Thứ Tư, 30 tháng 10, 2013


THĂNG TRẦM CỦA “RỒNG PHU NHÂN” TRẦN LỆ XUÂN

 
“Miệng lưỡi độc ác và dữ dội của Bà Ngô Đình Nhu đã đưa đến thảm họa
và đẩy nưóc Mỹ vào vũng lầy chiến tranh Việt Nam”


Bài viết “Rise and Fall of the Dragon Lady
của PETER BRUSH

Việt dịch của LND, Hình ảnh từ Internet
(Trích từ Nguyệt san “VIETNAM”, số tháng 10 năm 2009).


Tác giả Peter Brush là  một cựu sĩ quan Thủy Quân Lục Chiến Mỹ, đã từng đóng quân ở Quảng Trị trong 2 năm 1967 và 1968. Sau chiến tranh, ông đi học trở lại và tốt nghiệp Thạc sĩ Chính trị học. Hiện nay, ông là Quản thủ Thư viện của Đại học Vanderbilt, tiểu bang Tennesse. Ông còn là tác giả của nhiều công trình nghiên cứu giá trị khác về Việt Nam.

 
Trong lịch sử ngắn ngủi của Nam Việt Nam, một người đàn bà đầy mưu mô tên là “Lệ Xuân” đã dùng tất cả mánh lới để đưa mình lên đĩnh cao của quyền lực. Trong tiến trình đó, bà đã châm ngòi thù hận tôn giáo, ban hành những luật lệ đạo đức khắt khe, âm thm nuôi dưỡng tham nhũng và làm cho người Việt lẫn các nước bạn đồng minh công phẫn đến mức suốt đời bà bị gán hỗn danh là “Rồng Phu Nhân”. Đây là tên của một nhân vật nữ qủy quái một cách tuyệt vời do họa sĩ Milt Caniff tạo ra năm 1934 trong loạt chuyện tranh bằng hình “Terry and the Pirates” nổi tiếng của Mỹ. Người thiếu phụ trẻ tuổi Trần Lệ Xuân đã trở thành một bà Ngô Đình Nhu cố chấp, giữ vai chính trong một vỡ kịch phức tạp và huyền bí làm cho nước Mỹ bị lôi vào một bẫy sập. Bà cũng cho thấy trước những vị cay đắng của một thập niên tàn khốc tiếp theo sự ra đi của bà.

Trên cương vị là một người em dâu của Tổng thống độc thân Việt Nam Cộng hòa Ngô Đình Diệm, bà Ngô Đình Nhu tự coi mình là “Đệ Nhất Phu Nhân” và là người đàn bà nổi tiếng và nhiều quyền uy nhất nước. Bản tính không ngại ngùng những điều dị nghị và thích thú với tiếng tăm, Bà Nhu được Tổng thống Diệm ủng hộ tối đa nhưng cũng bị Tổng thống John F. Kennedy và chính quyền nước Mỹ quá sức chán ghét.  Cuộc đời lên bổng xuống trầm của Bà Nhu đã tượng trưng cho một bãi lầy mà chính sách ngăn chận Cộng sản của Mỹ tại Đông Nam Á đã được xây dựng trong những năm đầu thập niên 1960.

Sinh năm 1924, cô Trần Lệ Xuân ra đời và lớn lên từ một trong những gia đình giàu có và quý phái nhất Việt Nam. Gia tài kếch sù của họ đã được xây dựng từ nhiều năm phục vụ cho chính quyền thực dân Pháp. Cô ta có 20 người hầu hạ trong căn nhà ở Hà Nội, nơi mà thân phụ của cô hành nghề luật sư. Cô Lệ Xuân là một học sinh tầm thường nhưng giỏi tiếng Pháp mặc dù không viết được tiếng Việt và không học hết bậc trung học. Cô không có một tuổi thơ vui vẻ vì cảm thấy không có được tình thương của Mẹ, từ đó cô thường tranh cãi với Mẹ. Cô đã muốn lấy chồng sớm để thoát ly khỏi vòng kềm tỏa của gia đình.

Ông Ngô Đình Nhu  tuổi ngoài 20 ở Paris, học về văn hoá và thư viện. Gia đình nhà Ngô đã đổi qua đạo Công Giáo từ thế kỷ 17. Thân phụ của ông Nhu đã từng là cố vấn (Phụ Chính Đại Thần - LND) cho Hoàng đế của Việt Nam. Đầu những năm 1940, ông Nhu trở về Hà Nội làm quản thủ thư viện Đông Dương. Thời kỳ nầy, ông trở thành một người ngưỡng mộ Mẹ của cô Lệ Xuân qua phòng khách văn chương của bà (là nơi, bắt chước theo phong cách người Pháp salon litéraire, các nhà trí thức tụ họp để thảo luận những đề tài văn nghệ – LND). Trong khi ông Nhu đem sách vở đến và dạy kèm tiếng La-Tinh cho cô Lệ Xuân thì cô gái 19 tuổi này lập ra một kế hoạch để thoát khỏi vòng kềm kẹp của gia đình. Mặc dù nhỏ hơn ông Nhu 14 tuổi, và cũng không yêu, bà đã đổi qua đạo Công Giáo và lấy ông này năm 1943.

Ba năm sau khi hai người thành vợ chồng, chiến tranh bùng nổ giữa Việt Minh và Pháp. (1)

Anh em nhà ông Nhu chống Cộng một cách mạnh mẻ. Một người anh, là ông Ngô Đình Diệm, bị Việt Minh bắt giam và nhốt tù một thời gian ngắn; một người anh khác, là ông Ngô Đình Khôi, bị Việt Minh giết. Ông Nhu đã tìm cách tránh được chuyện bị bắt giữ nhưng bà Nhu thì không thoát được. Bà và người con gái mới sinh (Lệ Thủy) bị Việt Minh bắt tháng 12 năm 1946 và giữ bốn tháng trong một ngôi làng hẻo lánh. Sau khi quân thực dân Pháp tiến chiếm vùng này, gia đình bà được giải thoát và đoàn tụ với gia đình rồi dời về sống trong thành phố nghỉ mát Đà Lạt trên Cao nguyên Trung phần. Tại đây, ông bà Nhu đã ra một tờ báo và bắt đầu tổ chức yểm trợ cho ông Diệm, khi đó được coi như là một lãnh tụ quốc gia chống Cộng đang lưu vong ở Mỹ.

Năm 1953, ông Nhu dọn vào Sài Gòn. Ông tổ chức biểu tình chống Pháp thực dân và Cộng sản. Ông cũng mưu đồ kế hoạch để phá hoại những ủng hộ cho Hoàng đế Bảo Đại hầu nâng cao uy tín của phong trào quốc gia do ông Diệm lãnh đạo. Ông Diệm khi ấy ở Pháp và đang tiếp xúc với cộng đồng đông đúc người Việt đang lưu vong ở Paris. Vào tháng 3 năm 1954, khi một lực lượng Việt Minh hùng hậu đang đe dọa quân thực dân Pháp ở Điện Biên Phủ, vua Bảo Đại - bị phần lớn dân Việt coi như bù nhìn của thực dân Pháp - nhận ra là thực dân Pháp có thể sắp phải rời khỏi Việt Nam. Tháng 6 năm 1954, dựa trên sự ủng hộ ông Diệm của quần chúng Việt Nam, Bảo Đại phong ông Diệm giữ chức Thủ tướng cho vua Bảo Đại.

Năm sau, ông Nhu tạo ra một kế hoạch giúp ông Diệm thắng ông Bảo Đại trong cuộc tranh giành quyền lực: Tổ chức một cuộc trưng cầu dân ý để dân chúng chọn một trong hai người. Lúc nầy, ông Nhu đã nắm quyền chỉ huy mật vụ để từ đó có thể quyết định kết qủa cuộc trưng cầu dân ý ngày 23 tháng 10 năm 1955.  Với kết qủa thắng khủng khiếp 98.2 %, ông Diệm đã “thắng” cuộc bầu cử và bắt đầu thủ tục loại vua Bảo Đại, tuyên bố thành lập một nền Cộng hòa, tự xưng Tổng thống và bắt đầu một chế độ độc tài. Vì kịch liệt chống Cộng sản, ông Diệm được chính quyền Eisenhower sẵn sàng ủng hộ và viện trợ hàng trăm triệu Mỹ kim. Với ông Nhu ở bên cạnh, ông Diệm đã hạ bệ tất cả các kẻ thù chính trị và xây dựng quyền hành của ông trong vài năm sau đó.

