Thứ Năm, 16 tháng 1, 2014


"QUYỀN LÀM CHỦ CỦA NHÂN DÂN"

Cao Huy Thuần



            Từ đầu năm đến nay, nghĩa là từ khi có Thông điệp đầu năm của thủ tướng, nở rộ lên trên mạng nhiều bài viết và nhiều lời tuyên bố đề cao dân chủ, trong đó "quyền làm chủ của nhân dân" phất phới như một ngọn cờ tiên phong. Ai mà không thấy hồ hởi phấn khởi trước một khí thế bùng lên như vậy? Vận hội mới như đang hiện ra trước mắt. Dân chủ như bình minh chợt sáng ở chân trời. Thế nhưng, phải đón nhận thế nào đây khái niệm "quyền làm chủ của nhân dân"? Rằng hay thì thật là hay, nhưng cũng phải coi chừng để nó đừng trở thành một khẩu hiệu rỗng như bao nhiêu khẩu hiệu đã từng nghe từng thấy. Phân tích nội dung của nó một cách chi li, mong rằng đó không phải là việc làm gàn dở của một anh đồ nho ngồi chẻ sợi tóc làm tư.

            Dù biện minh thế nào đi nữa, khó mà chối cãi rằng khái niệm "quyền làm chủ của nhân dân" đã xuất phát từ hiến pháp 1980 dưới ngôn từ"quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động". Điều 2 của hiến pháp ấy nói: "Sứ mệnh lịch sử của nhà nước là thực hiện quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động". Điều 3 hùng hồn hơn: "Nhà nước bảo đảm... chế độ làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa của nhân dân lao động về các mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, làm chủ trong phạm vi cả nước, từng địa phương, từng cơ sở, làm chủ xã hội, làm chủ thiên nhiên, làm chủ bản thân". Ngày nay, ta bỏ chữ "tập thể" và chữ "lao động" đi vì đã quá lỗi thời, nhưng, đứng về mặt khái niệm, hãy coi chừng, cháu chắt và tổ tiên ấy cùng chung máu mủ. Xin phân tích.

            Trước hết là hai chữ "làm chủ" trong "quyền làm chủ". Làm chủ là gì? Có người trả lời: là tự mình quyết định vận mệnh của mình. Nếu có ai vặn lại: thế nào là tự mình quyết định vận mệnh của mình?, lại sẽ có lắm câu trả lời khác nhau, lại sẽ lý luận ngày đêm. Cho nên có người trả lời đơn giản: làm chủ là ra lệnh. Đó là sự khác biệt giữa chủ và tớ. Không có tớ nào ra lệnh cho chủ. Không có chủ nào tuân lệnh của tớ. Rạch ròi phân biệt.
            Vậy thì nhân dân có ra lệnh không? Không! Dù ở trong thực tế hay trong lý thuyết, nhân dân không ra lệnh. Vì lẽ giản dị là nhân dân không tự mình cai trị mình. Đâu đâu cũng có sự phân biệt giữa chính quyền và dân chúng. Lệnh là từ chính quyền ban ra, dù chính quyền đó được dân bầu ra đàng hoàng đi nữa. Có điều là: không chính quyền nào hoàn toàn dựa trên mệnh lệnh mà cai trị. Không chính quyền nào tồn tại được nếu chỉ cai trị bằng mệnh lệnh, nếu mệnh lệnh ngự trị trên sự cúi đầu thụ động của người dân. Dù độc tài đến đâu, chính quyền nào cũng cố tạo ra, dù chỉ là giả tạo, ít nhiều hưởng ứng tích cực của người dân. Các chế độ dân chủ thì khác: họ cố thúc đẩy hưởng ứng tích cực của người dân, càng nhiều càng tốt, càng tích cực càng đạt lý tưởng. Nhưng chắc chắn không bao giờ và không ở đâu có chuyện dân hoàn toàn làm chủ vận mệnh của mình. Đó là lý tưởng phải đi đến, nhưng không bao giờ đến, bởi vì nếu đến mức đó thì chính quyền sẽ không còn nữa, dân và chính quyền đã là một. Nhưng dù không đến, vẫn phải đi, càng đi đến gần lý tưởng được bước nào, mệnh lệnh càng ít được cảm thấy bước đó, tính cách "chủ" của dân càng hiển hiện. "Làm chủ" chỉ có thể hiểu với ý nghĩa đó thôi.

            Nhưng làm thế nào để mà đi? Tự đi chăng? Tất nhiên! Ta có chân thì ta phải sử dụng chân. Xã hội sinh ra vốn đã có chân, vốn đã có đời sống riêng, vậy xã hội phải tự đi. Nhưng, xã hội nào cũng cần phải được dẫn dắt để đi trên con đường mình muốn, và đó là sự khác biệt căn bản giửa sự dẫn dắt độc tài và sự dẫn dắt dân chủ. Dẫn dắt dân chủ là dẫn dắt trên con đường mà dân chọn, chứ không phải quan chọn. Và dẫn dắt như vậy là để làm gì? Để đưa nhân dân lên địa vị chủ. Để nhân dân làm chủ. Hôm nay, làm chủ một ít, ngày mai làm chủ thêm nữa, và cứ thế mỗi ngày một thêm. Nhưng nếu có ai cắc cớ hỏi dân: "Vậy thì ông đã thành chủ chưa?", chắc chắn câu trả lời là chưa, và hơn thế nữa, không bao giờ. Bởi lẽ, như đã nói, làm chủ là một quá trình dài thăm thẳm, có đi mà không có đến. Nếu đến thì còn đâu nữa quyền lực, khi dân và chính quyền đã là một? Đó là một trạng thái thiên đường mà ai đó đã vẽ ra để mơ ước cho vui một xã hội không giai cấp, chứ ai mà chẳng biết nhân loại chưa bao giờ và sẽ không bao giờ thổi kèn đưa đám ma quyền lực?
            Dĩ nhiên có người sẽ bắt bẻ: làm chủ mỗi ngày, mỗi lúc, trong nhiều sự việc khác nhau, trong nhiều quan hệ khác nhau, như vậy đích thực là làm chủ rồi, sao còn ngụy biện? Vâng, trên quá trình làm chủ, mỗi bước đi, mỗi thực hiện cụ thể là mỗi hân hoan, mỗi chiến thắng của lý tưởng làm chủ. Nhưng làm chủ trong sự việc này, làm chủ trong sự việc kia, là làm chủ trong những sự việc cụ thể. Làm chủ trong những sự việc cụ thể thì có, mà làm chủ chung chung thì không. Làm chủ chung chung đã là không, thì quyền làm chủ chung chung cũng không nốt. Không có cái gì cả. Trống rỗng.

            Từ đó, xin bước qua quyền làm chủ. Suy ngẫm cho kỹ, khái niệm "quyền làm chủ" cũng có thể đưa vào ngõ bí! Bởi vì đó là một thứ "quyền" không giống các quyền khác. Những quyền khác là những quyền mà ngay khi được công nhận, bảo đảm, thì được thực hiện liền. Tôi có chân, nên khi được quyền tự do đi lại là tôi đi. Đi bộ, đi xe, đi máy bay. Tôi có miệng nên khi được quyền ăn nói là tôi nói. Tôi viết được nên khi báo chí được cởi trói là tôi viết. Luật pháp cấm không được xâm phạm gia cư nên nửa đêm có ai đấm cửa tôi cứ yên giấc ngủ khò. "Quyền làm chủ" thì không như vậy. Không phải cứ hô lên: "Anh làm chủ!" là tôi tức khắc làm chủ. Nói là nói, đi là đi, viết là viết, ai cũng hiểu. Nhưng làm chủ, ai biết làm chủ là như thế nào? Một đằng, tự tôi, tôi đã có sẵn khả năng, tiềm lực, để thực hiện quyền được công nhận; một đằng, tự tôi, tôi loay hoay, lúng túng, không biết phải làm gì với cái quyền mà người ta đặt vào tay tôi. Làm chủ, tôi đã không biết phải làm chủ như thế nào, làm sao tôi hình dung ra được cái "quyền làm chủ" của tôi? Làm sao tôi đòi thực hiện được một cái quyền mà chính nội dung mờ mờ mịt mịt trong đầu tôi? Tôi đòi một cái mà tôi không biết là cái gì, sao gọi là quyền được? Chẳng lẽ có ai hỏi tôi: "anh đòi cái quyền gì vậy?", tôi lại ấp a ấp úng "ấy, anh cứ hỏi lãnh đạo của tôi"?

            Chẳng phải tôi muốn bới bèo ra bọ đâu. Điều tôi muốn nói rất là quan trọng trong lúc này. Không có cái chuyện làm chủ chung chung nên cũng không có cái quyền làm chủ chung chung đang trở thành khẩu hiệu. Làm chủ, là làm chủ trong từng sự việc cụ thể, cho nên mỗi sự việc cụ thể đưa đến một quyền khác nhau. Nghĩa là có nhiều quyền khác nhau mà sự thực hiện triệt để sẽ đưa nhân dân lên địa vị chủ. Có nhiều quyền để làm chủ, những quyền để làm chủ. Không có một "quyền làm chủ". Và nhiều quyền, những quyền đưa nhân dân lên địa vị chủ đó, có gì lạ lùng đâu! Đó là những quyền dân chủ mà ai cũng biết! Nói "quyền làm chủ" là đi vào trừu tượng, sương khói, nghe thật sảng khoái, nhưng đố ai sờ được, nắm được, thấy được, mân mê được, âu yếm được. Nói "những quyền dân chủ", câu chuyện thành ra giản dị, ai cũng thấy trước mắt những quyền cụ thể, cầm được, sử dụng được, ôm ấp được. Quyền bầu cử trung thực chẳng hạn. Trước mắt tôi là cái lá phiếu, cái thùng phiếu, cái yên tâm muốn bỏ cho ai thì bỏ, cái người mà tôi tin tưởng, cái hồi hộp chờ xem kết quả... Trong khi tôi đang thích thú như thế, giá có ai nói: "anh vừa thực hiện quyền làm chủ của nhân dân đấy!", chắc tôi sẽ mất hưng phấn như nghe một điệp khúc quen tai trong đó chỉ thiếu chữ "tập thể". Tôi vừa thực hiện một quyền cá nhân cơ mà. Quyền bầu cử là một quyền cá nhân! Quyền của những cá nhân như tôi! Quyền của con người! Những con người có xương có thịt như tôi! Có hàng triệu bàn tay bỏ những lá phiếu khác nhau; không có một "bàn tay nhân dân", một bàn tay tập thể! Đây là lúc ta cần cụ thể hóa mọi quyền, càng cụ thể hóa càng đi tới dân chủ, đừng dùng mãi những điệp khúc trừu tượng. Càng tổng quát hóa, càng trừu tượng hóa khái niệm quyền, ta càng làm vô dụng những quyền, càng đẩy những quyền ấy vào lý thuyết suông, càng mồ côi quyền trong thực tế. Đó là sự khác biệt một trời một vực giữa ngôn ngữ ý thức hệ và ngôn ngữ pháp lý.

            Những quyền dân chủ cụ thể đó, hãy nhân chúng nó lên! Những quyền đó càng nhiều, dân càng "làm chủ". Gộp tất cả những quyền đó lại, nhốt chung tất cả vào một bình hồ lô "quyền làm chủ của nhân dân", mở nút ra: dân chẳng thấy gì, chỉ còn khẩu hiệu. Một vấn đề tựa tựa như vậy đã đặt ra ở Tây phương trong thế kỷ trước. Còn gì cao đẹp hơn tự do - la liberté! Nhưng thế nào là tự do? Anh nói tự do, tôi nói tự do, nhưng có chắc anh và tôi cùng nói một chuyện không? Chẳng thế mà có người đã thốt ra một câu xót xa: "Ôi, tự do! Nhân danh ngươi, bao nhiêu tội ác đã phạm!". Nếu tự do có thể giết chết tự do, thì ngược lại, những tự do, những quyền tự do, les libertés, định nghĩa một cách rành rọt, bằng ngôn ngữ pháp lý phân minh, lại bảo vệ con người, bảo vệ tự do. Những quyền tự do đưa đến tự do. Thì cũng vậy, những quyền dân chủ cụ thể, chính xác, định nghĩa bằng ngôn ngữ pháp lý sáng sủa, đâu vào đấy, đưa nhân dân lên địa vị làm chủ. Cho nhân dân những quyền đó mà không nói gì đến "quyền làm chủ của nhân dân", nhân dân vẫn làm chủ như thường. Tỷ như cho nhân dân cá, cơm, mắm, muối, mà không nói gì đến quyền ăn no, dân vẫn no phủ phê. Còn như cho nhân dân quyền ăn no nhưng không cho cá, cơm, mắm, muối, thì nhân dân đành phải ngày ba bữa vỗ bụng rau bình bịch.

            Đi xa thêm một chút nữa, mấy chữ "quyền làm chủ" nghe nó điệp nghĩa với nhau thế nào. Cứ lẩn thẩn mà tìm xem: có một thứ quyền nào mà không đưa đến làm chủ chăng? Quyền đi lại, ờ thì mình làm chủ cái chân. Đi khắp thế giới chứ phải vừa đâu. Nghĩa là ta đây làm chủ biên giới. Làm chủ không gian. Quyền nghỉ ngơi hàng năm, sướng quá, buổi sáng tha hồ ngủ, thế là mình làm chủ con mắt, muốn nhắm cũng được, muốn mở thì cứ mở. Mặt trời lên cao? Mặc xác nó, tôi làm chủ nó. Nhờ ăn, nhờ ngủ, nhờ nghỉ ngơi, tôi làm chủ sức khỏe của tôi, nhờ sức khỏe tốt, tôi vui vẻ trong mọi giao tế, kể cả giao tế với vợ. Tý nữa thì quên, với vợ tôi, hiến pháp cho tôi quyền bình đẳng. Thì tôi cũng làm chủ! Không bình đẳng thì phân vân, không biết ai là chủ. Bình đẳng thì mình cũng là chủ vậy! Mấy ông râu quặp nhờ vậy mà làm chủ được cả bộ râu! Đó là chỉ mới kể vài quyền cá nhân quen thuộc. Còn những quyền chính trị, xã hội, văn hóa quan trọng nói suốt trong hiến pháp, tính cách làm chủ không cần phải chứng minh. Như vậy, nếu hễ có quyền là có làm chủ, nếu bất cứ quyền nào cũng đưa đến chuyện làm chủ, tìm đâu cho được nội dung pháp lý riêng biệt, chính xác, của "quyền làm chủ"? Và như vậy, phải chăng "quyền làm chủ của nhân dân" là một lối nói có tính cách tuyên ngôn - déclaratoire trong tiếng Pháp - để nêu cao một lý tưởng, nhưng thực chất pháp lý là rỗng không?

            Vậy thì, anh đi đường anh tôi đường tôi, tôi tiễn anh đi về quá khứ của khẩu hiệu "làm chủ tập thể", còn tôi, tôi tiếp tục đi trên con đường của Thông điệp mà năm mới 2014 vừa vẽ ra trước mắt. Đất nước đã lâm vào tình trạng không lui được nữa, chỉ còn cách tiến tới mà thôi.

 Cao Huy Thuần

Tác giả gởi cho viet-studies ngày 15-1-14


Thứ Tư, 15 tháng 1, 2014


THUNG LŨNG CHÙA THÁP

Ngọc Bảo


Trên hòn đảo Oahu của Hawaii, từ thành phố Honolulu đi lên phía bắc một chút có một nơi gọi là "Thung Lũng Chùa Tháp" (Valley of the Temples). Chúng tôi đi về phía ấy để đến thăm một ngôi chùa nổi tiếng của Nhật Bản, gọi là chùa Byodo-In (Bình Đẳng Viện). Ngôi chùa này là bản sao của ngôi chùa chính ở Uji, gần Kyoto, đã được Liên Hiệp Quốc phong tặng cho danh hiệu "Di sản văn hóa của thế giới".  Càng đi xa khỏi chốn phồn hoa đô hội của Honolulu, không khí càng trong mát hơn. Hai bên đường cây cối xanh rì, xen lẫn trong đó là những loại cây nhiệt đới, gợi nhớ đến hình ảnh ở Việt Nam. Phong cảnh ở đảo núi và biển đi liền với nhau, một bên là dãy núi thấp với mây mờ bao phủ trông thật huyền ảo, một bên là biển xanh sóng vỗ rì rào. Theo chỉ dẫn của chiếc máy chỉ đường GPS, chúng tôi đến đúng địa chỉ đang tìm. Nhưng chẳng thấy chùa tháp đâu cả, chỉ là cửa vào của một nghĩa địa. Đi lầm đường chăng? Không thể nào! Nhưng tại sao đây lại là nghĩa địa? Nhìn lại cổng vào, thấy rõ hàng chữ ghi đậm: Thung Lũng Chùa Tháp. Thì ra đó chính là tên của nghĩa địa!

            Không còn cách gì hơn, chúng tôi lái xe thẳng vào trong. Con đường ngoằn ngoèo đi qua những nấm mồ san sát, với những bia mộ đủ kiểu, đủ cỡ dựng lên, thay vì nằm sát xuống sân cỏ như ở California.  Và ở cuối đường, dưới con dốc thoai thoải, đi về sát chân núi là một chiếc cầu mầu đỏ, với mái ngói cong của một ngôi chùa hiện lên!  Nơi bãi đậu xe thấp thoáng bóng người với vài chiếc xe bus cho tour du lịch. Vậy là chúng tôi đã đến được nơi muốn đến!

            Đi qua chiếc cầu cong, phong cảnh trước mắt như đưa tôi trở về lại Kyoto Nhật Bản. Ngôi chùa được xây cất theo đúng kiểu của ngôi chùa chính, với cây cảnh khuôn viên phối trí mỹ thuật bên một bờ hồ tĩnh lặng.  Hàng cây cao rủ bóng bên lạch nước trong veo uốn khúc, những con cá koi đủ mầu bơi lội phía dưới.  Bên bờ nước, những con chim nhỏ từ đâu xà xuống, ríu rít đón nhận những thức ăn do du khách rải cho. Ở gần thác nước nhỏ, vài con công dại rũ cánh khua vang.  Khung cảnh ảm đạm của nghĩa địa đã biến mất để nhường chỗ cho một không gian thật yên bình tươi mát.  Trên con đường đi vào chánh điện có một tháp chuông thật lớn để du khách có thể tự do đánh lên. Giữa phong cảnh huy hoàng tráng lệ, tiếng chuông đại hồng ngân nga trầm hùng như đánh động tâm hồn, đưa người xa rời chốn trần ai hệ lụy mà đi vào cõi an bình.  Mỗi lần tiếng chuông ấy đánh lên, phải chăng không chỉ thức tỉnh những người đang sống, mà còn cả những linh hồn đang phiêu bạt ở những cõi nào khác ?  


Chùa Byodo-In và gác Đại hồng chung trong Thung lũng Chùa tháp tại Hawaii

Lắng lòng nghe, lắng lòng nghe
Tiếng chuông huyền diệu đưa về nhất tâm
Nguyện tiếng chuông này vang pháp giới
Khắp nơi u tối mọi loài nghe
Siêu nhiên vượt thoát vòng sinh tử
Giác ngộ tâm tư một hướng về.

Chánh điện khá nhỏ hẹp, chỉ có một bức tượng A Di Đà bằng đồng khá lớn, trông cũng uy nghi. Tuy nhiên ngôi chùa này không phải là nơi thờ phượng, cũng chẳng là nơi tu tập. Tất cả chỉ là cái vỏ đẹp đẽ cho mục đích du lịch và những dịch vụ tang ma, cưới hỏi nhiều hơn.  Phải chăng đạo Phật ở đây đã thoái hóa đến tận cùng chăng?

            Nhưng có lẽ không hẳn là như vậy. Ngôi chùa không có Phật, cũng chẳng có tăng.. nhưng khung cảnh  ở đây cũng có thể đưa người ta đến một cảnh giới an bình, tiếng chuông đại hồng ngân vang cũng có tác dụng nào đó để đánh thức tâm hồn. Những người đã xây dựng nên ngôi chùa này, hẳn phải có một mục đích nào đó sâu xa hơn chỉ là lập nên một phong cảnh du lịch. Vì sao xây dựng một ngôi chùa nguy nga như vậy trong lòng nghĩa địa? Còn gì thức tỉnh con ngưòi bằng sự đối diện với cái chết trước mặt. Thế thì trong phong cảnh u tịch của những nấm mồ, lại có một cảnh giới yên bình đẹp đẽ như cõi Tịnh Độ, chẳng phải đó là một bài pháp vô ngôn sao. Tuy không có một lời nói pháp, nhưng ngôi chùa Byodo-In ở đây có lẽ cũng độ sanh ngay ở trong lòng nơi độ tử vậy.
  
            Khuôn viên của một ngôi chùa đóng vai trò rất quan trọng, vì phong cảnh thanh tịnh có thể làm cho tâm hồn khách vãng lai trở nên an bình, và cũng nói lên phần nào tâm của người đã tạo lập ra cảnh vườn ấy.  Nhật Bản nổi tiếng với những vườn cảnh ngoạn mục đưa người ta trở về với thiên nhiên, với sự sắp xếp khéo léo hài hòa của cây, đá và nước.  Nổi tiếng nhất là vườn thiền của một số chùa, trong số đó độc đáo nhất là vườn đá ở Long An Tự  (thạch viên).  Vườn đá không có cây, không có hoa, chỉ là một sân cát sỏi trắng trên đó rải rác vài tảng đá nằm trên đám cỏ rêu. Trên sân cát sỏi ấy, các vị sư dùng cào rạch lên những đường thẳng đều nhau, uốn quanh những tảng đá, trông như những hòn đảo nằm giữa đại dương mông mênh. Ý nghĩa sâu xa của vườn đá này là "chân không diệu hữu" , là sự vận hành của sự sống, trong đó bản chất của mọi sắc tướng chính là không, và không cũng chính là sắc tướng  - sắc tướng chẳng khác gì không, và không cũng chẳng khác gì sắc tướng (kinh Bát Nhã).           


Vườn Zen trong một ngôi chùa tại Kyoto

  Có một câu chuyện thiền của Nhật Bản về vườn cảnh như sau:

Một vị sư được giao quản lý khu vườn của một ngôi chùa nổi tiếng là có khuôn viên đẹp. Vị sư này rất thích làm vườn, nên công việc này hoàn toàn thích hợp với ông. Cạnh ngôi chùa của ông có một ngôi chùa khác nhỏ hơn, trong đó có một thiền sư đã già sống một mình. Vị sư thường qua lại thăm nom thiền sư già, vì ông này không có thị giả bên cạnh.

Một hôm, nghe nói có người khách quan trọng đến viếng chùa, vị sư bỏ hết buổi sáng ra làm vườn cho thật hoàn hảo. Ông thu vén hết lá rụng, tưới nước trên cỏ rêu cho mướt, rải một ít hoa nơi chỗ thích hợp. Rồi ông đứng ngắm nghía khu vườn, đầy vẻ hài lòng. Thiền sư già đứng bên kia hàng rào, theo dõi tất cả một cách thích thú. Vị sư hỏi:

- Thầy thấy đẹp không? Con trang trí lại trông cứ y như là cảnh vườn của các vị tổ ngày xưa vậy
Thiền sư già gật đầu:
 - Đẹp lắm, nhưng vẫn còn thiếu sót một điều gì ấy. Con đem ta qua bên ấy, ta sẽ sửa lại cho.
Vị sư ngần ngại một chút nhưng rồi cũng phải chiều ý, đưa thiền sư già qua vườn. Vừa bước vào vườn, ông già đi từ từ lại một gốc cây ở trong một khu đá và cỏ rêu sắp xếp thật hài hòa. Lúc ấy vào mùa thu, lá chết rất nhiều. Thiền sư đứng dưới gốc cây lay mạnh - thế là lá vàng rụng tứ tung, bay rải rác khắp nơi trong khu vườn vừa được dọn sạch ngăn nắp.  


           Vì sao thiền sư già lại làm như vậy? Có lẽ đó là một cách để phá chấp sự vướng mắc quá nhiều của vị sư kia trong ước muốn làm cho khu vườn ấy được toàn hảo. Cái đẹp không chỉ tìm thấy trong sự toàn hảo, mà cũng ở nơi bất toàn hảo - vì cái đẹp thực sự không ở nơi hình tướng, mà ở nơi tâm hồn.  Ngay trong chỗ khiếm khuyết, chỗ bất toàn cũng có cái đẹp, đó chính là nét đẹp muôn mầu muôn vẻ trong pháp giới kỳ diệu của chúng ta.
 
          Tuy nhiên, cỏ cây gỗ đá chỉ là vật vô tình, một ngôi chùa quan trọng nhất là phải có Phật.  Phật không phải ở nơi mấy bức tượng, mà do công đức hoằng pháp và nguyện lực của tăng chúng. Vị sư trụ trì là linh hồn của ngôi chùa, gánh vác trách nhiệm một người con trưởng của Như Lai. Không gian trong một ngôi chùa là môi trường thấm thấu, tiếp nhận và lan tỏa năng lượng của đạo lực cũng như công phu tu trì trong ngôi chùa đó. Khách đến chùa khi ở trong không gian đó tự nhiên sẽ bị thu hút trong từ trường của đạo lực ấy, và cảm nhận sự biến chuyển nào đó trong tâm.

         Người ta thường nói: "Phật tại tâm, đâu cần phải đến chùa mới thấy Phật?" Điều đó rất đúng, nhưng nếu tâm còn vô minh thì làm sao thấy Phật trong đó được. Giống như bộ mặt của ta lúc nào cũng có ở đó, nhưng nếu không có gương thì làm sao chúng ta thấy bộ mặt của mình được. Giáo lý của Đức Phật và sự tu tập theo hướng dẫn của các bậc thầy là phương tiện cho ta có thể tìm thấy cái gương để soi chiếu được bộ mặt bản lai của mình, để được an bình và giải thoát. Thật tai hại biết bao nếu người hướng dẫn lại đi sai đường!

         Có một giai thoại đặc biệt về Thiền sư Hoàng Bá như sau. Khi Hoàng Bá đến ẩn cư tại ngôi chùa Khai Nguyên, có một vị đại quan của nhà Đường là tướng quốc Bùi Hưu đến thăm chùa. Vị sư trụ trì tiếp đãi rất long trọng. Khi tới nhà Tổ thấy hình các vị cao tăng treo trên vách, Bùi Hưu muốn thử sức trụ trì,  mới hỏi rằng:

 - Hình Cao tăng ở đây, mà cao tăng ở đâu?

Sư trụ trì không trả lời được, Bùi Hưu mới hỏi tiếp:
- Trong đây có vị thiền sư nào không?

Trụ trì nói:
- Có người mới tới, trông có vẻ như thiền sư.

Bùi Hưu bảo:
- Xin mời vị đó ra đây dùm.

Sư trụ trì mới mời Hoàng Bá ra. Thấy ngài, Bùi Hưu thưa:
- Khi nẫy, tôi có một câu hỏi Hòa thượng trụ trì, nhưng ngài tiếc lời không đáp, nay xin hỏi thiền sư: "Hình cao tăng ở đây mà cao tăng ở đâu?"

Ngài Hoàng Bá cất cao giọng gọi:
Bùi Hưu!

Bùi Hưu giật mình đáp:
- Dạ!

Ngài Hoàng Bá hỏi:
- Cao tăng ở đâu?

Ngay đó, Bùi Hưu ngộ được câu trả lời.

           Một ngôi chùa có cao tăng là có Phật. Nhưng ta không thể tìm Phật nơi cao tăng, mà phải tìm Phật ngay nơi tự thân mình. Người có thể dùng phương tiện khéo, tùy duyên mà khai thị và hóa độ được cho tất cả mọi người thấy được Phật của mình, không phân biệt căn cơ trình độ,  mới gọi là cao tăng.
  
          Hiện nay, có phong trào xây chùa ở Việt Nam cũng như trong cộng đồng Việt ở hải ngoại. Điều đó là một dấu hiệu tốt, nhưng không có nghĩa là đạo Phật đang hưng thịnh. Trong một số triều đại xưa ở Trung Hoa, chùa chiền được xây lên rất nhiều, người xin vào chùa tu thật là đông đảo đến nỗi phải qua kỳ thi tuyển, thế nhưng phần lớn những hiện tượng đó chỉ là những hình thức trống rỗng, một cách "mua phước" của những người có quyền uy trong triều- khi triều đại sụp đổ thì những chùa chiền đó cũng sụp đổ theo.  Tổ sư Bồ Đề Đạt Ma khi vừa từ Ấn Độ qua đến miền Nam Trung Hoa, được vua Lương Vũ Đế thỉnh vào cung hỏi rằng: 

- Trẫm từ khi lên ngôi tới nay xây chùa độ tăng vô số kể, in kinh hành thiện không ngừng, xin hỏi như vậy được công đức gì?

          Đạt Ma trả lời: 
- Chẳng có công đức gì hết.

         Lương Vũ Đế tức giận hỏi: 
- Vì sao?

         Đạt Ma trả lời: 
- Vì tất cả chỉ là hình tướng hữu vi. Công đức thực sự là trí tuệ chứng ngộ được thực tướng vô tướng, bản lai vốn không tịch, viên minh vi diệu. Công đức ấy không thể đem hình tướng mà cầu lấy được.

         Vẫn biết chùa là một phương tiện cần thiết để hoằng pháp, nhưng đôi khi trong một số trường hợp, ngôi chùa lại được tôn lên thành cứu cánh biện minh cho những hoạt động có tính cách thế gian, hơn là những nỗ lực tu tập và xiển dương chánh pháp để tự độ độ tha, tự giác giác tha.  

         Đạo Nguyên là một đại thiền sư của Nhật Bản, đã sáng lập giòng thiền Tào Động tại Nhật. Khi còn trẻ, ngài đã vượt bao sóng gió hiểm nguy để qua Trung Hoa tìm thầy học đạo. Lúc bấy giờ Trung Hoa đang ở trong triều đại nhà Tống. Đạo Nguyên đến một ngôi chùa danh tiếng, vào đảnh lễ nói lời thỉnh nguyện cầu đạo. Sư trụ trì nói:

            - Con đang trên đường tìm đạo, điều đó tốt lắm. Nhưng con phải biết rằng trong sự tu tập đạo Phật không nên dựa vào một người thầy, mà phải dựa vào chính tự thân mình để giác ngộ. Đó là điều sư phụ của ta đã dạy cho ta. Thôi, bây giờ ta bận công việc phải đi gặp giới quan quyền đây. Điều này rất cần thiết để giúp hộ trì cho nhà chùa đó.  Rồi con sẽ hiểu.

            Đạo Nguyên thưa:
            - Bạch thầy, con biết điều đó cần thiết để giúp hộ trì cho nhà chùa, nhưng...
            - Nhưng sao?
            - Nhưng không biết điều đó có giúp hộ trì cho Phật Pháp không? 

          Sư trụ trì nghe vậy đổi sắc mặt, bỏ đi một nước.

          Trong Đại Thừa Kim Cang Kinh Luận, Đức Phật nói rằng trong thời mạt pháp, có "lục sư ngoại đạo",  mang tướng là sư nhưng ở chùa làm việc bại hoại, hủy báng pháp Phật, phỉnh gạt người đời. Đó gọi là những loài ma ba tuần hiện thân để phá hoại đạo Phật.  Có những ngôi chùa được dựng lên để buôn thần bán thánh, lợi dụng lòng mê tín dị đoan của dân chúng để biến chùa thành một cơ sở kinh doanh nhiều hơn là một cơ sở hoằng pháp. Vì vậy Phật tử phải sáng suốt minh mẫn, biết nhận xét các hoạt động trong chùa xem có hợp với chánh pháp hay không.  Gotami là nhũ mẫu của Đức Phật, đã nuôi nấng thái tử Tất Đạt Đa từ nhỏ đến khôn lớn, sau này được Đức Phật cho phép xuất gia. Bà đã học từ Đức Phật những lời khuyên như sau:

        " Này Gotami, nếu pháp tu nào đưa đến khát vọng mong cầu, ngã mạn, ưa thích chốn phồn hoa náo nhiệt, không làm cho an vui, không gợi lên niềm tôn kính, không làm cho tinh tấn và có trí tuệ đạo hạnh, pháp tu ấy không phải là Chánh Pháp, không phải là Giới Luật của Như Lai.

        Còn bất luận pháp tu nào không đưa đến khát vọng mong cầu, không ngã mạn, làm cho an vui, ưa thích nơi yên tĩnh thanh tịnh, gợi lên niềm tôn kính, làm cho tinh tấn và có trí tuệ đạo hạnh, thì đó đúng là Chánh Pháp, là Giới Luật của Như Lai."

        Đức Đạt Lai Lạt Ma, trong tinh thần cởi mở và thức thời, đã nói như sau  về vấn đề xây thêm chùa trong thế kỷ 21: "Tôi không đặc biệt khuyến khích xây thêm chùa chiền hay tu viện, tôi muốn thấy một trung tâm giáo dục nhiều hơn, và ở đâu cũng có thể có một ngành học chuyên biệt về đạo Phật, đạo Lão cũng như những lý thuyết đạo đức thế gian. Gần đây tôi mới nói với những người ở Ladakh rằng họ phải nhắm đến việc biến những tu viện của họ thành những trung tâm học hỏi nhiều hơn."  Phải chăng Đức Đạt Lai Lạt Ma muốn ngụ ý rằng nên giảm bớt sự tập trung vào những hình thức cúng tế lễ nghi cổ truyền mà phải trau dồi kiến thức nhiều hơn, để có thể đưa đạo vào đời một cách thích hợp hơn với thời đại ?

         Kể từ đầu thế kỷ 20, khi người Nhật và người Hoa bắt đầu di dân sang Mỹ, chùa chiền cũng bắt đầu được dựng nên tại nơi định cư mới, nhưng theo thời gian, các ngôi chùa khởi thủy này đã mai một dần và gần như mất hẳn.  Tuy nhiên, trong những thập niên cuối của thế kỷ 20 cho đến ngày nay, đạo Phật đã phát triển vượt bực ở  nước Mỹ, có lẽ phần lớn nhờ vào sự phổ biến của mạng lưới internet và phương tiện truyền thông tân tiến.  Mặc dù những cơ sở hoằng pháp vẫn còn rất ít, nhưng vì không phải vướng mắc trong những nghi thức cúng lễ cổ truyền như các nước Á Châu, người Âu Mỹ đã đi thẳng vào những điểm tinh túy trong triết lý đạo Phật và lựa lọc trong đó những pháp môn tự lực như tu thiền để áp dụng vào đời sống. Trong tinh thần đó, Phật pháp đã từ từ thâm nhập vào nền văn hóa của xã hội Âu Mỹ trong những bước âm thầm mà vững chắc.

        Nhưng mặc dù thời thế đã thay đổi, khi thế hệ thứ nhất của những người Việt di dân không còn nữa, những ngôi chùa đang được xây dựng hiện nay theo truyền thống Việt Nam liệu có thích nghi được với môi trường mới và vượt qua được những thách đố của thời đại để thường tồn không, hay cũng rơi vào số phận những ngôi chùa khởi thủy của người Nhật, người Hoa trước kia?  

        Điều đó chỉ có thời gian mới trả lời được. Dầu gì, tất cả cũng chỉ là nhân duyên mà thôi.  Nhưng dù cho những ngôi chùa có thường tồn hay mất đi, Phật giáo có phát triển hay suy vi,  Pháp Phật bao giờ cũng còn đó, hiện diện khắp nơi trên thế giới này, bất sinh bất diệt, bất tăng bất giảm, dù có người biết đến hay không biết đến.  Lại nhớ đến Thung Lũng Chùa Tháp, đến ngôi chùa Byodo-In ở Hawaii, tuy không thực sự là một ngôi chùa, nhưng khi thấy tượng Phật A Di Đà, khi nghe tiếng chuông đại hồng ngân vang, cũng để lại trong lòng người một chút gì đó.
         
Ngọc Bảo
Tháng 1, 2014




Chủ Nhật, 12 tháng 1, 2014


KHÍA CẠNH TRIẾT HỌC CỦA CUỘC NÉM BOM
DINH ĐỘC LẬP 1962 TRONG QUAN HỆ VỚI PHÁP NẠN 1963

Minh Thạnh


Cuộc ném bom Dinh Độc lập năm 1962 của 2 phi công Nguyễn Văn Cử và Phạm Phú Quốc đã được đề cập nhiều dưới các khía cạnh quân sự, chính trị, sử học, nghệ thuật, đã là một sự kiện làm tốn khá nhiều giấy mực, nhất là ở khía cạnh chính trị.

Về mặt quân sự, đây được coi là một cuộc ném bom rất chính xác trong hoạt động cường kích không quân, với kỹ năng nghiệp vụ cao, bất ngờ, táo bạo, áp đảo.
Về mặt sử học, người ta đã từng tranh luận xem đây là một cuộc ám sát hay đảo chính. Một số sử gia xem đây là một cuộc đảo chính dù mục tiêu giết chết Tổng thống Ngô Đình Diệm cũng rất rõ ràng.
Hai máy bay cường kích đã làm chủ không phận Sài Gòn nửa giờ và liên tục tấn công xuống Dinh, trực diện với pháo phòng không bắn lại từ nhiều điểm, không phải là một cuộc ra tay ám sát ngắn ngủi.
Wikipedia tiếng Anh cũng cho rằng “Cử và Quốc hy vọng cuộc không kích sẽ cho thấy những lỗ hổng của chính quyền Diệm và kích hoạt một cuộc tổng nổi dậy” (Cử and Quốc hoped that the airstrike would expose Diệm's vulnerability and trigger a general uprising).

Máy bay Skyrider của 2 sĩ quan Không quân VNCH  Phạm Phú Quốc và Nguyễn Văn Cử bay nhào xuống sông Sài Gòn để chuẩn bị cho lượt ném bom xuống Dinh Độc Lập (Tổng thống phủ)  

Về nghệ thuật, có thể kể đến bài hát của Phạm Duy “Huyền sử ca một người mang tên Quốc” (các bản ghi âm của bài hát này hiện nay, vì lý do rõ ràng là bênh vực cho chế độ Diệm, đã bỏ đi lời ca ngợi Phạm Phú Quốc “bay lên đập vỡ bạo quyền, hạ thấp người phi công này xuống chỉ là như một người tử trận trong chiến tranh).

Về mặt tôn giáo, có lời đồn đại hòa thượng Thích Tâm Châu là người cùng vạch kế hoạch cuộc ném bom với ông Nguyễn Văn Lực, một nhà lãnh đạo Việt Nam Quốc dân đảng, cha phi công Nguyễn Văn Cử, vì hòa thượng Thích Tâm Châu là bạn của ông Nguyễn Văn Lực. Lời đồn đại này xuất hiện sau tháng 11/1963, tức sau cuộc đấu tranh đòi bình đẳng tôn giáo của Phật giáo.
Đây là một đồn đoán huyễn hoặc, không có cơ sở, vì chỉ từ quan hệ bạn bè mà suy diễn. Và vào năm 1962, mâu thuẫn giữa Phật giáo và chính quyền Ngô Đình Diệm chưa phải đã lên cao như trong năm sau đó. Hiện nay, lời đồn đoán đó đã đi vào quên lãng. Các tài liệu sử học đáng tin cậy chỉ nói đến vai trò của ông Nguyễn Văn Lực trong cuộc đảo chính quân sự này.

Trong các tài liệu sử học mà tôi đọc được, đều không thấy đề cập đến mối liên hệ nào giữa cuộc ném bom Dinh Độc Lập năm 1926 của hai phi công Nguyễn Văn Cử và Phạm Phú Quốc với pháp nạn Phật giáo 1963, dù một vài tài liệu có nói ông Phạm Phú Quốc là Phật tử (pháp danh Như Hưng). Bài viết này sẽ bước đầu tìm hiểu mối liên hệ giữa 2 sự kiện đó, từ khía cạnh triết học.
Tuy nhiên, cần xác định rõ không phải là Phật giáo miền Nam có liên hệ gì với cuộc không kích Dinh Độc Lập năm 1962, mà là chỉ ra những tác động của cuộc ném bom này về mặt triết học đối với tổng thống Ngô Đình Diệm trong hành động đàn áp Phật giáo. Chính vì vậy, nên đây là một câu chuyện có liên hệ đến Phật giáo và do đó trở thành đối tượng tìm hiểu của bài viết này.

Cuộc không kích Dinh Độc Lập năm 1962

Như đã nói, đây là một cuộc đảo chính, với lực lượng quân sự được sử dụng là không quân, tấn công vào nơi cư trú của gia đình Ngô Đình Diệm, là đầu não của chế độ này.
Cuộc đảo chính trước hết là vấn đề của mâu thuẫn giữa chế độ Ngô Đình Diệm và Việt Nam Quốc dân Đảng, không có liên hệ gì đến Phật giáo. Khẳng định lại một lần nữa như thế để xóa tan lời đồn đại sự dính líu của Phật giáo miền Nam vào cuộc đảo chính này.
Lập kế hoạch cho cuộc đảo chính là ông Nguyễn Văn Lực, một người lãnh đạo Việt Nam Quốc dân Đảng, chống chế độ Ngô Đình Diệm, đã từng bị tù tội. Theo kế hoạch, con trai ông Lực, trung úy Nguyễn Văn Cử, phi công lái máy bay cường kích Skyraider A1 cùng với một đồng đội, trung úy Phạm Phú Quốc, sinh năm 1935, lái phi cơ cùng loại thứ 2 tấn công Dinh Độc Lập.

Dinh Độc Lập (Phủ Tổng thống) bị không kích vào sáng 27-2-1962

Bảy giờ sáng ngày 27/2/1962, cuộc tấn công đã diễn ra, khi 2 phi công nói trên điều khiển 2 máy bay cường kích quay về Sài Gòn trong một phi vụ ở đồng bằng sông Cửu Long và tấn công Dinh Độc Lập. Bom, rocket không điều khiển, đạn pháo đã được sử dụng, đánh chính xác vào cánh phía tây Dinh Độc Lập, nơi gia đình Ngô Đình Diệm cư trú, phá sập phần lớn cánh phía Tây của dinh thự này.
Hai máy bay đã không kích chỉ đánh vào mục tiêu một căn phòng trong Dinh Độc Lập và chịu đựng trong 30 phút đạn phòng không từ dưới đất bắn lên. Máy bay của Phạm Phú Quốc trúng đạn, bị rơi xuống sông Sài Gòn và phi công bị bắt giữ. Máy  bay của Nguyễn Văn Cử bị đạn làm hư hại, hạ cánh khẩn cấp xuống Phnom Penh, phi công tị nạn chính trị.
Có cả máy bay cất cánh để không chiến, nhưng gặp trở ngại vì hỏa lực phòng không dưới đất không phân biệt được với máy bay tấn công Dinh Độc Lập.
Ngoại trừ bà Ngô Đình Nhu bị xây xát nhẹ ở tay, ông Ngô Đình Diệm và những người còn lại trong gia đình không hề hấn gì.

Vấn đề triết học phát sinh từ cuộc không kích

Chính việc gia đình và cá nhân ông Ngô Đình Diệm không hề hấn gì đã tạo nên những tác động về mặt triết học. Tác động này diễn ra trên chính ông Diệm, gia đình, tức bộ máy cầm quyền, trung ương và các quan chức thân cận với gia đình này, gồm cả những binh lính, viên chức chính quyền cấp dưới của chế độ Ngô Đình Diệm.
Số đông người này đã chịu ảnh hưởng từ một chiến dịch truyền thông cho chế độ Ngô Đình Diệm phát động, mang màu sắc triết học.
Các phi công đảo chính đã thực hiện xuất sắc cuộc ném bom. Họ xác định đúng căn phòng Ngô Đình Diệm ở và thời điểm ông ta có mặt trong phòng. Nguyễn Văn Cử và Phạm Phú Quốc nghĩ rằng cuộc ném bom đã đạt mục tiêu khi nhìn thấy khu vực được xác định của Dinh bị đánh sập hoàn toàn, nhưng thực tế hoàn toàn trái ngược (1).

Trung úy Không quân Phạm Phú Quốc (trái), và Trung úy Không Quân Nguyễn Văn Cử
sau khi hạ cánh khẩn cấp xuống Campuchia

Quả bom 230 kg đầu tiên đã ném trúng căn phòng ông Diệm đang ngồi đọc sách trong đó. Trái bom không nổ! Sau đó, Ngô Đình Diệm, Tổng Giám mục Ngô Đình Thục, vợ chồng ông Ngô Đình Nhu và các con nghe tiếng máy bay rít ngang kịp thời biết có cuộc không kích, đã trốn xuống tầng hầm ở cánh phía đông của Dinh.
Trong khi đó, bom và đạn pháo phá sập một phần cánh phía tây của Dinh.

Để hiểu được vấn đề triết học nảy sinh từ đây, chúng ta điểm qua về niềm tin tôn giáo và tư duy triết học của Ngô Đình Diệm và gia đình.
Ông Diệm theo đạo Ca tô La Mã một cách cực đoan, đồng thời, chịu ảnh hưởng nặng nề từ Nho giáo. Ông ta tin vào “mệnh trời” trong sự nghiệp chính trị của mình. Toàn bộ gia đình Ngô Đình Diệm là những người ngoan đạo, cùng niềm tin như thế.
Niềm tin tôn giáo này có quan hệ chặt chẽ với hệ tư tưởng triết học của chính quyền Ngô Đình Diệm là triết học nhân vị. Triết học nhân vị của chính quyền Ngô Đình Diệm do Ngô Đình Nhu, cố vấn chính trị khai sinh, lấy từ triết học nhân vị Pháp, của một nhóm trí thức cấp tiến, đứng đầu là E. Mounier (1905 - 1950).

Sách “Nửa thế kỷ nghiên cứu và giảng dạy triết học ở Việt Nam”, Nguyễn Trọng Chuẩn chủ biên, nhà xuất bản Hà Nội, 2001, đã viết như sau “Nhằm tạo ra một thứ triết học phục vụ lợi ích chính trị, Ngô Đình Nhu đã du nhập chủ nghĩa nhân vị của các nhà triết học Pháp để nhào nặn, tỉa rút, biến lý thuyết triết học này thành chỗ dựa để chống cộng sản” (trang 570).
Còn sách “Lịch sử triết học”, Bùi Thanh Quất, Vũ Tình (đồng chủ biên), nhà xuất bản Giáo dục, 2001, nhận định triết học nhân vị ở miền Nam “gắn liền thần học với chủ nghĩa duy linh”. Chủ nghĩa duy linh ở đây là chủ nghĩa tôn thờ thượng đế, đấng thiêng liêng tạo ra vũ trụ, vạn vật con người. Tất nhiên, đó là chúa trời đạo Ca tô La Mã, trong bối cảnh cầm quyền của Ngô Đình Diệm.

Trong sách “Ảnh hưởng của triết học phương tây hiện đại ở Việt Nam”, Lê Thị Tuyết, Dương Quốc Quân đồng tác giả, nhà xuất bản Chính trị Hành chính, 2013, các tác giả viết: “Chủ nghĩa nhân vị được chính quyền Ngô Đình Diệm sử dụng như một công cụ chống cộng sản, nó hoàn toàn tương ứng với giáo lý của Công giáo. Đó vẫn chỉ như một giáo hội công giáo trung cổ, trung thành nghiêm ngặt với những giáo điều của cộng đồng Trent (1545-1563). Công giáo miền Nam Việt Nam muốn kiên trì những kỷ cương, đảm bảo tính liên tục của giáo lý, từ đó bác bỏ mọi cải cách”.

Đối với vai trò nhà cầm quyền, chủ nghĩa nhân vị thần thánh hóa vai trò người cầm quyền, mà ở đây là Ngô Đình Diệm và gia đình. Các tác giả Lê Thị Tuyết, Dương Quốc Quân (sách đã dẫn) nhận định: “Nó cho rằng quyền xã hội là quyền do Chúa ủy thác cho người nào đó, để người ấy thay chúa trị vì thiên hạ. Nó đòi hỏi mỗi nhân vị phải phục tùng quyền lực đó như “sứ mạng”, “trách nhiệm” đối với Đấng tạo hóa, thậm chí phải hy sinh tính mạng của mình cho quyền lực. Bổn phận đối với chính phủ còn cao hơn đối với cha mẹ, nếu bổn phận đối với cha mẹ mười phần, thì bổn phận đối với chính phủ còn gấp trăm, nghìn lần, vì đây là “ân huệ tràn trề”, “tình thương vô biên” của tạo hóa ban phát cho loài người.
Đề tài về quyền xã hội do chúa ủy thác này rất gắn với chủ nghĩa nhân vị Mỹ mà có lúc Diệm đã thừa nhận. Khác với nhóm E. Mounier ở Pháp, nó ra sức bảo vệ chế độ tư bản chủ nghĩa. Tuy nhiên, đây không chỉ đơn thuần là việc bắt chước một học thuyết của nước ngoài. Đằng sau chủ nghĩa nhân vị Mỹ này, người ta thấy hiện lên hệ tư tưởng Khổng giáo với đạo tam cương hà khắc. Đó là vũ khí tinh thần cần thiết của tập đoàn địa chủ mại bản ở miền Nam Việt Nam trong những năm 60 của thế kỷ XX”.

Niềm tin vào “mệnh trời” ở Ngô Đình Diệm ngày càng củng cố sau các thành quả chính trị quân sự, như hạ bệ Bảo Đại, đánh dẹp Bình Xuyên và Hòa Hảo, mua chuộc tướng lĩnh quân đội Cao Đài, loại trừ Hộ pháp Phạm Công Tắc, dập tắt đảo chính của quân Dù trước đó. 
Niềm tin “mệnh trời” ở Ngô Đình Diệm đã lên tới tột đỉnh khi bom đánh trúng phòng ông ở, lúc ông đang có mặt mà không nổ, nơi cư trú của gia đình ông bị san bằng mà hầu như không ai hề hấn gì. Ông Diệm coi đây là sự linh nghiệm của tôn giáo mà ông đang tôn thờ, sự xác tín của thứ triết học mà ông đang truyền bá. Ông ta tự xác định mình được sự che chở của Thượng đế theo mệnh trời một cách thiêng liêng, trở thành một tổng thống bất khả xâm phạm.

Do vậy, phản ứng của Ngô Đình Diệm sau cuộc ném bom không phải là bàng hoàng, hoảng hốt, sợ hãi, mà điềm tĩnh, tự tin, chiến thắng có phần đắc chí. Khía cạnh triết học của cuộc ném bom bắt đầu từ đây. Trong diễn văn ngắn trên đài phát thanh sau cuộc ném bom, ông Diệm nói mình thoát chết là do sự bảo vệ thiêng liêng.
Không lâu sau khi thoát hiểm, ông Diệm đi thăm các binh sĩ bị thương trong cuộc không kích, đơn vị không quân có máy bay không kích… Sau đó, nữa là một thánh lễ tạ ơn được quảng bá rầm rộ như một cuộc khải hoàn vinh quang.
Bộ máy truyền thông của chính quyền Ngô Đình Diệm đã ra sức tuyên truyền cho điều được gọi là sự bảo vệ thiêng liêng này, nhằm củng cố cho quyền lực của chế độ.
Tất nhiên, việc thoát chết của tổng thống Diệm được sử dụng như một minh chứng cho triết học nhân vị với vị tổng thống “thiên mệnh”, được thượng đế che chở. Rằng việc cai trị của tổng thống là “do Chúa ủy thác”, không thể thay đổi, không thể đảo ngược.

Về khía cạnh tôn giáo, các thánh lễ tạ ơn được tổ chức ở các xứ đạo thể hiện niềm tin thiên chúa ủng hộ và che chở tổng thống, tổng thống là người trời, là bất khả xâm phạm. Từ đó, lan truyền những tin đậm màu sắc tôn giáo, như có người đã thấy Đức Mẹ hiện ra trên Dinh Độc Lập khi 2 máy bay Skyraider ném bom. Người ta coi việc bom rơi trúng phòng tổng thống mà không nổ là một phép lạ, một sự mầu nhiệm của ơn trên…
Cả tổng thống, gia đình, nhiều người trong bộ máy chính quyền và bộ phận tín đồ một tôn giáo đã như bị say thuốc trong chiến dịch tuyên truyền mang màu sắc triết học nhân vị. Họ tin cũng đúng, bởi ngoài cỗ máy tuyên truyền được huy động đến công suất đỉnh, còn một sự thật rất hiển nhiên và ấn tượng là Dinh Độc Lập sụp gần hết cánh trái, mà gia đình tổng thống, trong đó có giám mục Ngô Đình Thục vô sự. Trong khi đó, trong Dinh Độc Lập, có 3 người chết và 30 người khác bị thương.
Báo chí đăng bức ảnh bà Ngô Đình Nhu đứng trên đống đổ nát của Dinh Độc Lập, chỉ tay kẻ cả không phải với nét mặt đau xót, tiếc nuối, buồn bã, mà là kiêu hãnh, phấn chấn, tự tin. Một cuộc tấn công với 2 phi cơ đầy bom đạn, nửa giờ chiếm lĩnh bầu trời Sài Gòn, Dinh Độc Lập sụp đổ, nhưng nhà Ngô vẫn đứng vững, quyền lực vẫn nguyên vẹn. 


Những hệ quả

Các vấn đề triết học liên hệ đến việc ném bom Dinh Độc Lập, được cỗ máy tuyên tuyền của chế độ Ngô Đình Diệm khuếch đại, đã có những tác động ngược chiều và tai hại cho chính chế độ Ngô Đình Diệm.
Ngô Đình Diệm và gia đình từ tháng 2/1962, đã xử lý công việc chính trị với tư duy “thiên mệnh”, “được ơn trên bảo vệ” lên đến đỉnh điểm. Người ta thấy một sự ngạo mạn mang màu sắc duy tâm triết học. Tư duy ngạo mạn mang màu sắc triết học nhân vị đó đã đưa chế độ Ngô Đình Diệm lên đến đỉnh điểm độc tài, tàn bạo và mù quáng. Triết học nhân vị kiểu Ngô Đình Nhu được xác định đúng đắn trong thực tế và có tính chất thiêng liêng, nên ảnh hưởng của nó đối với hoạt động chính trị của chế độ Diệm trở nên tuyệt đối.

Triết học nhân vị trong môi trường như thế sau cuộc ném bom bất thành đến kỳ lạ đã làm Diệm và chế độ điều khiển chính sự miền Nam không còn bằng đầu óc của một nhà chính trị tỉnh táo nữa, mà bằng sự tự tin mụ mị, khinh thường tất cả phản ứng nguy hiểm. Pháp nạn 1963 diễn ra trong bối cảnh đó.
Triết lý trong sự kỳ thị và áp bức Phật giáo của chế độ Diệm là từ triết học nhân vị kiểu Nhu, được củng cố bởi niềm tin “thiên mệnh” lên tới cao điểm sau vụ ném bom. Tư tưởng công đồng Trent (1545-1563), cốt lõi của chủ nghĩa nhân vị kiểu Ngô Đình Nhu là tư tưởng coi mọi tôn giáo khác ngoài Ca tô La Mã đều là ma quỷ với sự miệt thị. Những người theo triết học nhân vị này, trong tình trạng say thuốc “thiên mệnh”, đã đối xử với Phật giáo một cách hết sức tàn bạo và không sợ những hậu quả có thể phát sinh. Chính điều đó đã dẫn chế độ Diệm đến chỗ sụp đổ.

Cuộc ném bom Dinh Độc Lập năm 1962 có quan hệ gián tiếp với pháp nạn Phật giáo 1963 như vậy. Nó tạo một hiệu ứng triết học, từ đó ảnh hưởng đến hành động của chính quyền Ngô Đình Diệm đối với tất cả mọi trường hợp, trong đó có việc gây ra pháp nạn 1963. Có thể thấy điều này khi so sánh với chính quyền Nguyễn Văn Thiệu. Giữa chính quyền Nguyễn Văn Thiệu và Phật giáo miền Nam cũng có mâu thuẫn, nhưng chính quyền Thiệu giải quyết vấn đề không bằng cơn say triết học nhân vị thiên mệnh, nên có những diễn tiến khác.
Quan điểm ảnh hưởng của triết học nhân vị thiên mệnh về tổng thống “mệnh trời” được đấng thiêng liêng bảo vệ cũng có thể làm những người tuy theo Diệm, thậm chí trong các lực lượng vũ trang, bán quân sự do Diệm Nhu lập ra, nuôi dưỡng nhưng đã đứng trơ ra nhìn cuộc đảo chính 1/11/1963, vì tin là tổng thống bất khả xâm phạm, giao phó mọi việc cho trời lo, mà trời rõ ràng cứu Diệm trong cuộc không kích 1962.

Bài này được viết để gởi đến những người bài Phật giáo ở hải ngoại đang toan tính phục hồi Ngô Đình Diệm cùng với triết học nhân vị. Cơn say thuốc triết học nhân vị từ 2/1962 cần được ghi nhận một cách nghiêm túc. Triết học nhân vị kiểu Ngô Đình Nhu đã lên đến đỉnh điểm từ những sự “mầu nhiệm” hay “phép lạ” như thế. Phục hồi Ngô Đình Diệm và những tư tưởng của ông ta qua triết học nhân vị, bài xích Phật giáo, chính là trở về với vết xe đổ hơn 50 năm trước
Lịch sử đã làm cho thuyết lý về sứ mệnh trị quốc thiêng liêng, về một tổng thống “mệnh trời” sụp đổ một cách thảm hại. Triết học nhân vị của Ngô Đình Nhu không phải chỉ là một mớ hỗ lốn triết học của E. Mounier, triết học nhân vị Mỹ, công đồng Trent, mà đã trở thành trò cười từ chiến dịch tuyên truyền sau cuộc không kích Dinh Độc Lập 1962. 

Những người lớn tuổi đã trải qua những ngày tháng hơn 50 năm trước nên nhớ lại việc này khi nói chuyện hoài niệm nhà Ngô. Còn những người trẻ ở hải ngoại thì nên biết có một chuyện bi hài như thế đã xảy ra, khi nghe những luận điệu “suy tôn Ngô Tổng Thống”.
Về mặt học thuật, bài viết muốn cung cấp cho bạn đọc nói chung một nội dung tìm hiểu mới về bối cảnh diễn ra Pháp nạn Phật giáo 1963, một vấn đề Phật giáo Việt Nam cần nghiên cứu.

MT

(1)          Nhiều ý kiến quanh việc này. Có ý kiến cho rằng số vũ khí một máy bay cường kích Skyraider A1 mang theo, 3600kg mà ở đây là 2 chiếc, có thể san bằng Dinh Độc Lập, một tòa nhà xây dựng cuối thế kỷ XIX, lợp ngói, không bê tông cốt thép, khi đánh sập các cột chính. Nhưng Phạm Phú Quốc và Nguyễn Văn Cử không muốn phá nát Dinh Độc Lập, mà chỉ nhắm đánh vào căn phòng riêng của Ngô Đình Diệm, là nơi ông này theo thông lệ có mặt vào buổi sáng sớm. Skyraider A1 là máy bay cánh quạt, có thể bay chậm và khi không kích Dinh Độc Lập đã bay rất thấp (150 mét, theo Wikipedia tiếng Anh, mục từ “1962 South Vietnamese Independence Palace bombing”), ném bom rất chính xác. Người viết bài này từng thấy phi công quân đội Sài Gòn dùng Skyraider A1 biểu diễn ném bom giả rơi đúng vào một chiếc thùng nổi trên sông Sài Gòn. Nếu san bằng Dinh Độc Lập thì cả gia đình Ngô Đình Diệm sẽ bị vùi trong đám đổ nát, kết quả có thể khác, nhưng nhiều người không liên quan đến gia đình họ Ngô sẽ đều chết hết. Chỉ vì 2 phi công đảo chính quá tự tin và không muốn hại người vô can, nên họ không đạt kết quả, chứ không có phép lạ gì ở đây.
Trong bài “Phạm Phú Quốc và phi vị thả bom Dinh Độc Lập, Sài Gòn, 1962”, đăng trên hon.net.co.uk, một phi công lái máy bay đánh chặn cuộc tấn công của Phạm Phú Quốc – Nguyễn Văn Cử viết rằng Phạm Phú Quốc có thả bom an toàn trên sông Sài Gòn trước khi đáp xuống nước. Bài này diễn giải “thả bom an toàn là thả bom mà ngòi nổ còn gài chốt, nên bom rời khỏi phi cơ, chìm xuống nước mà không nổ”. Việc bom không được ném hết cho thấy các phi công đảo chính không có ý định san bằng Dinh Độc Lập.

Minh Thạnh
12/01/2014