TÌM HIỂU NGÔ ĐÌNH NHU
TRONG KHÍA CẠNH MỘT NHÀ TRÍ THỨC
Hà Kim Phương
Ngô Đình Nhu (1910-1963) xuất thân trong một gia đình quan lại
Phong kiến, theo đạo Công giáo tại Đại Phong, tỉnh Quảng Bình. Sinh ra trong
một gia đình quan lại phong kiến nên từ nhỏ Ngô Đình Nhu đã được giáo dương bởi
tư tưởng Nho học. Năm 1935, Ngô Đình Nhu là người Việt Nam đầu tiên được nhận
vào học trường Quốc gia Chartes của Pháp. Tại Pháp, Ngô Đình Nhu có điều kiện
tiếp xúc với tư tưởng dân chủ phương Tây.
Năm 1938, sau khi tốt nghiệp trường Chartes, Ngô Đình Nhu về nước
và được nhận vào làm việc tại Nha Văn khố và thư viện Đông Dương. Trong thời
gian làm việc tại đây, với phong cách làm việc “đầy nghị lực, đầy năng động”
của một “nhà khoa học”, ông ta đã có những đóng góp nhất định cho hoạt động lưu
trữ của chính quyền thực dân Pháp và góp phần “cứu nguy” một khối lượng lớn tài
liệu lưu trữ thời kỳ phong kiến để lại cho ngày nay.
Sau ngày cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, Chính phủ lâm
thời nước Việt Nam dân chủ cộng hòa bổ nhiệm Ngô Đình Nhu làm Giám đốc Nha Lưu
trữ Công văn và Thư viện toàn quốc. Nhưng, trái ngược với phong cách khoa học
trước đây, Ngô Đình Nhu chuyển sang hoạt động chính trị. Đến năm 1954, khi Ngô
Đình Diệm được đưa về Sài Gòn làm thủ tướng, sau là tổng thống chế độ Sài Gòn,
Ngô Đình Nhu trở thành nhân vật quyền lực thứ hai của chế độ. Đồng thời là
người sáng lập ra chủ thuyết Nhân vị Á đông, tổng bí thư Đảng Cần lao Nhân vị –
là nền tảng tư tưởng và cơ sở chính trị của chế độ Sài Gòn. Và cũng là kiến trúc
sư của chế độ Việt Nam cộng hòa 1955-1963.
Có thể nói, Ngô Đình Nhu là tiêu biểu cho một số trí thức Việt Nam
Âu học. Những người sinh ra trong gia đình quan lại phong kiến được đào tạo và
trở về phục vụ chế độ thực dân Pháp, sau Hiệp định Geneve về Việt Nam năm 1954
tiếp tục phục vụ chế độ Sài Gòn.
Bài viết tập trung tìm hiểu về những hoạt động của Ngô Đình Nhu
đối với khoa học lưu trữ ở Việt Nam thời kỳ Pháp thuộc; vai trò của ông ta
trong việc sáng lập chủ thuyết Nhân vị và Đảng Cần lao Nhân vị, cũng như sự
hình thành và tồn tại của chế độ Việt Nam cộng hòa (1955-1963). Qua đó góp phần
làm rõ hơn sự hình thành, diện mạo của chế độ Việt Nam cộng hòa 1955-1963.
Đồng thời, qua đó cũng góp phần hiểu thêm về một bộ phận trí thức
Âu học ở Việt Nam cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX.
Phần một: CƠ SỞ HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG NGÔ ĐÌNH NHU
1. Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX
Giai đoạn cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX là giai đoạn lịch sử Việt
Nam có những biến đổi hết sức to lớn. Thực dân Pháp xâm lược và biến nước ta
thành xã hội thuộc địa, nửa phong kiến.
Mặc dù triều đình phong kiến nhà Nguyễn đầu hàng thực dân
Pháp, song phong trào chống Pháp cứu nước liên tục nổ ra, như: Phong trào Cần
Vương (1885-1896) và các cuộc khởi nghĩa Ba Đình của Phạm Bành và Đinh Công
Tráng (1881-1887), Bãi Sậy của Nguyễn Thiện Thuật (1883-1892) và Hương Khê của
Phan Đình Phùng (1885-1895), cuộc khởi nghĩa nông dân Yên Thế do Hoàng Hoa Thám
lãnh đạo, kéo dài đến năm 1913.
Thất bại của phong trào Cần Vương và các cuộc khởi nghĩa cuối thế
kỷ XIX là dấu chấm hết cho vai trò nắm lấy ngọn cờ lãnh đạo nhân dân cứu nước
của các sĩ phu phong kiến và hệ tư tưởng Nho giáo. Tuy nhiên, trong khi chế độ
phong kiến Việt Nam cùng với hệ tư tưởng Nho giáo ngày càng tỏ ra bất lực trước
yêu cầu của công cuộc chống ngoại xâm vì nền độc lập dân tộc, đã xuất hiện một
số nhà tư tưởng tiêu biểu, từ Phạm Phú Thứ, Đặng Huy Trứ, Nguyễn Trường Tộ,
Nguyễn Lộ Trạch… đến Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, Nguyễn An Ninh,… đề xướng
các tư tưởng canh tân đất nước, làm xuất hiện luồng sinh khí mới. Đồng thời,
hàng loạt các phong trào đấu tranh theo tư tưởng dân chủ tư sản xuất hiện. Hàng
ngàn thanh niên, trí thức Việt Nam vượt biển ra hải ngoại trở về đã tạo ra sự
chuyển biến to lớn về tư tưởng chính trị trong xã hội.
Đầu thế kỷ XX, Phan Bội Châu với Hội Duy tân (1904), tổ chức phong
trào Đông Du (1906-1908), chủ trương dựa vào Nhật để
chống Pháp hay với Việt Nam Quang phục Hội (1912) với ý định võ trang bạo
động đánh Pháp.
Phan Châu Trinh chủ trương dùng những cải cách văn hóa, mở mang
dân trí, nâng cao dân khí, phát triển kinh tế theo hướng tư bản chủ nghĩa trong
khuôn khổ hợp pháp, làm cho dân giàu, nước mạnh, buộc thực dân Pháp phải trao
trả độc lập cho nước Việt Nam. ở Bắc Kỳ, có việc mở trường học, giảng dạy và
học tập theo những nội dung và phương pháp mới, tiêu biểu là trường Đông
Kinh nghĩa thục Hà Nội. ở Trung Kỳ, có cuộc vận động Duy tân, hô hào thay đổi
phong tục, nếp sống, kết hợp với phong trào đấu tranh chống thuế (1908).