Bệnh sùng bái lãnh tụ: Hình ông Diệm được cho phép
bày bán chung với hình Phật, Chúa và Đức Mẹ trên đường phố

Ông bà Nhu dọn vào Dinh Độc Lập và kiểm soát mọi tiếp xúc của ông anh Tổng thống. Quyền lực của hai ông bà Nhu trở nên vô giới hạn. Ký giả David Halberstam đã làm một so sánh tương quan quyền lực này nếu ông Diệm làm Tổng thống Mỹ thì ông Nhu sẽ có quyền kiểm soát  tất cả báo chí của 50 tiểu bang, ông sẽ cầm đầu các cơ quan C.I.A., F.B.I. và Quốc hội; ông sẽ cầm đầu cả hai Bộ Tư pháp và Ngoại giao; ông cũng là người viết tất cả báo cáo cho Toà Bạch Cung (2). Cả hai ông và bà Nhu đều là dân biểu Quốc hội năm 1956, nhưng rất ít khi cả hai ông bà đi họp. (3)

Vì ông Diệm không có vợ, Bà Nhu làm nhiệm vụ “Đệ Nhất Phu Nhân” với tất cả rình rang và uy quyền của chức vụ này. Năm 1956, bà bắt đầu một chiến dịch quan trọng để thay đổi mối liên hệ gia đình Việt Nam một cách sâu đậm. Sau khi Luật Gia Đình 1958 của Bà Nhu được bầu thành luật thì đa thê, ly dị và ngoại tình trở nên bất hợp pháp. Đàn bà được bình quyền với đàn ông trong nhiều lãnh vực. Nhiều ông Dân biểu trong Quốc hội không đồng ý với những luật nầy của Bà Nhu và họ đã lên diễn đàn để đối chất. Bà Nhu đã giễu cợt ông Chủ tịch khối đa số và gọi ông ta là “một con heo”. (5)


Chính sách đàn áp của chính quyền đã giúp chế độ ông Diệm được vững mạnh nhưng làm cho dân chúng dần dần xa lánh chế độ - và Việt Cộng đã khai thác cái ác cảm này trong người dân. Cuối thập niên 1950, ảnh hưởng Việt Cộng đã lan rộng đến mức tạo thành những khủng hoảng chính trị cho miền Nam.

Khuynh hướng cai trị độc tài của Tổng thống Diệm nếu đã không gia tăng nhanh chóng là vì ông còn phải dựa vào những anh em trong gia đình ông. Cả bốn người anh em của ông đều nắm những vai trò quan trọng  trong việc điều khiển Nam Việt Nam.  Mặc dù nắm giữ uy quyền tối quan trọng, ông bà Nhu không có một chức vụ chính thức gì trong chính phủ của Tổng thống Diệm. Chức vụ chính thức của ông Nhu là Cố vấn của Tổng thống. Bà Nhu cầm đầu Phong trào Phụ nữ Liên đới và chịu trách nhiệm về mọi vấn đề phụ nữ một cách tổng quát. Dù vậy, càng ngày, ảnh hưởng và quyền lực của ông bà Nhu càng gia tăng đến mức mà nhiều quan sát viên đã cho là ông Nhu có nhiều quyền hơn cả ông Diệm vì ông có ảnh hưởng rất mạnh lên những suy tư của ông anh Tổng thống. Một số quan sát viên khác thì cho rằng chính Bà Nhu mới là nhân vật thống trị trong gia đình nhà Ngô. Càng ngày bà càng tìm cách dính dự vào những chuyện đi ra ngoài địa hạt của chuyện phụ nữ và tìm cách để được ngang hàng với ông Tổng thống. (6)

Nhà ngoại giao John Mecklin, làm việc với cơ quan USIA (Phòng Thông Tin Mỹ) ở Việt Nam từ 1961 đến 1962, đã có cơ hội được biết Tổng thống Diệm và ông bà Nhu một cách thân mật. Theo ông thì cả gia đình này đều bị bệnh thần kinh. Thật như vậy, vì nhiều hành vi của họ lạ lùng đến mức người ta phải nghĩ là họ muốn chết. Theo ông Mecklin, “một cách cơ bản, ông bà Nhu là thuốc độc đã giết chết chế độ.” Bà Nhu là một “người đàn bà dễ nổi nóng” muốn áp đặt giải pháp cho những vấn đề chính trị nhưng hầu như bà luôn luôn kéo những vấn đề ấy theo chiều hướng đầy tai hại. Những cuộc khủng hoảng ảnh hưởng đến quốc gia làm cho bà Nhu bị khích động một cách mạnh mẽ, nhưng phản ứng  của bà làm cho chuyện trở nên tệ hại hơn. Bà không đẹp nhưng có một bề ngòai gây ấn tượng, đầy nghị lực và có những sở thích quá độ. Thích phô diễn và cũng có máu khôi hài nên bà Nhu là một người có sức nói chuyện thu hút, có khả năng diễn đạt. Theo Mecklin, cách bà Nhu nói chuyện như “như súng liên thanh nổ bằng tiếng Pháp hoặc tiếng Anh.” (7)

Trong khi nổi bất mãn với chính quyền ông Diệm càng ngày càng gia tăng, toà Bạch Cung không có cách nào khác hơn là thúc đẩy ông Diệm cải tổ để nới rộng sự ủng hộ của quần chúng. Năm 1959, Đại sứ Mỹ Elbridge Durbrow cố gắng thuyết phục ông Diệm tách bỏ ông Nhu và đem vào chính quyền những nhân vật mới. (8) Tháng 11 năm 1960, các quân nhân thuộc binh chủng Nhảy Dù của quân đội VNCH tổ chức đảo chánh ông Diệm cũng có cùng một mục đích như vậy. Một trong những đòi hỏi đầu tiên của lực lượng Nhảy Dù là bà Nhu phải dời ra khỏi Dinh Tổng thống. Theo một bản tin của tuần báo Time, bà Nhu đã hãnh diện khi biết được đòi hỏi nầy. (9) Trong những giây phút đầu tiên của cuộc đảo chánh, Tổng thống Diệm và hầu hết phụ tá trong Dinh Độc Lập đều muốn chấp nhận những đòi hỏi phải thành lập một chính phủ mới. Chỉ một mình bà Nhu đã bác bỏ tất cả những đề nghị thỏa hiệp và khăng khăng đòi chiến đấu chống đảo chánh đến cùng. Cuối cùng ông Diệm kêu được những lực lượng vẫn còn trung thành với ông và chấm dứt được cuộc đảo chánh của binh chủng Nhảy Dù. Hậu qủa của cuộc đảo chánh gần thành công nầy là ảnh hưởng của bà Nhu đã gia tăng một cách mãnh liệt làm mất tinh thần những kẻ thù của bà. Bàn về sự kiện này, bà Nhu đã tóm tắt một cách châm biếm: “Trước đây thì họ không coi tôi ra gì. Nhưng bây giờ thì họ bắt đầu để ý đến tôi. Và mỗi lần tôi nói điều gì thì họ lại lo âu.”

Trong khi xãy ra cuộc binh biến đó, Đại sứ Durbrow đã đề nghị mời bà Nhu qua trú ẩn ở Toà Đại sứ Mỹ. Lời mời này của ông Đại sứ đã làm cho bà Nhu đâm ra nghi ngờ có bàn tay đồng lõa của Mỹ mặc dầu người Mỹ đã không bảo trợ cuộc đảo chánh nầy. Càng lúc ông Diệm và ông Nhu càng trở nên hoang tưởng làm cho chế độ càng lấy thế phòng thủ và quần chúng càng trở nên xa lánh. Theo ký giả Halberstam của nhật báo New York Times “Tất cả chuyện gì sai quấy đều đổ tội lên đầu ông bà Nhu” và bà Nhu “đã trở thành mục tiêu của càng nhiều căm thù.” (10). Còn theo sử gia Joseph Buttinger thì “Nhu và vợ là hai người bị thù ghét nhất Nam Việt Nam(11).

Với Luật Gia Đình năm 1958, bà Nhu vẫn coi là chưa đủ để bảo vệ đạo đức của người Việt Nam. Luật Bảo vệ Luân Lý năm 1962 của Bà Nhu nhắm tấn công một số lớn hành vi khác như ngừa thai, thi hoa hậu, cờ bạc, nhẩy đầm, đánh võ quyền Anh, đá gà và đá cá. Trẻ vị thành niên bị cấm coi một vài loại phim hay kịch. Phù thủy và đồng bóng bị loại ra ngoài vòng pháp luật. Đĩ điếm bị cấm (12). Dân chúng càng thích những điều bị cấm đoán thì những đạo luật này càng làm cho bà Nhu bị ghét bỏ. Theo ký giả Malcolm Browne của cơ quan thông tấn Associated Press (AP) tại Sài Gòn, bà Nhu còn tuyên chiến với cả gia đình của chính bà. Năm 1962 bà đã làm cho chị của bà (Trần Lệ Chi) phải tìm cách tự tử. Năm 1963, bà tuyên bố từ bỏ cha mẹ của bà. (13) 

Mặc dù bà Nhu hãnh diện đã được để ý trong vụ đảo chánh năm 1960, bà lại trở nên giận dữ khi bà và ông Nhu trở thành mục tiêu trong vụ phản loạn thứ hai. Ngày 27 tháng 2 năm 1962, hai phi công, đã được huấn luyện ở Mỹ, thuộc Không Quân VNCH lái hai chiếc khu trục AD-6 cất cánh từ căn cứ Biên Hoà ở ngoại ô phía Bắc Sài Gòn. Trung úy Nguyễn Văn Cử đã cố ý nhắm thả một trái bom ở cánh trái Dinh Tổng thống, nơi sinh sống của gia đình ông bà Nhu. Khi bom nổ, ông Diệm đang đi trong một hành lang và gần như bị hơi bom kéo đi một quãng dài. Ông Nhu không bị gì, Bà Nhu chỉ bị trặc chân vì té cầu thang. Người đồng chí của Trung úy Cử là Trung úy Phạm Phú Quốc bị súng phòng không bắn hạ máy bay (trên sông Sài Gòn) và bị bắt làm tù binh.

Trung úy Cử đã dùng bom lửa (napalm) và chất nổ để tấn công Dinh Độc Lập xong bay thẳng qua Cao Mên và được hưởng quy chế tỵ nạn chính trị. Sau đó ông đã tuyên bố là lòng căm thù làm cho ông tấn công Dinh Độc Lập đã đến từ gia đình ông Diệm nhiều hơn là từ chính ông Diệm. Trung Úy Quốc bị giam cho đến khi cuộc đảo chánh thứ ba xẫy ra mới được trả tự do. Sau đó cả hai phi công đều trở lại nhiệm sở phi công cũ của họ. (14)

Ông Diệm biết là ông cần viện trợ Mỹ để giữ vững ghế Tổng thống, nhưng ông và ông bà Nhu muốn một loại viện trợ vô điều kiện. Nhà Ngô không bằng lòng với sự hiện diện ngày càng lan rộng của người Mỹ trong nước họ - Bà Nhu gọi một cách đanh đá là “chủ nghĩa Mỹ quốc đáng sợ” – và họ sẵn sàng hành động để giới hạn chuyện nầy. Trước hết, bà Nhu ra lệnh cho cảnh sát bắt những người đàn bà Việt Nam đi ngoài đường với người Mỹ. (15) Theo ký giả Halberstam, nguyên tắc chính trị của bà Nhu khá đơn giản: Nhà Ngô luôn luôn đúng, họ không bao giờ nên thỏa hiệp và không bao giờ cần để ý đến những chỉ trích. (16) Về một mặt khác, người Mỹ nghĩ họ đang là người nuôi dưỡng chế độ, đang huấn luyện cảnh sát và quân đội VNCH, và cố vấn Mỹ bắt đầu chết vì chế độ Diệm ở ngoài mặt trận. Người Mỹ nghĩ là họ có quyền đưa ra những lời khuyên và họ chờ đợi chế độ Diệm nghe theo lời khuyên của họ.

Nhờ vào viện trợ của Mỹ, quân lực VNCH đã tăng trưởng nhanh chóng. Nhưng đồng thời, quân số và hoạt động của Việt Cộng cũng tăng trưởng nhanh chóng theo.  (17) Và chính các phần tử của quân đội VNCH đã tấn công Dinh Tổng thống hai lần. Trong mối nghi ngờ lòng trung thành của quân đội, ông Diệm bắt đầu áp dụng những chiến thuật quân sự để làm yếu khả năng đảo chánh của quân đội hơn là để chiến đấu chống Cộng sản một cách hữu hiệu. Theo ký giả Halberstam, cách hành xử của bà Nhu đã làm cho mối liên hệ với các sĩ quan cao cấp càng trở nên tệ hại, khi bà ở trong Dinh Tổng thống và ra lệnh cho họ như “người làm trong nhà.” Bà thường đối xử với những người này như tôi tớ của nhà bà. (18)

Tổng thống Diệm và ông Nhu theo đạo Công giáo trong khi đa số dân Việt Nam theo đạo Phật. Vì tình trạng đảng phái đối lập ở miền Nam bị cấm đoán (giống như chế độ Cộng sản ở miền Bắc), đạo Phật trở thành một phương tiện để cho những bất mãn được phát lộ. Anh của Tổng thống Diệm là ông Ngô Đình Thục, Tổng Giám mục địa phận Huế, thành phố trung tâm của đạo Phật ở Việt Nam. Khoảng đầu năm 1963, người ta tổ chức một lễ mừng 25 năm (Ngân Khánh – LND) ông Thục lên chức Tổng Giám mục. Cả hai lá cờ Công giáo Vatican và cờ quốc gia Việt Nam đều đã được treo khắp nơi. Đây là một sự vi phạm luật đương thời chỉ cho phép cờ quốc gia được treo ở những nơi công cộng. Một thời gian ngắn sau đó là lễ mừng Phật Đản Sanh thứ 2,587 và Phật tử ở Huế muốn treo cờ Phật giáo. Khi chính quyền ông Diệm ra lệnh cấm treo cờ, hàng ngàn Phật tử biểu tình phản đối và chín người đã bị quân của chính quyền bắn chết. Sau biến cố này, Đại sứ Mỹ William Trueheart đã thúc dục ông Diệm hãy làm hòa với các Phật tử bằng cách chấp nhận lỗi lầm, đền bù cho gia đình những nạn nhân và công khai xin lỗi về chuyện này. Thay vì làm như vậy, chính quyền đã đổ lỗi cho Việt Cộng. Khi Phật tử tiếp tục xuống đường phản đối, chính quyền ra lệnh cấm biểu tình. Và đó là khởi đầu của cuộc khủng hoảng Phật giáo làm nghiêng ngữa chế độ.

Sau khi nhận thấy những phản ứng của chính quyền không thỏa mãn những đòi hỏi của Phật giáo, một số tăng ni bắt đầu một loạt phản đối bằng cách tuyệt thực. Phong trào phản đối ở Huế trở nên bạo động và quân của chính quyền chống trả trở lại. Những cuộc biểu tình của Phật tử chống chính quyền càng lúc càng lan rộng một cách nhanh chóng trên toàn quốc. Ngày 11 tháng 6 năm 1963, một vị sư già ngồi xuống trên một ngả tư đường gần chùa Xá Lợi. Một vị sư khác đổ xăng lên người ông ta, vị sư già châm một que diêm, và ngọn lửa bùng lên trên thân thể ông. Đó là Hoà thượng Thích Quảng Đức, người đầu tiên trong bảy vị sư đã tự thiêu để phản đối chế độ Ngô Đình Diệm.

Những vụ tự thiêu làm choáng váng các viên chức Mỹ và họ đã áp lực ông Diệm hãy tìm một cách nào để dàn xếp cuộc khủng hoảng. Muốn chứng tỏ mình là một người sắt đá, bà Nhu vênh váo kêu gọi cần phải đập các nhà sư “mười lần hơn nữa” và miệt thị những cuộc tự thiêu là “những màn nướng sư” (monk barbecue show) (19) Bà Nhu còn châm thêm dầu vào lửa với lời nhạo báng: “Nếu các Phật tử muốn có thêm một cuộc nướng thịt, tôi sẽ hân hoan cung cấp dầu xăng và một que diêm.”(20) Cuối cùng, người Mỹ cũng ép được ông Diệm đi gặp các lãnh tụ Phật giáo và ông đã đưa ra một thông cáo hoà giải chung. Ngay khi biết được chuyện này, bà Nhu đã chê ông Diệm là hèn nhát và mềm như “con sứa, dù ông chỉ quyết định đi điều đình với các Phật tử.(21)

Mặc cho những lời tuyên bố của ông Diệm, lập trường của hai bên trở nên cứng rắn hơn. Khởi đầu, những phản đối của Phật giáo có tính cách tôn giáo nhưng càng lúc càng trở nên chính trị và càng được quần chúng ủng hộ. Ông Nhu nói các Phật tử là những người nổi loạn và phong trào của họ bị Cộng sản xâm nhập. Tổng thống Diệm và ông bà Nhu muốn nghiền nát phong trào Phật giáo nhưng bị người Mỹ kềm chế. Người Mỹ bày tỏ lòng tin vào tự do tín ngưỡng và thúc dục chính quyền ông Diệm cần phải cải tổ. Cuộc khủng hoảng Phật giáo ngày càng trầm trọng cho đến mùa thu năm 1963. Ông bà Nhu than phiền là Tổng thống Diệm quá mềm yếu với Phật giáo.và tin đồn loan ra là quân đội – và cả ông bà Nhu – đang âm mưu những kế hoạch đảo chánh để đẩy ông Diệm ra khỏi chính quyền.

Đêm 21 tháng 8 năm 1963, ông Nhu, vốn xem Lực Lượng Đặc Biệt (LLĐB) như là đạo quân riêng của ông ta, đã ra lệnh cho hàng trăm lính LLĐB dùng súng, lựu đạn và lựu đạn cay tấn công chùa Xá Lợi. Phật tử đã phòng thủ phía trong chùa nhưng sau hai giờ chống trả, hơn 100 nhà sư đã bị bắt và đem giam ở một nơi khác. Trong một cuộc phỏng vấn ngày hôm sau cuộc tấn công chùa này, ký giả Halberstam đã mô tả bà Nhu “ở trong một trạng thái hớn hở, nói năng ào ào như một nữ sinh sau một buổi nhảy đầm.” Bà nhởn nhơ nói với người phóng viên là chính quyền đã nghiền nát nhóm “Phật tử Cộng sản” và cho biết là vụ tấn công này là “ngày vui nhất đời tôi kể từ ngày chúng tôi nghiền nát nhóm Bình Xuyên năm 1955.” (22)

 
Nhưng vụ này không phải là ngày vui nhất đời của người Mỹ vì họ là những người cung cấp tiền và huấn luyện Lực lượng Đặc biệt Việt Nam để được dùng trong công tác chống lại quân phiến loạn Cộng sản chứ không phải để tấn công chùa chiền. Đến thời điểm này, các viên chức Mỹ bắt đầu thảo luận về khả năng của một cuộc đảo chánh tổ chức bởi những tướng lãnh bất đồng chính kiến.

Ngày 10 tháng 9, bà Nhu khởi đầu một chuyến công du đi Âu châu và Mỹ quốc để giải thích “âm mưu kỳ quái của Cộng sản để bóp nghẹt Việt Nam Cộng Hòa.” Bà cũng chế nhạo những báo cáo nói là Mỹ có thể giảm bớt viện trợ để phản đối sự đàn áp của chính quyền nhà Ngô. (23) Khi chính quyền Kennedy thực sự cắt đứt ngân khoản 3 triệu Mỹ kim dành cho Lực Lượng Đặc Biệt cho đến khi họ trở ra mặt trận, bà Nhu tố cáo điều đó là “một hành động phản bội.” (24) Ngày 22 tháng 9, khi đến La Mã (Roma, thủ đô nước Ý) bà gọi một cách chế nhạo các sĩ quan cố vấn Mỹ ở Việt Nam  là những “lính đánh thuê con nít.” (25) Ngày 7 tháng 10, khi bà đến Nữu Ước, không có một quan chức liên bang, tiểu bang hay thành phố nào ra đón tiếp. Ngày 18 tháng 10, khi đến thủ đô Hoa Thịnh Đốn, bà tố cáo chính quyền Kennedy giảm thiểu viện trợ cho Viêt Nam Cộng Hòa là phản bội. (26)

Trong khi đó tại Sài Gòn, các tướng lãnh dưới quyền lãnh đạo của tướng Dương Văn Minh, sau khi đã được các viên chức Mỹ bảo đảm là sẽ không can thiệp, đã tổ chức một cuộc đảo chánh lần thứ ba vào ngày 1 tháng 11 để lật đổ Tổng thống Diệm. Lần nầy [lần thứ ba của quân đội], cuộc đảo chánh đã thành công với kết qủa là cái chết thê thảm của hai ông Diệm và Nhu. Khi nghe tin nầy, niềm vui của dân Sài Gòn bùng nổ một cách tưng bừng. Một nhóm người dùng một dây sắt từ một tàu thủy đang đậu ngay bến tàu để kéo sập tượng bà Nhu. (27) Theo ký giả Halberstam, nếu lúc đó mà bà Nhu còn ở Sài Gòn, các tướng đảo chánh sẽ phải gặp rất nhiều khó khăn để ngăn cản sự cuồng nộ của dân chúng muốn treo cổ bà. (28)

Tượng Hai Bà Trưng, vì được lệnh điêu khắc theo vóc dáng và khuôn mặt của hai mẹ con bà Nhu, nên đã bị sinh viên và dân chúng kéo sập sau ngày 1-11-1963. Phần cái đầu của tượng, giống khuôn mặt bà Nhu, được chở trên xe xích lô máy đi bêu diếu khắp Sài Gòn 
 
Trong những ngày đó, tại Beverly Hills, một bà Nhu quẫn trí đã kết tội một cách cay đắng chính quyền Mỹ đã kích động và yểm trợ vụ đảo chánh. Khi được hỏi bà có muốn xin tỵ nạn chánh trị tại Mỹ, bà đã trả lời: “Không bao giờ! Tôi không thể nào sống trong một quốc gia có những người đã đâm vào chính quyền của tôi.” (29) Rồi bà cùng các con bay qua La Mả sống ẩn dật trong một tu viện. Theo một bản tin trong nhật báo New York Times, sau năm tuần công du tại Mỹ, bà đã để lại một mớ hóa đơn (khách sạn, tiệm ăn, nhà hàng, … - LND) trị giá hàng ngàn Mỹ kim không có ai trả. (30)

Những nhà lãnh đạo trong chính quyền mới ở Sài Gòn đã hành động nhanh chóng để xóa sạch những ảnh hưởng độc hại của bà Nhu. Ngày 15 tháng 11, chính quyền Sài Gòn vô hiệu hóa thẻ thông hành của bà, và một tháng sau họ hũy bỏ hai bộ luật luân lý và gia đình không ai ưa của bà Nhu. (31)

Ba tuần sau vụ đảo chánh, cảm thấy không chịu được đời sống ẩn dật, bà Nhu bán cho một nhà xuất bản Pháp độc quyền hồi ký của bà trên phim, trên truyền hình, trên báo chí. (32) Bà lại bắt đầu những chỉ trích công khai đối với nước Mỹ. Bà gọi Đại sứ Henry Cabot Lodge  là một “bà vú em loạng quạng” muốn trở thành một ông “toàn quyền” của Việt Nam Cộng Hoà. (33) Ngày 13 tháng Giêng năm 1964, bà Nhu lên tiếng yêu cầu tổ chức Liên Hiệp Quốc mở một cuộc điều tra cuộc đảo chánh tháng 11 và tỏ ý nghi hoặc một cách lạ lùng là chồng bà và ông Diệm vẫn chưa chết.(34) . Tháng sau đó, chính quyền Sài Gòn đặt bà ra ngoài vòng pháp luật và ra thông tư để bắt giữ bà. (35) Tháng 3 năm 1964, bà Nhu cho lưu hành một bản tuyên bố dài 16 ngàn chữ để tấn công Tổng thống Kennedy, người đã bị ám sát ngày 22 tháng 11 năm 1963, và kết án nước Mỹ là Phát-xít và Cộng sản.

Tháng 6 năm 1964, bà Nhu nộp đơn xin chiếu khán để vào thăm nước Mỹ nhưng bị từ chối theo yêu cầu của Đại sứ Cabot Lodge. Tại La Mã, bà Nhu dọn về sống cùng một chỗ với Tổng Giám mục Ngô Đình Thục. Trong khi tuyên bố là bà rất ghét báo chí Mỹ nhưng bà vẫn đồng ý tiếp các ký giả theo các điều kiện: Phải trả 1,000 Mỹ-kim để chụp hình, 1,500 Mỹ kim để phỏng vấn và chụp hình. Và khi phỏng vấn thì phải chụp hình. (36)

Trong khi nước Mỹ càng lúc càng lún sâu vào vũng lầy của một cuộc chiến tranh nguy hiểm ở Việt Nam và những cuộc đảo chánh lật đổ một loạt chính quyền ở Sài Gòn, hình ảnh một người đã từng một thời là bà “Rồng phu Nhân” đáng sợ và đầy uy quyền đã trở nên nhạt nhòa, gia sản của bà lụn bại và cuộc đời bà sa sút thành một bi hài kịch thê thảm.

Dù được sinh ra từ một trong những gia đình quan trọng tại Việt Nam, trong thập niên 1970s, bà đã sống trong một biệt thự tại La Mã, một căn nhà được mô tả là đã “tàn tạ”. Nhà của bà bị trộm nhiều lần (38). Bà dành thì giờ để làm vườn và viết lách.. Dầu vậy, nhà bà cũng đã bị trộm viếng nhiều lần. Năm 1967, cô gái Ngô Đình Lệ Thủy qua đời trong một tai nạn xe hơi (ở Paris) [LND-Em gái là Ngô Đình Lệ Quyên cũng qua đời trong một tai nạn xe hơi ngày 16-4-2012 tại Ý]. Tháng 7 năm 1986, em trai của bà, ông Trần Văn Khiêm, bị kết tội cố sát cha mẹ già là ông bà cựu Đại sứ Trần Văn Chương (37) tại tư gia ở thủ đô Hoa Thịnh Đốn.

Theo tin tức của báo chí, năm 1978 bà Nhu tuyên bố là đang viết gần xong một cuốn lịch sử của VNCH “từ vị thế của một người ở trong cuộc.” Không có ai còn sống mà có một cái nhìn tốt hơn bà Nhu về sự thăng trầm chế độ ông Diệm và thời kỳ nước Mỹ bắt đầu dính dự vào một cuộc chiến tranh lâu dài nhất với nhiều tranh cãi nhất. Không có người đàn bà Việt Nam nào nhiều uy quyền hơn, tạo nhiều tranh cãi hơn và cũng bị khinh miệt nhiều hơn bà Ngô Đình Nhu.

Khi viết bài này, Bà Nhu đang sống ở La Mã [LND-Bà Nhu qua đời trong một bệnh viện tại Roma ngày 24-4-2011] và, đáng tiếc thay là cuốn sách của bà vẫn chưa được xuất bản.

 
PETER BRUSH

 
Để tìm hiểu thêm, xin đọc:

David Halberstam, The Making of a Quagmire (NY: Random House, 1965) và John Mecklin, Mission in Torment; an Intimate Account of the U.S. Role in Vietnam (Garden City, N.Y.: Doubleday, 1965).

 
Cước chú:

1 Để có thêm chi tiết về thời trẻ tuổi của Bà Nhu, xin xem “The Queen Bee”, Time, August 9, 1963, p. 22. “Ngo Dinh Nhu, Madame (Tran Le Xuan)” by Arthur T. Frame in Encyclopedia of the Vietnam War: A Political, Social, and Military History, Spencer C. Tucker, ed. NY: Oxford University Press, 1998, p. 293.Edward Miller, “Vision, Power, and Agency: The Ascent of Ngo Dinh Diem, 1945-54.” Journal of Southeast Asian Studies, Vol. 35, No. 3, October 2004, p. 448.
2 David Halberstam, The Making of a Quagmire (NY: Random House, 1964), p. 57.
3 Robert Scigliano, South Vietnam: Nation Under Stress (Boston: Houghton Mifflin Co., 1963), p. 43.
4 Halberstam, p. 56.
5 Scigliano, p. 45.
6 Scigliano, pp. 59-60.
7 John Mecklin, Mission in Torment: An Intimate Account of the U.S. Role in Vietnam (Garden City, NY: Doubleday, 1965), p. 37, 43, 48.
8 Robert Shaplen, The Cult of Diem, New York Times, May 14, 1972, p. SM 16.
9 “The Queen Bee,” Time, August 9, 1962, p.21.
10 Halberstam, pp. 48-49.
11 Joseph Buttinger, Vietnam: A Political History (NY: Frederick A. Praeger, 1968), p. 447.
12 Malcolm W. Browne, The New Face of War: A Report on a Communist Guerrilla Campaign (London: Cassell, 1965), p. 170. New York Times, February 4, 1962, p. 3.
13 Browne, p. 170.
14 New York Times, February 28, 1962, p. 1, and New York Times, March 1, 1962, p. 1.
15 Browne, 256.
16 Halberstam, pp. 65-66.
17 Andrew F. Krepinevich, Jr., The Army and Vietnam (Baltimore: Johns Hopkins University Press, 1986), pp. 58-59, 61-63.
18 Halberstam, p. 53.
19 New York Times, August 25, 1963, p. E1.
20 Mecklin, p. 178.
21 Halberstam, p. 212.
22 Halberstam, p. 235.
23 Washington Post, September 10, 1963, p. A9.
24 New York Times, October 23, 1963, p. 4.
25 Washington Post, September 23, 1963, p. A28.
26 New York Times, October 19, 1963, p. 6.
27 Seth Jacobs, America’s Miracle Man in Vietnam (Durham, NC: Duke University Press, 2004), p. 2.
28 Halberstam, p. 55.
29 New York Times, November 2, 1963, p. 1.
30 New York Times, November 16, 1963, p. 6.
31 Washington Post, November 29, 1963, p. A6.
32 Washington Post, November 16, 1963, p. A9, New York Times, December 19, 1963, p. 9.
33 New York Times, December 16, 1963, p. 8.
34 New York Times, January 14, 1964, p. 3.
35 New York Times, February 26, 1964, p. 2.
36 Washington Post, November 30, 1965, p. B3.
37 Washington Post, April 24, 1987, p. C2.
38 Washington Post, October 19, 1987, p. A1; New York Times, November 2, 1986, p. 23; “Dragon Lady”, Newsweek, June 5, 1978, p. 16.

[Source: VIETNAM, October 2009 - một vài hình lấy từ Internet]

 

 

Thứ Hai, 28 tháng 10, 2013


QUANH BÀI CA “SUY TÔN NGÔ TỔNG THỐNG

Tạ Tốn
 
   

Tượng Hề Charlot Ngô Đình Diệm do tàn dư Cần Lao "TS Hồng Lĩnh" dựng sau vườn nhà tại Thụy Sĩ để ... suy tôn "Ngô Tổng thống muôn năm". Không biết ai tạc tượng mà trông mặt ông Diệm ngố ra, 12 con giáp không giống con nào cả !!! 


Anh em ông Diệm dù đã chết 50 năm mà vẫn không được yên, vì cứ đến tháng 11 là bọn tàn dư Cần Lao hiệp thông với các xóm đạo mang ra nhắc nhở, gây nên một làn sóng khen chê tạp-pí-lù đủ cách của dư luận.

Trong các cuộc tụ tập “cầu hồn” ấy, thế nào bọn họ cũng có ca bài “Suy Tôn Ngô Tổng Thống” (STNTT).

Nhớ lại ngay sau khi Diệm được các thế lực Tây phương và Vatican đưa về nước ngày 7 tháng 7 năm 1955, Gia đình họ Ngô và bè đảng đã tiến hành những thủ đoạn chính trị gian manh từng bước đưa Diệm lên làm Tổng thống qua trò lường gạt “Truất phế Bảo Đại” vào ngày 23 tháng 10, 1955; bầu quốc hội Lập Hiến vào ngày 4 tháng 3; khai mạc ngày 17 tháng 4 năm 1956; ban hành Hiến pháp ngày 26 tháng 10 năm 1956. Quốc Hội còn có nhiệm vụ chọn quốc ca và quốc kỳ.

Tìm hiểu thêm về các giai thoại quanh bài ca STNTT trên internet thì có bài “Bài Quốc Ca Việt Nam Cộng Hòa Ra Đời Như Thế Nào?” của tác giả Biển Nhớ (BN) đáng chú ý, và cho thấy tác giả đã đóng một vai trò nhất định nào đó trong trong Ủy Ban chọn quốc ca của Quốc Hội Lập Hiến dưới chế độ Diệm.

Ông viết:
Bây giờ BN xin trở lại chuyện cuộc thi sáng tác quốc ca năm 1956 tại VN:
…. Trước nhiều bài gửi về dự thi mà bài nào cũng hay cũng ý nghĩa cả (trong đó có bài ‘STNTT’, Nhạc của Ngọc Bích, Lời của Thanh Nam) , Ủy Ban chọn quốc ca của Quốc Hội Lập Hiến không biết phải tính sao. Cũng giống như giai nhân tuyển phu vậy. Kẻ tám lạng, người mười cân. Khó quá, khó quá.

Chọn bài "STNTT" nhé. Không được. Chướng quá, coi không được. Mà không chọn thì sợ Tổng Thống buồn. Cuối cùng, Ủy Ban quyết định… không chọn bài nào cả.

Quốc Hội Lập Hiến đành duy trì bài quốc ca mà các chính phủ Nguyễn Văn Xuân và Nguyễn Văn Tâm đã chọn trước đó (Bài ‘Tiếng Gọi Thanh Niên của Lưu Hữu Phước), rồi ra lệnh cho nhân viên Đài Phát Thanh Saigon sửa lại lời ca.”
…..
Dưới thời Đệ Nhất Cộng Hòa, quân nhân, công chức, học sinh mỗi khi chào cờ chẳng những hát quốc ca mà còn phải hát thêm bài "STNTT" nữa. Đi xem cải lương, đại nhạc hội, xi nê, trước khi mở màn, khán giả (trong đó có BN) phải đứng dậy lắng nghe quốc ca và bài "STNTT", đợi cho nhạc dứt hẳn thì mới được ngồi xuống .”

Lời như thế này:

Ai bao năm từng lê gót nơi quê người
Cứu đất nước thề tranh đấu cho tự do
Người cương quyết chống cộng,
bài phong kiến bóc lột,
diệt thực dân đang rắc reo tàn khốc.
 
Bao công lao hồn sông núi ghi muôn đời
Gương hy sinh ngàn muôn kiếp không hề phai
Toàn dân quyết kết đoàn,
cùng chung sức với người,
thề đồng tâm xây đắp cho ngày mai.

ĐK 1. Toàn dân Việt Nam nhớ ơn Ngô Tổng thống
Ngô Tổng thống, Ngô Tổng thống muôn năm
Toàn dân Việt nam nhớ ơn Ngô Tổng thống
Xin Thượng đế ban phước lành cho người

ĐK 2. Toàn dân Việt Nam nhớ ơn Ngô Tổng thống
Ngô Tổng thống, Ngô Tổng thống muôn năm
Toàn dân Việt nam quyết theo Ngô Tổng thống
Chung đắp xây nền thống nhất sơn hà.


 Hai lời bàn:
1- Ông Diệm từng Lê gót nơi quê người” trong các chủng viện Công giáo  và Thượng viện Mỹ mà gọi là “Công lao” và “Gương hy sinh” thì … bố láo thật ! Tác giả bài ca “chơi đểu” Ngô Tổng thống như thế mà Cục Tâm Lý Chiến của Đệ Nhất Cọng hòa điếc chẳng biết gì.
2- "Xin Thượng Đế ban phước lành" đâu chẳng thấy, cuối cùng Thượng Đế "ban phước dữ" cho toàn gia chết chẳng toàn thây !


Một cách suy tôn thời Đệ Nhất Cọng Hòa:
“Ngô Chí sĩ” đi thăm dân mà ngồi chểm chệ trên thuyền
cho Sĩ quan Quân đội VNCH “thề đồng tâm” bì bỏm lội nước đẩy “Người” đi.  

II. Biến Chế:

1. Tiếu Lâm:

Tác giả Biển Nhớ còn ghi thêm Bài "STNTT" đã đi vào lòng dân tộc không phải do lời chính thức mà bởi "lời 2" do dân gian đặt rồi tuyền tụng nhanh chóng . Nhắc đến lời chính thức chưa chắc người ta mường tượng ra được bản nhạc hát như thế nào nhưng khi nhắc đến lời 2 là bà con biết ngay.

Cũng vì lời 2 này mà BN đã bị "ăn đòn nên thân" đến mấy lần. Thưở ấy, hát Lời 2 giữa chốn công cộng là có thể bị rắc rối, có khi bị cảnh sát bắt đấy các bạn ạ.

Thế mà BN hát tỉnh bơ, hát một cách say đắm, khỏe khoắn và . . . để hết hồn vào bài hát”, như sau:

(Suy Tôn Tô Hủ Tiếu)

Tôi đi ngang tiệm hủ tiếu trong Đô Thành
Thấy họ bán thịt phở tái thiệt là ngon
Miệng đang hút thuốc lào
Miệng đang hút thuốc lào
Liền nhào vô bưng cái tô mà húp

Ăn xong xuôi rờ trong túi không có tiền
Cái họ bắt rồi họ nhốt trong cầu tiêu
Và nó thúi quá chừng
Và nó thúi quá chừng
Thề từ đây không dám ăn nữa đâu

Toàn dân Việt Nam nhớ ơn tô hủ tiếu
Tô hủ tiếu tô hủ tiếu muôn năm
Toàn dân Việt Nam nhớ ơn tô hủ tiếu
Xin Thượng đế ban phước lành cho rồi

. . . (câu cuối cùng quên mất)


2. Lên Án:

Còn có một bài đổi lời, coi như là “lời 3” mới xuất hiện rất muộn về sau trong dân gian ít người biết là:

(Truy Hồn Ngô Thủ Lĩnh)

Ai bao năm từng chui rúc trong nhà giòng
Trốn mất đất, chạy theo gót quân thực dân
Đùn về nước chống cộng,
Phản phong kiến cứu mình,
Lạy ngoại bang nuôi tấm thân tàn rách.

Quân tay sai hờn sông núi ghi muôn đời
Gương gian manh theo giặc cướp không hề phai
Toàn dân quyết nắm đầu, cùng chung sức đánh nhào
Thề đồng tâm xây đắp cho ngày mai.

ĐK 1:
Toàn dân Việt Nam dứt xong Ngô phản phúc
Quân bội ước, cả giòng giống theo Tây
Toàn dân Việt Nam thoát qua cơn tàn khốc
Mong Trời Đất cứu giúp người dân lành

ĐK 2:
Toàn dân Việt Nam diệt xong Ngô phản quốc
Quân Mỹ Pháp, và cả đám Va-ti-căng
Toàn dân Việt Nam đá văng phản quốc
Chung đắp xây nền thống nhất sơn hà.

Hai câu hát khác được bọn sinh viên trường Luật chúng tôi nhại theo mỗi lần cúp cours đi xinê Vĩnh Lợi phải đứng dậy "suy tôn" Ngô Tổng thống trên màn hình là:
Toàn dân Bùi Chu mút cu Ngô Tổng thống
Ngô Tổng thống, Ngô Tổng thốnhg khen ... ngoan !

Bây giờ, cứ mỗi lần nghe đài phát thanh Công giáo Little Saigon Radio và TV Hồn Việt tại Bolsa của ông cựu Cần lao Vũ Quang Ninh cho phát lại bài "Suy tôn Ngô Tổng thống", bọn tôi lại ... phục lăn sự vô liêm sĩ của các cô cậu tín hữu trong đài.   

Một cách "Suy tôn Ngô Tổng thống" của Văn nghệ sĩ nhóm Tự Do.
Bìa báo Tết năm Canh Tý (1960), do Họa sĩ Nguyễn Gia Trí trình bày, vẽ 5 con chuột (cầm tinh tuổi ông Diệm) ám chỉ 4 ông Thục, Diệm, Nhu, Cẩn và bà Nhu đang đục khoét quả dưa hấu tượng trưng cho miền Nam (Lật ngược bìa báo, ta thấy hình chử "S" của nước VN).
Báo vừa phát hành một ngày thì bị tịch thu. Các ông trong Ban Chủ trường như Hiếu Chân Nguyễn Hoạt, Mặc Thu Lưu Đúc Sinh , Như Phong Lê văn Tiến, Tam Lang Vũ Đình Chí, ... kẻ phải đi trốn, người bị Mật vụ của ông Nhu hạch hỏi.
 
Tạ Tốn
Tháng 10 năm 2013

Chủ Nhật, 27 tháng 10, 2013


 

PHẬT GIÁO VÀ CUỘC CHÍNH BIẾN 1-11-1963

QUA CÁC TÀI LIỆU GIẢI MẬT CỦA BỘ NGOẠI GIAO,
QUỐC PHÒNG & CỤC TRUNG ƯƠNG TÌNH BÁO MỸ

Tâm Diệu

 
Công cuộc tranh đấu đòi quyển bình đẳng tôn giáo của Phật Giáo Việt Nam bắt đầu ở Huế với cái chết của tám Phật tử đêm 8/5/1963 tại đài phát thanh, rồi cuộc tự thiêu của Hòa Thượng Thích Quảng Đức ngày 11/6/1963 tại Sài Gòn và chiến dịch “nước lũ” tổng tấn công chùa chiền toàn quốc đêm 20 rạng ngày 21/ 8/1963.  Ba biến cố lịch sử quan trọng của phong trào Phật Giáo tranh đấu này dẫn đến cuộc khủng hoảng chính trị trầm trọng kéo dài nửa năm và kết thúc bằng cuộc chính biến lật đổ chính quyền của Tổng thống Ngô Đình Diệm.

Khởi đầu từ ngày từ 8-5-1963 và chấm dứt vào đêm 20 tháng 8 năm 1963 là cuộc tranh đấu của Phật Giáo, tiếp sau đó là cuộc cách mạng toàn diện của học sinh, sinh viên, và quân dân Miền Nam Việt Nam.

Kể từ năm 1963 đến nay (tháng 11năm 2013) là tròn nửa thế kỷ.  Năm mươi năm trôi qua, một thời gian đủ dài để con người có thể lắng dịu tâm tư và các kho lưu trữ tài liệu mật của các bộ Ngoại Giao, Quốc Phòng, và cục Tình báo Trung Ương Hoa Kỳ cũng đã giải mật cho công chúng tự do vào xem để mọi người có thể nhìn lại lịch sử ngày 1-11-1963 một cách rõ ràng.

May mắn thay chúng ta có thể tiếp cận các kho lưu trữ tài liệu này một cách dễ dàng qua một số bản dịch Việt ngữ được dịch rất nghiêm túc bởi hai dịch giả Nguyên Giác và Nguyễn Kha. Những bản dịch này được hai dịch giả tuyển dịch từ những tài liệu chính thức có độ khả tín cao và khách quan (thông tin nội bộ dùng để làm việc-operational, không có tính cách tuyên truyền), bao gồm phúc trình kín, mật và tối mật, biên bản chính thức của những thảo luận nội bộ, điện văn trao đổi hàng ngày giữa Bộ Ngoại Giao, Bộ Quốc Phòng, Toà Bạch Ốc, Cục Tình báo Trung ương ở Washington và tòa Đại sứ Hoa Kỳ ở Sài Gòn. Những tài liệu này đã được Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ giải mật và xuất bản thành 5 tập với tựa đề: Foreign Relations of the United States, 1961-1964 (Bang giao quốc tế của Hoa Kỳ, 1961-1964), thường được giới nghiên cứu biết và sử dụng dưới tên gọi (acronym) “FRUS”.  Thêm vào đó là hồ sơ tối mật về Cuộc Chiến Việt Nam “The Pentagon Papers” do Ủy ban Đặc nhiệm Nghiên cứu về Việt Nam của Bộ Quốc Phòng nghiên cứu, soạn thảo và xuất bản thành 4 tập.

Qua nội dung các bản dịch đó, chúng ta có thể biết được những gì thực sự đã xảy ra trong những ngày trước và sau cuộc chính biến 1-11- 1963. 

Trước khi giới thiệu toàn bộ các bản dịch, chúng tôi mạn phép tóm lược vài điểm ghi nhận quan trọng của chính các dịch giả, theo diễn biến sự kiện. Phần chi tiết, xin mời quý độc giả mở các links liên hệ để xem bản dịch Việt và đối chiếu với các bản ảnh copy từ các văn bản nguyên gốc bằng tiếng Anh đính kèm.

 
BIẾN CỐ NGÀY 8-5-1963 TẠI HUẾ

Trước hết là các điện văn trao đổi giữa Tòa Lãnh Sự Mỹ ở Huế, Tòa Đại Sứ Hoa Kỳ ở Sài Gòn, và Bộ Ngoại Giao Mỹ ở thủ đô Washington trong đêm xảy ra biến cố 8/5/1963 tại đài phát thanh Huế. Điểm quan trọng trong biến cố này là ai đã bắn súng và ném lựu đạn vào đám đông trước đài phát thanh đêm 8/5/1963. Theo điện văn báo cáo về Washington, địa phương quân dưới quyền Thiếu Tá Phó Tỉnh Trưởng Đặng Sỹ đã nổ súng và ném lựu đạn (điện văn số 116). Tuy nhiên, trong một điện văn khác ông Đại sứ Nolting, sau khi hội kiến với TT Ngô Đình Diệm cho biết ông Diệm tin rằng Việt Cộng hoặc thành phần bất đồng chính kiến đã ném lựu đạn vào đám đông. (điện văn số 131). [01]

Tiếp theo các điện văn trao đổi là bản phúc trình của Trung Ương Tình Báo (CIA) ở Washington báo cáo lên Tổng Thống Mỹ Về Cuộc Thảm Sát Huế 1963, trong đó ghi rằng, khi giải tán đám động 3,000 Phật Tử, trách nhiệm thảm sát tại Đài Phát Thanh Huế là do 3 lực lượng: cảnh sát, Dân Vệ và quân đội. Hồ sơ CIA nơi đây cũng nói: chính sách của chính phủ ông Diệm là thiên vị Thiên Chúa Giáo, nhưng Phật Từ trước giờ vẫn lặng lẽ chịu đựng, cho tới khi xảy ra biến động Huế. [02]

 
CUỘC TỔNG TẤN CÔNG CÁC CHÙA ĐÊM 20-8-1963

Sự kiện tại Huế ngày 8 tháng 5 năm 1963 – một sự kiện dẫn tới những gì được gọi là cuộc khủng hoảng Phật giáo và khởi sự cho một chuỗi sự kiện đã tận cùng dẫn tới việc đảo chánh lật đổ chế độ Ngô Đình Diệm – đã xảy ra một cách tình cờbất ngờ theo sự nhận định của 36 nhà phân tích của Mỹ về tình hình Phật Giáo Việt Nam thời gian từ ngày 8-5-1963 tới ngày 21-8-1963 trong hồ sơ The Pentagon Papers.

Cũng theo tài liệu này thì nguyên nhân xảy đến chuỗi sự kiện này là do chính quyền Ngô Đình Diệm đã biệt đãi Thiên Chúa Giáo và kỳ thị Phật Giáo. [03]

Và các nỗ lực hòa giải giữa Phật Giáo và chính quyền đã không thành công. Thông Cáo Chung 16-6-1963 không được ông Diệm thực thi vì bị ông bà Nhu phá hoại; Cao điểm sự tráo trở của chính phủ Ngô Đình Diệm là cuộc tổng tấn công chùa chiền toàn quốc đêm 20 rạng ngày 21-8-1963, bắt 1.400 nhà sư trong đó có hai vị lãnh đạo Phật Giáo cao cấp là Hòa Thượng Thích Tịnh Khiết (Hội chủ của Tổng Hội Phật giáo Việt Nam) và Thượng Tọa Thích Tâm Châu (Chủ tịch Ủy ban Liên phái Bảo vệ Phật Giáo).

Điều đáng chú ý là trong suốt năm 1963, chính ông Nhu đã đoạt quyền ông Diệm để đối phó với cuộc khủng hoảng Phật giáo đang càng lúc càng lan rộng nhờ được sự tiếp tay của các lực lượng quần chúng khác. Thậm chí ông Nhu còn cho ông Diệm là người nhu nhược vàđã biểu lộ sự chống đối mãnh liệt ông Diệm và chính phủ của ông ta” đến mức dự định đảo chánh ông Diệm (FRUS 256 - Bản Ghi nhớ của Phó Giám đốc Kế hoạch CIA Helms, ngày 16-8-1963, gửi Phụ tá Ngoại trưởng Hilsman [04]). Ông Nhu đã thăm dò những điều kiện đàm phán sơ khởi với lãnh đạo Cọng sản ở Hà Nội (theo Death of a Generation, Howard Jones, Oxford University Press, 2003[05]) , đã từng thiết lập danh sách viên chức Mỹ sẽ bị ông ám sát (FRUS 68 - Điện văn của Giám Đốc Phòng Tình Báo và Nghiên Cứu Thomas Hughes trình lên Ngoại Trưởng Hoa Kỳ ngày 6-9-1963[06]),  đã tuyên bố với nhật báo Ý L’Expresso ngày 3-10-1963 sẽ “cắt đầu” Đại sứ (cha vợ) Trần Văn Chương (FRUS 186 - Điện văn số POL 15S VIET của Đại sứ Cabot Lodge gửi cho Bộ Ngoại Giao ngày 7-10-1963[07]) , …  Lý giải cho những động thái điên cuồng đó của ông Nhu, các vị Đại diện Ba Lan tại Ủy hội Quốc tế Kiểm soát Đình chiến ICC Mieczylaw Maneli, Chánh Văn phòng Phủ Tổng thống Võ Văn Hải, Bộ trưởng Phụ tá Quốc phòng Nguyễn Đình Thuần đều cho là ông Nhu bị bệnh tâm thần, ám ảnh bởi bệnh hoang tưởng “… Vào giai đoạn đó, Nhu sa vào vòng nghiện ngập và điều đó đã đẩy ông ta đến những trạng thái cực đoan… Người ta bắt đầu thấy những dấu hiệu điên loạn trên mặt ông ta, nhìn bất động như kẻ mộng du, với một nụ cười lạnh lùng cố hữu …” (theo Roger Hilsman, To Move A Nation, Doubleday Inc. and Co., New York 1967, trang 480 [08])  

Không khí chính trị căng thẳng tại Sài Gòn từ ngày Hoà Thượng Thích Quảng Đức tự thiêu đến giữa tháng 8-1963 đã cho các nhà quan sát Hoa Kỳ thấy rằng cuộc tranh chấp giữa Phật Giáo và chính quyền đang diễn tiến. Tuy nhiên, khi cuộc chạm trán xảy ra, trong cuộc tổng tấn công đêm 20 rạng ngày 21-8-1963 nhắm vào các chùa với lệnh thiết quân luật trên toàn miền Nam, các nhà ngoại giao Hoa Kỳ đã hoàn toàn bất ngờ.

Họ cũng nhận định Quân đội VNCH bất mãn vì bị dân chúng đổ tội tấn công các chùa, trong khi thực tế quân đội không biết gì về việc ông Ngô Đình Nhu ra lệnh cho Đại Tá Lê Quang Tung dẫn Lực Lượng Đặc Biệt bất ngờ tấn công các chùa và tin tức tình báo cho biết ông Nhu đã gài vũ khí, chất nổ vào chùa để vu vạ.[09]  Và chính Mỹ cũng bất mãn vì ông Diệm không hòa giải với Phật Giáo, và chính trận tổng tấn công các chùa chiền đã xé bỏ bản Thông Cáo Chung 16-6-1963 mang chữ ký của hai nhà lãnh đạo, Hòa Thượng Thích Tịnh Khiết và Tổng Thống Ngô Đình Diệm.

 
CUỘC ĐIỀU TRA CỦA PHÁI ĐOÀN LIÊN HIỆP QUỐC - PHÚC TRÌNH A/5630

Ngày 4-9-1963, 14 nước bao gồm Afghanistan, Algeria, Cambodia, Ceylon, Guyana, India, Indonesia, Mông Cổ, Nigeria, Pakistan, Rwanda, Sierra Leone, Somalia, Trinidad và Tobago (sau đó, thêm hai nước Mali và Nepal) đưa vấn đề Phật giáo Việt Nam ra trước Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc (LHQ) với nội dung cáo buộc chính quyền Việt Nam Cộng hòa vi phạm các nguyên tắc của Hiến chương Liên Hiệp Quốc.

Một tháng sau, ngày 4/10/1963, Việt Nam Cộng hoà gửi thư lên Đại Hội đồng Liên Hiệp Quốc mời một phái đoàn sang Việt Nam điều tra về tình hình tôn giáo tại Việt Nam. Cuối tháng Mười, Liên Hiệp Quốc cử phái đoàn gồm 16 thành viên đại diện 7 quốc gia Afghanistan (trưởng phái đoàn), Brazil, Ceylon, Costa Rica, Dahomey, Morroco và Nepal sang Việt Nam điều tra tìm hiểu sự thật. Phái đoàn đến Phi trường Tân Sơn Nhứt tối 24-10-1963, và bắt đầu từ hôm sau chỉ tiếp xúc các giới chức chính quyền và phỏng vấn các nhân chứng trong 6 ngày (mà riêng 2 ngày cuối tuần là 26 và 27/10 thì phần lớn thời gian phái đoàn ở khách sạn đọc tài liệu). Cuộc điều tra kết thúc sớm hơn dự liệu khi chế độ Diệm bị lật đổ vào đúng ngày lễ Các Thánh (Toussaint, 1-11) của Công giáo, ngày mà tất cảc cơ quan chính phủ được nghỉ lễ. Và phái đoàn rời Sài Gòn ngày 3-11-1963.


Có ba tài liệu chính thức của Liên Hiệp Quốc và một công trình nghiên cứu đại học liên quan đến cuộc điều tra về đàn áp Phật giáo tại Nam Việt Nam của LHQ:

- Tài liệu A/5630 - Phúc trình của Phái đoàn Điều tra Liên Hiệp Quốc tại Nam Việt Nam, hoàn tất ngày 7-12-1963. (Document A/5630 - Report of the United Nations Fact-Finding Mission to South Viet-Nam)
- Đề mục Thảo luận số 77 (Agenda Item 77)
- Biên bản Buổi họp Khoáng đại thứ 1280 của Đại Hội đồng LHQ, Phiên họp thứ 18, ngày 13-12-1963 (United Nations General Assembly, Eighteen Session, 1280th Plenary Meeting – Official Records)
- Khảo luận in thành sách “Một Cao Ủy Liên Hiệp Quốc về Nhân Quyền” (A United Nations High Commissioner For Human Rights) của Giáo sư Roger Stenson Clark, do Martinus Nijhoff (Hòa Lan), xuất bản năm 1972.

Cả 4 tài liệu nầy đều có một kết luận giống nhau: Dù thu thập được một số dữ kiện ở cả hai phía chính quyền và phía nạn nhân Phật giáo, nhưng Phúc trình A/5630 của Liên Hiệp Quốc đã chưa đưa ra một kết luận khẳng định hay phủ định nào trong cuộc điều tra về đàn áp Phật giáo tại Việt Nam vì cuộc điều tra chưa hoàn tất do biến cố 1-11-1963 xảy ra trong lúc đó. Giáo sư Roger Clark tóm tắt một cách chính xác như sau trong Khảo luận của mình:    

It arrived in Saigon in late October and heard a number of witness. Unfortunately for the scholar, the affair ended inconclusively as a result of the successful coup against President Diem that took place while the Mission was in Saigon”. (Phái đoàn đến Sài Gòn vào cuối tháng Mười và đã nghe một số nhân chứng. Không may cho các học giả, công việc bị kết thúc dang dở vì cuộc đảo chánh Tổng thống Diệm đã thành công khi Phái đoàn đang ở Sài Gòn) [10]

 
CUỘC CHÍNH BIẾN 1-11-1963

Điểm quan trọng trong các tài liệu nói về cuộc chính biến 1-11-1963 là ai khởi xướng và lập kế hoạch đảo chánh. Ông Henry Cabot Lodge, Đại sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam, Tướng Trần Văn Đôn hay Tướng Dương Văn Minh?

Theo điện văn của Thứ Trưởng Ngoại Giao George Ball gửi ông Lodge đề ngày 24-8-1963 mang số 243 cho biết ông đã chỉ thị cho Đại sứ Lodge phải áp lực ông Diệm gạt bỏ ông bà Nhu ra khỏi chính phủ, nghĩa là vẫn sẽ duy trì Đệ Nhất Cọng hòa và riêng ông Diệm vẫn làm Tổng Thống, và nếu điều kiện nầy không thỏa đáng thì được hiểu là Mỹ đồng ý một “sự thay thế” lãnh đạo tại miền Nam.[11][12]

Theo Bản Ghi Nhớ viết ngày 30 tháng 7-1966 của Bộ Ngoại Giao/CIA gửi Tòa Bạch Ốc ghi trong tài liệu “Chính quyền Johnson nhìn lại Biến cố 1-11-1963”[13] thì Mỹ không cản nổi cuộc đảo chánh vốn đã manh nha từ trước ngày ông Nhu hạ lệnh tổng tấn công chùa chiền 20-8-1963 như  (1) Trung Tá Đỗ Khắc Mai, Tham Mưu Trưởng Không Lực VNCH, đã bày tỏ ý định vận động một cuộc lật đổ nhà Ngô; ý định này được ghi lại trong điện văn 165, đề ngày 11-6-1963, do Tòa Đại Sứ Mỹ gửi về Bộ Ngoại Giao; và (2) theo Bản Ghi Nhớ số 118 đề ngày 16-9-1963, viết bởi Paul M. Kattenburg, Phó Giám Đốc Đông Nam Á Sự Vụ tại Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ cho biết đã có thêm một số (ít nhất là 10) âm mưu đảo chánh khác, vận động từ phía các sĩ quan cấp tá và nhiều lãnh tụ đảng phái, kể cả những cọng sự viên thân tín của ông Diệm. Trong những người tham dự âm mưu lật đổ nhà Ngô có cựu Đại sứ Trần Văn Chương, thân phụ của bà Ngô Đình Nhu. Ngoài ra Tướng Lê Văn Kim ngày 23-8-1963, đã gặp Rufus Phillips, Giám đốc USOM Rural Affairs, và nói rằng quân đội VNCH đã sẵn sàng đảo chánh để lật đổ chế độ nhà Ngô vì đó là cách duy nhất để giữ lòng dân – vì quân đội và dân chúng đều bất mãn tột độ khi Phật Giáo bị đàn áp.

Như thế, qua các tài liệu đã giải mật, người đọc có thể thấy rõ ràng cuộc đảo chánh 1-11-1963 nhằm lật đổ chế độ Ngô Đình Diệm không khởi nguồn từ xúi giục của bất kỳ ngoại nhân nào, kể cả từ Hoa Kỳ.  Điều này được thấy trong phần kết luận của Bản Ghi Nhớ viết ngày 30 tháng 7-1966 của Bộ Ngoại Giao/CIA gửi Tòa Bạch Ốc nói ở trên và theo một tài liệu khác từ kho lưu trữ hồ sơ của Ủy Ban Đặc Tuyển Thượng Viện Hoa Kỳ cho biết, trước cuộc đảo chánh một ngày, chính quyền Hoa Kỳ ở Washington bị nhiều áp lực từ viên tướng Tư Lệnh MACV Harkins phản đối tất cả những âm mưu đảo chánh ông Diệm và từ Cố vấn An Ninh Quốc gia Hoa Kỳ nói Lodge nên khuyến cáo (các tướng lãnh Việt Nam) nên hủy bỏ đảo chánh và Đại sứ Lodge điện văn về Mỹ ngày 30-10-1963 nói rằng chuyện đảo chánh hoàn toàn nằm trong tay phía người Việt, còn Mỹ không cản ngăn gì được. Cũng trong ngày đó, Tướng Trần Văn Đôn hứa sẽ tiết lộ kế hoạch đảo chánh cho Đại sứ Lodge biết 4 giờ đồng hồ trước khi đảo chánh khởi động. Tuy nhiên, vào ngày 1-11-1963, Tòa Đại sứ Mỹ chỉ được báo trước 4 phút mà thôi. [14]

 
Tâm Diệu
Ban Biên TậpTVHS

 
[01] CÁC ĐIỆN VĂN TRAO ĐỔI GIỮA HUẾ SÀI GÒN VÀ WASHINGTON (Biến cố đêm 8/5/1963 tại Huế)



CÁC BẢN DỊCH
TỪ KHO DỬ LIỆU BỘ NGOẠI GIAO
BỘ QUỐC PHÒNG, CƠ QUAN TÌNH BÁO TRUNG ƯƠNG &
CÁC NGUỒN KHÁC

http://thuvienhoasen.org/D_1-2_2-135_4-18757_5-50_6-1_17-91_14-1_15-1/cac-ban-dich-tu-kho-du-lieu-bo-ngoai-giao-my-va-cac-nguon-khac.html


 

Lời Ban Biên Tập: Nhằm mục đích góp phần giúp thế hệ trẻ Việt Nam ở trong nước cũng như ở hải ngoại biết rõ lịch sử Việt Nam trong năm 1963 xảy ra như thế nào và nhất là để có nhận thức sâu sắc hơn về điều mà dân tộc đã khẳng định: “Phật giáo Việt Nam với dân tộc như hình với bóng, tuy hai mà một”. Cho nên chúng tôi lưu trữ vào Thư Viện Hoa Sen CÁC BẢN DỊCH TỪ KHO DỮ LIỆU BỘ NGOẠI GIAO, BỘ QUỐC PHÒNG, CƠ QUAN TÌNH BÁO TRUNG ƯƠNG & CÁC NGUỒN KHÁC đã giải mật. Các tư liệu này có liên quan đến sự kiện lớn trong lịch sử Việt Nam hiện đại. Sự việc này chắc chắn sẽ có những ý kiến ủng hộ và chống đối, nhưng lịch sử vẫn là lịch sử. Ban biên tập website Thư Viện Hoa Sen chân thành cảm tạ nhà văn Cư sĩ Nguyên Giác và Nhà Xuất Bản Thiện Tri Thức Publications đã gửi tặng phiên bản vi tính điện tử và trân trong giới thiệu đến toàn thể quý độc gỉa trong và ngoài nước.

ÁP LỰC GIỜ CHÓT CỦA MỸ ĐÒI HỦY BỎ CUỘC LẬT ĐỔ NHÀ NGÔ (Nguyên Giác dịch)













ĐIỆN VĂN 68 NGÀY 6-9-1963 (Nguyên Giác dịch)







PHẬT GIÁO VÀ CUỘC CHÍNH BIẾN 1-11-1963 (Tâm Diệu giới thiệu)

PHÚC TRÌNH A/5630 ĐÃ KẾT LUẬN NHƯ THẾ NÀO? (Tâm Diệu và Nguyễn Kha)

TẤN CÔNG HÓA HỌC Ở HUẾ (Tâm Diệu dịch)




 
[Nguồn: