa thân của sự mê tín ngây dại nhất. Và dân tộc Do Thái, dân tộc mà tôi vinh dự được mang danh, mà tư tưởng tôi đã thấm nhuần sâu đậm, thì cũng không có phẩm chất gì hơn những dân tộc khác. Theo những kinh nghiệm của tôi, dân Do Thái cũng không khá gì hơn những nhóm dân khác, dù họ được bảo vệ khỏi những căn bệnh ung thư tệ hại nhất chính vì nhờ họ không có quyền lực. Ngoài ra, tôi  không thấy điều gì gọi là “được chọn lựa” trong đó cả.

Nói chung, tôi cảm thấy đau đớn khi ngài tự xác nhận vị trí đặc quyền, và cố gắng bảo vệ nó bằng hai bức tường của lòng kiêu hãnh, một kiêu hãnh bên ngoài của một người đàn ông, và một kiêu hãnh bên trong của một người Do Thái. Khi xác nhận là người đàn ông, tạm gọi rằng ngài thoát được luật nhân quả vốn đã được thừa nhận; khi xác nhận là người Do Thái, ngài có đặc ân của một [tín đồ của] tôn giáo độc thần. Nhưng luật nhân quả mà có giới hạn thì chẳng còn là luật nhân quả nữa, như [triết gia] Spinoza tuyệt vời của chúng ta có lẽ đã là người đầu tiên công nhận với tất cả sự tinh tế. Và trên nguyên tắc, những giải trình [có tính cách] thú tính về các tôn giáo thì không bị hủy bỏ vì tình trạng độc quyền. Với những loại bức tường [bảo vệ] như thế, chúng ta chỉ có thể đạt được một loại tự huyễn nào đó, nhưng nỗ lực đạo đức của chúng ta sẽ không nhờ thế mà tiến xa hơn. Ngược lại là khác.

Giờ đây, tuy tôi đã bày tỏ sự khác biệt khá rõ ràng về niềm tin trí tuệ giữa tôi và ngài, tôi thấy rõ ràng rằng chúng ta vẫn có khá nhiều điểm chung trong những vấn đề trọng yếu, ví dụ như cách đánh giá của chúng ta đối với hành vi con người. Điều làm chúng ta khác biệt chỉ là những khái niệm trí thức như “Props” và “Hợp lý hoá”, nói theo ngôn ngữ của Freud. Vì vậy, tôi nghĩ rằng chúng ra sẽ hiểu rõ nhau nhiều trong những vấn đề cụ thể.

Thân mến cảm ơn và chúc ngài những điều tốt đẹp nhất.

A.     Einstein.


The word GOD is the Product of Human Weakness

In January of 1954, just a year before his death, Albert Einstein wrote the following letter to philosopher Erik Gutkind after reading his book,Choose Life: The Biblical Call to Revolt,” and made known his views on religion. Apparently Einstein had only read the book due to repeated recommendation by their mutual friend Luitzen Egbertus Jan Brouwer. The letter was bought at auction in May 2008, for £170,000; unsurprisingly, one of the unsuccessful bidders was Richard Dawkins.

Translated transcript follows.

(Source: David Victor; Image: Albert Einstein, 
via.)

Princeton, 3. 1. 1954

Dear Mr Gutkind,

Inspired by Brouwer’s repeated suggestion, I read a great deal in your book, and thank you very much for lending it to me. What struck me was this: with regard to the factual attitude to life and to the human community we have a great deal in common. Your personal ideal with its striving for freedom from ego-oriented desires, for making life beautiful and noble, with an emphasis on the purely human element. This unites us as having an “un-American attitude.”

Still, without Brouwer’s suggestion I would never have gotten myself to engage intensively with your book because it is written in a language inaccessible to me. The word God is for me nothing more than the expression and product of human weakness, the Bible a collection of honorable, but still purely primitive, legends which are nevertheless pretty childish. No interpretation, no matter how subtle, can change this for me. For me the Jewish religion like all other religions is an incarnation of the most childish superstition. And the Jewish people to whom I gladly belong, and whose thinking I have a deep affinity for, have no different quality for me than all other people. As far as my experience goes, they are also no better than other human groups, although they are protected from the worst cancers by a lack of power. Otherwise I cannot see anything “chosen” about them.

In general I find it painful that you claim a privileged position and try to defend it by two walls of pride, an external one as a man and an internal one as a Jew. As a man you claim, so to speak, a dispensation from causality otherwise accepted, as a Jew the privilege of monotheism. But a limited causality is no longer a causality at all, as our wonderful Spinoza recognized with all incision, probably as the first one. And the animistic interpretations of the religions of nature are in principle not annulled by monopolization. With such walls we can only attain a certain self-deception, but our moral efforts are not furthered by them. On the contrary.

Now that I have quite openly stated our differences in intellectual convictions it is still clear to me that we are quite close to each other in essential things, i.e; in our evaluations of human behavior. What separates us are only intellectual “props” and “rationalization” in Freud’s language. Therefore I think that we would understand each other quite well if we talked about concrete things.

With friendly thanks and best wishes,

Yours,

A. Einstein




Thứ Sáu, 22 tháng 5, 2015


BANG GIAO VIỆT-MỸ 1995-2015

Đào Văn Bình



Từ năm 1991 cho tới ngày hôm nay, liên hệ song phương Việt-Mỹ được đánh dấu bởi những sự kiện như sau:

-Tháng 4, 1991: Tổng Thống George Bush đề nghị với Việt Nam “lộ trình” (Road Map) từng bước bình thường hóa quan hệ.
-Tháng 12, 1991: Washington dỡ bỏ lệnh cấm việc đi lại có tổ chức từ Hoa Kỳ tới Việt Nam. Quốc Hội Hoa Kỳ ủy quyền cho Cơ quan Thông Tin Hoa Kỳ (USIA) bắt đầu trao đổi các chương trình với Việt Nam. 
-Ngày 3/3/1993: Tổng thống Clinton dỡ bỏ lệnh cấm vận thương mại đối với Việt Nam.
-Ngày 28 tháng 1, 1995:  Hoa Kỳ và Việt Nam chính thức ký hiệp định giải quyết các vấn đề về bồi thường và thiết lập Văn Phòng Liên Lạc tại thủ đô của mỗi nước.
-Ngày 11/7/1995: Tổng thống Mỹ Bill Clinton và Thủ tướng Việt Nam Võ Văn Kiệt tuyên bố bình thường hóa quan hệ ngoại giao giữa hai quốc gia. 
-Ngày 6/8/1995: Ngoại Trưởng Warren Christopher thăm Hà Nội và chính thức mở tòa đại sứ tại Việt Nam. Việt Nam cũng mở tòa đại sứ tại Washington D.C. 
-Ngày 7/10/1995- Cựu Bộ trưởng Quốc phòng Robert S. McNamara thăm Việt Nam.
-Ngày10/ 4/1997:  Ô. Pete Peterson, cựu chiến binh trong chiến tranh Việt Nam, đồng thời là cựu tù binh chiến tranh (POW), làm đại sứ đầu tiên của Mỹ tại Việt Nam sau 1975.
-Ngày 24/6/1997:  Vị ngoại trưởng thứ hai của Mỹ là Bà Madeline Albright thăm Việt Nam.
-Tháng 8/1997: Chính phủ Hoa Kỳ thông qua quy chế đặc biệt cho phép Cơ Quan Phát Triển Quốc Tế Hoa Kỳ (USAID) hỗ trợ Việt Nam cải thiện hoạt động thương mại thông qua chương trình hỗ trợ kỹ thuật về luật thương mại và chính sách thương mại. 
- Ngày 11 tháng 3/1998: Tổng Thống Bill Clinton ban hành quy chế tạm miễn áp dụng đạo luật sửa đổi bổ sung Jackson - Vanik đối với Việt Nam, mở đường cho hoạt động của nhiều công ty Mỹ tới đầu tư và làm ăn buôn bán tại Việt Nam.
-Ngày 13/ 3/2000:  Bộ Trưởng Quốc Phòng đầu tiên của Mỹ William Cohen thăm Việt Nam kể từ khi chiến tranh kết thúc.
-Ngày 16/11/2000: Tổng Thống Bill Clinton  thăm Việt Nam trong bốn ngày. 
-Ngày 19/11/2000 : Dưới sự chứng kiến của của Tổng Thống Clinton, Phụ Tá Giám Đốc USAID đặc trách Châu Á và Cận Đông Robert C. Randolph cắt băng khánh thành văn phòng USAID tại Hà Nội. 
-Ngày 24/ 7/2001: Ngoại Trưởng Mỹ Colin Powell thăm Việt Nam trong ba ngày đồng thới tham dự Diễn Đàn Khu Vực ASEAN tại Hà Nội. Đây là vị ngoại trưởng thứ ba của Mỹ thăm Việt Nam. 
- Ngày 10 /11/2003: Bộ Trưởng Quốc Phòng Việt Nam Phạm Văn Trà thăm Hoa Kỳ để thảo luận về hợp tác thúc đẩy an ninh khu vực.
- Ngày 19 /11/2003 – Chiến hạm USS Vandegrift của Hải Quân Hoa Kỳ ghé cảng Sài Gòn và trở thành chiến hạm đầu tiên của Mỹ thăm Việt Nam kể từ khi chiến tranh kết thúc. 
-Ngày15/ 9/2004 – Việt Nam bị xếp vào danh sách các quốc gia cần quan tâm đặc biệt (Country of  Particular Concern) theo Đạo Tuật Tự Do Tôn Giáo của Hoa Kỳ.
-Ngày 19-24 tháng 6/2005: Thủ tướng Việt Nam Phan Văn Khải hội kiến Tổng Thống George W. Bush tại Thủ Đô Hoa Thịnh Đốn.
-Ngày 21/ 4/2006: Chủ Tịch Hạ Viện Hoa Kỳ Dennis Hastert thăm Việt Nam.
-Ngày 14/5/2006: Hoa Kỳ và Việt Nam đạt được sự  thỏa thuận trên nguyên tắc về việc Việt Nam gia nhập WTO.
-Ngày 04/6/2006 – Bộ Trưởng Quốc Phòng Donald Rumsfeld thăm Việt Nam để bàn về các phương thức mở rộng hợp tác quốc phòng. Đây là vị bộ trưởng quốc phòng thứ hai của Mỹ thăm Việt Nam.
-Ngày 07/1/2006: – Tổ Chức Thương Mại Thế Giới (WTO) chính thức mời Việt Nam trở thành hội viên của tổ chức này.
- Ngày 11/1/2007: Việt Nam trở thành thành viên thứ 150 của WTO.
-Ngày 22/1/2007: Đô Đốc Gary Roughead - Tư Lệnh Hạm Đội Thái Bình Dương của Hoa Kỳ thăm Việt Nam.  
-Ngày 08/4/2007: Trong chuyến viếng thămViệt Nam ba ngày, Ô. Bill Gates - Chủ Tịch Microsoft và phu nhân Melinda gặp gỡ Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng của Việt Nam để thảo luận về vấn đề cải thiện sức khỏe của trẻ em.
-Ngày 18/ 6/2007: ChủTtịch nước Nguyễn Minh Triết của Việt Nam thăm Hoa Kỳ. hội kiến với Tổng thống George W. Bush để thảo luận về hợp tác kinh tế và thương mại. 
-Ngày 3/ 4/2008: Đại sứ Hoa Kỳ Micheal W. Michalak cắt băng khánh thành Trung Tâm Hoa Kỳ đầu tiên tại Hà Nội, được coi như văn phòng “một cửa”, nơi cung cấp tất cả các thông tin cập nhật về mọi lĩnh vực liên quan đến nước Mỹ. 
-Ngày 23-26 tháng 6/2008: Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng của Việt Nam thăm Hoa Kỳ theo lời mời của Tổng Thống George W. Bush.
-Ngày 6/ 4/2009: Thượng Nghị Sĩ John McCain đến Hà Nội và có các cuộc hội đàm với Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng và Chủ Tịch Quốc Hội Nguyễn Phú Trọng của Việt Nam. 
(Kết thúc tài liệu của Tòa Đại Sứ Hoa Kỳ tại Hà Nội)

-Ngày 10/7/2012: Ngoại Trưởng Hoa Kỳ Hillary Clinton thăm Việt Nam. Đây là vị ngoại trưởng thứ tư của Hoa Kỳ thăm Việt Nam. 
-Ngày 25/7/2013: Việt Nam và Hoa Kỳ tuyên bố hợp tác toàn diện.(Comprehensive Partnership)
-Ngày 03/06/2013 Bộ Trưởng Quốc Phòng Hoa Kỳ Leon Panetta thăm Việt Nam. Đây là vị bộ trưởng quốc phòng thứ ba của Hoa Kỳ thăm Việt Nam.
-Ngày 18/12/2013: Ngoại Trưởng John Kerry thăm Việt Nam. Đây là vị ngoại trưởng thứ năm của Hoa Kỳ thăm Việt Nam. 
-Ngày 13/8/2014: Tướng Martin Dempsey- Tham Mưu Trưởng Liên Quân Hoa Kỳ thăm Việt Nam. 
 -Ngày 2/10/2014: Mỹ tuyên bố tháo gỡ một phần lệnh cấm bán vũ khí sát thương cho Việt Nam, nhưng chưa thấy một thỏa hiệp mua bán vũ khí nào dủ Tướng Nguyễn Chí Vịnh đã thăm Hoa Kỳ và các đại công ty sản xuất vũ khi Mỹ đã tới thăm Việt Nam. 
-Ngày 6/2/2015 Mỹ tuyên bố giao 5 tàu tuần duyên cho Việt Nam. 
-Tháng 4, 2015: Hai bên có thể đang thương thảo về vấn đề tập trận chung trên biển với chuyến thăm của Bộ Trưởng Hải Quân Hoa Kỳ Ray Mabus ngày 9/4/2015.

Chuyện gì sẽ tiếp diễn?

* * *

Bốn mươi năm đã qua, từ cựu thù tới dò dẫm, từng bước Hoa Kỳ đã trở lại Việt Nam trong tư thế của một người “Hợp Tác Toàn Diện”. Hình ảnh chiến tranh 1945-1975 (1) nay chỉ còn có giá trị lịch sử, kỷ niệm và rút tỉa kinh nghiệm. Do tình hình thế giới thay đối, từ cựu thù trở thành đồng minh là chuyện rất thường tình như Mỹ với Nhật chẳng hạn. Không một ai có thể cứ sống mãi với dĩ vãng nhất là một quốc gia. Chuyện Hoa Kỳ bình thường hóa ngoại giao với Cuba cho thấy Hoa Kỳ không thể cứ giữ mãi lập trường thù nghịch với một đảo quốc nhỏ bé, không có khả năng “đụng tới sợi lông chân” Hoa Kỳ và trước sự phản đối của toàn thế giới.
 Ngay từ đầu năm 1990, dưới sức ép của dư luận, các nhà nghiên cứu chiến lược lúc bấy giờ cho rằng nếu Mỹ không vào Việt Nam thì sẽ là “trâu chậm uống nước đục”. Việc Hoa Lục xây dựng xong các căn cứ quân sự khổng lồ ở Đảo Hải Nam năm 1990 khiến Hoa Kỳ giật mình, hối hả lên kết hoạch trở lại Đông Nam Á mà Hoa Kỳ đã “tháo chạy” mặc cho Trung Quốc tung hoành từ năm 1974 (năm mất Quần Đảo Hoàng Sa) nhất là dưới thời Tổng Thống Bill Clinton. 

 Lúc bấy giờ ở Mỹ, người ta ca ngợi tài ba của Ô. Đặng Tiêu Bình và sự thành công của nước Trung Hoa như một phép lạ và là niềm hân hoan của Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ với kim nghạch ngoại thương giữa hai nước lên tới 550 tỉ Mỹ Kim mỗi năm. Rồi đây khi Trung Hoa gia nhập cộng đồng thế giới và “tư bản hóa” thì …thiên hạ thái bình. Nhưng có ngờ đâu Minh Ước Thượng Hải 1972 ký kết giữa Mao Trạch Đông và cặp bài trùng Nixon/Kissinger rồi được triển khai mạnh mẽ dưới thời Ô. Bush Cha và Ô. Bill Clinton -  nay trở thành thảm họa cho Hoa Kỳ.

Trước sức trỗi dậy kinh khủng của Hoa Lục, nếu muốn kiềm chế thì Mỹ phải trở lại Đông Nam Á vì con đường tiến ra Thái Bình Dương của Hoa Lục phải qua cửa ngõ Đông Nam Á- mà Việt Nam là “cửa ải” đầu tiên. Nhưng Mỹ trở lại Đông Nam Á bằng cách nào đây? 

Trở lại Đông Nam Á mà không có Việt Nam thì cũng như không bởi vì Việt Nam là trọng điểm chiến lược. Trở lại Việt Nam không những quân bình được ảnh hưởng của Hoa Lục mà còn cả của Nga. Dĩ nhiên Mỹ không thể trở lại Việt Nam theo kiểu cho thùy quân lục chiến đổ bộ vào Đà Nẵng như dưới thời Tổng Thống Johnson. 
Lúc bấy giờ vì Việt Nam còn e ngại và do dự cho nên Hoa Kỳ cần kiên nhẫn. Về điểm này chúng ta phải công nhận Hoa Kỳ rất khéo léo. Giống như một cậu thanh niên muốn làm quen với một cô gái thì cũng phải dẫn cô ấy đi ăn nhà hàng, tặng quà liên miên rồi hai bên khi đã “tâm đầu ý hợp” rồi mới tính chuyện. Chứ xớn xác chưa có gì cả mà đã “nhào vô” thì chắc chắn thất bại. 

Do ưu thế gần như tuyệt đối về mặt kinh tế lẫn tài chính, nhìn vào thời biểu của mối bang giao, chúng ta thấy từng bước Hoa Kỳ đã tháo gỡ lệnh cấm vận, hủy bỏ bớt những ngăn cấm về luật lệ, giúp Việt Nam giao dịch với thị trường Mỹ, hội nhập vào cộng đồng thế giới, rồi vào WTO và sẽ vào TPP do Hoa Kỳ lãnh đạo…điều mà Việt Nam rất cần cho kế hoạch “Đổi Mới” để sinh tồn. Rồi từ những hợp tác về giáo dục, kinh tế, tài chính, ngoại thương, năng lượng, đầu tư, hai bên đã công khai tiến tới hợp tác quốc phỏng thông qua hiệp định “Hợp Tác Toàn Diện”. 

Tuy nhiên Hoa Kỳ và cả thế giới đều thấy mối bang giao Việt-Mỹ vô cùng phức tạp vì những nhân tố sau đây:
-Hoa Kỳ và Trung Quốc đang là “Hợp Tác Chiến Lược” gắn bó về kinh tế gần như “vợ chồng” cho nên Hoa Kỳ chỉ “tái cân bằng lực lượng” chứ chưa muốn hoặc chưa dám đụng độ về quân sự với Hoa Lục ở Biển Đông. Do đó mọi chuyển động ngoại giao Việt-Mỹ, cả hai đều phải thăm dò phản ứng của Trung Quốc. Trong thâm tâm cả Việt lẫn Mỹ đều không muốn tiến xa tới mức độ “chọc giận” Hoa Lục. Chẳng hạn, Hoa Kỳ không thể có căn cứ quân sự tại Việt Nam bởi một hành động như thế cũng là hình thức tuyên chiến với Hoa Lục. Cho nên, theo tôi, trong tinh thế hiện tại “Hợp Tác Toàn Diện” thì cũng giống hệt như “Hợp Tác Chiến Lược” nhưng nghe có vẻ hòa bình, nhẹ nhàng và không gây lo sợ hoặc chọc giận Trung Quốc. 

-Vì Việt Nam có chung biên giới với Trung Quốc và cùng chung ý thức hệ chính trị, cho nên nếu có bang giao với Hoa Kỳ thì chỉ giới hạn ở mức độ “tự vệ” chứ Việt Nam không thể liên kết với Mỹ để trở thành mũi nhọn tấn công Trung Quốc hoặc mối nguy về an ninh cho Trung Quốc. Cho nên đứng về mặt lý luận, căn cứ trên thực tiễn mà nói: Nếu Hoa Kỳ đóng quân tại 8 căn cứ nhìn ra Biển Đông của Phi Luật Tân thì trận thư hùng giữa Trung Quốc và Mỹ sẽ nổ ra tại Phi Luật Tân chứ không phải ở Việt Nam. Hiện tại, dù hợp tác với Mỹ hay với Nga, Việt Nam chưa phải là mối đe dọa về an ninh cho Trung Quốc. Việt Nam không phải là “mũi nhọn của Mỹ” để thọc vào cạnh sườn Trung Quốc, giống như Ukraina là mũi nhọn của NATO đâm vào yết hầu Nga.

-Vì Việt Nam có liên hệ truyền thống với Nga và nhờ Nga mà Việt Nam có đầy đủ vũ khí để tự vệ cho nên Việt Nam - trong mối bang giao với Mỹ phải tính toán như thế nào để không tổn thương tới quan hệ với Nga và quan hệ Việt-Nga cũng không làm tổn thương tới quan hệ Việt-Mỹ. Đây là chuyện khó khăn và vô cùng nhức đầu, vô cùng tế nhị chứ không phải chuyện chơi. Chẳng hạn vừa rồi Mỹ đã chính thức phản đối Việt Nam đã cho phép các máy bay của Nga được xử dụng Cảng Cam Ranh để nhận dầu rồi tiếp dầu cho những máy bay ném bom chiến lược tầm xa của Nga xuất hiện gần không phận Guam của Mỹ. 

Sách lược ngoại giao của Việt Nam vô cùng khó khăn vì ba siêu cường Nga-Mỹ-Trung Quốc thù nghịch với nhau, đang cùng tranh giành ảnh hưởng ở Việt Nam. Chiến lược ngoại giao để giữ yên đất nước mà không làm buồn lòng các đại cường - có thể là phức tạp nhất thế giới hiện nay. Chính vì thế mà Tướng Dempsey- Tham Mưu Trưởng Liên Quân Hoa Kỳ trong chuyến thăm viếng Việt Nam, khi phóng viên New York Times hỏi về vị trí của Việt Nam trên trường quốc tế, đã trả lời như sau: “ Tôi không thể không đồng ý về tầm quan trọng và vị thế đặc biệt của Việt Nam đối với khu vực và toàn cầu trong tương lai. Theo tôi, Việt Nam sẽ đóng một vai trò địa chính trị cực kỳ quan trọng trong khu vực và trên thế giới trong những năm tới. ”

Trong lịch sử 4000 năm, chưa bao giờ Việt Nam trải qua một thời kỳ khó khăn đến như vậy. Tuynhiên theo nhận định lạc quan của cựu Đại Sứ Pete Peterson (VOA) thì,  “Giữa lúc đôi bên năm nay (2015) kỷ niệm hai thập niên bình thường hóa quan hệ, vị sứ giả có công hàn gắn bang giao hai nước cựu thù cũng dự đoán rằng trong 20 năm kế tiếp, chắc chắc Việt-Mỹ sẽ trở thành đồng minh mạnh mẽ ở Đông Nam Á.” 

Và Ô. Pete Peterson cũng phải công nhận rằng, “Hoa Kỳ không (ngấm) ngầm muốn thay đổi ý thức hệ trong lòng Việt Nam, một trong những yếu tố được xem là thách thức lớn nhất cho quan hệ song phương kể từ khi chiến tranh kết thúc năm 1975 tới nay.” 

Ô. Pete Peterson nhận định đúng. Nếu phía Việt Nam phác giác ra Hoa Kỳ lợi dụng mối bang giao để tìm cách lật đổ họ thì mối quan hệ đổ vỡ ngay lập tức. Mà Việt Nam sẵn sàng làm như vậy vì ở vào thời điểm này dù có cắt đứt quan hệ ngoại giao với Hoa Kỳ họ vẫn không chết. Nhật Bản, Âu Châu, Ấn Độ và nhất là Nga vì quyền lợi của mỗi nước cũng sẽ tiếp tục trợ giúp Việt Nam và khi đó Hoa Kỳ trở nên cô lập. Dĩ nhiên cả Hoa Kỳ và Việt Nam đều không muốn tình thế đó xảy ra vì chẳng có lợi gì cho hai bên trong khi hiểm họa Trung Quốc sờ sờ ra đó. 

Hoa Kỳ nổi tiếng và dạy dỗ cả nhân loại về tình thần “thực tiễn” tức “quyền lợi là trên hết” trong khi họ lại luôn luôn đề cao “lý tưởng”. Mà hễ đã lý tưởng thì không thể thực tiễn…cho nên Hoa Kỳ chơi trò chơi “Hai Mặt” (Double Standard) - tức chỗ nào cần “lý tưởng” thì nói “lý tưởng”, chỗ nào “vì quyền lợi” thì quẳng “lý tưởng” đi. Cho nên “đi” với Hoa Kỳ rất khó. Khi nào vì quyền lợi thì - sống chết Hoa Kỳ cũng nhào vô. Khi nào không còn quyền lợi thì Hoa Kỳ giở “lý tưởng” ra để sinh sự. Cho nên ngoại giao với Hoa Kỳ phải “biết” như cái “biết” của Lão Tử, nếu không sẽ “chết không kịp ngáp”. 

Kinh nghiệm thực tế, ít nhất 40 năm qua, sau Chiến Tranh Việt Nam đã dạy cả thế giới một bải học là nếu đi với Mỹ thì phải đi với một đại cường khác để cân bằng ảnh hưởng của Mỹ. Nếu chỉ ôm một trụ Mỹ, khi Mỹ bỏ hoặc o ép, không chết thì cũng mất hết chủ quyền. Các quốc gia Đông Nam Á như Nam Dương, Mã Lai, Thái Lan, Miến Điện và Việt Nam đã học được bài học này cho nên họ theo chính sách ngoại giao đa phương để không bị lệ thuộc vào bất cứ siêu cường nào. 

Hiện nay, qua chuyến công du Hoa Kỳ của Thủ Tướng Abe, chúng ta thấy Nhật Bản tim chỗ dựa mạnh mẽ hơn nữa vào Mỹ để đối đầu với Trung Quốc. Trước mắt đó là một bảo đảm an ninh, nhưng chắc chắn chính sách đối ngoại lớn của Nhật Bản sẽ bị Hoa Kỳ kiềm chế, chẳng hạn Nhật Bản không thể có mối giao hảo với Nga- hiện đương là kẻ thù của Mỹ- hoặc bất cứ quốc gia nào mà Mỹ coi như thù nghịch. 

Khi bạn bị một người nào đó sai bảo, “Mày không được chơi với người này. Mày không được chơi với người kia.” thì người đó là cha mẹ của bạn hoặc là “boss hay chef” của bạn rồi. 

Đào Văn Bình 
(California ngày 20/5/2015 )

Cước chú: 

(1)        Thực ra Mỹ đã can dự vào “Chiến Tranh Việt Nam” từ năm 1946 khi hỗ trợ cho Thực Dân Pháp tái chiếm Đông Dương. Cho tới khi Pháp thất bại hoàn toàn thì Mỹ đã viện trợ trên 1 tỷ USD mỗi năm (tương đương khoảng 5.8 tỷ USD theo thời giá năm 2004) tức 78% của toàn bộ chi phí chiến tranh của Pháp ở Đông Dương. Các cố vấn Mỹ có thể thanh tra các doanh trại, căn cứ quân sự của Pháp mà không cần báo trước. (Tài liệu Wikipedia & Vietnam: A History & Các phim tài liệu của Mỹ)


Thứ Bảy, 16 tháng 5, 2015


TỰ DO NGÔN LUẬN VÀ ĐỨC TIN TÔN GIÁO
Phan Thành Đạt
Tự do ngôn luận và tự do về tư tưởng là những quyền con người cơ bản được Hiến pháp, Tuyên ngôn về quyền con người năm 1948 và Công ước châu Âu về quyền con người năm 1950 bảo vệ. Nhà luật học Jean Rivero phân chia quyền con người thành ba loại: Quyền tự nhiên, quyền tham gia vào các hoạt động chính trị xã hội, quyền được hưởng từ các chính sách của Nhà nước nhằm chăm lo cho con người. Quyền con người thuộc thế hệ thứ nhất là những quyền tự nhiên nếu thiếu chúng, tự do, hạnh phúc của con người sẽ không được đảm bảo. Quyền được sống, tự do đi lại, tự do ngôn luận, tự do tôn giáo là các quyền cơ bản thuộc thế hệ thứ nhất.
Sống trong một xã hội văn minh, công dân tham gia vào các hoạt động chính trị, xã hội. Quyền tự do lập hội, thành lập các đảng phái chính trị hoạt động trong khuôn khổ của luật pháp, quyền tự do ứng cử và bầu cử, quyền biểu tình, đình công… là các quyền quan trọng của công dân thuộc thế hệ thứ hai. Các quyền về chính trị và xã hội này cần được Nhà nước tôn trọng vì đây là những tiêu chuẩn đánh giá mức độ dân chủ của mỗi nước. Quyền con người thuộc thế hệ thứ ba bao gồm những lợi ích mà Nhà nước đem lại với mục đích giúp cho con người trở nên hoàn thiện. Các quyền này bao gồm quyền được chăm sóc y tế khi đau ốm, quyền được học hành, quyền lao động…
Tự do ngôn luận là quyền được nói và viết ra những suy nghĩ của mình mà không sợ bị đe dọa hay bắt bớ. Điều 11 Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền năm 1789 có nội dung khái quát nhưng khá đầy đủ về tự do ngôn luận: “Tự do bày tỏ suy nghĩ hay trình bày quan điểm là một trong những quyền quý giá nhất của con người. Công dân có quyền nói, viết, truyền bá các thông tin, trừ những trường hợp bị pháp luật ngăn cấm khi lạm dụng quyền này”.
Tự do về tư tưởng thể hiện qua tự do tôn giáo, tự do suy nghĩ, nhận thức của con người. Tự do tôn giáo chính là điều kiện quan trọng đảm bảo tự do tư tưởng. Tự do tôn giáo được tôn trọng khi con người có quyền lựa chọn tôn giáo mà mình thích hoặc từ chối không theo bất cứ tôn giáo nào. Con người có quyền thờ cúng, tham gia các nghi lễ tôn giáo và thể hiện đức tin tôn giáo của mình.
Tự do ngôn luận có những biểu hiện ra bên ngoài như các phát ngôn, sách báo còn tự do tôn giáo thường thể hiện ở bên trong mỗi con người vì đức tin tôn giáo mang tính chủ quan và không dễ đo đếm được. Một câu hỏi rất quan trọng được đặt ra là làm thế nào để bảo đảm tốt các quyền tự nhiên này vì tự do ngôn luận và tự do tôn giáo trong một số trường hợp đặc biệt có thể xung đột và phủ định lẫn nhau một khi khi vách ngăn giữa hai quyền tự do này khó xác định. Nếu đề cao tự do ngôn luận, đức tin tôn giáo của một cộng đồng người hay một nhóm người có thể bị xúc phạm còn nếu bênh vực tự do tôn giáo, tự do ngôn luận có thể bị hạn chế. Đây có thể là một bước lùi nguy hiểm trong mỗi thể chế dân chủ.
Tôn trọng tự do ngôn luận và tự do tôn giáo cũng chính là tôn trọng con người. Nhưng để bảo đảm cả hai quyền này cùng song song tồn tại, điều này không phải dễ dàng. Nhiều phán quyết của tòa án mỗi khi xảy ra những xung đột giữa tự do ngôn luận và tự do tôn giáo không thuyết phục được các tổ chức tôn giáo. Những người đệ đơn cho rằng tự do ngôn luận cần bị hạn chế khi quyền này đụng đến đức tin tôn giáo của mỗi người. Ngược lại, những người đề cao tự do ngôn luận lại muốn có quyền tự do phê phán, tự do châm biếm vì theo họ đó là biểu hiện của tự do ngôn luận.
Một bức tranh biếm họa, một tác phẩm văn học hay một bộ phim bàn về tôn giáo đụng chạm đến những điều thiêng liêng của tôn giáo, có thể khiến một nhóm người hay cả một cộng đồng người nổi giận vì đức tin tôn giáo của họ bị xúc phạm. Nhưng nếu ngăn cấm tự do ngôn luận, xã hội sẽ không thể phát triển. Khi một quốc gia được lãnh đạo bởi các chính khách tôn sùng tôn giáo, coi tôn giáo là nền tảng của chính trị, xã hội, khi đó tôn giáo sẽ quyết định vận mệnh của đất nước. Tự do ngôn luận sẽ bị hạn chế, những tư tưởng tiến bộ định hướng cho sự phát triển của đất nước sẽ bị bóp nghẹt một khi những ý tưởng đó có mâu thuẫn với tôn giáo, phủ định tôn giáo. Kết quả là xã hội sẽ chìm đắm trong cảnh tối tăm. Ví dụ đêm trường Trung Cổ ở châu Âu kéo dài gần 1000 năm dưới sự thống trị của giáo hội La Mã là một minh chứng cho sự can thiệp quá sâu của nhà thờ đến đời sống của con người. Phải đợi đến thời kì phục hưng con người mới bắt đầu thoát khỏi vòng kiểm tòa của nhà thờ để được giải phóng về tư tưởng.
Tự do ngôn luận và tôn trọng đức tin tôn giáo luôn là những quyền cơ bản cần được bảo vệ. Nếu hai quyền này có những mâu thuẫn, khi đó quan tòa phải vào cuộc để xác định ranh giới cụ thể nhằm đảm bảo tốt cả hai quyền này. Nếu chỉ được phép chọn lựa một trong hai quyền, quan tòa cần dựa vào hoàn cảnh thực tế, phân tích lợi ích và thiệt hại từ quyết định của mình để từ đó phán quyết hoặc là đề cao tự do ngôn luận hay tự do tôn giáo. Một số ví dụ dưới đây chứng minh những mâu thuẫn giữa tự do ngôn luận với tôn giáo khi con người thể hiện quyền của mình:
I. Một số vụ tranh chấp về giới hạn của tự do ngôn luận và tôn trọng đức tin tôn giáo
1.      Salman Rushdie và những vần thơ của quỷ Satan
Salman Rushdie là nhà văn người Anh gốc Ấn Độ, năm 1988 ông cho xuất bản cuốn tiểu thuyết những vần thơ của quỷ Satan. Cuốn sách lấy cảm hứng từ một số sự kiện có thật như vụ khủng bố máy bay ở hãng hàng không Ấn Độ năm 1985, vụ bạo động ở Brixton, Luân Đôn năm 1981, chiến tranh ở Iran năm 1979. Cuốn sách miêu tả những giấc mơ và ảo giác của nhân vật chính có tên là Gibreel Farishta. Qua những cơn ác mộng của Gibreel Farishta, người đọc nhận thấy những chi tiết có tính lịch sử và truyền thuyết của tiên tri Mohamed. Những chủ đề lớn như đức tin tôn giáo, sự cuồng tín, nạn phân biệt chủng tộc, chiến tranh đã được Salman Rushdie phân tích. Đầu đề của cuốn sách dựa theo những giả thiết về cuộc đời của tiên tri Mohamed. Mohamed muốn thiết lập chế độ đơn thần tại Mecca, ông chỉ cho phép một vị thần duy nhất là chúa trời, trước khi  từ bỏ điều đó.
Nhà văn Salman Rushdie và tác phẩm những vần thơ của quỷ Satan gây tranh cãi
Những vần thơ của quỷ Satan khiến cộng đồng người Hồi giáo nổi giận, nhiều vụ biểu tình đã diễn ra tại Anh, Pakistan, Ấn Độ, Indonésia… Người Hồi giáo cho rằng Salman Rushdie có ý báng bổ đạo hồi và tiên tri Mohamed. Giáo chủ hồi giáo dòng Chiit Khomeini đã yêu cầu người Hồi giáo phải có nhiệm vụ ám sát Salman Rushdie. Các nhà xuất bản ở các nước phương tây nhận được nhiều thư đe dọa, yêu cầu cấm xuất bản tác phẩm của Salman Rushdie, một số dịch giả bị ám sát. Nhiều vụ bạo động đã diễn ra. Bản thân Salman Rushdie phải sống lẩn trốn trong suốt 10 năm. Ông không dám gặp mặt con, không dám tiếp xúc với người lạ, ngay cả với người thợ đến sửa ống nước. Quan hệ ngoại giao giữa Anh và Pakistan bị gián đoạn trong gần một năm do những tranh cãi về cuốn sách này. Với thế giới phương tây, Salman Rushdie là biểu tượng của tự do ngôn luận nhưng với nhiều người Hồi giáo, ông là kẻ thù.
2.                  Những bộ phim và những vở kịch có thể xúc phạm đến đức tin tôn giáo của một số người 
Bộ phim Kính mừng Maria (Je vous salue Marie) của đạo diễn Jean-Luc Godard được chiếu tại các rạp ở châu Âu năm 1985. Bộ phim kể về câu chuyện tình yêu của Marie và Joseph. Marie là sinh viên yêu thích thể thao, ngoài giờ đến giảng đường, cô còn đến giúp việc cho gia đình mình ở một trạm xăng. Joseph là lái xe taxi. Hai người gặp gỡ và có tình cảm với nhau. Thiên thần Gabriel báo tin và thuyết phục Joseph phải chấp nhận cái thai trong bụng Marie. Nội dung phim gây scandal vì tên của hai nhân vật chính trong phim trùng với tên của đức mẹ Marie và thánh Joseph, đặc biệt là chi tiết thiên thần Gabriel báo tin. Những cảnh trần tục trong phim đã khiến một số người biểu tình phản đối bộ phim. Giáo hoàng Jean-Paul II tuyên bố rằng bộ phim đã xúc phạm nghiêm trọng đến tình cảm tôn giáo của những người mộ đạo. Ở Pháp bộ phim Kính mừng Maria đã thu hút được hơn 350 nghìn khán giả, đạo diễn Jean-Luc Godard cho rằng bộ phim không có mối liên hệ gì đến đức mẹ Marie mà đó chỉ là nhân vật nữ có cùng tên bị đặt vào một tình huống đặc biệt mà cô không muốn.
Bộ phim Sự cám dỗ cuối cùng của chúa Jésus (The Last Temptation of Christ) của đạo diễn người Mỹ Martin Scorsese miêu tả Jésus như một người bình thường sống trong tội lỗi và sợ hãi. Jésus muốn có cuộc sống đơn giản như như nhiều người khác. Jésus yêu Marie-Madeleine. Nhưng chúa trời đã chọn Jésus là đấng cứu thế. Jésus đi thuyết giáo và có rất nhiều môn đệ, một trong số đó là Judas. Jésus hiểu rằng chúa trời muốn mình chết trên cây thập giá, để xóa hết mọi tội lỗi của con người vì thế Jésus đã yêu cầu Judas tố cáo mình cho quân La Mã. Bị đóng đinh trên cây thập giá, Jésus được thiên thần cứu thoát và từ đó ông có cuộc sống bình thường có vợ và con, ông sống đến già tại Jérusalem. Thành phố này sau đó bị quân La Mã đốt phá, Judas báo với Jésus rằng không phải thiên thần đã cứu ông mà đó là quỷ Satan đã giải thoát Jésus. Với cách suy luận hoàn toàn sai lệch so với kinh thánh, bộ phim đã xúc phạm đến đức tin tôn giáo của nhiều người. Bộ phim đã vấp phải sự phản đối ở khắp nơi. Khi bộ phim được chiếu tại Pháp, các tờ truyền đơn và những lời đe dọa khủng bố đã cảnh báo các khán giả đến xem phim. Các tín đồ tôn giáo đã gây ra nhiều vụ cháy ở các rạp chiếu phim. Bộ phim bị cấm trong một thời gian dài ở các nước Mỹ la tinh. Hiện nay, bộ phim vẫn bị cấm chiếu ở Philippines và Singapour. 
Bộ phim Ave Maria và bộ phim Amen cũng gây nhiều tranh cãi về giới hạn của tự do ngôn luận và sự tôn trọng đức tin tôn giáo. Bộ phim Ave Maria, được giới thiệu bằng hình ảnh người phụ nữ để ngực trần và bị trói tay trên cây thập giá. Các tổ chức tôn giáo đã đệ đơn kiện vì nội dung quảng cáo xúc phạm nghiêm trọng đến đức tin của nhiều người công giáo và coi đó là hành động báng bổ, bất kính đối với họ. Kết quả là tòa án đã ra phán quyết ngăn cấm ảnh quảng cáo của phim Ave Maria. Các quan tòa nhận định: “Hình tượng cây thập giá được giới thiệu qua hình ảnh quảng cáo của bộ phim ở những nơi công cộng chính là hành động khiêu khích, xúc phạm nghiêm trọng đến đến đức tin và nhân phẩm của con người“.
Bộ phim Amen lại được giới thiệu với công chúng bằng hình ảnh một linh mục bên cạnh biểu tượng chữ thập ngoặc của Đức Quốc Xã, ám chỉ giáo hội La Mã đã không có những hành động thiết thực để ngăn chặn nạn diệt chủng của Hitler. Hình tượng linh mục đại diện cho nhà thờ ở bên cạnh biểu tượng chữ thập gây chết chóc đã gây sốc cho nhiều người. Tuy nhiên, trong bộ phim, linh mục này có những hoạt động tích cực cứu giúp con người khỏi nạn diệt chủng.
Áp Phích của bộ phim Amen
Vở kịch Golgota Picnic của nghệ sĩ Argentina Rodrigo Garcia trình diễn tại Paris năm 2011 cũng gây nhiều tranh cãi về ranh giới giữa tôn trọng tình cảm tôn giáo và tự do sáng tạo. Vở kịch miêu tả cảnh đóng đinh trên cây thập giá của chúa Jésus và có xu hướng bình thường hóa cảnh tượng thiêng liêng, khi chúa Jésus chịu khổ nạn để cứu rỗi con người. Trong vở kịch, một người đàn ông trần truồng chơi đàn piano để thể hiện những lời nói của chúa Jésus. Các tổ chức tôn giáo như Civitas, Le Collectif culture et foi phản đối nội dung xuyên tạc của vở kịch. Tổng giám mục giáo phận Paris André Vingt-Trois nhận xét: “vở kịch châm biếm và diễn tả thô thiển cảnh chúa Jésus bị đóng đinh trên cây thập giá, vở kịch đã xúc phạm đến chúa“. Ngược lại, các tổ chức nhân quyền và tổ chức công đoàn lại bênh vực tác giả của vở kịch với mục đích đề cao năng lực sáng tạo của người nghệ sĩ.
Một vở kịch khác của nghệ sĩ người Ý Roméo Castellucci có tên Cách nhìn nhận về diện mạo của đức chúa Jésus được giới thiệu tại Avignon năm 2011 cũng gây ra một làn sóng phản đối khắp nơi. Các tổ chức tôn giáo cho rằng vở kịch có nội dung khiêu khích và thù ghét đạo thiên chúa. Các thành viên tích cực của các tổ chức tôn giáo tìm mọi cách để ngăn cản vở kịch đến với công chúng vì theo họ nội dung vở kịch đã xúc phạm nghiêm trọng đến tình cảm tôn giáo. Hơn nữa vở kịch thiếu tính nghệ thuật và thẩm mĩ.

3.                  Bức tranh bữa tiệc ly biệt của Léonard de Vinci và tấm pano quảng cáo quần áo 
Bữa tiệc ly biệt là một trong những kiệt tác nghệ thuật của Léonard de Vinci. Bức tranh miêu tả bữa ăn cuối cùng của Jésus với các môn đệ trước khi chia tay. Jésus cũng thông báo với 12 tông đồ rằng mình sẽ bị giao nộp cho quân La Mã vì một người trong số họ sẽ là người phản bội Jésus. Đây là một trong những cảnh thiêng liêng nhất trong kinh thánh. Jésus cầm bánh mì và nói với các môn đệ: “Này là mình thầy sẽ bị nộp vì các con, các con hãy nhận lấy mà ăn”. Jésus lại cầm cốc rượu và nói với các môn đệ:  “Đây là chén máu thầy, máu tân ước vĩnh cửu sẽ đổ ra cho các con và nhiều người được xóa tội. Các con hãy nhận lấy mà uống”. Cảnh bữa ăn chia tay giữa Jésus và 12 vị tông đồ còn được miêu tả trong nhiều bức tranh của các họa sĩ nổi tiếng. Nhà thờ coi bữa tiệc ly biệt giữa Jésus với các tông đồ, cùng những lời dặn dò của Jésus là những điều rất thiêng liệng, được chọn để rao giảng trong các buổi thánh lễ.
Bức tranh bữa tiệc ly biệt của Léonard de Vinci hiện được trưng bày
tại tu viện Santa Maria delle Grazie ở Milan, Ý
Công ti GIP quảng cáo quần áo hiệu Marithé et François Girbaud lấy ý tưởng từ bức tranh bữa tiệc li biệt (La Cène) của Léonard de Vinci. Hình ảnh 12 tông đồ được thay thế bằng 12 người phụ nữ mặc các bộ trang phục do hãng này sản xuất. Hình tượng Jésus ngồi giữa bàn tiệc được thay thế bằng hình ảnh một người phụ nữ có cử chỉ và điệu bộ như của Jésus. Bên cạnh người phụ này là một người đàn ông lưng trần, dáng điệu đang ôm ấp một người phụ nữ. Hình ảnh một tông đồ có vóc dáng nữ, ngồi cạnh Jésus trong bức tranh của Léonard de Vinci được thay thế bằng hình ảnh người đàn ông này. Tấm áp phích quảng cáo như muốn gửi đến một thông điệp rằng những phụ nữ có trang phục của hãng quần áo Marithé et François Girbaud đều ăn mặc đẹp, hợp thời trang, không mặc quần áo của hãng này, chẳng khác gì ở trần như người đàn ông trong ảnh. Tấm áp phícH quảng cáo quần áo dài 4 mét được treo vào đúng dịp mùa chay tại Porte de Maillot, lối vào Paris, nơi có nhiều người đi lại.
Tấm pano quảng cáo của công ty GIP dựa theo bức tranh của Léonard de Vinci
Tổ chức tôn giáo có tên là Đức tin và tự do đã kiện công ty GIP tại Tòa án cấp đệ nhị Paris. Tổ chức này cho rằng tấm quảng cáo đã xúc phạm nghiêm trọng đến tình cảm và đức tin của những người công giáo. Bức tranh đã báng bổ đạo thiên chúa và chửi rủa những điều thiêng liêng sâu thẳm của người công giáo. Tổ chức này yêu cầu tòa án dẹp bỏ ngay tấm quảng cáo có mục đích thương mại tầm thường này. Tòa án cấp đệ nhị Paris đã xử phạt công ty GIP vì cho rằng công ty này vi phạm tự do tôn giáo. Ngày 14 tháng 11 năm 2006, Tòa án tối cao đã bác bỏ phán quyết của các quan tòa cấp dưới và bác đơn của tổ chức Đức tin và tự do. Tòa án tối cao lập luận như sau: “Việc nhại lại bức tranh Bữa tiệc ly biệt với mục đích kinh doanh không phải là việc làm bất hợp pháp, và cũng không gây rối loạn. Mục đích quảng cáo không có ý xúc phạm hay khiêu khích những người có đức tin tôn giáo. Đây cũng không phải là hành động chửi rủa hay tấn công mang tính cá nhân, trực tiếp đến một nhóm người vì lí do niềm tin tôn giáo”. Các chuyên gia luật của Tòa án tối cao đã suy xét trong việc chọn lựa giữa tự do ngôn luận và tôn trọng đức tin tôn giáo. Họ đã đề cao tự do ngôn luận trong phán quyết quan trọng này.

4.                  Bức ảnh Piss Christ và sự đề cao sáng tạo nghệ thuật 
Nghệ sĩ nhiếp ảnh Andres Serrano người Mỹ gốc Cuba đã tạo ra bức ảnh có tên Immersion (sự chìm đắm) theo cách riêng của mình. Ông lấy một cốc nước tiểu và máu của mình rồi nhúng một cây thập giá vào đó. Với khả năng phối cảnh và tạo ra màu sắc vàng và đỏ có tính nghệ thuật, ông đã tạo ra bức ảnh Immersion đầy tai tiếng, bức ảnh này còn được gọi là Piss Christ. Đây là cách sáng tạo khá kì lạ và là tâm điểm của những lời bàn tán cũng như nhiều tiếng nói phản đối. Ông đã phát biểu: “Nếu tôi chụp ảnh một cây thập giá, điều đó là một chuyện hết sức bình thường ở Mỹ. Nhưng bức ảnh này đã gợi nhớ đến máu, nước tiểu và nước mắt. Cách giới thiệu của tôi sẽ gây ra nhiều phản ứng, nhưng đó cũng là cách nhắc với mọi người đến những khổ đau mà chúa Jésus phải trải qua”.

Bức ảnh Immersion (Piss Christ) của Andres Serrano và bức ảnh sau khi bị phá hủy
Bức ảnh Piss Christ đã được triển lãm ở nhiều nước và trở thành trung tâm của mọi sự rắc rối. Ở tất cả những nơi tác giả triển lãm ảnh, ở đó đều có các cuộc biểu tình phản đối, nhiều người cho rằng bức ảnh thể hiện thái độ khiêu khích của tác giả đối với những người có đức tin. Nhiều người đã có những lời đe dọa đối với các nhà tổ chức buộc họ phải từ bỏ triển lãm. Tại những nơi triển lãm, an ninh được tăng cường để đảm bảo an toàn cho người xem. Bức ảnh đã bị phá hủy nhiều lần bởi các tín đồ quá khích. Năm 1997, bức ảnh bị hư hại nghiêm trọng trong một cuộc triển lãm tại Melbourne. Năm 2007, bức ảnh lại bị thiệt hại khi trưng bày tại Thụy Điển. Năm 2011, bức ảnh được trưng bày tại một bảo tàng ở Avignon Pháp. Một cuộc biểu tình đã diễn ra với sự tham gia của hàng nghìn người, nhà thờ ủng hộ những người biểu tình. Nhiều người đã yêu cầu giám đốc bảo tàng không được tổ chức triển lãm ảnh. Nhưng bức ảnh vẫn được giới thiệu. Hai kẻ quá khích đã giả làm khán giả đến xem triển lãm. Họ mang theo búa và phá hủy nghiêm trọng bức ảnh. Andres Serrano đã đệ đơn kiện lên toàn án cấp đệ nhị ở Avignon. Đơn kiện của tác giả đã bị tòa án bác bỏ, vì không có mục đích rõ ràng. Năm 2014, bức ảnh lại được triển lãm tại Ajaccio, đảo Corse. Một nhóm các tín đồ nhiệt thành đã biểu tình với dòng chữ Vì danh dự của chúa Jésus và vì đảo Corse, Serrano hãy cút đi. Nhóm người này đã yêu cầu tòa thị chính phải đóng cửa bảo tàng. Để bảo đảm trật tự công cộng, thị trưởng thành phố đã quyết định hủy bỏ cuộc triển lãm. Nhiều chính khách cũng lên tiếng bày tỏ sự phản đối vì tác phẩm đã xúc phạm đến tình cảm tôn giáo của nhiều người. Bức ảnh gây ra những rắc rối về an ninh trật tự. Tuy nhiên, những người có thẩm quyền vẫn cho trưng bày tác phẩm để đề cao tự do ngôn luận và sức sáng tạo nghệ thuật, cho dù đây là cách sáng tạo kì cục, mang tính khiêu khích và  khó chấp nhận.

5.                  Charlie Hebdo và tự do ngôn luận 
Charlie Hebdo là tờ báo trào phúng của Pháp. Đây là tờ báo nhỏ không được nhiều người chú ý. Tờ báo này được biết đến qua một số vụ kiện của các tổ chức tôn giáo vì lí do báng bổ tôn giáo, xúc phạm đến danh dự và nhân phẩm của các tín đồ. Tuy nhiên, tòa án đã bác đơn kiện của các tổ chức này nhiều lần. Năm 2005, Charlie Hebdo đã đăng lại 12 bức tranh châm biếm của một tờ báo Đan Mạch. Các bức tranh giới thiệu chân dung tiên tri Mohamed. Bức tranh gây sốc nhất đối với nhiều người Hồi giáo là hình ảnh tiên tri Mohamed quấn một chiếc khăn có hình quả bom trên đầu. Hội những người Hồi giáo ở Pháp đã đệ đơn kiện báo Charlie Hebdo. Năm 2007, tòa án cấp đệ nhị Paris đã bác đơn vì cho rằng Charlie Hebdo không vi phạm luật. Các quan tòa cho rằng: “Xã hội Pháp là xã hội thế tục thể hiện sự đa dạng. Tôn trọng đức tin tôn giáo luôn đi kèm với tự do phê bình tôn giáo, kể cả tôn giáo đó có những quy định như thế nào, tôn giáo đó có thể được giới thiệu bằng các nhân vật đại diện, hay được các tín đồ đặc biệt tôn kính, nhưng quyền báng bổ thần thánh hay tôn giáo, không bị ngăn cấm ở Pháp“.
Nhiều bức biếm họa về tôn giáo tiếp tục xuất hiện trên các trang báo của Charlie Hebdo. Các họa sĩ cho rằng họ đang thực hiện quyền tự do ngôn luận được luật pháp bảo vệ. Họ có quyền châm biếm tôn giáo, chính trị. Họ luôn nhấn mạnh quyền biếm họa là nguyên tắc quan trọng của tự do ngôn luận nếu quyền này bị ngăn cấm đây sẽ là bước thụt lùi của nền dân chủ.
Đức giáo hoàng, tiên tri Mohamed, chúa Jésus, phật, những nhân vật nổi tiếng, các chính khách đều là mục tiêu châm biếm của Charlie Hebdo. Họ không trừ ai cả. Ví dụ khi giáo hoàng Benoît XVI tuyên bố một câu nói hớ: “Việc sử dụng bao cao su cũng không góp phần giảm đại dịch HIV AIDS”. Benoît XVI bị công kích bằng những bức vẽ châm biếm. Một bức họa khác của một tổ chức phòng chống HIV AIDS đã lấy hình tượng chúa Jésus đang dùng phép mầu bằng cách tạo ra thật nhiều bao cao su để phân phát cho người dân ở châu Phi. Tổ chức này cho rằng thiên chúa luôn yêu thương con người nhưng con người đang tỏ ra bất lực trước đại dịch HIV AIDS. Chúa hãy dùng phép mầu của mình để cứu lấy con người, (trong kinh thánh, chúa Jésus đã dùng phép mầu để tạo ra nhiều bánh mì, nuôi sống những người đói rách). Bức họa này đã gây sốc đối với nhiều người có đức tin vì tính trần tục khác xa với những điều thiêng liêng của tôn giáo.
Khi giáo hoàng Benoît XVI phản đối đám cưới của những người đồng tính vì cho rằng điều này trái với quy luật tự nhiên. Ngay lập tức, Charlie Hebdo phản ứng bằng cách đặt câu hỏi liệu một ông già hơn 80 tuổi, không biết đến phụ nữ thì có hợp với quy luật tự nhiên hay không? Với ngôn ngữ đơn giản, thô tục, kèm theo những bức họa có tính khái quát cao, Charlie Hebdo bàn luận về các vấn đề chính trị, văn hóa, tôn giáo, chiến tranh, nạn phân biệt chủng tộc, sự bất bình đẳng nam nữ trong xã hội… Đây là những nét rất riêng của tờ báo này. Điều này tạo ra nhiều điểm khác biệt với các báo châm biếm khác như le carnard enchaîné les guignols des infos. Charlie Hebdo luôn chạm đến ranh giới của tự do ngôn luận và tự do tôn giáo và muốn mở rộng hơn phạm vi của tự do ngôn luận. Những bức tranh và những lời bình luận của tờ báo này có thể dễ dàng gây tổn thương đến tình cảm tôn giáo và sự sùng kính của một số tín đồ Hồi giáo, đặc biệt là những người quá khích. Tuy nhiên, những việc làm của họ không vi phạm luật pháp vì nhiều vụ kiện chống lại họ đã bị bác bỏ. Cho dù những bức tranh giễu cợt tôn giáo hay chính trị có thể gây sốc đối với nhiều người nhưng các nhà báo, họa sĩ của Charlie Hebdo có quyền nói lên tiếng nói của mình về các vấn đề chính trị, xã hội, tôn giáo. Họ cho rằng mình trở thành những người đi tiên phong để bảo vệ tự do ngôn luận trong xã hội dân chủ.
Bức họa chân dung nhà tiên tri Mohamed đang khóc và cầm trên tay tấm biển
có dòng chữ: Tôi là Charlie, báo Charlie Hebdo 

II. Những cố gắng nhằm đảm bảo quyền tự do ngôn luận và tự do tôn giáo 

Tự do ngôn luận và tôn trọng đức tin tôn giáo là những quyền con người có nguy cơ mâu thuẫn và xung đột với nhau. Thực hiện tự do ngôn luận có thể gây tổn thương đến tình cảm tôn giáo của một số người nhưng để bảo đảm tốt tự do tôn giáo, tự do ngôn luận có thể bị giới hạn trong những điều kiện và hoàn cảnh cụ thể. Trong một chế độ dân chủ, con người luôn lo lắng làm thế nào để đảm bảo tự do bày tỏ chính kiến của mình nhưng không làm tổn thương đến đức tin của người khác. Điều này không hể đơn giản, các nhà luật học, các thẩm phán cố gắng tìm kiếm sự dung hòa giữa tự do ngôn luận và tự do tôn giáo. Họ đưa ra một số giải pháp nhằm đảm bảo cả hai quyền quan trọng này. Nhưng trong những trường hợp đặc biệt, họ buộc phải chọn lựa tự do ngôn luận hay tự do tôn giáo. Khi đó, họ dựa vào các điều kiện, hoàn cảnh cụ thể, để có sự lựa chọn thỏa đáng. Cũng cần khẳng định rằng bảo vệ tự do tôn giáo không phải là bảo vệ thần thánh và các giáo lí mà chính là bảo vệ con người vì con người là mối quan tâm lớn nhất trong xã hội. Tuy nhiên, quan điểm về tự do ngôn luận và tự do tôn giáo của phương Tây và khu vực Trung Đông có nhiều điểm khác nhau.
1.      Hai quan điểm khác nhau về tự do ngôn luận và tự do tôn giáo 
Quyền châm biếm tôn giáo và báng bổ thần linh không bị ngăn cấm ở Pháp, không có một điều luật nào kết tội con người khi con người có những hành động nhạo báng tôn giáo. Thời kì triết học ánh sáng thế kỉ XVIII và cuộc cách mạng Pháp năm 1789 đã xóa bỏ những trói buộc của nhà thờ. Nước Pháp trở thành Nhà nước thế tục, tội báng bổ tôn giáo đã bị loại bỏ. Ở các nước châu Âu khác như Đức, Hy Lạp, Ý… vẫn quy định tội báng bổ tôn giáo nhưng về cơ bản, con người có quyền phê phán tôn giáo.
Nhà nước thế tục không coi thần thánh là đối tượng cần bảo vệ bởi vì thần thánh là những con người của truyền thuyết, lịch sử hoặc là những nhân vật mang bản chất tôn giáo. Vì vậy thần thánh không phải là những con người tồn tại trong đời sống hiện tại, do đó thần thánh không có tư cách pháp nhân nên không phải là đối tượng được bảo vệ. Ngược lại, con người mới là đối tượng được luật pháp bênh vực. Bảo vệ niềm tin và tình cảm tôn giáo chính là bảo vệ con người khi con người thực hành tôn giáo và tuân theo giáo lí của tôn giáo đó. Đối với các quốc gia có tôn giáo chi phối đời sống chính trị, văn hóa thì bảo vệ tôn giáo gắn liền với bảo vệ quyền lực. Truyền bá và củng cố đức tin tôn giáo cho con người cũng chính là một hình thức bảo vệ quyền thống trị đối với con người.
Tự do ngôn luận và tự do về tư tưởng được đề cao ở các nước dân chủ vì đây là tiền đề cho năng lực sáng tạo của con người và cũng là cơ sở cho sự phát triển của xã hội. Đạo luật năm 1881 ra đời ở Pháp quy định các quyền tự do báo chí và truyền bá thông tin. Điều 29 của đạo luật này quy định khi các thông tin thiếu chính xác gây tổn thương đến một nhóm người thì những thông tin đó cần được kiểm chứng và sẽ bị loại bỏ để bảo vệ lợi ích cho họ. Tuy nhiên, quy định này khó có thể áp dụng đối với những thông tin có mục đích báng bổ tôn giáo, gây tổn hại đến tình cảm tôn giáo của con người. Quy định này chỉ có thể áp dụng trong trường hợp có những thông tin sai trái như bôi nhọ, vu khống làm hại đến danh dự, nhân phẩm của con người.
Giáo dục có ảnh hưởng lớn  đến quyết định lựa chọn tôn giáo hay xa rời tôn giáo của con người. Trong một nền giáo dục nhân bản, tiên tiến, con người được trang bị những kiến thức cơ bản để hoàn thiện bản thân. Con người sẽ quyết định mình nên theo hoặc không theo tôn giáo. Còn nền giáo dục bị chi phối bởi tôn giáo, con người dễ bị áp đặt phải theo một tôn giáo chính thống. Vì thế, quyền tự do lựa chọn tôn giáo, quyền từ bỏ tôn giáo sẽ khó được đảm bảo khi giáo dục và truyền bá tôn giáo có nhiều mối liên quan.
Ở phương Tây, luật pháp quy định chính trị và tôn giáo là hai lĩnh vực tách biệt. Các quyết định chính trị không chịu tác động của tôn giáo. Nhưng ở các nước Trung Đông, chính trị và tôn giáo luôn có những mối quan hệ mật thiết. Tôn giáo bao trùm đến mọi hoạt động kinh tế, chính trị, xã hội. Vì vậy, rất khó để phân biệt đâu là lĩnh vực chính trị hay tôn giáo. Hiến pháp của nhiều nước Trung Đông coi đạo Hồi là quốc giáo, luật pháp phải dựa trên nền tảng của đạo Hồi, luật charia được một số nước chọn là đạo luật cơ bản để quản trị xã hội. Do những tác động của tôn giáo, tự do ngôn luận bị hạn chế tối đa. Quyền báng bổ thần linh bị coi là trọng tội. Tất cả những lời nói xúc phạm đến tiên tri Mohamed, đến kinh Coran đều bị lên án. Mohamed là đấng tiên tri được người Hồi giáo kính trọng, mỗi người đều có cách hình dung khác nhau về Mohamed. Việc vẽ hình ảnh nhà tiên tri này, đi kèm những lời châm biếm là điều không chấp nhận được đối với nhiều người Hồi giáo. Tuy nhiên, quyền tự do châm biếm tôn giáo lại được luật pháp cho phép ở nhiều nước phương Tây. Đây là những khác biệt rõ rệt về văn hóa và tôn giáo của phương Tây và khu vực Trung Đông. Có thể đó là cú sốc về văn hóa và tôn giáo.
Các nhà báo của Charlie Hebdo theo văn hóa phương Tây, cách nhìn nhận các vấn đề chính trị, tôn giáo, xã hội của họ cũng theo cách phân tích đánh giá của người phương Tây. Những bức tranh châm biếm về tiên tri Mohamed đối với người phương Tây không gây sốc vì họ thực hiện quyền tự do ngôn luận được luật pháp bảo vệ. Tuy nhiên đối với nhiều người Hồi giáo cực đoan đó là sự khiêu khích. Xã hội phương Tây đã có những bước tiến lớn về dân chủ và quyền con người trong nhiều thế kỉ. Trong khi đó, xã hội phương Đông và khu vực Trung Đông vẫn chịu sự chi phối rất lớn của tôn giáo. Những nguyên tắc của đạo Hồi vẫn được áp dụng từ những thế kỉ trước. Đây chính là những cản trở lớn cho sự phát triển của xã hội.
Tự do ngôn luận và tự do tôn giáo ở phương Tây và khu vực Trung Đông có nhiều điểm khác biệt. Tự do ngôn luận ở các nước dân chủ thể hiện quyền được nói và viết ra những suy nghĩ của mình mà không bị ngăn cản. Tự do tôn giáo là quyền được theo một tôn giáo, thờ phụng và thực hành tôn giáo của mình hoặc không theo tôn giáo nào cả. Ở các nước Hồi giáo, tự do ngôn luận không có nghĩa là quyền được báng bổ tôn giáo, quyền châm biếm thần linh, quyền được phê phán những nguyên tắc cứng rắn và lạc hậu của kinh Coran, hay quyền đòi bãi bỏ luật charia…Tự do tôn giáo cũng không có nghĩa là quyền hoàn toàn được tự do về tư tưởng, hay có những suy nghĩ phóng khoáng, trái ngược với những giáo lí áp đặt. Các nước Hồi giáo đã có kiến nghị đến Hội đồng nhân quyền của Liên hiệp quốc để bảo vệ quyền tự do tôn giáo của con người, nhưng thực chất là đề nghị coi báng bổ tôn giáo là vi phạm quyền con người. Các tổ chức tôn giáo ở các nước phương Tây cũng tạo ảnh hưởng để Nhà nước bàn lại về tội báng bổ tôn giáo và tiến đến ngăn cấm điều này để bảo vệ tốt hơn tình cảm tôn giáo của con người. Tuy nhiên, rất khó xác định, báng bổ tôn giáo ở mức độ nào sẽ làm tổn thương con người bởi vì đức tin và tình cảm tôn giáo là những điều sâu kín. Mỗi người đều có những suy nghĩ và tình cảm ở mức độ khác nhau. Nếu ngăn cấm mọi thứ sẽ hạn chế tự do ngôn luận.
2.                  Bảo đảm quyền tự do ngôn luận và tự do tôn giáo 
Bản tuyên bố về quyền con người của Hội đồng châu Âu năm 1950 đã được 47 quốc gia châu Âu kí kết. Điều 9 và điều 10 của văn bản này bảo vệ quyền tự do tôn giáo và tự do ngôn luận. Điều 18 và 19 của Hiến chương về quyền con người của Liên hiệp quốc năm 1948 cũng bảo vệ hai quyền cơ bản này. Tòa án về quyền con người của Hội đồng châu Âu đã ra nhiều phán quyết quan trọng để bảo vệ tự do ngôn luận và tự do tôn giáo. Các quyết định của cơ quan này thường là những quyết định khung mang tính chất khái quát và tổng hợp. Tòa án châu Âu muốn tạo ra một khuôn mẫu về việc bảo vệ các quyền tự do, đồng thời cho phép các nước có các phán quyết riêng về tự do ngôn luận và tự do tôn giáo dựa theo hoàn cảnh chính trị, xã hội của mình, nhưng những phán quyết đó phải dựa theo định hướng đã được vạch ra.
Trong phán quyết có tên Handyside c/Royaume-Uni năm 1975, tòa án này có một định nghĩa rất quan trọng về tự do ngôn luận: “Tự do ngôn luận không chỉ thể hiện bằng những thông tin và những ý tưởng được đón nhận bằng sự vui vẻ, cổ vũ, đó có thể là những thông tin bình thường, không làm tổn thương người khác. Tự do ngôn luận còn thể hiện qua những thông tin gây sốc, gây lo lắng và tổn hại đến một số người. Tự do ngôn luận gắn với sự đa dạng về thông tin, sự cảm thông, cùng trí tuệ rộng mở, không có các điều kiện đó, sẽ không có xã hội dân chủ“. 
Điều 9 trong Tuyên ngôn về quyền con người của Hội đồng châu Âu ghi nhận về quyền tự do tôn giáo: “Mỗi người đều có quyền tự do tư tưởng, tự do tôn giáo. Quyền này thể hiện tự do thay đổi tôn giáo hay đức tin tôn giáo, cũng như quyền thể hiện tôn giáo bằng cách tham gia vào các nghi lễ tôn giáo, truyền bá và thực hành tôn giáo“. Tự do tôn giáo và tự do ngôn luận có thể bị hạn chế trong những hoàn cảnh đặc biệt, thật sự cần thiết.
Khi các quyền tự do trên có xung đột với nhau, các nhà luật học tuân theo ba tiêu chí quan trọng để lựa chọn cả hai quyền trên, hoặc loại bỏ một trong hai quyền: (i) Điều kiện chính thống, phù hợp với sự công bằng và đạo lí, hợp với lẽ phải. (ii) Điều kiện hợp pháp, đúng với những tiêu chuẩn và quy định của luật pháp. (iii)Điều kiện cần thiết đảm bảo lợi ích chung của xã hội, vì trật tự, an toàn xã hội và vì con người.
Ví dụ về trường hợp bức ảnh Piss Christ của nghệ sĩ Andres Serrano, không có điều luật nào quy định cách thức sáng tạo nghệ thuật của người nghệ sĩ. Mỗi người có cách sáng tạo riêng, xét về mặt luật pháp việc tạo ra bức ảnh gây tranh cãi không vi phạm luật pháp, xét về mặt đạo đức và tôn trọng tình cảm tôn giáo, chắc chắn bức ảnh đã gây tổn thương cho một số người có tình cảm tôn giáo nhiệt tình. Khi bức ảnh được trưng bày ở nhiều nơi, vấn đề trật tự và an toàn xã hội trở thành mối lo của các nhà tổ chức. Vì thế để đảm bảo an toàn xã hội và trật tự công cộng, ở một số nơi như đảo Corse, cuộc triển lãm của Andres Serrano đã bị hủy bỏ. Tuy nhiên, bức ảnh vẫn tiếp tục được trưng bày ở nhiều nơi khác vì sự đề cao tính sáng tạo của người nghệ sĩ. Trong trường hợp này, tự do ngôn luận được đề cao hơn tự do tôn giáo.
Đối với trường hợp của tờ báo Charlie Hebdo, tờ báo này thường xuyên bị các tổ chức tôn giáo, các chính khách, các tổ chức cực hữu kiện ra tòa. Đã có 50 đơn kiện Charlie Hebdo kể từ năm 1992 đến nay, tuy nhiên tờ báo này vẫn trụ vững vì nội dung cơ bản của tờ báo này là chống phân biệt chủng tộc, chống phân biệt đối xử, bảo vệ bình đẳng. Charlie Hebdo phân tích các vần đề chính trị, xã hội bằng những bức tranh châm biếm. Charlie Hebdo cho rằng tự do ngôn luận là được nói lên tất cả những suy nghĩ của mình, kể cả đó là những điều cấm kị. Những bức tranh châm biếm là cách nhìn nhận các vấn đề, tôn giáo, chính trị, xã hội theo cách khái quát của tờ báo này. Vì thể hiện tự do ngôn luận thẳng thắn và không kiêng nể, những bức vẽ của Charlie Hebdo thường gây nhiều tranh cãi, tòa báo này luôn nhận được những lời đe dọa. Tuy nhiên, Charlie Hebdo không gây kích động bạo lực, không khuyến khích hận thù tôn giáo và sắc tộc, không cổ vũ chiến tranh, vì đây là những giới hạn quan trọng của tự do ngôn luận. Khi xét đến những tiêu chuẩn cơ bản như điều kiện hợp pháp, điều kiện đảm bảo lợi ích chung của xã hội, sự tồn tại của Charlie Hebdo có nhiều ý nghĩa.
Những bức vẽ của Charlie Hebdo gây tổn thương cho một số người Hồi giáo, nhất là những người có tư tưởng cực đoan. Nhà nước có thể ngăn cấm việc xuất bản các số báo của Charlie Hebdo trong một thời gian nhất định, một là để bảo vệ quyền sống cho chính những nhà báo vì họ thường xuyên nhận được những lời đe dọa, hai là để đảm bảo trật tự công cộng vì những bức vẽ nhà tiên tri Mohamed của Charlie Hebdo gây ra nhiều rối loạn, như việc đốt cờ Pháp, biểu tình trước đại sứ quán, và bạo loạn. Sự nổi giận của một bộ phận người Hồi giáo có thể gây ra những nguy hiểm cho cộng đồng người Pháp đang sinh sống tại nước ngoài. Trái ngược với những giả thuyết trên, chính phủ Pháp quyết định hỗ trợ Charlie Hebdo một triệu euros, để tờ báo này tiếp tục hoạt động, nhiều tổ chức cũng trợ giúp tài chính cho tờ báo, rất nhiều người đặt mua tờ báo theo quý, khiến doanh thu của tờ báo này tăng vọt. Qua vụ việc của Charlie Hebdo, có thể thấy ý thức bảo vệ các quyền tự do của con người trong xã hội dân chủ. Tự do ngôn luận bị bịt miệng qua vụ khủng bố, lại được bảo vệ tốt hơn.
Đại hội nghị viện của Hội đồng châu Âu đã ban hành nghị quyết 1510, năm 2006 trong đó khẳng định: “Không có tự do ngôn luận sẽ không có xã hội dân chủ. Tiến bộ xã hội và sự phát triển của mỗi cá nhân phụ thuộc vào khả năng tiếp nhận và chia sẻ các thông tin, các luồng tư tưởng. Tự do về tư tưởng và tự do tôn giáo là điều kiện cơ bản của một xã hội dân chủ“. Tôn giáo luôn là yếu tố quan trọng của văn hóa và việc hình thành nhân cách của con người. Mỗi quốc gia có sự đa dạng về văn hóa và tôn giáo sẽ tạo ra sự đa dạng về các di sản. Những giới hạn của tự do ngôn luận và những nguyên tắc đảm bảo đức tin tôn giáo cần được thảo luận rộng rãi để tìm ra những giải pháp đảm bảo sự tồn tại hài hòa của hai quyền cơ bản này. Con người không thể lấy lí do bảo vệ tôn giáo để bóp nghẹt tự do ngôn luận, nhưng cũng không thể đề cao tự do ngôn luận thái quá nhằm gây tổn thương đến tình cảm tôn giáo của một số người. Trong những trường hợp xung đột giữa bảo vệ tự do ngôn luận và tự do tôn giáo, cần có những quyết định đúng đắn của luật pháp.
Những phán quyết của tòa án về quyền con người của Liên minh châu Âu và của tòa án thuộc các nước thành viên đang có xu hướng đề cao tự do ngôn luận hơn là bảo vệ đức tin tôn giáo. Con người sống trong xã hội dân chủ đang ngày càng khẳng định bản thân, cái tôi của con người ngày càng lớn vì các quyền tự do cơ bản được đề cao trong khi tôn giáo không còn giữ vai trò quan trọng như trước đây trong đời sống chính trị, xã hội. Các bức tranh châm biếm, những bộ phim hay những vở kịch thể hiện sự sáng tạo nghệ thuật nhiều hơn là sự khiêu khích đối với tôn giáo. Đó là những cách khác nhau để thể hiện tự do ngôn luận. Trong những trường hợp đặc biệt, tự do ngôn luận có thể vượt quá giới hạn, khi đó cần có sự can thiệp của tòa án để bảo vệ tự do tôn giáo và các quyền tự do khác của con người.
P.T.Đ.
Tác giả gửi BVN 

Tài liệu tham khảo 
8.                  La liberté d’expression, les grands textes de Voltaire à Camus, le Monde hors-série, mars 2015