Năm 1919-1923, Phong trào quốc gia cải lương của bộ phận tư sản và
địa chủ lớp trên đã diễn ra bằng việc vận động chấn hưng nội hoá bài trừ ngoại
hoá; chống độc quyền thương cảng Sài Gòn; chống độc quyền khai thác lúa
gạo ở Nam Kỳ; đòi thực dân Pháp phải mở rộng các viện dân biểu cho tư sản
Việt Nam tham gia.
Năm 1923 xuất hiện Đảng Lập hiến của Bùi Quang Chiêu ở Sài Gòn,
tập hợp tư sản và địa chủ lớp trên. Họ cũng đưa ra một số khẩu hiệu đòi tự do
dân chủ để lôi kéo quần chúng.
Năm 1925-1926 đã diễn ra Phong trào yêu nước dân chủ công khai của
tiểu tư sản thành thị và tư sản lớp dưới. Họ lập ra nhiều tổ chức chính trị
như: Việt Nam Nghĩa đoàn, Phục Việt (1925), Hưng Nam, Thanh niên cao vọng
(1926); thành lập nhiều nhà xuất bản như Nam Đồng thư xã (Hà Nội), Cường học
thư xã (Sài Gòn), Quan hải tùng thư (Huế); ra nhiều báo chí tiến bộ như Chuông
rạn (La Cloche fêlée), Người nhà quê
(Le Nhaque), An Nam trẻ (La jeune Annam)… Có nhiều phong trào đấu
tranh chính trị gây tiếng vang khá lớn như đấu tranh đòi thả Phan Bội Châu
(1925), lễ truy điệu và để tang Phan Châu Trinh, đấu tranh đòi thả nhà yêu nước
Nguyễn An Ninh (1926). Cùng với phong trào đấu tranh chính trị, tiểu tư
sản Việt Nam còn tiến hành một cuộc vận động văn hóa tiến bộ, tuyên truyền rộng
rãi những tư tưởng tự do dân chủ. Tuy nhiên, càng về sau, cùng sự thay đổi của
điều kiện lịch sử, phong trào trên đây ngày càng bị phân hoá mạnh. Có bộ phận
đi sâu hơn nữa vào khuynh hướng chính trị tư sản (như Nam Đồng thư xã),
có bộ phận chuyển dần sang quỹ đạo cách mạng vô sản (tiêu biểu là Phục Việt,
Hưng Nam).
Năm 1927-1930 Phong trào cách mạng quốc gia tư sản gắn liền với sự
ra đời và hoạt động của Việt Nam Quốc dân Đảng (25-12-1927). Đặc biệt năm 1930,
sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam đánh dấu bước phát triển mới trong phong
trào cách mạng Việt Nam.
Trong điều kiện đó, tầng lớp trí thực Việt Nam có sự phân hóa sâu
sắc. Các trí thức Nho học thủ cửu tiếp tục phục vụ triều đình phong kiến, làm
tay sai cho thực dân Pháp. Xuất hiện tầng lớp trí thức Âu học, với sự phát
triển ngày càng mạnh mẽ. Ngay trong đội ngũ tri thức Tây học cũng có sự phân
hóa. Một bộ phận sau khi xuất dương, tiếp thu những tư tưởng mới, với văn minh
phương Tây trở về tham gia các phong trào đấu tranh yêu nước, đẩy mạnh tuyên
truyền tư tưởng dân chủ tư sản hay vô sản trong quần chúng. Nhưng cũng có một
bộ phận không nhỏ, trở về nước làm công chức cho chế độ thực dân.
2. Nền tảng gia đình
Ngô Đình Nhu sinh ngày 7 tháng 10 năm 1910 tại xã Phước Qua, tổng
Cự Chánh, huyện Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên, nhưng nguyên quán ở làng Đại
Phong, huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình, trong một gia đình quan lại theo đạo
Thiên chúa.
Về nguồn gốc gia đình, theo một số ghi chép, gia đình Ngô Đình Nhu vốn thuộc hàng bần dân trong xã hội phong kiến
Việt Nam, kiêm sống bằng nghề chài lưới [1].
Đến đời cha của Ngô Đình Nhu (Ngô Đình Khả), thời điểm thực dân Pháp đã hoàn
thành bình định tỉnh Quảng Bình, Ngô Đình Khả được các giáo sĩ cho đi học chữ
Hán và chữ Pháp tại một trường dòng, rồi được đưa đi học ở Tổng Chủng viện của
dòng Thừa Sai Paris tại đảo Poulo Pinang – Mã Lai [2].
Sau đó được người Pháp đưa về nước và
cho làm thông ngôn ở tòa Khâm sứ Huế. Rồi dần trở thành quan lại trong
triều đình phong kiến An Nam.
Năm 1885, Ngô Đình Khả được quân Pháp và triều đình An Nam cử giữ
chức An phủ sứ ở Quảng Bình chuyên lo việc bình định và chiêu an dưới quyền
điều khiển của đại tá Pháp Duvillier – ủy viên chính phủ vùng Bắc xứ Trung kỳ.
Dưới thời vua Thành Thái, với nhiều
“công trạng” trong việc đàn áp các cuộc nổi dậy chống Pháp ở tỉnh Quảng
Bình, đặc biệt là phong trào Cân Vương với sự kiện đào mả lấy xác cụ Phan trộn thuốc súng, bỏ vào súng thần công bắn xuống
dòng sông Lam, Ngô Đình Khả được cả Pháp và triều đình Huế trọng dụng xếp
vào hàng cận thần, sau làm đến quan Thượng Thư bên cạnh vua Thành Thái mới về
hưu.
Kế tục sự nghiệp của người cha, các anh của Ngô Đình Nhu là Ngô
Đình Khôi và Ngô Đình Diệm đều trở thành
những vị quan lớn trong triều đình phong kiến (Ngô Đình Khôi làm Tổng đốc
Quảng Nam; Ngô Đình Diệm làm đến Thượng thư bộ Lại). Còn người anh cả, Ngô Đình
Thục thì trở thành làm Giám mục (Giám mục Vĩnh Long năm 1942).
Riêng Ngô Đình Nhu, sau những năm tháng chịu sự giáo dưỡng của gia
đình và giáo hội ở Huế, đầu những năm 30 của thế kỷ XX, được đưa sang Pháp du
học tại trường Đại học Văn khoa và trường Ngôn ngữ phương Đông. Năm 1935, Ngô
Đình Nhu là người Việt Nam đầu tiên thi đỗ vào Trường Quốc gia Chartes của Pháp
(trường Cổ tự học Quốc gia Pháp). Năm 1838, với việc bảo vệ thành công tại Pháp
luận văn tốt nghiệp chủ đề “Phong tục và tập quán của người Bắc Kỳ vào
đầu thế kỷ 17 và 18, theo các nhà thám hiểm và truyền giáo” – luận văn
được Bộ trưởng Bộ Giáo dục Quốc gia Pháp đánh giá xuất sắc, Ngô Đình Nhu là
sinh viên Việt Nam đầu tiên tốt nghiệp xuất sắc trường Cổ tự học Quốc gia Pháp
với thứ hạng Ba. Cũng là người Việt Nam đầu tiên có bằng Lưu trữ – Cổ tự và
bằng cử nhân khoa học [3].
Trong những năm học về tài liệu cổ tại trường École nationale des
Charter, Ngô Đình Nhu tiếp xúc với chủ nghĩa Nhân vị (personnalisme) của
Emmanuel Mouier (1905-1950) – một nhà triết học duy tâm Pháp, quan niệm: “con
người (nhân vị) có trách nhiệm là giá trị cao nhất, trên các giá trị khác
(chính trị, kinh tế, tổ chức x hội). Con người (nhân vị) đây là những bản thể
tinh thần (có trước vật chất) theo nghĩa duy tâm – tôn giáo . Toàn bộ thế giới
tự nhin v x hội l một cộng đồng nhân vị mà Thượng đế là nhân vị tối cao” [4].
Mounier công kích chủ nghĩa cộng sản nhưng đồng thời cũng “tố cáo xã hội tư bản
hỗn độn (kinh tế, xã hội, tư tưởng)”, do đó được một số trí thức Công giáo trẻ
tin theo. Triết lý này đã ảnh hưởng sâu sắc đến tư duy của Ngô Đình Nhu, trở
thành nền tảng quan trọng hình thành chủ thuyết Nhân vị Á Đông của ông ta sau
này.
Nhìn chung, xuất thân từ một gia đình theo đạo Thiên chúa và có
truyền thống nho học, song Ngô Đình Nhu sớm có điều kiện tiếp xúc với văn minh
phương Tây và bị ảnh hưởng bởi hệ tư tưởng dân chủ tư sản phương Tây. Đồng
thời, xuất thân trong một gia đình quan lại cao cấp của chế độ thực dân – phong
kiến, đã tạo cho Ngô Đình Nhu thiên hướng bài “Cộng”. Một tư tưởng quyết định
đến mọi chính sách của chế độ Việt Nam cộng hòa ở miền Nam Việt Nam giai đoạn
1955-1963.
Phần hai: TỪ NHÀ TRÍ THỨC TRỞ THÀNH CHÍNH TRỊ GIA
1. Nhà lưu trữ Ngô Đình Nhu
Năm 1938, trở về Việt Nam với hai bằng Lưu trữ – Cổ tự và cử nhân
khoa học, Ngô Đình Nhu được nhận vào làm việc tại Sở Lư trữ và Thư viện Đông
Dương với chức danh Quản thủ viên phó hạng ba. Ngay trong năm đầu làm việc Ngô
Đình Nhu đã được Giáo đốc Sở Lưu trữ và Thư viện Đông Dương lúc bấy giời là
Paul Boudet đánh giá là một “lưu tữ viên – cổ tự trẻ đầy triển vọng” [5].
Năng lực của Ngô Đình Nhu được chứng minh trong cộng tác với Paul Boudet cho ra
đời các tập 2,3 và 4 của bộ sách Đông
Dương pháp chế toàn tập và chịu trách nhiệm chính trong việc đưa tài liệu
lưu trữ ra trưng bày, triển lãm. Chính sự đam mê nghề nghiệp của Ngô Đình Nhu
đã khiến Paul Boudet chấp nhận kế hoạch sắp xếp lại tài liệu các vương triều
phong kiến Việt Nam.
Năm 1942, với năng lực vượt trội, Ngô Đình Nhu được đề bạt làm
người thành lập cơ quan Lưu trữ và thư viện Trung Kỳ ở Huế nhằm tổ chức lại tài
liệu của Nam triều. Chính trong thời gian này, Ngô Đình Nhu đã đề ra kế hoạch
cứu nguy tài liệu có giá trị quan trọng đối với công tác lưu trữ ở Việt Nam
thời điểm đó và cả hiện tại. Tháng 2-1942, Ngô Đình Nhu đề xuất kế hoạch cứu
nguy tài liệu Châu bản đang được cất giữ ở Nội các. Kế hoạch của Ngô Đình Nhu
đã được Trần Văn Lý – Tổng lý Ngự tiền Văn phòng triều đình Huế trình tấu lên
vua Bảo Đại và được phê chuẩn. Sau đó, Ngô Đình Nhu được vua Bảo Đại phê chuẩn
làm Chủ tịch Hội đồng cứu nguy Châu bản. Trong 3 năm (1942-1944), với vai trò
Chủ tịch hội đồng và cố vấn kỹ thuật, Ngô Đình Nhu đã góp phần quan trọng vào
việc tập trung gìn giữ tài liệu của 5 nguồn Quốc sử quán, Tàng thư lâu, Nội
các, Viện Cơ mật và Thư viện Bảo Đại vào cơ quan Lưu trữ và Thư viện của Nam
triều. Riêng đối với số Châu bản ở Nội các, dưới sự chỉ đạo của Ngô Đình Nhu,
đã được thống kê, lưu trữ trên kệ và sắp đặt có số thứ tự, đồng thời đã làm ra
được ba bản thống kê bằng chữ Hán và chữ Quốc ngữ. Nhờ vậy, đến nay, dù trải
qua chiến tranh số tài liệu trên vẫn được bảo quản an toàn.
Cũng trong thời gian từ 1942-1944, với chức danh Quản thủ viên Lưu
trữ và thư viện Trung Kỳ, Ngô Đình Nhu đã thực hiện tốt các nhiệm vụ: Thống kê
tất cả tài liệu của các kho khác nhau; tổ chức và sắp xếp hợp lý; và tổ chức
bảo quản trong một kho duy nhất trong điều kiện tốt nhất.
Có thể nói, trong thời gian ngắn (1938-1944), Ngô Đình Nhu đã có
những đóng góp quan trọng, tạo ra sự biến chuyển quan trọng đối với hoạt động
lưu trữ ở Việt Nam.
Nhìn chung, trong giai đoạn là nhà lưu trữ, Ngô Đình Nhu tỏ ra là
một con người có khả năng và chăm chú vào việc chuyên môn một cách “thuần túy”,
không màng tới chính sự. Với năng lực và sự đam mê nghề nghiệp, con đường công
danh của Ngô Đình Nhu liên tục phát triển mạnh. Chỉ trong 6 năm (từ năm 1938
đến năm 1943), ông ta được thăng hạng từ Cố vấn quản thủ hạng Ba lên Cố vấn
quản thủ hạng Nhất. Từ cố vấn quản thủ trở thành Quản thủ Sở Lưu trữ và Thư
viện của Tòa Khâm sứ Trung kỳ ở Huế năm 1943, điều mà chưa người Việt nào có
được trước đó.
Tuy nhiên, đến năm 1945, Cách mạng tháng Tám thành công, lật đổ
ách thống trị của thực dân Pháp và phát xít Nhật, Chính phủ lâm thời nước Vịêt
Nam dân chủ cộng hoà ra đời. Với chính sách đoàn kết dân tộc, chủ trương mời
tất cả những nhân sỹ yêu nước có tài, có nhiệt huyết tham gia xây dựng đất
nước. Nhận định Ngô Đình Nhu là một nhà trí thức, với nền tảng Nho học trong
một gia đình khoa bảng, lại được học chính quy về chuyên ngành văn bản giấy tờ
tại Pháp. Trong thời gian làm việc tại Nha Lưu trữ và Thư viện Đông Dương, Ngô
Đình Nhu được Giám đốc Paul Boudet đánh giá là một Lưu trữ viên – Cổ tự đầy
triển vọng, có văn hoá rộng và khả năng nghề nghiệp hoàn hảo. Nên ngày
8/9/1945, Bộ trưởng Bộ Nội vụ Võ Nguyên Giáp đã thay mặt Chính phủ lâm thời
nước Việt Nam dân chủ cộng hòa kí Sắc lệnh cử Ngô Đình Nhu làm Giám đốc Nha Lưu
trữ công văn và Thư viện toàn quốc. Song đây cũng là thời điểm, Ngô Đình Nhu
chuyển hướng từ hoạt động trí tuệ thuần túy sang hoạt động chính trị. Khước từ
trách nhiệm của một nhà trí thức trước vận mệnh của đất nước, từ bỏ chức vụ
Giám đốc Nha Lưu trữ công văn và thư viện toàn quốc, Ngô Đình Nhu tập hợp lực
lượng ra mặt chống phá cách mạng.
2. Vận động chính trị cho Ngô Đình Diệm
Năm 1946, Nhu cùng với Hoàng Bá Vinh trong nhóm Công giáo mà Nhu
đang tập hợp, chạy về Phát Diệm – khu an toàn của Công giáo thời đó. Ẩn náu ở
Phát Diệm ít ngày, Nhu chạy vào Thanh Hóa, nhờ linh mục xứ đạo ở đây che dấu,
giới thiệu kết bạn với Trần Kim Tuyến, vốn là chủng sinh ở tiểu chủng viện
Thanh Hóa mà sau này là Tổng Thơ ký Đảng Cần lao Nhân vị, trùm mật vụ của Đảng
Cần lao dưới chế độ Diệm. Tại đây, Nhu tham gia vào các tổ chức phản động đội
lốt Công giáo chống lại chính phủ kháng chiến của Việt Minh. Sau đó, Ngô Đình
Nhu tìm đường chạy trốn vào Nam.
Năm 1950, khi Ngô Đình Diệm sang Mỹ vận động chính trị, Nhu cùng
Bửu Dưỡng, Ngô Văn Thúy, Lý Văn Lập kết hợp thuyết Nhân Vị (Personalism) của
Emmannuel Mouriers với triết lý của Thiên Chúa giáo hình thành chủ thuyết Nhân
vị Duy linh, hay thuyết Nhân vị Á Đông nhằm hậu thuẫn cho anh trai. Trên nền
tảng thuyết Nhân vị (Personnalism) của nhà trí thức Thiên Chúa giáo người Pháp,
Emmanuel Mouniers, kết hợp với những bài thuyết giảng giáo lý của các giám mục
Công giáo, Ngô Đình Nhu cùng các linh mục hòa
trộn thêm một mớ tư tưởng góp nhặt gồm một ít từ giáo lý Thiên Chúa Giáo,
thuyết Kiêm Ai của Khổng Tử, vài nét của chủ nghĩa Tư bản cùng với chủ nghĩa
Duy Linh chống cộng do Nhu sáng tác để hình thành chủ thuyết vừa triết lý
vừa chính trị gọi là chủ nghĩa Nhân Vị. Về căn bản chủ thuyết nhân vị đề cao cá
nhân, lấy con người (ở đây là các vĩ nhân, một cá nhân riêng biệt) làm trung
tâm. Nhân Vị là vị thế của con người, lấy con người làm trung tâm trong mối
tương quan với đồng loại, thiên nhiên và Thượng đế. Người là trung tâm để phục
vụ, có ưu thế hơn các thực tế khác như dân tộc, nhân loại, hay nhu cầu vật
chất. Con người có phần xác và phần hồn, mà
linh hồn là cốt lõi vì nó là “một loài linh thiêng, vô hình,
bất tử và bất diệt”. Trên mặt triết học, học thuyết này triển khai có hệ
thống những phạm trù tôn giáo của thuyết
Duy Linh nặng nề về mặt tín ngưỡng của giáo lý Thiên Chúa giáo. Đến năm
1951, khi Nhu rời Đà Lạt xuống Sài Gòn khái niệm Cần Lao được thêm vào vế thứ
hai của lý thuyết. Và công khai phổ biến trên tuần báo Xã Hội.[6]
Tuy nhiên, chủ thuyết của Ngô Đình Nhu đã không được các trí thức
Việt Nam cùng thời thừa nhận. Kỳ giả Stanley Karnow đã nêu lên những nhận định
của những người đường thời về chủ thuyết này như sau: “Thuyết Nhân Vị của
Ngô Đình Nhu đã chịu 2 sự tai hại. Thứ nhất là ngay cả giới trí thức mà còn
không thể hiểu nổi thuyết đó là gì huống chi quần chúng. Thứ hai là ông Ngô
Đình Nhu bị người thừa kế của Mounier lên án là “gian lận” trên tờ báo Công
Giáo Esprit tại Pháp. Ngô Đình Nhu cố gắng tổng hợp một cách quá gượng ép nhiều
hệ thống tư tưởng vào thuyết Nhân Vị của ông ta, vì tuy chủ yếu mô phỏng thuyết
Nhân Vị Mounier nhưng ông lại muốn có những thêm bớt, đổi thay cho có vẻ đó là
sáng tạo độc lập riêng của mình. Đã thế ông Nhu tuy là một người Việt trí thức nhưng
lại xuất thân từ trường Tây nên không viết được hay không muốn viết bài bằng
quốc ngữ mà chỉ muốn viết bằng tiếng Pháp rồi có người dịch ra tiếng
Việt. Do đó bản dịch không lột hết được tư tưởng của ông ta. Nguyên bản tiếng
Pháp đã khúc mắc khó hiểu vì khó khăn diễn đạt thì bản dịch Việt ngữ chắc chắn
như một mớ chỉ rối. Chẳng trách, ngay đến giờ này, một lý thuyết gia đã từng
nhận là chỉ đạo sinh mệnh quốc gia suốt 9 năm trời như thế mà không để lại được
một tác phẩm nghiên cứu nào, lại càng không để lại một vết tích suy tư nào
trong tâm thức dân tộc [7]
Năm 1953, nhằm tạo lực lượng cho Diệm, Nhu cùng Trần Văn Đỗ, Trần
Chánh Thành, Nguyễn Tăng Nguyên, Trần Trung Dung xin phép Bửu Lộc – đang làm
Thủ tướng Chính phủ tay sai thực dân Pháp lúc đó, cho ra đời một lực lượng thợ
thuyền lấy tên là “Tổng Liên Đoàn Lao Công” dựa theo mô hình của lực lượng thợ
thuyền Thiên Chúa giáo Pháp. Vào tháng 9/1953, Nhu tiếp tục tổ chức hội nghị
“Đại đoàn kết”, đòi hỏi hòa bình cho Việt Nam gồm các đoàn thể chính trị gồm
luôn cả Bảy Viễn và các giáo phái. Song song đó, Nhu bí mật cho ra đời đảng
“Cần Lao Nhân Vị Cách mạng”. Năm 1954, Ngô Đình Nhu càng đẩy mạnh chủ thuyết
Nhân vị trong xã hội miền Nam, đồng thời đưa nó thành nền tảng tư tưởng của các
tổ chức do ông ta sáng lập, nhằm hậu thuẫn chính trị cho anh trai. Chủ thuyết này
và các lực lượng chính trị do Ngô Đình Nhu lập ra sau đó trở thành nền tảng tư
tưởng và cơ sở chính trị của chế độ độc tài Ngô Đình Diệm.
Phần ba: NGÔ ĐÌNH NHU
–
KIẾN TRÚC SƯ CỦA CHẾ ĐỘ VIỆT NAM CỘNG HÒA1955-1963
1. Vai trò của Ngô Đình Nhu đối với sự ra đời của chế độ Việt Nam
cộng hòa
Tháng 6-1954, trước khi Hiệp định Genève về chấm dứt chiến tranh,
lập lại hòa bình ở Việt Nam được ký kết, Ngô Đình Diệm được Mỹ đưa về Sài Gòn
làm Thủ tướng chính phủ Quốc gia Việt Nam do Bảo Đại làm Quốc trưởng. Với âm
mưu biến miền Nam Việt Nam thành con đê ngăn chặn làn sóng đỏ tràn xuống Đông
Nam á, Mỹ bất chấp Hiệp định Genève, hậu thuẫn cho Ngô Đình Diệm hất cẳng thực
dân Pháp, lập ra cái gọi là Việt Nam cộng hòa.
Việc ra đời của chế độ Việt Nam cộng hòa năm 1955 do Ngô Đình Diệm
cầm đầu, ngoài vai trò của Mỹ còn có sự trợ thủ đắc lực của Ngô Đình Nhu. Vai
trò của ông ta được thể hiện rõ nét qua việc thành lập hai tổ chức Đảng Cần lao
Nhân vị và Phong trào Cách mạng Quốc gia và điều khiển 2 tổ chức này thanh trừng các phần tử đối lập và tham
gia các “trò chơi” dân chủ do Mỹ – Diệm lập ra. Mà thể hiện rõ nhất là trong
cuộc trưng cầu dân ý, truất phế Bảo Đại và cuộc bầu cử Quốc hội lập pháp năm
1955.
Ngày 2 tháng 9 năm 1954, Đảng Cần lao Nhân vị chính thức thành lập
(Nghị định số 116/BNV/CT) [8],
với nòng cốt là các tổ chức, lực lượng Công giáo phản động được
thành lập từ sau cách mạng tháng Tám năm 1945, như: Liên đoàn Công giáo, Thanh niên Công giáo, Xã hội Công giáo,…
Thành phần của đảng này chủ yếu là chức
sắc và tín đồ Công giáo trong số dân di cư và công chức cùng sĩ quan trung
cao cấp trong quân đội, với số lượng đảng viên lên tới 70 ngàn người. Ban Chấp
hành Trung ương có các ủy viên: Trần Trung Dung, Nguyễn Tăng Nguyên, Lý Trung
Dung, Hà Đức Minh, Trần Quốc Bửu, Võ Như Nguyện, Lê Văn Đông do Ngô Đình Nhu
làm Tổng bí thư.
Đảng cương và tuyên ngôn của Đảng Cần lao đã cho thấy rõ vai trò
của nó cũng như của Ngô Đình Nhu đối với chính quyền Việt Nam cộng hòa.
Mục đích của đảng là: “tranh đấu để thực hiện lý tưởng cách
mạng Nhân vị… đoàn kết các tầng lớp dân chúng; kiến thiết Quốc gia trên bốn
lĩnh vực: tinh thần – xã hội – chánh trị và kinh tế” và hoạt động theo nguyên
tắc “dân chủ tập trung” [9].
Tuyên ngôn của Đảng Cần lao được phổ biến rộng rãi với những ngôn
từ cổ súy cho sự tự do, dân chủ theo kiểu Nhân vị. Một mặt phê phán Chủ nghĩa
Tư bản: “Công nghệ cực kỳ bành trướng mà con người vẫn bị đói rét. Những
phát minh khoa học, đã cải tạo được cả thiên nhiên, mà chỉ nhằm “lợi nhuận”,
không hề có mục đích phục vụ “nhu cầu” của đại đa số” [10].
Đồng thời xuyên tạc chủ nghĩa xã hội khi cho rằng: “dưới áp lực của
đoàn thể ở nơi này, cũng như ích kỷ cá nhân ở nơi khác, đời sống tinh thần và
vật chất của con người trở thành nô lệ truyền kiếp để phụng sự cho chủ nghĩa
duy vật”.
Về tổ chức,
phỏng theo mô hình tổ chức của các đảng Cộng sản, Ngô Đình Nhu đã tổ chức ĐCLNV
theo các cấp bộ từ trung ương đến cơ sở, với tổ chức cơ sở là chi bộ.
Nguyên tắc hoạt động đầu tiên của đảng này là bí mật: “tiềm lực của Đảng là cơ
sở bí mật tối cần thiết để bảo vệ cho các bộ phận công khai, gặp khi tình thế
thúc đẩy các hoạt động của Đảng phải rút hoàn toàn vào bí mật” [11].
Trong thời gian thế lực của Pháp ở miền Nam Việt Nam còn chiếm ưu
thế, nhất là trong quân đội Quốc gia Việt Nam, anh em Diệm đưa đảng viên vào
“nằm vùng” trong bộ máy quân sự ở các cấp, nhiệm vụ chủ yếu là do thám và thanh
trừng các phần tử đối lập trong bộ máy quân sự.
Năm 1955, sau khi giải quyết xong những “rào cản” là các phe phái
đối lập – thực chất là thế lực của Pháp ở chính trường miền Nam, trợ thủ cho
Ngô Đình Diệm thực hiện phế truất Bảo Đại, Ngô Đình Nhu chỉ đạo thành lập thêm
tổ chức Phong trào Cách mạng Quốc gia do Trần Chánh Thành làm chủ tịch.
Hai tổ chức này dưới sự chỉ đạo của Ngô Đình Nhu, đã điều khiển
toàn bộ tất cả các cơ quan, đoàn thể từ trung ương đến địa phương của trong bộ
máy của chính quyền Diệm ký đơn theo mẫu sẵn bôi nhọ Bảo Đại, và suy tôn Ngô
Đình Diệm, với nội dung: Lên án Bảo Đại là tên bán nước; Đồng thanh đòi
truất phế Bảo Đại; Suy tôn và thề trung thành với Ngô Thủ tướng. Đồng
thời trực tiếp tham gia cuộc bỏ phiếu
gian lận truất phế Bảo Đại.
Sau cuộc “đảo chính” Bảo Đại “thành công”, Ngô Đình Nhu tiếp tục
chỉ đạo hai tổ chức này tham gia cuộc bầu cử Quốc hội lập pháp khóa I. Kết quả
sau cuộc bầu cử, hai tổ chức này chiếm hơn 90% số ghế đại biểu trong quốc hội.
Vì vậy, ngày 20-10-1955, bản Hiến pháp – văn bản luật cao nhất, chính thức cho
ra đời chế độ Việt Nam cộng hòa do Ngô Đình Diệm làm Tổng thống, được quốc hội
thông qua mau chóng.
2. Ông cố vấn Ngô Đình Nhu
Ngay khi chế độ Ngô Đình Diệm được xác lập năm 1955, Ngô Đình Nhu
đã thiển hiện rõ vai trò kiến trúc sư thông qua việc xác lập nên tảng tư tưởng,
thiết lập cơ sở chính trị, cơ sở pháp lý, cũng như trực tiếp tham gia hoạch
định các chính sách, sách lược quan trọng của Việt Nam cộng hòa trong giai đoạn
1955-1963.
Với “hoài bão” chủ nghĩa nghĩa nhân vị sẽ bài trừ được lạc hậu,
đẩy lùi được chủ nghĩa Mác xít, như Ngô Đình Diệm khẳng định: “Trong một xã
hội hậu tiến như Việt Nam, nhiều cơ cấu nội bộ không thích hợp với một chế độ
kinh tế lấy nhân vị làm căn bản. Người ta sẽ phí công nếu chỉ bằng lòng tô sửa
lại những đường nứt nẻ ở một tòa nhà lung lay sắp đổ nát. Nếu là cần, chúng ta
phải mạnh dạn đập tan những cơ cấu lỗi thời ấy đi để đặt nền tảng cho những
công cuộc xây dựng mới lấy sự giải phóng nhân vị làm tiêu chuẩn. Làm như thế,
chúng ta sẽ tránh khỏi sự cám dỗ của chủ nghĩa mác-xít, là thuyết đã chủ trương
quyền tối thượng của kinh tế nhân vị”[12].
Nên khi chế độ Việt Nam cộng hòa được thành lập, Nhu đã lấy chủ
thuyết Nhân vị làm hệ tư tưởng cơ bản của chế độ. Nó được thể hiện rõ nén ngay
trong các thông điệp của tổng thống Ngô Đình Diệm và bản Hiến pháp của Việt Nam
cộng hòa.
Ngày 17-4-1956, trong thông điệp mà Ngô Đình Diệm gửi Quốc hội yêu
cầu cùng xây dựng Hiến pháp VNCH trên nền tảng Nhân vị Duy linh, ông ta
nói: “căn bản chỉ có thể là căn bản duy linh, con đường ấy là con đường
theo sát nhân vị, trong thể chất cũng như trong đời sống tập thể, trong sứ mệnh
thiêng liêng cũng như trong cố gắng để đạt tới mức toàn thiện, toàn Hoa Kỳ về
các phương diện lý trí, đạo đức và thiêng liêng” [13].
Ngày 26-10-1956, Hiến pháp của chế độ Việt Nam Cộng hòa ở miền Nam Việt Nam
được ban hành. Trong lời mở đầu bản Hiến pháp có ghi: “Xây dựng dân chủ
về chánh trị, kinh tế, xã hội, văn hóa cho toàn dân trong sự tôn trọng Nhân vị”[14].
Như vậy, nền tảng tư tưởng của chế độ đã được xác định, đó là thuyết Nhân vị.
Ngoài ra, chính quyền Diệm đẩy mạnh đưa chủ thuyết Nhân vị vào giảng dạy tại các giảng đường đại học,
chủ trương tuyên truyền chủ thuyết Nhân vị vào xã hội miền Nam.
Tạo dựng cơ sở chính trị cho chế độ Việt Nam cộng hòa, Ngô Đình
Nhu biến toàn bộ nhân viên guồng máy chế độ thành đảng viên Đảng Cần lao và
thành viên của Phong trào Cách mạng Quốc gia, biến hai tổ chức này thành một siêu chính quyền bên trong và bên trên
chính quyền Việt Nam cộng hòa.
Ngay trong tuyên ngôn của Đảng Cần lao, Ngô Đình Nhu cũng không
ngần ngại cho thấy quan điểm, khi cần thiết Đảng Cần lao sẵn sàng “nhảy ra”
thay thế chính quyền: “Nếu cần phải ứng phó với một tình trạng khẩn
trương đặc biệt, Trung ương cũng có trọn quyền chuyển toàn bộ cơ sở thành những
cơ cấu tổ chức hoạt động quyết liệt, để nắm vững phần chủ động trong mọi hoàn
cảnh. Ví dụ: nếu xét cần, cũng có thể thiết lập một Ủy ban chỉ đạo chánh trị,
một quân ủy hội, một bộ máy phòng gian và phản gián, một cơ quan quân pháp, một
tổ chức xã hội (y tế, cứu tế,…) trong tình thế đặc biệt, v. v…”[15].
Bên cạnh một bộ phận hoạt động công khai, Ngô Đình Nhu đưa phần
lớn đảng viên Đảng Cần lao tham gia hoạt động ngầm trong các tổ chức như: Thanh
niên Cộng hòa do Ngô Đình Nhu làm thủ lĩnh; Phong trào Phụ nữ Liên đới, Thanh
nữ Cộng hòa do Trần Lệ Xuân lãnh đạo; Sở Nghiên cứu chính trị – xã hội do Trần
Kim Tuyến, Tổng Thư ký Đảng Cần lao, đứng đầu; Lực lượng đặc biệt do Lê Quang
Tung đứng đầu.
Các tổ chức này tùy theo vị trí, không chỉ trực tiếp tham gia vào
guồng máy chính quyền VNCH, mà còn có nhiệm vụ theo dõi, giám sát hoạt động của các tổ chức chính trị và xã hội khác.
Tạo dựng cơ sở pháp lý cho chế độ Việt Nam cộng hòa, Ngô Đình Nhu
trực tiếp tham gia soạn thảo bản hiến pháp – văn bản luật cao nhất của chế độ. Do
đó, bản Hiến pháp này, có đầy đủ tư tưởng duy linh, hỗn tạp của chủ thuyết Nhân
vị, cùng với sự khẳng định quyền lực tối
cao của Tổng thống. Nhu đưa vào Hiến Pháp những nguyên tắc chính trị chà
đạp lên sinh hoạt dân chủ và quyền tự do của công dân để tập trung quyền hành
vào một thiểu số thống trị, tạo ra tính
độc tài trong bộ luật căn bản nhất và cao nhất của quốc gia….
Với chức vị chính thức là Dân biểu Quốc hội nhưng Ngô Đình Nhu
chưa bao giờ bước chân đến tòa nhà lập pháp để tham dự sinh hoạt “nghị trường”,
cũng như làm trách nhiệm dân cử mà chỉ ngồi tại dinh Độc Lập với vai trò cố vấn
chính trị bên cạnh tổng thống.
Chức cố vấn chính trị của Ngô Đình Nhu chưa bao giờ là một chức vụ chính thức của chính quyền như chức cố
vấn được công khai hóa và qui chế hóa như của Mỹ, Anh. Ngô Đình Nhu được ca
tụng là “cố vấn”, vì nắm trọn quyền hành quốc gia trong tay. Với vai trò là “cố
vấn chính trị” bên cạnh Tổng thống, Nhu trở thành bộ não của chế độ, nơi khai
sanh và điều khiển tất cả mọi sách lược của quốc gia. Với cái bề ngoài khôn
khéo, tế nhị và kín đáo, ông tỏ ra phục tùng người anh Tổng thống, nhưng quyền
hành thực sự lại nằm trong tay cố vấn chính trị Ngô Đình Nhu.
Đó cũng là một thực tế, do bên cạnh Ngô Đình Nhu ngoài cơ sở chính
trị to lớn, nắm toàn bộ guồng máy chế độ là Đảng Cần lao và Phong trào Cách
mạng Quốc gia, còn có các tổ chức đặc biệt, như Sở Nghiên cứu Chính trị của
Trần Kim Tuyến – thực chất là một tổ chức tình báo làm việc trực tiếp với Nhu
và lực lượng đặc biệt do Trần Quang Tung đứng đầu.
Với cơ sở đó, Ngô Đình Nhu thao túng bộ máy chế độ Việt Nam cộng
hòa. Các hồi ký của các tướng lĩnh, nhân vật của chế độ Sài Gòn đã cho thấy, ở
miền Nam Việt Nam không có điều gì mà Nhu không dám làm: rình rập cộng sự viên, bắt bớ một cách độc
đoán những người tình nghi là đối lập, vu khống, xuyên tạc và thẳng tay thủ
tiêu đối lập, lũng đoạn kinh tế.
Đỗ Mậu – một người từng ở bên cạnh nhà Ngô Đình, trong hồi ký đã
viết : “Ngô Đình Nhu chỉ có cái thực tài là tổ chức mạng lưới do thám
để cán bộ của ông ta trong quân đội và trong cơ quan chính quyền rình mò, theo
dõi, báo cáo những kẻ có ý chống đối chế độ và thăng thưởng cho những kẻ trung
thành với mình. Hệ thống đó chỉ làm nhiệm vụ bảo vệ chế độ với một mục
đích quá hẹp hòi, vì thế chế độ Ngô Đình Diệm đã mất đi sự ủng hộ của nhân
dân”.[16]
Còn tướng Cao Văn Viên nhận xét: “Ông Ngô Đình Diệm chỉ là
một symbol, một biểu tượng mà thôi; ông không thể làm gì nếu không có cố vấn
Nhu bên cạnh. Tất cả các bài diễn văn của Tổng thống Diệm đều do Nhu soạn thảo” [17].
Nhìn chung, trong chế độ Việt Nam cộng hòa, dù không có bất cứ một
chức vụ chính thức nào, là cố vấn chính trị của Tổng thống, Tổng bí thư Đảng
Cần lao nhân vị, Tổng thủ lãnh Thanh niên Cộng hòa (một tổ chức thanh niên do
Nhu lập ra, phỏng theo mô hình Đảng Sơ-mi Nâu của Hitler), người chỉ huy hai
ngành tình báo và mật vụ của chế độ Sài gòn, dân biểu Quốc hội, chủ tịch Ủy ban
liên bộ đặc trách ấp chiến lược, quyền hành của Ngô Đình Nhu là vô hạn, đôi khi
lấn lướt cả Tổng thống.
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1.
Biên bản Hội nghị Đảng Cần lao
Việt Nam ngày 16/1/1955, hồ sơ 29361, phông Phủ Tổng thống Đệ nhất Cộng hòa,
Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II.
2.
Bùi Tuân (1956), Xây dựng nhân
vị, Nxb Nhận Thức, Huế.
3.
Cao Văn Luận (1972), Bên dòng
lịch sử, Nxb Trí Dũng Sài Gòn.
4.
Chalie Nguyễn Chấn, Công giáo
bên bờ vực thẳm, Nxb Giao Điểm, 2001.
5.
Chu Bằng Lĩnh (1993), Đảng Cần
lao, Nxb Mẹ Việt Nam San Diego CA USA.
6.
Hồi ký Hoành Linh Đỗ Mậu – tâm
sự tướng lưu vong, Nxb CAND, HN-2001.
7.
Lê Cung (1999), Phong trào Phật
giáo miền Nam Việt Nam năm 1963, Nxb ĐH QGHN, Hà Nội.
8.
Lê Mậu Hãn chủ biên (1999), Đại
cương lịch sử Việt Nam, Nxb Giáo Dục, Hà Nội.
9.
Linh mục Trần Hữu Thanh, Cuộc
cách mạng Nhân vị, Phan Thanh Giản, Sài Gòn, 1955, vn610, kho tư liệu, Trung
tâm Lưu trữ Quốc gia II.
10.
Minh Tâm (1957), Chủ nghĩa Nhân
vị và Chủ nghĩa Cộng sản, Sài Gòn, ký hiệu vv. 579, kho Tư liệu, Trung tâm Lưu
trữ Quốc gia II.
11.
Đảng cương Cần lao Nhân vị cách
mạng Đảng, hồ sơ 29361, phông Phủ Thủ tướng Việt Nam Cộng hòa, Trung tâm Lưu
trữ Quốc gia II.
12.
Đảng quy Cần lao Nhân vị cách
mạng Đảng, 29361, phông Phủ Thủ tướng Việt Nam Cộng hòa, Trung tâm Lưu trữ Quốc
gia II.
13.
Tuyên ngô Đảng Cần lao Nhân vị.
14.
Nguyễn Xuân Hoài, Chế độ Việt
Nam cộng hòa ở miền Nam Việt Nam giai đoạn 1955-1963.
15.
Ngô Đình Nhu – Nhà lưu trữ Việt
Nam thời kỳ 1938-1946 của TS. Đào Thị Diến, Tạp chí Văn thư Lưu trữ Việt Nam số
1-2/2007;
Góp phần tìm hiểu chân dung nhà lưu trữ Ngô Đình Nhu của Cù Thị
Dung – Hà Kim Phương, Tạp chí Văn thư Lưu trữ Việt Nam số 9-2007;
Chú thích:
[1] Theo tác giả Văn Thư, báo An ninh Thế giới số ra ngày
7-3-2008: Ngô Đình Khả, tên theo đạo là Micae, sinh năm 1857 trong một gia đình
Công giáo ở làng Đại Phong, huyện Lệ Thủy, Quảng Bình và thời nhỏ cũng
được giáo dục theo những nguyên tắc chung của Nho giáo. Đồng thời với việc này,
cậu bé Khả thường được cha đẻ là Giacôbê Ngô Đình Niêm cho đi giúp lễ với một
vị linh mục Pháp ở họ đạo Mỹ Duyệt Hạ (cũng ở huyện Lệ Thủy). Năm 1870, Ngô
Đình Khả được linh mục Caspar (Lộc) cho đi học tại Đại chủng viện của dòng Thừa
sai Paris tại đảo Paulo Pinang, Mã Lai (Malaysia ngày nay). Dùi mài kinh đạo
cũng sáng dạ như ai nên trở về nước, Ngô Đình Khả được phân dạy môn triết tại
Đại chủng viện giáo phận Huế trong thời gian thử thách để được chọn lên chức
linh mục. Tuy nhiên, số phận của ông đã hẩm hiu vì qua nhiều năm, ngay cả khi
không ít học trò được thụ phong linh mục nhưng Ngô Đình Khả vẫn không được bề
trên ngó ngàng tới. Thế là năm 1878, Ngô Đình Khả đành rời tu viện làm giáo dân
bình thường và lấy vợ. Biết rõ vốn ngoại ngữ của Ngô Đình Khả, linh mục chính
xứ Phú Cam là Eugène Marie – Joseph Allys (1852-1936), đã giới thiệu Ngô Đình
Khả nhận thông dịch tài liệu tiếng Latinh và tiếng Pháp cho lính Pháp làm
phương kế sinh nhai… Ông cũng được làm thông ngôn cho các quan chức thực dân
với triều đình Nguyễn nên có nhiều mối quan hệ tế nhị. Những mối quan hệ đó đã giúp
Ngô Đình Khả có được ít nhiều hào quang nào đó trong con mắt của triều đình
Huế, vốn đang rất lép vế trước những kẻ ngoại bang da trắng. Và vì thế nên vua
Đồng Khánh đã giao cho Ngô Đình Khả chức tổng chỉ huy binh đội của triều đình.
[3] TS. Đào Thị Diến, Ngô Đình Nhu – nhà lưu trữ Việt Nam thời
kỳ 1938-1946, Tạp chí VTLT Việt Nam, số 1/2007.
[5] TS. Đào Thị Diến, Ngô Đình Nhu – nhà lưu trữ Việt Nam thời
kỳ 1938-1946, Tạp chí VTLT Việt Nam, số 1/2007.
[7] Hoành Linh Đỗ Mậu, Tâm sự tướng lưu vong (Việt Nam máu lửa
quê hương tôi), Nxb CAND, 2001, 212-213
[12] Con đường chính nghĩa độc lập, dân chủ – hiệu triệu và diễn
văn quan trọng của Tổng thống Ngô Đình Diệm quyển (I-V), vn792.
[13] Con đường chính nghĩa độc lập, dân chủ – hiệu triệu và diễn
văn quan trọng của Tổng thống Ngô Đình Diệm quyển (I-V), vn792.
[16] Hoành Linh Đỗ Mậu, Tâm sự tướng lưu vong (Việt Nam máu lửa
quê hương tôi), Nxb CAND, 2001, 315.
nghiencuulichsu hiệu đính và giới thiệu
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét