THE PENTAGON
PAPERS: BIẾN ĐỘNG PHẬT GIÁO
Từ Ngày 8-5 Tới
21-8-1963
·
Hồ
Sơ Mật Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ về Cuộc Chiến VN
·
Giải
Mật Ngày 13-6-2011
Dịch theo bản văn từ trang nhà của Đại Học Mount Holyoke College:
(LỜI NGƯỜI DỊCH: The
Pentagon Papers là tên gọi tắt một hồ sơ tối mật về Cuộc Chiến Việt Nam; theo
Wikipedia, hồ sơ này tên chính thức là “United States – Vietnam Relations,
1945–1967: A Study Prepared by the Department of Defense” (Quan Hệ Mỹ-Việt,
1945--1967: Cuộc Nghiên Cứu Thực Hiện Bởi Bộ Quốc Phòng). Hồ sơ này được giải mật và phổ biến công khai
năm 2011.
Bộ
Trưởng Quốc Phòng Hoa Kỳ Robert McNamara thành lập Ban Đặc Nhiệm Nghiên Cứu Về
Việt Nam ngày 17-6-1967, có nhiệm vụ viết một “tự điển bách khoa về Cuộc Chiến
Việt Nam,” mà theo ông là để lưu hồ sơ cho các sử gia và để ngăn cản các sai lầm
chính sách trong các chính phủ Hoa Kỳ tương lai.
Hồ
sơ này thực hiện bởi 36 nhà phân tích – phân nửa là các sĩ quan đương nhiệm lúc
đó, phần còn lại là các học giả và các viên chức dân sự liên bang -- phần lớn dựa
vào các hồ sơ có sẵn trong Bộ Quốc Phòng. Hồ sơ gồm 3,000 trang phân tích lịch
sử, và 4,000 trang tài liệu gốc của chính phủ, soạn thành 47 tập, và xếp loại “Top
Secret – Sensitive” (“Tối Mật -- Nhạy Cảm.” Chữ “nhạy cảm” chỉ có nghĩa là việc
phổ biến hồ sơ sẽ làm chính phủ Mỹ mất mặt.)
Ban
Đặc Nhiệm in hồ sơ làm 15 ấn bản duy nhất. Ngày giải mật và phổ biến tới các thư
viện Tổng Thống, và tới Trung Tâm Giải Mật Quốc Gia của Văn Khố Liên Bang là ngày
13-6-2011.
Sau
đây là bản dịch về tình hình Phật Giáo Việt Nam thời gian từ ngày 8-5-1963 tới
ngày 21-8-1963, nằm trong “Chapter 4, ‘The Overthrow of Ngo Dinh Diem,
May-November, 1963’ pp.201-276” thuộc Tập 2.
Một
số ghi nhận về hồ sơ này trong bối cảnh từ ngày 8-5-1963 cho tới ngày
21-8-1963:
-
Ông
Diệm biệt đãi Thiên Chúa Giáo, kỳ thị Phật
Giáo;
-
Thảm
sát ở Huế ngày 8-5-1963 xảy ra tình cờ,
bất ngờ;
-
Trách
nhiệm thảm sát ở Huế là do chính quyền
Huế, nhưng ông Diệm đổ tội cho VC;
-
Biểu
tình ngày 3-6-1963 bị đàn áp bằng hơi cay, Mỹ nghi có hơi độc mustard gas;
-
Cuộc
vị pháp thiêu thân của HT Thích Quảng Đức gây
chấn động toàn cầu;
-
Thông
Cáo Chung 16-6-1963 không được ông Diệm
thực thi, và bị ông Nhu phá;
-
Cao
điểm sự tráo trở của chính phủ ông Diệm
là cuộc tổng bố ráp các chùa toàn quốc ngày 21-8-1963, bắt 1.400 nhà sư
trong đó có Hòa Thượng Thích Tịnh Khiết (Hội chủ của Tổng Hội Phật giáo Việt
Nam) và Thượng Tọa Thích Tâm Châu (Ủy ban Liên phái Phật Giáo).
Độc
giả có thể đọc thêm nguyên bản Anh văn kèm dưới đây. Bản dịch thực hiện bởi Cư Sĩ Nguyên Giác.)
BẢN VIỆT DỊCH
Sự
kiện tại Huế ngày 8 tháng 5-1963 -- một sự kiện dẫn tới những gì được gọi là cuộc
khủng hoảng Phật giáo và khởi sự cho một chuỗi sự kiện đã tận cùng dẫn tới việc
lật đổ chế độ ông Diệm và hạ sát anh em nhà Ngô – đã xảy ra một cách tình cờ và
bất ngờ.
Không
ai thấy trước rằng sự kiện Huế sẽ khởi lên một vận động đối lập toàn quốc có khả
năng gần như tất cả những người dị biệt chính kiến và không Cộng sản tại Nam Việt
Nam. Một cách quan trọng hơn, lúc đó chưa ai nhận ra đúng về mức độ bất mãn của
dân Việt Nam đối với chính phủ ông Diệm, cũng như về mức độ mục nát chính trị
trong chế độ, một chế độ không còn khả năng đối phó với sự bất mãn rộng lớn.
Cội
nguồn tôn giáo của sự kiện này có thể dò tới cuộc di cư đông đảo của người tỵ nạn
Thiên Chúa Giáo ra khỏi Bắc Việt Nam sau khi Pháp thua trận năm 1954. Khoảng một
triệu tín đồ Thiên Chúa Giáo rời bỏ Miền Bắc và định cư ở Miền Nam. Ông Diệm --
một cách hiển nhiên, vì động cơ tôn giáo và nhân đạo, và với ý định tuyển một hậu
thuẫn chính trị từ đồng đạo của ông – đã biệt đãi những người tỵ nạn Thiên Chúa
Giáo này qua việc cấp đất, cứu trợ và hỗ trợ, cấp giấy phép thương mại và xuất
nhập cảng, ưu tiên tuyển làm công chức, và các biệt đãi khác từ chính phủ. Bởi
vì ông Diệm có thể dựa vào sự trung thành của họ, họ được điền vào gần như tất
cả các chức vụ quân sự và dân sự quan trọng.
Như
một định chế, Giáo Hội Thiên Chúa Giáo hưởng một quy chế pháp lý đặc biệt. Tổng
Giám Mục Ngô Đình Thục là anh và là cố vấn của ông Diệm. Nhưng trước năm 1962,
không có kỳ thị minh bạch chống người Phật Tử. Tuy nhiên, tại Nam Việt Nam nơi
có từ 3 tới 4 triệu Phật Tử tu học và có 80% dân số là Phật Tử trên danh nghĩa,
chính sách của ông Diệm – thiên vị Thiên Chúa Giáo, độc tài toàn trị, và kỳ thị
tôn giáo – đã làm ngún cháy sự bất mãn.
Vào
tháng 4-1963, chính phủ ra lệnh các quan cấp tỉnh thực hiện một lệnh cấm, nguyên
đã có từ lâu nhưng thường bị bỏ lơ, về treo cờ tôn giáo. Lệnh này đưa ra vừa
sau những lễ hội được khuyến khích chính thức tại Huế để kỷ niệm 25 năm ngày ông
Ngô Đình Thục được tấn phong Tổng Giám Mục Huế, mà trong dịp đó cờ Vatican treo
đầy khắp. Lệnh này cũng đưa ra, như đã xảy ra, vừa trước ngày Phật Đản (ngày 8
tháng 5-1963), một Đại Lễ Phật Giáo.
Huế,
cố đô của Việt Nam, lúc đó là trung tâm thực sự duy nhất về học Phật và học bổng
về tu học Phật Giáo tại Việt Nam, và đại
học nơi đây (Huế) từ lâu là một trung tâm của những bất đồng khuynh tả. Không
ngạc nhiên gì, lúc đó, Phật Tử Huế đã treo cờ của họ bất chấp lệnh cấm và, khi
chính quyền địa phương ra vẻ như đã nhượng bộ về lệnh cấm treo cờ, Phật Tử biểu
lộ cứng rắn hơn để sẽ tổ chức một cuộc tụ họp đông người theo lịch trình trước đó
đã định vào ngày 8 tháng 5 để mừng Phật Đản.
Nhìn
thấy cuộc tụ họp đông người đó như một thách thức đối với ảnh hưởng của gia đình
họ Ngô (Huế cũng là thủ đô lãnh địa chính trị của Ngô Đình Cẩn, em của ông Diệm)
và đối với chính quyền địa phương, các viên chức địa phương tìm cách giải tán đám
đông. Khi các nỗ lực ban đầu không có kết quả, Phó Tỉnh Trưởng (cũng là giáo dân
Thiên Chúa Giáo) ra lệnh cho lính của ông nổ súng. Thế là dẫn tới hỗn loạn, 9
người bị giết, trong đó có vài trẻ em, và 14 người bị thương. Xe bọc sắt được
cho là đã cán lên một số nạn nhân. Chính quyền ông Diệm sau đó loan tin rằng một
cán bộ Việt Cộng đã ném một quả lựu đạn vào đám đông và rằng các nạn nhân bị giẫm
đạp bởi đám đông hỗn loạn. Chính phủ ông Diệm nhất quyết không chịu nhận trách
nhiệm, ngay cả khi các quan sát viên độc lập đưa ra các đoạn phim cho thấy quân
chính phủ bắn vào đám đông.
Cá
tính quan lại của ông Diệm không cho phép ông xử lý cuộc khủng hoảng này với sự
linh động và tế nhị cần thiết. Ông Diệm không có thể công khai nhận trách nhiệm
về thảm kịch và tìm sự hòa giải với những Phật Tử giận dữ. Ông còn tin rằng sự
mất mặt công khai như thế sẽ làm suy yếu thẩm quyền cai trị của ông, hiển nhiên
đối với sự kiện rằng không nhà lãnh đạo thời hiện đại nào có thể từ lâu đã bỏ mặc
sự bất mãn lớn lao như thế bất kể rằng đạo đức cá nhân riêng ông có thể tốt như
thế nào. Do vậy chính phủ bám chặt vào cách giải thích riêng về chuyện đã xảy
ra.
Ngày
kế tiếp ở Huế, hơn 10,000 người biểu tình để phản đối cuộc thảm sát. Đó là cuộc
biểu tình đầu tiên của một chuỗi dài những biểu tình mà Phật Tử dùng để áp lực
chế độ ông Diệm trong 4 tháng kế tiếp. Phật Tử đã mau chóng tự tổ chức, và vào
ngày 10 tháng 5-1963, bản Tuyên Ngôn của các chức sắc Phật Giáo trình lên chính
phủ, yêu cầu được tự do treo cờcủa họ, được bình đẳng về pháp lý với Giáo Hội
Thiên Chúa Giáo, xin ngưng việc bắt bớ, xin tự do trong việc hành đạo, và xin bồi
thường các nạn nhân sự kiện ngày 8 tháng 5-1963 cùng với trừng phạt những kẻ trách
nhiệm.
Năm
nguyện vọng này chính thức trình lên Tổng Thống Diệm ngày 15 tháng 5-1963, và
Phật Tử đã tổ chức buổi họp báo đầu tiên của họ sau buổi trao Tuyên Ngôn đó. Những
cuộc tuyệt thực và những buổi họp liên tục cho hết tháng 5, nhưng ông Diệm tiếp
tục trì trệ trong việc giải quyết vấn đề và gây bất mãn thêm.
Vào ngày 30-5-1963, khoảng 350 nhà sư Phật Giáo
biểu tình trước tòa nhà Quốc Hội ở Sài Gòn, và cuộc tuyệt thực 48 giờ được loan
báo. Vào ngày 3-6-1963, một cuộc biểu tình
ở Huế bị giải tán bằng hơi cay và nhiều người bị phỏng, dẫn tới các cáo buộc rằng
lính ông Diệm đã sử dụng hơi độc mustard gas (LND: mustard gas là chất lỏng gây phỏng da và cơ, có thể
chết người, được dùng làm vũ khí hóa học từ Thế Chiến I). Vào ngày 4-6,
chính phủ loan báo bổ nhiệm một ủy ban liên bộ chỉ huy bởi Phó Tổng Thống Thơ để
giải quyết vấn đề tôn giáo, nhưng vào lúc này cử chỉ đó có lẽ đã quá trễ. Phần
lớn dân số thành thị đã tham dự những cuộc biểu tình Phật Giáo, nhận ra trong họ sự khởi đầu của đối lập chính trị
chân thực đối với ông Diệm. Vào ngày 8-6, bà Nhu làm tệ hại vấn đề thêm khi
loan báo rằng Phật Tử đã bị trà trộn bởi Việt Cộng.
Trong
suốt những ngày đầu của khủng hoảng, giới truyền thông Mỹ đã theo sát các sự kiện
và gây sự chú ý với thế giới. Vào ngày 11-6, truyền thông được nhắn trước để tới
một ngã tư một phố chính vào buổi trưa. Trong khi đoán là sẽ có cuộc biểu tình
nữa, họ kinh hoàng chứng kiến cuộc tự thiêu đầu tiên thực hiện bởi một nhà sư. Cái
chết phựt lửa của Hòa thượng Thích Quảng
Đức gây chấn động thế giới và Nam Việt Nam.
Những
cuộc thương thuyết trước đó đã diễn ra giữa ủy ban của Phó Tổng Thống Thơ và Phật
Tử có từ ngày 5-6-1963, với những chất vấn cay đắng công khai về thiện chí của
cả hai bên. Sau cuộc tự thiêu, chính phủ Mỹ tăng cường áp lực lên chính phủ ông
Diệm để làm dịu lòng người Phật Tử, và để đưa tình hình chính trị đang suy sụp trở
lại trong tầm kiểm soát.
Cuối
cùng, vào ngày 16-6-1963, bản Thông Cáo Chung giữa Phật Giáo và chính phủ ông
Diệm được phổ biến, liệt kê các đồng thuận thương thuyết, nhưng không quy trách
nhiệm đối với sự kiện ngày 8-5-1963 (LND: không quy trách nhiệm cho chính phủ, chỉ hứa điều tra xem cá nhân
viên chức nào có lỗi). Tuy nhiên, trận đàn áp biểu tình dữ dội ngày kế
tiếp đã làm hỏng mất tinh thần của sự hòa giải. Trong phần của họ, vợ chồng Ngô
Đình Nhu tức khắc phá hoại sự hòa giải bằng cách bí mật huy động các lực lượng
thanh niên do chính phủ đỡ đầu đấu tố bản Thông Cáo Chung. Vào cuối tháng 6, thấy
rõ rằng Thông Cáo Chung không phải là cử chỉ chân thực của sự hòa giải từ phía ông
Diệm, nhưng chỉ là một nỗ lực để làm dịu Hoa Kỳ và là một tờ giấy về sự chia rẽ
ngày càng lớn trong chính trị nội bộ.
Sự
thiếu niềm tin có căn cứ về phía chính phủ trong Thông Cáo Chung Ngày 16-6-1963
đã làm mất uy tín chính sách trung dung để hòa giải mà giới lãnh đạo cao cấp Phật
Giáo đã theo đuổi cho tới khi đó. Vào cuối tháng 6, quyền lãnh đạo phong trào
Phật Giáo trao sang cho một nhóm vị sư trẻ hơn, quyết liệt hơn, với mục tiêu chính
trị vươn xa hơn. Các vị sư này đã vận dụng chính trị khéo léo và thông minh một
đợt thủy triêù đang dâng cao từ phía dân chúng ủng hộ.
Những
cuộc biểu tình và tụ tập đông người có kế hoạch kỹ lưỡng được kèm với cuộc vận động
truyền thông từ giới đối lập của chế độ ông Diệm. Hiểu tầm quan trọng của truyền
thông báo chí Hoa Kỳ, các vị sư này kết giao với phóng viên Mỹ, thông báo họ về
những cuộc biểu tình và tụ tập, và cẩn trọng tính thời điểm hoạt động sao cho được giới truyền thông tường thuật rộng
rãi tối đa. Không ngạc nhiên gì, gia đình họ Ngô phản ứng bằng cách đàn áp dữ dội
hơn đối với các nhà hoạt động Phật Giáo, và với chỉ trích cay đắng hơn và ngay
cả hăm dọa các phóng viên Mỹ.
Đầu
tháng 7-1963, ủy ban của Phó Tổng Thống Thơ loan báo rằng một cuộc điều tra sơ
khởi về sự kiện ngày 8-5-1963 đã xác định rằng những cái chết là do hành động
khủng bố của Việt Cộng. Phẫn nộ, những người Phật Tử lên án kết luận đó và tăng
cường các hoạt động phản đối của họ. Vào ngày 19-7-1963, dưới áp lực Hoa Kỳ, ông
Diệm đọc bài diễn văn trên đài phát thanh, ngắn chỉ 2 phút đồng hồ, mặt ngoài là
bày tỏ hòa giải với Phật Tử, nhưng được viết sẵn và trình bày một cách lạnh lùng
như để phá hủy trước bất kỳ ảnh hưởng nào mà các đồng thuận nhỏ nhoi đã loan báo
có thể có.
Về
phía trong chế độ, ông Nhu và vợ nặng nề chỉ trích ông Diệm đã nhượng bộ áp lực
Phật Giáo. Bà Nhu công khai chế giễu cuộc tự thiêu là “nướng thịt,” tố cáo các
lãnh đạo Phật Giáo bị trà trộn bởi người Cộng sản, và mô tả các cuộc biểu tình
là do Việt Cộng kích động. Cả ông Nhu và vợ ra sức công khai, và riêng tư, làm
suy yếu các nỗ lực vốn đã yếu của ông Diệm trong việc tương nhượng với Phật Tử,
và có tin đồn khởi sự loan ra trong tháng 7 rằng ông Nhu đang xem xét một cú đảo
chánh lật đổ ông anh.
Một
Bản Đánh Giá Tình Báo Quốc Gia Đặc Biệt đề ngày 10-7-1963 kết luận với tiên đoán
rằng nếu chế độ ông Diệm không làm gì để thực hiện bản Thông Cáo Chung
16-6-1963 và làm dịu người Phật Tử, nhiều phần là những cuộc biểu tình trong mùa
hè sẽ lan rộng với nhiều khả năng sẽ có một nỗ lực đảo chánh từ người không cộng
sản (LND: Bản Đánh Giá
Tình Báo Quốc Gia Đặc Biệt này đã dịch ở Thư Viện Hoa Sen http://tinyurl.com/TVHS-TBDB).
(Hồ
sơ 21) Vào giữa tháng 8-1963, một tuần trước khi ông Nhu tung ra cuộc tổng bố ráp
nhắm vào các chùa ở Sài Gòn và nơi khác, Sở Tình Báo Tình Báo Trung Ương Hoa Kỳ
CIA đã bắt đầu nhận thấy có bất mãn biểu
lộ trong giới công chức và quân nhân:
“Từ
khi những mâu thuẫn giữa Phật Tử và chố độ ông Diệm bùng phát ngày 8-5-1963, đã
có một loạt các bản phúc trình cho thấy không chỉ sự mưu tính và bày tỏ bất mãn
tăng dày đặc giữa những người không Cộng Sản trước giờ vẫn chỉ trích ông Diệm,
mà sự bất ổn hiển lộ trở lại và sự căm ghét ngày càng tăng trong giới công chức
và quân nhân về cách ông Diệm xử lý về mâu thuẫn này.”
Bản
đánh giá này tiếp tục mô tả chi tiết nhiều tin đồn, xuất hiện ít nhất từ cuối
tháng 6, về các âm mưu đảo chánh. Nhưng ông Nhu, trong một hành động táo bạo nhằm
gây kinh hoảng những người âm mưu đảo chánh, và để làm họ bất ngờ, đã triệu tập các tướng lãnh
cao cấp vào ngày 11-7-1963, nặng nề khiển trách họ đã không có hành động nào để
đè bẹp sự nổi loạn, và chất vấn sự trung thành của họ đối với chế độ. Hành động
của ông Nhu như dường đã tạm thời làm khựng lại tất cả các kế hoạch về một cuộc
lật đổ. CIA cũng báo cáo về tin đồn rằng chính ông Nhu đang lên kế hoạch một
“cuộc đảo chánh giả” để thu hút ra và rồi đàn áp người Phật Tử.
Trong
tháng 8-1963, Phật Tử hoạt động tới mức căng thẳng mới; các vị sư tự thiêu vào
ngày 5, ngày 15, và ngày 18. Không khí chính trị căng thẳng tại Sài Gòn vào giữa
tháng 8-1963 cho các nhà quan sát Hoa Kỳ thấy rằng cuộc chạm trán đang diễn tiến.
Tuy nhiên, khi cuộc chạm trán xảy ra, trong cuộc tổng bố ráp ngày 21-8-1963 nhắm
vào các chùa, các nhà ngoại giao Hoa Kỳ hoàn
toàn bất ngờ.
HẾT
BẢN DỊCH
*
NGUYÊN
VĂN ANH NGỮ
The
Pentagon Papers
Gravel
Edition
Volume
2
Chapter
4, "The Overthrow of Ngo Dinh Diem, May-November, 1963," pp. 201-276.
(Boston:
Beacon Press, 1971)
Section
1, pp. 201-232
(SNIPPED)
II.
THE BUDDHIST CRISIS: MAY 8-AUGUST 21
A.
THE CRISIS ERUPTS
The
incident in Hue on May 8, 1963, that precipitated what came to be called the
Buddhist crisis, and that started the chain of events that ultimately led to
the overthrow of the Diem regime and the murder of the Ngo brothers, happened
both inadvertently and unexpectedly. No one then foresaw that it would generate
a national opposition movement capable of rallying virtually all non-communist
dissidence in South Vietnam. More importantly, no one then appreciated the
degree of alienation of Vietnam's people from their government, nor the extent
of the political decay within the regime, a regime no longer capable of coping
with popular discontent.
The
religious origins of the incident are traceable to the massive flight of
Catholic refugees from North Vietnam after the French defeat in 1954. An
estimated one million Catholics fled the North and resettled in the South.
Diem, animated, no doubt, by religious as well as humanitarian sympathy, and with
an eye to recruiting political support from his coreligionists, accorded these
Catholic refugees preferential treatment in land redistribution, relief and
assistance, commercial and export-import licenses, government employment, and
other GVN largess. Because Diem could rely on their loyalty, they came to fill
almost all important civilian and military positions. As an institution, the
Catholic Church enjoyed a special legal status. The Catholic primate, Ngo Dinh
Thuc, was Diem's brother and advisor. But prior to 1962, there had been no
outright discrimination against Buddhists. However, among South Vietnam's 3-4
million practicing Buddhists and the 80% of the population who were nominal
Buddhists, the regime's favoritism, authoritarianism, and discrimination
created a smoldering resentment.
In
April 1963, the government ordered provincial officials to enforce a
longstanding but generally ignored ban on the public display of religious
flags. The order came just after the officially encouraged celebrations in Hue
commemorating the 25th anniversary of the ordination of Ngo Dinh Thuc, the
Archbishop of Hue, during which Papal flags had been prominently flown. The
order also came, as it happened, just prior to Buddha's birthday (May 8)-a
major Buddhist festival. Hue, an old provincial capital of Vietnam, was the
only real center of Buddhist learning and scholarship in Vietnam and its
university had long been a center of left-wing dissidence. Not surprisingly,
then, the Buddhists in Hue defiantly flew their flags in spite of the order
and, when the local administration appeared to have backed down on the ban,
were emboldened to hold a previously scheduled mass meeting on May 8 to
commemorate Buddha's birthday. Seeing the demonstration as a challenge to
family prestige (Hue was also the capital of the political fief of another Diem
brother, Ngo Dinh Can) and to government authority, local officials tried to
disperse the crowds. When preliminary efforts produced no results, the Catholic
deputy province chief ordered his troops to fire. In the ensuing melee, nine
persons were killed, including some children, and fourteen were injured.
Armored vehicles allegedly crushed some of the victims. The Diem government
subsequently put out a story that a Viet Cong agent had thrown a grenade into
the crowd and that the victims had been crushed in a stampede. It steadfastly
refused to admit responsibility even when neutral observers produced films
showing government troops firing on the crowd.
Diem's
mandarin character would not permit him to handle this crisis with the kind of
flexibility and finesse it required. He was incapable of publicly acknowledging
responsibility for the tragedy and seeking to conciliate the angry Buddhists.
He was convinced that such a public loss of face would undermine his authority
to rule, oblivious to the fact that no modern ruler can long ignore massive
popular disaffection whatever his own particular personal virtues may be. So
the government clung tenaciously to its version of what had occurred.
The
following day in Hue over 10,000 people demonstrated in protest of the
killings. It was the first of the long series of protest activities with which
the Buddhists were to pressure the regime in the next four months. The
Buddhists rapidly organized themselves, and on May 10, a manifesto of the
Buddhist clergy was transmitted to the government demanding freedom to fly
their flag, legal equality with the Catholic Church, an end of arrests and
freedom to practice their beliefs, and indemnification of the victims of the
May 8th incident with punishment for its perpetrators. These five demands were
officially presented to President Diem on May 15, and the Buddhists held their
first press conference after the meeting. Publicized hunger strikes and
meetings continued throughout May, but Diem continued to drag his feet on
placating the dissenters or settling issues. On May 30, about 350 Buddhist
monks demonstrated in front of the National Assembly in Saigon, and a 48-hour
hunger strike was announced. On June 3, a demonstration in Hue was broken up
with tear gas and several people were burned, prompting charges that the troops
had used mustard gas. On June 4, the government announced the appointment of an
interministerial committee headed by Vice President Tho to resolve the
religious issue, but by this time such gestures were probably too late. Large
portions of the urban population had rallied to the Buddhist protest,
recognizing in it the beginnings of genuine political opposition to Diem. On
June 8, Mme. Nhu exacerbated the problem by announcing that the Buddhists were
infiltrated by communists.
Throughout
the early days of the crisis, the U.S. press had closely covered the events and
brought them to the attention of the world. On June 11, the press was tipped
off to be at a downtown intersection at noon. Expecting another protest
demonstration, they were horrified to witness the first burning suicide by a
Buddhist monk. Thich Quang Duc's fiery death shocked the world and electrified
South Vietnam.
Negotiations
had been taking place between Vice President Tho's committee and the Buddhists
since June 5, with considerable acrimonious public questioning of good faith by
both sides. After the suicide, the U.S. intensified its already considerable
pressure on the government to mollify the Buddhists, and to bring the
deteriorating political situation under control. Finally, on June 16, a joint
GVN-Buddhist communique was released outlining the elements of a settlement,
but affixing no responsibility for the May 8 incident. Violent suppression by
the GVN of rioting the next day, however, abrogated the spirit of the
agreement. The Nhus, for their part, immediately undertook to sabotage the
agreement by secretly calling on the GVN-sponsored youth organizations to
denounce it. By late June, it was apparent that the agreement was not meant as
a genuine gesture of conciliation by Diem, but was only an effort to appease
the U.S. and paper over a steadily widening fissure in internal politics.
The
evident lack of faith on the part of the government in the June 16 agreement
discredited the conciliatory policy of moderation that the older Buddhist
leadership had followed until that time. In late June, leadership of the
Buddhist movement passed to a younger, more radical set of monks, with more
far-reaching political objectives. They made intelligent and skillful political
use of a rising tide of popular support. Carefully planned mass meetings and
demonstrations were accompanied with an aggressive press campaign of opposition
to the regime. Seizing on the importance of American news media, they
cultivated U.S. newsmen, tipped them off to demonstrations and rallies, and
carefully timed their activities to get maximum press coverage. Not
surprisingly, the Ngo family reacted with ever more severe suppression to the
Buddhist activists, and with acrimonious criticism and even threats to the
American newsmen.
Early
in July, Vice President Tho's committee announced that a preliminary
investigation of the May 8 incident had confirmed that the deaths were the
result of an act of Viet Cong terrorism. Outraged, the Buddhists denounced the
findings and intensified their protest activities. On July 19, under U.S.
pressure, Diem made a brief two-minute radio address, ostensibly an expression
of conciliation to the Buddhists, but so written and coldly delivered as to
destroy in advance any effect its announced minor concessions might have had.
Within
the regime, Nhu and his wife were severely criticizing Diem for caving in under
Buddhist pressure. Mme. Nhu publicly ridiculed the Buddhist suicide as a
"barbecue," accused the Buddhist leaders of being infiltrated with
communists, and construed the protest movement as Viet Cong inspired. Both Nhu
and his wife worked publicly and privately to undermine Diem's feeble efforts
at compromise with the Buddhists, and rumors that Nhu was considering a coup
against his brother began to circulate in July.
A
U.S. Special National Intelligence Estimate on July 10 concluded with the
perceptive prediction that if the Diem regime did nothing to implement the June
16 agreement and to appease the Buddhists, the likelihood of a summer of
demonstrations was great, with the strong possibility of a non-communist coup
attempt. [Doc. 21] By mid-August a week before Nhu launched general raids on
Buddhist pagodas in Saigon and elsewhere, the CIA had begun to note malaise in
the bureaucracy and the army:
Since the Buddhist dispute with the Diem
government erupted on 8 May, there have been a series of reports indicating not
only intensified plotting and grumbling among Diem's traditional non-Communist
critics, but renewed restiveness and growing disaffection in official civilian
and military circles over Diem's handling of the dispute.
This
estimate went on to detail numerous rumors of coup plots in existence since at
least late June. But Nhu, in a bold move designed to frighten coup plotters,
and to throw them off guard, had called in the senior generals on July 11,
reprimanded them for not having taken action to squelch revolt, and questioned
their loyalty to the regime. Nhu's move seemed to have temporarily set back all
plans for an overthrow. CIA also reported rumors that Nhu himself was planning
a "false coup" to draw out and then crush the Buddhists.
In
August, Buddhist militancy reached new intensity; monks burned themselves to
death on the 5th, 15th, and 18th. The taut political atmosphere in Saigon in
mid-August should have suggested to U.S. observers that a showdown was on the
way. When the showdown came, however, in the August 21 raids on the pagodas,
the U.S. mission was apparently caught almost completely off guard.
B.
THE U.S. "NO ALTERNATIVES TO DIEM" POLICY
(SNIPPED)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét