TRANH ĐẤU BẤT BẠO ĐỘNG
Lý Nguyên Diệu
Lý Nguyên Diệu
Để tưởng niệm ngày vị pháp vong thân của
Hoà Thượng Thích Quảng Đức 50 năm trước (1963-2013)
Trong bối cành một thế giới đang hừng hực nóng
từ lò lửa Trung Đông đến biên giới Thái-Miên, câu hỏi về sự hiệu nghiệm của
tranh đấu theo phương pháp “Bất Bạo
Động” bỗng trở nên quan trọng . Từ “Vô Vi”của Lão Tử đến “Bất Bạo Động” của
Gandhi là một con đường dài dẫn chúng ta từ an sinh cá nhân đến tranh đấu cho
xã hội. Và nói theo Marx thì có xã hội là có bất công. Nhất là khi nhìn vào cả
hai xã hội Cộng sản và Tư bản ngày nay, con cháu của Marx lại càng phải vất vả
tranh đấu chống bất công trường kỳ hơn cả Mao, thường trực hơn cả Trotsky, sáng
tạo hơn cả Obama.
Từ gốc rể, triết lý tranh đấu bất bạo động có
thể coi như được gói gọn trong câu nói nổi tiếng của Gandhi: “Phương tiện là
nhân mà mục đích là quả.” Nếu chúng ta sử dụng phương tiện vừa bạo, vừa
động thì sẽ gặt hái một kết qủa không bình, không yên. Đây chính là thuyết nhân
qủa ở một tiến trình praxis trong sáng và đơn giản nhất. Nhìn lại ba trường hợp
tranh đấu bất bạo động thành công dưới đây, hy vọng chúng ta sẽ tìm ra được
chìa khoá cho những vấn nạn quốc tế của những thập niên đầu của thế kỷ 21.
MAHATMA (Great Soul) GANHDI (1869-1948)
Phương pháp “Satyagraha” của Gandhi là một
tổng hợp của Can đảm, Bất bạo động và Sự thật. Phương pháp nầy đã
được ông áp dụng một cách hữu hiệu để chống lại đế quốc thực dân Anh đem lại
độc lập cho Ấn Độ.
Mahatma (Tâm Hồn Cao Thượng) Gandhi sinh
trưởng trong một gia đình trung lưu. Được cha mẹ dàn xếp để lấy vợ năm 13 tuổi.
Từ trẻ, ông đã chủ trương rằng giết thú vật để làm thực phẩm và áo quần là sai
lầm. Năm 18 tuổi qua Luân Đôn học Luật, sau khi ra trường, về Ấn Độ làm việc
nhưng không thành công, ông qua làm việc ở Nam Phi (lúc đó cũng là thuộc địa
của thực dân Anh). Thời gian đầu tiên, tuy là một luật sư, ông vẫn bị kỳ thị vì
là người Anh gốc Ấn. Tự đó, ông khởi đầu phong trào công nhân gốc Ấn chống kỳ
thị qua tờ báo Indian Opinion.cùng với những chiến dịch tranh đấu bất
bạo động và “dân bất tuân lệnh”
(civil disobedience). Dù bị giam tù nhiều lần, Gandhi cũng đạt được kết qủa là
chính quyền Anh đã nhượng bộ một sốquyền lợi cho người lao động gốc Ấn ở Nam
Phi.
Đệ Nhất Thế chiến bùng nổ, ở tuổi 49, Gandhi
trở về Ấn để tranh đấu cho độc lập của quê hương thoát vòng cai trị của đế quốc
Anh, một đế quốc “luôn có mặt trời không bao giờ lặn” (the sun never sets).
Trong vòng 5 năm, ông trở thành lãnh tụ của phong trào tranh đấu toàn nước Ấn.
Chính quyền thực dân đưa ra luật Rowlatt để cấm tổ chức chống chính quyền. Ông
dẫn đầu các cuộc nỗi dậy dùng phương pháp “Satyagraha” nhưng không hoàn toàn
thành công. Tuy nhiên, niềm tin nầy vẫn càng trở nên sắt đá hơn nhờ vụ người
Anh dùng bạo lực thảm sát gần 400 dân Ấn tại Amritsar năm 1919 càng làm cho
chính quyền thực dân Anh thêm yếu kém và mất uy tín. Năm sau đó, ông khởi xướng
chương trình tự dệt vải với 3 mục tiêu rõ rệt: (1) Tạo dựng tinh thần tự lập
cho người dân Ấn (2) Nâng cao giá trị của lao động để người Ấn ý thức được khái
niệm tự do và (3) tẩy chay kỷ nghệ dệt vải của “mẫu quốc” Anh để chuẩn bị cho
một nền độc lập tự chủ.
Năm 1930, cũng trong tinh thần tranh đấu cho
tự túc tự cường bằng phương pháp bất bạo động, Gandhi dẫn đầu một cuộc di hành
vĩ đại dài gần 400 cây số xuống biển để làm muối chống lại đạo luật chỉ được
mua muối của chính quyền thực dân. Trong suốt ĐệNhị Thế Chiến (1939-1945) ông
liên tục hướng dẫn nhân dân Ấn biểu tình bất bạo động cho đến năm 1947, sau
tổng cọng 7 năm Gandhi vào tù ra khám, nước Anh đã phải bằng lòng trả lại độc
lập cho dân Ấn.
Chủ trương bất bạo động mà ông cổ xúy không
bắt nguồn từ niềm tin Ấn Độ giáo của ông mà từ những suy nghiệm tự thân về bản
chất con người. Ông chống lại những tôn giáo có tổ chức (organized religion) mà
một câu nói nổi tiếng của ông là “Tôi thích Chúa Kitô nhưng tôi không thích
các tín hữu Kitô giáo. Họ chẳng giống Chúa Kitô chút nào cả” (I like your
Christ, I do not like your Christians. Your Christians are so unlike your
Christ - Nguồn: Wikipedia)
Theo Gandhi, thật sự bất bạo động đòi hỏi tính
can đảm. Muốn đạt được can đảm phải vượt qua lòng sợ hãi. Và ông đã dạy dân Ấn
vượt qua lòng sợ hãi bằng lòng yêu quê hương.Khi người ta yêu quê hương thì
chết cũng không sợ. Yếu tố thứ hai trong phương pháp Satyagraha của ông là
sự thật. Loại “Sự Thật” có thể được tìm thấy bằng tính khoan dung và lòng
thương tha nhân. Để nhấn mạnh yếu tố nầy, Gandhi đã đặt tựa của Hồi ký là “My Experience with Truth” (Kinh Qua Đời
Tôi với Sự Thật”).
Sau khi ông bị một tín đồ Ấn Độ giáo cực đoan
ám sát chết, nhà bác học Albert Einstein đã tuyên bố: “Những thế hệ tương lai khó mà tin được trái đất nầy đã có một người như
vậy hiện hữu bằng xương bằng thịt” (“Generations to come will scarcely
believe that such a one as this walked the earth in flesh and blood.”)
MARTIN LUTHER KING JR. (1929 – 1968)
Ông là một trong hai anh hùng của nước Mỹ mà
ngày sinh nhật được chọn làm ngày quốc lễ (người kia là George Washington).
Cuộc tranh đấu cho dân quyền bất bạo động từ 1955 đã mang lại cho ông vinh dự
là người trẻ tuổi nhất được nhận giải thưởng Nobel Hoà Bình.
Martin Luther King Jr. (MLK) sinh trưởng trong
một gia đình có 3 đời làm Mục sư phái Tin lành Báp-tít. Ông cũng là tác giả của
5 cuốn sách viết từ khởi đầu của cuộc tranh đấu năm 1958. Sau khi được thụ
phong Mục sư năm 1948, ông tiếp tục học và lấy bằng Tiến sĩ Thần học tại Đại
học Boston University năm 1955.
Năm 1955 là thời điểm xuất phát cuộc tranh đấu
của ông với mục tiêu đầu tiên là đạt được bình quyền cho người da đen tại thành
phố Montgomerry qua đạo luật kỳ thị bắt người da đen trên xe buýt phải nhường
ghế ngồi cho người da trắng. Các lãnh tụ da đen trong thành phố nầy đã mời ông
cầm đầu phong trào tranh đấu. Trong bài diễn văn nhậm chức, ông tuyên bố: “Điều
tiên quyết phải xác định chúng ta là công dân nước Mỹ. Chúng ta không kêu gọi
bạo động. … Sự huy hoàng vĩ đại của nền dân chủ Mỹ là quyền được phản đối để
được quyền.” Vũ khí của MLK trong cuộc tranh đấu nầy là kêu gọi quần
chúng tẩy chay xe búyt. Chỉ một năm sau, Tối cao Pháp viện Liên bang ra lệnh
thành phố Montgomerry phải đối xử bình quyền trong hệ thống chuyên chở công
cộng. Chiến thắng nầy đã giúp MLK đương nhiên trở thành lãnh tụ phong trào
tranh đấu cho dân quyền trong nước Mỹ.
Từ vấn đề chuyên chở, cuộc tranh đấu lan qua
bình quyền trong các lãnh vực giáo dục, lao động, nhà ở, chính trị (quyền bầu
phiếu).và kinh tế. Những lãnh vực căn bản mà sự kỳ thị bất công trong xã hội Mỹ
đã hiển hiện đến mức người da trắng (kể cả tài tử Paul Newman, Warren Beatty)
cũng xuống đường biểu tình ủng hộ ông. Các cơ quan truyền thông đăng tải hình
ảnh những người da đen biểu tình cam chịu trước những vòi xịt nước và những con
chó hung dữ đã làm quần chúng Mỹ bắt đầu quan tâm. Cao điểm của phong trào
tranh đấu là cuộc tuần hành vào mùa Hè năm 1963 với hơn 250,000 người Mỹ đủ sắc
dân biểu tình không gậy gộc, gươm dao tại Hoa Thịnh Đốn. Vũ khí của họ chỉ là
giọng ca cao vút của Joan Baez qua bài hát nổi tiếng “We Shall Overcome” (Chúng
ta sẽ vượt qua, Một ngày nào đó chúng ta sẽ vượt qua, vì tự đáy lòng chúng ta
tin là sẽ vượt qua – Nghe như câu chú “Gate Gate ParaGate …” của Bát Nhã
Tâm Kinh vậy).
Năm 1964, Quốc hội Mỹ ban hành Sắc luật Bảo vệ
Dân quyền (Cìvil Rights Act). Qua năm sau, với hậu thuẫn của Tổng Thống Lyndon
Johnson, Quốc hội Mỹ ban hành sắc luật cho phép người da đen đi bầu (Voting
Rights Act). Những thành công đó của ông cũng chưa làm vừa lòng nhóm SNCC (Ủy
ban Sinh viên Bất Bạo động) đến mức họ bắt đầu dùng khẩu hiệu “Black Power”
(“Quyền lực Người Da Đen”) và có khuynh hướng muốn sử dụng những phương tiện
bạo động làm cho MLK lo ngại cho nguyên tắc tranh đấu theo lối Gandhi của ông.
Theo ông, “phương tiện tranh đấu cũng phải trong sáng như mục tiêu mà chúng
ta ước mong”. Năm 1967, MLK tập trung tất cả ưu tiên vào mục tiêu chống
nghèo đói mà ông cho là đầu mối của tất cả thảm trạng mà người da đen ở Mỹ phải
nhận chịu.
Tháng 4 năm 1968, ông đến Memphisđể ủng hộ
cuộc đình công của công nhân đổ rác và bị một người tội phạm da trắng bắn chết.
Ngày nay, học sinh trung học Mỹ đều phải học
về bài diễn văn nổi tiếng của ông đọc tại Hoa Thịnh Đốn trong cuộc biểu tình
năm 1963: “I Have A Dream” (“Tôi Mơ Một Giấc Mơ”) để nói về khát vọng tự
do, bình quyền của người dân trong một cường quốc mạnh nhất thế giới. Nhiều
người đã tự hỏi có phải bài diễn văn nầy đã biến “một giấc mơ “ thành một hiện
thực của một nước Mỹ năm 2008 với Tổng thống da đen Barrack Hussein Obama?
THÍCH QUẢNG ĐỨC (1897 – 1963)
Trong cuộc tranh đấu dài 6 tháng vào năm 1963
giữa Phật Giáo Việt Nam và chính quyền của Tổng thống Ngô Đình Diệm, cuộc tự
thiêu của Hoà Thượng Thích Quảng Đức (HT) được coi như cao điểm của tinh thần
vô úy, bất bạo động của đạo Phật. HT tên thật là Lâm Văn Tuất sinh tại huyện
Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa. Năm 7 tuổi đã vào chùa tu hành. Năm 20 tuổi, đạt phẩm
Tỳ Kheo, pháp hiệu Quảng Đức. Sau đó, HT tịnh tu ba năm trên một ngọn núi ở Ninh
Hòa gần bờ biển Đại Lảnh.
Trong thời gian hành đạo tại miền Trung, HT đã
kiến tạo và trùng tu tất cả 14 ngôi chùa. Năm 1943, rời Khánh Hòa vào Nam, HT
hành đạo khắp Sài Gòn, 6 tỉnh Nam kỳ. Trong ba năm ở Nam Vang, HT vừa giáo hóa
các Phật tử kiều bào, vừa nghiên cứu kinh điển PaLi và Phật giáo Nam Tông. Năm
1958, trủ sở Hội Phật học Nam Việt, mà HT là Phó Trị sự, dời về chùa Xá Lợi ở
Sài Gòn.
Đầu tháng 5 năm 1963, khi chính quyền cấm treo
cờ trong ngày lễ Phật đản và thảm sát 8 người biểu tình ở Huế, hình thức tranh
đấu của Phật giáo chỉ là biểu tình và tuần hành bất bạo động. Trước phản ứng
hung bạo của chính quyền qua các cuộc bắt bớ Phật tử, phong toả chùa chiền,
Phật giáo tăng mức độ chống đối lên đồng loạt tuyệt thực của các sư và Phật tử.
Nghĩa là vẫn bất bạo động. Nhưng cũng vẫn chưa“khai thị” được chính quyền.
Cuối tháng 5/1963, HT viết thư xin tự thiêu
nhưng bị các cấp lãnh đạo Phật giáo từ chối. Đến đầu tháng 6, khi cuộc khủng
hoảng như đang đi vào bế tắc vì chính quyền không bày tỏ thiện chị thực hiện 5
nguyện vọng, Phật giáo nâng hình thức tranh đấu bất bạo động ở mức cao nhất: Không
thiêu đốt kẻ thù mà thiêu đốt tấm thân “ngũ uẩn giai không” của chính mình để
đưa cao ngọn đuốc soi sáng đầu óc vô minh. Trong di chúc để lại, HT có viết
thẳng cho người lãnh đạo chính quyền đang đàn áp Phật giáo, đối tượng của cuộc
tự thiêu, một cách hiền hoà, từ bi và đầy tình dân tộc:
“Mong ơn Phật Tổ gia hộ cho Tổng thống NgôĐình
Diệm sáng suốt chấp nhận năm nguyện vọng tối thiểu của Phật giáo Việt nam . . .
Cầu nguyện cho đất nước thanh bình, quốc dân an lạc... “
Ngày 11 tháng 6 năm 1963, trong một cuộc tuần
hành của 800 nhà sư Phật giáo, HT Thích Quảng Đức đã ngồi tự thiêu trên một ngả
tư lớn giữa trung tâm thủ đô Sài Gòn trước sự chứng kiến của lực lượng Cảnh
sát, Phật tử và các phóng viên ngoại quốc. Cái chết bất chợt và bi hùng nầy đã
tạo nên ba loại phản ứng:
(1) Từ chính quyền: Thứ nhất là một câu tuyên
bố để lộ bản chất độc tài, vô chính trị của TT Diệm: “Sau lưng Phật giáo
trong nước còn có Hiến pháp, nghĩa là có tôi.” Và thứ hai là một câu
của bà Cố vấn Ngô Đình Nhu bị cả thế giới lên án: "Tôi sẽ vỗ tay khi
thấy một vụ nướng sư khác" (I would clap hands at seeing another monk
barbecue show) và nếu ai thiếu xăng dầu tôi sẽ cho. Tôi còn thách mấy ông
sư thêm mười lần nữa. Phương pháp giải quyết vấn đề Phật giáo là phớt lờ, không
cần biết tới".
(2) Từ người dân Việt: Im lặng trước chính
quyền đang say máu. Nhưng trong lãnh vực văn hoá có ba phản ứng bất bạo
động: Thứ nhất là quyết định từ chức của một số giáo sư Đại học (LM Cao văn
Luận, giáo sư Phạm Biểu Tâm, giáo sư Vũ Văn Mẩu). Thứ hai là nhà văn Nhất Linh
uống thuốc độc “tự hủy mình cũng như Hoà Thượng Thích Quảng Đức đã tự thiêu”.
Và thứ ba là bài thơ “Lửa Từ Bi” đầy máu lệ của Đại thi sĩ Vũ Hoàng
Chương được phát hiện sau khi chính quyền bị lật đổ với 5 câu thơ khởi đầu:
Lửa! Lửa cháy ngất tòa sen!
Tám chín phương nhục thể trần tâm hiện thành
thơ, quỳ cảxuống.
Hai vầng sáng rưng rưng, Đông Tây nhòa lệ
ngọc,
Chắp tay đón một mặt trời mới mọc.
Ánh Đạo Vàng phơi phới đang bừng lên, dâng lên
...
(3) Từ dư luận quốc tế: Hầu như toàn thể các
cơ quan truyền thông trên thế giới đều đăng lại tấm hình tự thiêu hùng tráng và
bi thiết nầy. Ngày 14 tháng 6, nhật báo New York Times đăng trên trang nhất
“Mỹcảnh cáo Việt-Nam về những nguyện vọng của Phật giáo: (TT) Diệm được bảo là
ông ta có thể bị khiển trách nếu không thỏa mãn được những kêu ca chính đáng về
tôn giáo.” ("U.S. Warns South Vietnam on Demands of Buddhists: Diem is
told he faces censure if he fails to satisfy religious grievances, many of
which are called just."). Sử gia Seth Jacobs nhân xét là HT
Thích Quảng Đức “cũng đã đốt ra tro con
bài Ngô Đình Diệm của Mỹ” ("reduced America's Diệm experiment to ashes
as well").
Về phía Công giáo, là đạo của TT Diệm, Giám
mục Nguyễn văn Bình của Tổng giáo phận Sài Gòn kêu gọi chính quyền áp dụng
khoan dung tôn giáo. Linh mục Lê Quang Oánh nhân danh khối tu sĩ Đồng Tâm lên án
“tội bất công” đã giết hại đồng bào Phật tử vô tội (ngày 12/5). Và bất chấp cả
lời kêu gọi (ngày 17/8) của Giáo hoàng Paul VI từ Vatican thúc dục TT Diệm giải
quyết vụ khủng hoảng Phật giáo, đêm 20/8, như một ngọn lửa rơm bùng lên trước
khi tắt, chính quyền phát động chiến dịch “Nước Lũ”, đem quân tấn cống
các chùa Phật tại hầu hết các tỉnh trên toàn miền Nam và bắt nhốt cấp lãnh đạo
Phật giáo và rất nhiều nhà sư, Phật tử, sinh viên, học sinh.
Cuối tháng 10, Liên Hiệp Quốc cử 1 phái đoàn
đến Việt-Nam để điều tra tình trạng đàn áp tôn giáo của chính quyền TT Ngô đình
Diệm. Nhưng đã quá trễ. Đầu tháng 11 năm 1963, quân đội nghe theo tiếng gọi của
toàn dân, đứng lên lật đổ chính quyền Ngô Đình Diệm trong một cuộc binh biến
ngắn ngủi, nhanh chóng không đến 24 giờ vì gần như không có kháng cự.
Bốn mươi tám năm sau hành động chống đối bất
bạo động đó, tháng 9 năm 2010, một tượng đài tưởng niệm Bồ Tát Thích Quảng Đức
được khánh thành tại Sài Gòn ngay ở địa điểm mà HT đã tự thiêu.
KẾT LUẬN
Nhìn lại cả ba cuộc tranh đấu, những yếu tố
đáng chú ý là:
- Mức độ bất bạo động luôn luôn
được phe tranh đấu giữ ở tình trạng tối đa theo nghĩa không có một chống
đối, chạm trán nào đưa đến hậu qủa xương rơi máu chảy cho phiá có quyền,
có lực dù phía nầy đã bạo động không nương tay (ở Amritsar, ở Alabama, ở
Huế).
- Phe cầm quyền là một chính
quyền thực dân, đế quốc (cho Gandhi). một truyền thống chính trị bị lạm
dụng (cho Marin Luther King Jr.) và một chế độ đôc tài, gia đình trị và
giáo trị (cho HT Thích Quảng Đức). Đây là những quyền lực không xuất sinh
từ quần chúng, không phục vụ quần chúng và không được quần chúng ủng hộ.
- Kết qủa là những lực lượng chủ trương sử dụng bạo động đã phải đầu hàng, nhượng bộ hoặc bị lật đổ trước một phương pháp tranh đấu với tinh thần Satyagraha - Canđảm cùng cực, Bất bạo động tuyệt đối và Sự thật không thể chối cải.
Vậy thì ta có nên hy vọng một ngày nào, sau
hơn nửa thế kỷ bạo động với hàng trăm ngàn nhân mạng tử vong, sẽ có những
Gandhi, những Martin Luther King, những Thích Quảng Đức cùng chung nhau quạt
tắt những lò lữa âm ỉ hay bùng cháy đang thiêu đốt nền hòa bình mong manh trên
thế giới hiện nay không ?
LÝ NGUYÊN DIỆU
[Cập nhật 5/2013]
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét