CHỮ QUỐC NGỮ, TIẾNG VIỆT NAM,
VÀ TU SĨ ALEXANDRE DE RHODES
Mai Kim Ngọc / Việt Báo
Cô
sinh viên Ba Tây và tác giả phát âm tiếng Việt dễ dàng, thoải mái
với mấy mấy nguyên âm đủ sắc huyền hỏi ngã nặng.
Lời
tòa soạn: Gần đây, nhiều ý kiến, tranh cãi gay gắt về vai trò và công trạng
sáng lập chữ quốc ngữ, đặc biệt xung quanh nhà truyền giáo người Bồ Đào Nha
Alexandre de Rhodes. Việt Báo xin trích đăng lại bài viết của tác giả Mai Kim
Ngọc trong mục VVNM năm 2013, bài viết là một tham khảo kỹ lưỡng về chữ quốc
ngữ và vai trò của Alexandre de Rhodes, và tác giả đề cập đến sự “vô phép”
trong Phép Giảng Ngày khi người tu sĩ Đắc Lộ này nói về Tam Giáo của nước chủ
nhà.
*
Đại
hội 48-55 năm nay các bạn đồng khoá giao cho tôi công việc nhẹ nhàng gần như
tượng trưng. Đó là đọc và nhặt lỗi chính tả những bài gửi đến. Vậy mà tôi chưa
đọc được một bài, vì một vấn đề nguyên tắc: lấy tiêu chuẩn gì mà sửa chính tả
của bạn bè.
Khi
viết lách tôi thường dùng những từ điển Việt ngữ phổ thông. Nhưng hiệu đính
chính tả người khác, tôi phải cẩn thận hơn. Tôi tự hỏi các từ điển tôi thường
dùng căn cứ vào đâu mà xác định cách đánh vần. Tìm kiếm thêm chút nữa, tôi khám
phá ra là những sách tôi có đều không xuất xứ. Như một thứ tác phẩm mồ côi,
chúng không dựa vào thẩm quyền nào khi chọn lựa chính tả.
Mơ
màng đi ngược dòng thời gian, tôi nghĩ đến cuốn từ điển đầu tiên ngày xưa thầy
giáo nhắc tới. Đó là cuốn Dictionarium
Annamiticum Lusitanum et Latinum (DALeL) do tu sĩ dòng tên Alexandre de
Rhodes in tại Roma năm 1650, cùng với cuốn 'Phép
Giảng Tám Ngày ...' của ông.
Mong
ước cầm được trong tay cuốn sách hiếm của Rhodes là chuyện viển vông. Cuốn
DALeL xuất bản hơn 300 năm trước tại Roma không tái bản lần nào, một vài bản có
còn tồn tại chắc được các viện bảo tàng cất kỹ trong lồng kính. Để tự an ủi,
tôi nghĩ thầm dù có được cuốn sánh cổ trong tay, chưa chắc nội dung đã phù hợp
với tiếng Việt bây giờ.
Cứ
như vậy, tôi sinh hoạt trong nghề văn với chính tả có độ chuẩn tương đối, định
bụng một ngày nào rảnh rang sẽ bỏ công ra tra cứu vấn đề đến tận ngọn nguồn.
Nấn ná suốt bảy năm trung học tôi đã không có dịp thi hành ý định. Rồi bảy năm
y khoa tiếp nối, tôi vẫn viết lách với chính tả tương đối của mình. Hai năm
trung úy quân y trưng dụng quá bận rộn vì y khoa cấp cứu thời chiến, tôi cũng
không làm được gì cho mối tư lự chính tả bấy lâu trăn trở.
*
Khi
về hưu tuởng đã quên, nhưng một sự việc nhỏ nhặt vô tình nhắc lại chuyện cũ,
nhân một hôm đi nghe đoàn nghệ sĩ của Rio de Janeiro trình diễn dân ca Ba Tây
tại hí viện ngoài trời Hollywood Bowl. Không hiểu lời, nhưng tôi thú vị tức thì
với âm hưởng tiếng Bồ Đào Nha được nghe lần đầu.
Tôi
đã đọc đâu đấy rằng tiếng Bồ của Ba Tây rất chuẩn so với chính quốc. Lý do là
Ba Tây không là một thuộc địa như các thuộc địa khác, mà có thời đã là trụ sở
chính của vương quốc Bồ. Khi Napoléon chinh phục hết nước này đến nước khác tại
Âu châu, vua Bồ thấy bất an đã đưa cả hoàng gia và triều đình sang đóng đô tại
Rio. Napoléon sau cùng thất trận đi đày nơi hải đảo, vua Bồ trở về ngai vàng
chính quốc nhưng để con trai lại thay vua trị vì Ba Tây... Có lẽ do đó Ba Tây
có ngôn ngữ không những rất chuẩn, mà âm hưởng lại có gì vương giả.
Trở
lại buổi đi xem trình diễn dân ca Ba Tây tại Hollywood Bowl. Lúc tôi thiu thiu
với cơn gió đêm mát rượi của hí viện ngoài trời, một hiện tượng như mơ như thực
xảy ra. Tôi vẫn không hiểu tiếng Bồ, nhưng trong lúc mơ màng bỗng thấy nhạc Bồ
có gì gần gũi. Rồi có lúc tôi cảm thấy như nghe được tiếng Việt xen kẽ giữa
những lời ca ngoại quốc. Trong tâm thức một đoàn âm thanh quen thuộc kéo về.
Chúng gồm những phụ âm kép mà tôi vẫn nghĩ chỉ tiếng Việt mới có, như NG hay TH
ở đầu hay cuối một số từ. Rồi một lũ nguyên âm trầm bổng với đủ năm dấu sắc
huyền hỏi ngã nặng kéo theo. Nửa thú vị nửa ngỡ ngàng, tôi như người lữ khách
một chuyến du lịch nơi xa lại gặp một đoàn trẻ con trong họ chạy tới vây quanh.
Cuộc
sống bận rộn lại làm tôi quên vụ nhạc Bồ có âm hưởng Việt, cũng như ý định giải
quyết mối thắc mắc kinh niên về chính tả. Nhưng không quên hẳn được, vì hai năm
sau tôi có dịp đi du lịch Ba Tây. Tôi may mắn vì ngoài anh hướng dẫn viên chính
thức lại có cô sinh viên sắp tốt nghiệp khoa du lịch xin đi theo tập sự. Cô bé
sõi tiếng Anh, nhưng nói tiếng Bồ khi trao đổi với bác tài xế cũng là người địa
phương.
Nghe
ngôn ngữ líu lo của họ, tôi lại bắt được những nguyên âm và phụ âm quen thuộc
cùng với năm dấu sắc huyền hỏi ngã nặng của tiếng mẹ đẻ. Tha hương, âm hưởng
Việt Nam bất ngờ trong tiếng nói Ba Tây nghe ngọt như cam và mát như cơn mưa
giữa trưa hè. Cảm giác đẹp như câu thơ cổ lớp Hán tự ngày xưa:
Đại hạn phùng cam vũ,
Tha
hương ngộ cố tri.
Du
lịch tại Nam Bán Cầu mà tôi thấy gần gũi với cảnh với người, cô sinh viên viên
Ba Tây bỗng giống con cháu gái gọi tôi bằng ông.
Tôi
nghĩ hòan cảnh thuận lợi để tìm hiểu tại sao tiếng Bồ nghe giống tiếng Việt.
Tôi viết ra giấy chữ NGA bắt cô gái đọc, hy vọng cô sẽ không đọc thành NHA như
những người Pháp hay Mỹ. Cô không phạm phải lỗi phát âm ấy, chỉ thoáng ngạc
nhiên là tại sao lại bị trắc nghiệm. Tôi lại bắt cô đọc NGA NGỦ NGON, mệnh đề
ba chữ đã vặn lưỡi vô số người ngoại quốc. Cô đọc vẫn chuẩn. Không có vụ NHA
NHỦ NHON như đám bạn người nước ngoài của tôi... Tôi đố thêm vài phụ âm nữa
nhưng đặt ở đuôi của từ, như manG và manH, hay thanG và thanH xem cô gái có
phân biệt được mang với manh hay thang với thanh không. Cô gái không gặp khó
khăn gì. Cô còn thoải mái với mấy nguyên âm có bỏ đủ dấu sắc huyền hỏi ngã
nặng.
Cảm
giác vô lý có bà con ruột thịt với cô sinh viên Ba Tây làm tôi vui như tự nhiên
được thêm đứa cháu gái. Đồng thời tôi nhớ đã đọc đâu đó rằng mẫu tự Quốc ngữ là
do các tu sĩ Dòng Tên soạn ra từ mẫu tự Bồ khi họ phiên âm chữ Nôm. Hèn chi cô
gái đã thoải mái đọc được mấy từ và khóm từ Việt tôi đem ra đố. Thật là một sự
tình cờ lý thú, thanh quản Ba Tây và mẫu tự Việt tình cờ lại khao khít với nhau
và ngược lại. Thật là hú vía. Nếu bị phiên âm với một mẫu tự khác như Pháp hay
Nga hay Anh chẳng hạn, không biết tiếng Việt bây giờ sẽ ngọng nghịu như thế
nào.
Tôi
quyết định bỏ thời gian tra cứu vụ này. Bớt một số giờ vãn cảnh, tôi tìm đọc
trên liên mạng những đề tài liên quan đến Việt ngữ xưa và nay. Tôi tìm hiểu các
tu sĩ dòng Tên Lisbonne hà cớ gì sang tận Việt Nam trên ba trăm năm trước để
sáng chế ra lối viết mới. Tại sao số từ họ phiên âm ba bốn thế kỷ trước đã
ngưng lại tại mức 8000. Từ cuốn DALeL của Alexandre de Rhodes cho đến cuối thế
kỷ XIX khi được thực dân mang ra xử dụng, không thấy một cuốn từ điển mới của
nhà Dòng với nhiều từ hơn. Và tôi cũng tò mò về một tu sĩ đặc biệt làm việc
trong nhà Dòng Hà Nội thế kỷ 17 là ALexandre de Rhodes.
Pháp đánh giá công lao của Rhodes
rất cao trong việc phiên âm chữ Nôm ra tiếng
La-tanh, và những lời khen lao họ dành cho ông có vấn đề lạm phát trầm trọng. Không những người Pháp mà một số
không nhỏ người Việt thời Bảo hộ cũng cực kỳ quý trọng ông.
Mặt
khác, ngay thủa sinh thời ông lại bị hai người Việt Nam quý tộc đánh giá rất
thấp và xếp vào thành phần bất hảo. Đó là chúa Trịnh của xứ Đằng Ngoài và chúa
Nguyễn của xứ Đằng Trong. Người thì trục xuất người thì hạ ngục Rhodes, thậm
chí phán cho đương sự cái án tử hình... Sau bao nhiêu bôn ba để xin về lại Việt
Nam, Rhodes sau cùng bị bề trên đổi sang Iran, và qua đời ở đấy. Hai thập niên
sau cùng, ông chưa chết mà đã bị lãng quên. Cứ thế tên tuổi ông cũng như hai
cuốn sách về tiếng An Nam do ông trước tác không
ai nhắc tới suốt 300 năm lẻ.
Bất
ngờ vì nhu cầu chính trị, thực dân Pháp
đem Alexandre de Rhodes ra suy tôn như một thần tượng, thậm chí một vị thánh
văn hoá cho dân thuộc địa. Những dữ kiện thu được nhờ một tối lang thang
trên mạng, làm tôi hăng hái truy lùng thêm những tài liệu về tiếng An Nam của
các tu sĩ Bồ và Việt ngữ của chúng ta. Kết quả là một câu chuyện hy vọng có đầu
có đuôi khá nhiều tình tiết ly kỳ đáng ghi lại để mua vui cho các bạn đồng
khoá.
Tiếng An Nam, thủa trứng nước
Từ
đầu thế kỷ 17 hay sớm hơn nữa, những tu sĩ Dòng Tên tại nhà dòng Hà Nội bắt đầu
phiên âm chữ Nôm bằng mẫu tự Bồ. Tôi không nghĩ các tu sĩ bấy giờ có phương
tiện như phòng vi âm các đài phát thanh hay phòng thí nghiệm thính giác của các
đại học ngữ học bây giờ. Tôi đoán phương cách làm việc của họ đại khái như sau.
Họ nhờ một người thông ngôn lanh lợi chọn trong đám nhân viên Việt của nhà Dòng
đọc những từ chữ Nôm (văn tự chính thống bấy giờ). Tu sĩ lắng nghe nhiều lần
cho đến khi thật quen tai thì phiên âm bằng mẫu tự Bồ và ghi ra giấy. Từng từng
chữ từng chữ một, tu sĩ và người phụ tá bản xứ hoàn tất một văn tự mới gọi là
chữ An Nam, như tên gọi trong cuốn tự vị Việt Bồ La Dictionarium Annamiticum Lusitanum et Latinum (DALeL) của Alexandre
de Rhodes. Mớ ngữ vựng hoàn tất được mỗi lúc một nhiều, chẳng mấy chốc đủ dùng trong sinh hoạt hàng ngày của nhà
Dòng như sai bảo người làm, luyện tiếng Việt cấp tốc (kiểu phrase book) cho
các tu sĩ tân nhiệm từ Lisbonne mới qua, hay dậy giáo lý căn bản cho kẻ tân
tòng bản xứ đang chuẩn bị rửa tội...
Từ
điển DALeL của Alexandre de Rhodes sưu tập được khoảng 8000 từ. Con số này chắc
bao gồm cả những từ đã phiên âm của hai cuốn từ điển có trước soạn bởi các sư
huynh của Rhodes là Antonio Barbosa và Gaspar do Amaral. Danh từ An nam hay An nam mít xuất hiện từ đây, mới đầu chỉ để chỉ thứ văn tự mới, có
lẽ đến thời Pháp thuộc cuối thế kỷ XIX
mới có nghĩa coi rẻ coi thường.
Trừ
hai cuốn sách của Rhodes, toàn bộ tài liệu liên quan đến tiếng An Nam của các
tu sĩ Bồ bị thất lạc. Mất mát quan trọng là hai cuốn từ điển của Antonio Barbosa
và Gaspar do Amaral. Không những ấn bản không còn, mà tất cả những bản nháp,
bản thảo cũng không sót lại một tờ. Mất mát quan trọng không kém là văn khố của
nhà dòng Bồ hơn ba thế kỷ sinh hoạt, gồm những tài liệu giảng huấn, những bài
vở của các học viên, những bài giảng của các giáo viên... Sau cùng, người ta
cũng không tìm được một tài liệu gì về
công trình của tu sĩ bề trên Francisco de Pina, người đã vỡ lòng tiếng Việt cho
Rhodes khi đương sự mới từ Lisbonne sang nhậm chức...
Sự
mất mát xảy ra bao giờ, không ai biết rõ. Ta có thể võ đoán là chuyện đó không
xảy ra trong 300 năm đầu khi nhà dòng Bồ tại Hà Nội do giáo hội Bồ quản trị.
Người Bồ không lơ là với tài sản văn hoá của người Bồ. Nhưng khoảng trăm năm
cận sử, Bồ bàn giao cho Pháp nhà Dòng Hà
Nội cùng những cơ sở tôn giáo khác tại Việt Nam. Sự mất mát có thể xảy ra vào
khoảng thời gian này. Phải đây là do chiến tranh loạn lạc liên miên, hay
còn phản ánh nhiều lý do khác về chính trị, hành chánh, quản trị, hay kỳ thị và ganh tỵ giữa Bồ và Pháp.
Giáo sĩ Alexandre de Rhodes
Huyền Thoại Alexandre de Rhodes
Dù
vì nguyên do gì, sự thất lạc những tài liệu tiền phong về việc soạn từ điển
tiếng An Nam làm Rhodes trở thành người có tác phẩm xưa nhất trong lãnh vực. Dựa vào chi tiết này và nhiều ý đồ khác,
người Pháp gọi ông là cha đẻ của Quốc ngữ (Le Père du Quốc Ngữ).
Sự
vinh danh tất nhiên quá đáng, vì Rhodes không phải là người sáng chế ra lối
viết mới. Khi ông tới Hà Nội thì bề trên
Francisco de Pina và các sư huynh của ông đã khởi xướng việc này từ lâu.
Ông cũng không phải là người độc nhất đã đánh vần số 8000 từ trong từ điển của
ông. Như đã nói, trước ông đã có từ hai cuốn từ điển Việt Bồ, một của Antonio
Barbosa và một của Gaspar do Amaral. Chỉ tiếc là Rhodes không ghi xuất xứ những
từ ông sưu tập và bỏ vào Dictionarium
Annamiticum Lusitanum et Latinum (DALeL), nên hiện tại không biết bao nhiêu
là công ông, bao nhiêu là công của người đi trước.
Tiểu
sử của Rhodes cũng phức tạp và mơ hồ như sự nghiệp của ông. Ông sinh năm 1593
tại Avignon, và theo học chủng viện Dòng Tên Lisbonne. Tốt nghiệp, ông được cử
sang xứ Đằng Ngoài của chúa Trịnh năm 1620 khi mới 27 tuổi. Như đã nói, tu sĩ
trẻ tân nhiệm Rhodes được học tiếng Việt
với bề trên là Francisco de Pina. Bốn năm sau với vốn ngôn ngữ ấy, ông vào
truyền giáo tại xứ Đằng Trong của Chúa Nguyễn. Được hai năm, ông lại trở ra xứ
Đằng Ngoài.
Sự
cố quan trọng đầu tiên trong nghiệp vụ truyền giáo đến với Rhodes khi Chúa
Trịnh trục xuất ông (1630). Về Macao, ông xoay xở vận động với giáo hội và 10
năm sau ông lại được sang Việt Nam (1640). Không về được Hà Nội vì cái án trục
xuất vẫn còn đấy, ông vào Đằng Trong truyền giáo. Ở đây ông cũng đụng chạm với luật pháp địa phương. Năm
1645, chúa Nguyễn hạ ngục ông rồi kết án tử hình. Ông thoát chết trong đường tơ
kẽ tóc. Tội chết được chúa ân xá vào
phút chót, nhưng án trục xuất vẫn áp dụng.
Bị
cả hai miền Nam Bắc lần lượt đuổi đi, ông về lại Âu Châu. Mười năm ở đấy, ông
năng nổ tìm cách thỉnh cầu Lisbonne và Roma yểm trợ tài nguyên cho ông trở lại
Việt Nam. Thời gian này ông mang tiếng
khoác lác về bản thân, khoe con số 6000 tân tòng ông đã tự tay rửa tội. Ông
cũng khoác lác trình bày Việt Nam như
một vùng đất giàu có ngoan đạo và đông đúc giáo dân. Có lẽ vì Rhodes thiếu
trung thực trong những báo cáo trên nên cuộc vận động của ông đã thất bại. Ông
bỏ Roma và Lisbonne để sang Pháp vận
động với vua Pháp về việc thành lập hội truyền giáo Paris cho giáo hội Pháp.[MEP:
Société des Missions Étrangères de Paris
- hoangnamgiao) Không biết sợi rơm nào đã bẻ gẫy lưng con lạc đà, bề trên tại
Lisbonne sau cùng thuyên chuyển ông sang Teheran. Từ đó về sau người ta không
nghe nói ông vận động gì thêm để về lại Việt Nam. Ông qua đời năm 1660, hưởng
thọ được 69 tuổi.
Cuộc
sống của giáo sĩ Rhodes tại Việt Nam đầy sự cố không phải không có lý do. Tu sĩ
trong khi truyền giáo tìm cách thân
thiện với cả hai miền Nam Bắc đang thù nghịch nhau. Dưới góc nhìn của các
chúa Trịnh và Nguyễn, có thể họ cho ông là người
bất hảo và trí trá. Với các nhân vật quan trọng của Âu châu, ông xem ra
cũng không trung thành với ai. Để
thuyết phục Roma và Lisbonne yểm trợ ý đồ trở lại Việt Nam của mình, ông đã
không ngần ngại tô điểm thành tích bản
thân cũng phóng đại sự trù phú của Việt Nam. Khi không toại nguyện, ông cũng
không ngần ngại chạy sang Paris khuyên vua Pháp nên thiết lập Hội Truyền Giáo
Pháp để sớm xử lý mục vụ Viễn Đông trước
các cuờng quốc khác. Tuy nhiên chưa kịp nhận phẩm hàm gì của vua Pháp, ông
bị giáo hội Lisbonne đổi sang nhà dòng Ba Tư.
Phép Giảng Tám Ngày.
Tác
phẩm Phép Giảng Tám Ngày, cũng có thể
là nguồn gốc của những vấn nạn đã xảy đến cho ông tại Việt Nam. Nói chung,
người Việt chúng ta vua quan cũng như dân chúng coi trọng tôn giáo người khác.
Chúng ta tin rằng từ bi là đức hạnh của mọi tôn giáo, và không có gì bất đồng
với giáo lý đạo Ky Tô. Vậy mà ngoài các chương giáo lý cổ điển, Alexandre de
Rhodes sáng tác thêm chương Bốn với tựa là 'Những Đạo Vạy' để miệt thị Phật Lão Nho cũng như mỹ tục thờ cúng
tổ tiên. Lời lẽ khá thô lỗ, có chỗ ông gọi
Phật là thằng Thích Ca... (coi phụ lục). Ông đã dùng tài liệu 'Phép Giảng Tám
Ngày' để rửa tội cho vô số tân tòng. Nội dung Chương Bốn, Những Đạo Vạy không còn bí mật với ai.
Tai vách mạch rừng, thái độ miệt thị ông dành cho tôn giáo chủ nhà chắc đã đến
tai nhà chức trách. Phải chăng đây là lý do trực tiếp làm hai lần ông bị trục
xuất, và một lần bị hạ ngục với án tử hình. Nhìn theo cái nhìn dài, Rhodes coi rẻ văn hoá và tín ngưỡng Việt
Nam đã làm hại đạo Thiên Chúa không ít, tạo chia rẽ Lương Giáo, và gây khó khăn
cho những tu sĩ đến sau. Tôi có nhiều bạn thân theo đạo Thiên Chúa mà chưa
thấy ai có kiến thức giới hạn về tôn giáo Á Đông như Rhodes. Tôi cũng chưa thấy
ai đối đãi thô bạo với cốt lõi của văn
hoá Việt Nam như khi ông bàn về Tam Giáo...
Hiếu
động như vậy mà sinh thời Alexandre de Rhodes không đạt được vinh hoa gì đáng
kể. Cuối cùng ông chết âm thầm tại Iran. Sự
nghiệp ông tượng trưng bằng hai cuốn sách liên hệ đến tiếng An Nam cũng không
thành công bao nhiêu. Âu châu vào thời ông quá bận tâm với những vấn đề
quan trọng để lưu ý đến một chức sắc cấp trung hay cấp thấp, với hai tác phẩm
ích lợi giới hạn cho người Bồ giảng đạo tại Việt Nam. Ở Hà Nội, sách của Rhodes
cũng không hữu dụng. Nhà Dòng đã đầy đủ chuyên viên để phiên âm tiếng địa
phương theo vần mẫu tự Bồ. Sự thật là chính Rhodes còn phải đi học tiếng Việt
với các sư huynh và sư phụ của ông tại đây. Ngoại trừ những bản làm quà tặng
cho bè bạn và bề trên cũ, sách ông mang về nhà Dòng Hà Nội khác gì chở củi về
rừng.
Bên
trong giáo đường đã vậy, bên ngoài giáo đường tác giả cũng như tác phẩm kể như
không ai biết đến. Người Việt Nam từ văn nhân thi sĩ đến vua chúa quan lại, mọi
người thoả mãn với hai tiếng Hán và Nôm.
Giấy tờ hành chánh dùng Hán tự, còn toàn bộ những sinh hoạt khác đều dùng chữ
Nôm. Kể từ những văn bản thủa ban sơ như Văn
Tế Cá Sấu cho đến Sãi Vãi, Nhị Độ Mai, Trê Cóc, Hoa Tiên, Phan Trần, Lục Vân Tiên... cho tới ba đại
tác phẩm của đất nước là truyện Kiều, Chinh Phụ Ngâm và Cung Oán, tất cả đều
viết bằng tiếng Việt (chữ Nôm). Không ai làm thơ làm văn bằng chữ An Nam
hay An Nam Mít của Rhodes với 8000 từ đánh vần bằng mẫu tự Bồ. Suốt ba thế kỷ
hơn, quên lãng là số phận của Rhodes và sự nghiệp viết lách của ông.
Chuyện bể dâu Văn tự và Văn học
Tuy
nhiên lịch sử có những bất ngờ. Tiếng An Nam của các tu sĩ Bồ tưởng đã bị bụi
thời gian phủ lấp, bỗng hồi sinh vào cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX. Lý do là
Thực dân Pháp một khi chiếm được Việt Nam nhất định triệt tiêu ảnh hưởng của
Tầu. Văn tự là một gốc rễ quan trọng của ảnh hưởng ấy, nên Pháp nhất định loại chữ Hán và chữ Nôm ra khỏi đời sống Việt Nam.
Nhanh
chóng và dể dàng Tây thay Hán tự bằng
Pháp văn. Vừa nắm được chính quyền ba tỉnh miền Đông (1862), họ tức thì đặt
một nền hành chánh trực trị có khuôn mẫu từ Pháp mang sang, với quan chức Pháp
trực tiếp cai trị dân bản xứ. Tất cả văn thư đều viết bằng Pháp văn, từ công
báo, giấy tờ hộ tịch, cho đến đơn từ của dân chúng và công văn các công sở...
Nhu cầu thông tin giữa quan chức Tây và nhân dân Việt được qiải quyết bằng
thông ngôn. Đến 1867 Pháp chiếm nốt ba tỉnh miền Tây, và toàn bộ Nam kỳ trở
thành nhượng địa Cochinchine. Dân chúng
Nam Kỳ không còn là con dân Triều Đình, và tiếng Pháp trở thành văn tự hành
chánh độc nhất.
Tiếp
theo là Trung kỳ và Bắc kỳ. Vì những lý do phức tạp, Pháp không cai trị vùng
đất cuối cùng của Triều đình như đã cai trị Nam kỳ. Họ để vua quan ta làm vì,
nhưng lập một đội ngũ công chức cao cấp Pháp ngồi bên trên cai trị tất cả từ
phủ toàn quyền tới tòa hành chánh tỉnh. Họ nắm thực quyền kể cả quyền trả lương
cho vua quan ta, nhưng mang danh xưng hiền lành là công sứ hay khâm sứ, tựa hồ
họ chỉ đóng vai đại diện ngoại giao hay cùng lắm cố vấn cho chánh quyền Việt
Nam. Nhưng quan Tây chỉ nói tiếng Tây là chuyện dĩ nhiên, và không kèn không
trống Hán tự biến mất khỏi đời sống hành chánh.
Pháp
thanh toán chữ Nôm song song với Hán tự. Thật ra Pháp dư biết chữ Nôm cần còn
phải thanh toán nhanh hơn. Nó là chữ viết mà cũng là tiếng nói của người Việt.
Hình dạng gần gũi với Hán tự, chữ Nôm
như cái gai trước mắt thực dân. Còn lối viết này ngày nào là thực dân còn chưa
yên tâm trong ý đồ tiêu diệt toàn bộ ảnh hưởng Tàu trên con người và văn hoá
Việt Nam.
Bắt
quần chúng thay đổi tiếng nói là chuyện vô cùng khó khăn chưa ai làm được, kể
cả những bạo chúa. Nhưng thay đổi chữ viết là chuyện trong tầm tay người Pháp,
nhất là các tu sĩ Bồ đã chế sẵn chữ An Nam từ hơn ba trăm năm trước. Tương kế tựu kế, thực dân lấy chữ An Nam
thay thế chữ Nôm.
Theo
nguyên tắc, tiếng An Nam của các tu sĩ Bồ thoả mãn tất cả chờ mong của Pháp.
Không còn liên hệ hình dáng cũng như nội dung với Hán tự, chữ An nam sẽ giúp
Pháp dứt khoát thanh toán ảnh hưởng văn hoá Trung quốc. Chút bất tiện nhỏ là
những từ điển tam ngữ sẵn có của các giáo sĩ dư thừa phần tiếng Bồ và tiếng
La-tanh. Giải pháp cũng dễ dàng, Pháp chỉ việc cho đội ngũ thông ngôn lấy sách
gốc cũ bỏ phần Bồ và La-tanh mà thay thế chữ Pháp vào.
Pháp
áp dụng chính sách dẹp bỏ chữ Nôm ngay khi mới chiếm được một nửa Nam Kỳ. Phải
công nhận sự siêng năng vượt bực của giáo chức Pháp tòng sự tại Soái phủ Nam Kỳ
bấy giờ. Ba tỉnh miền Đông cụ Phan [Thanh Giản – hoangnamgiao] mới mất cho Tây
năm 1862, thì trung tuần tháng tư năm 1865 tờ Gia Định Báo bằng chữ An Nam ra đời. Trong khoảng thời gian ba năm,
Pháp đã huấn luyện xong một quần chúng bản xứ đông đúc biết viết và đọc chữ An
Nam để đóng vai ban biên tập cũng như độc giả cho tờ báo.
Rồi
sách truyện bằng chữ An Nam nối đuôi theo báo chí xuất hiện. Trong khi lãnh thổ
còn lại của Triều đình vẫn dùng Hán tự và chữ Nôm, dân Nam kỳ bắt đầu tiêu
khiển với các truyện ngắn bằng tiếng An Nam như Người Buôn Ngọc, Thầy Lazaro
Phiền, Câu Chuyện Một Tối Của Người
Tân Hôn, vân vân... Báo chí và văn học bằng chữ An Nam vùng nhượng địa đi
trước Bắc Kỳ và Trung Kỳ cả mấy thập niên.
Từ
bàn đạp Nam Kỳ Pháp tiếp tục truy kích chữ Nôm tại vùng đất theo lý thuyết còn
thuộc Triều đình. Bằng áp lực từ mọi phía, Vua
Khải Định sau cùng hạ chiếu chính thức hoá và chính thống hoá văn tự An Nam mà
vua ban cho tên mới là Quốc ngữ (1918). Lúc này nhà Nguyễn đã mất thực
quyền từ lâu, từ hành chánh đến tài chánh, đến quốc phòng, đến ngoại giao, đến
lục lộ, đến canh nông, đến y tế, vân vân, và đến học chánh. Có lẽ học trò các
trường bảo hộ đã học Quốc ngữ từ trước cả lệnh vua.
Tiếng An Nam và Chữ Quốc Ngữ.
Hai
danh từ tiếng An Nam và chữ Quốc Ngữ thường bị dùng lẫn lộn với nhau. Sự lầm lẫn có lý do chính là cả
hai loại văn tự đều chung một bảng mẫu tự dựa trên bảng mẫu tự Bồ Đào Nha.
Nhưng sự giống nhau chấm dứt tại đây.
Tiếng
An Nam gồm 8000 từ phiên âm bởi các giáo sĩ Bồ và đã được sưu tập bởi Rhodes để
in trong từ điển DALeL. Tiếng An Nam có
công dụng giãi quyết nhu cầu nội bộ của nhà Dòng. Như đã nói chức năng của
nó là giúp cho các giáo sĩ từ Lisbonne mới qua một mớ ngữ vựng tối thiểu để
giao tiếp với dân bản xứ, và huấn luyện
giáo lý cơ bản cho tân tòng muốn theo đạo Chúa với những tài liệu trình độ
như Phép Giảng Tám Ngày của Rhodes.
Với
nhu cầu như vậy, xem ra vốn ngữ vựng của DALeL cũng đã đầy đủ. Gần bốn thế kỷ
sau, nhu cầu nội bộ của nhà Dòng Hà Nội về tiếng An Nam có lẽ không gia tăng,
nên ta không thấy một cuốn từ điển mới nào dày hơn ra đời. Nhu cầu cố định thì
ngữ vựng cũng cố định.
Tiếng Quốc ngữ là
tiếng Việt ngôn ngữ của dân tộc Viêt Nam viết theo mẫu tự Bồ. Trái lại tiếng
Việt tất nhiên có từ khi có nước Việt Nam. Nó phục vụ cho mọi nhu cầu của dân
tộc, từ giao tiếp hàng ngày, yêu thương vợ chồng, dậy dỗ con cái, sinh hoạt học
đường, văn chương thơ phú vân vân... Nó có một số ngữ vựng khổng lồ có thể diễn
tả được mọi ý nghĩ, mọi ý niệm, dù phức tạp hay tế nhị đến đâu. Nó có từ trước khi Tây tìm ra pho sách cổ
là cuốn từ điển Rhodes và quyết định dùng nó làm khởi điểm để thay thế chữ
Nôm.
Chỉ một truyện Kiều cũng đủ chứng tỏ
sự giàu có của tiếng Việt. Truyện
đủ ngữ vựng, đủ tinh tấn, đủ tế nhị, đủ hào hùng, đủ nên thơ để xử lý mọi tâm
cảnh. Viết bằng chữ Nôm hay viết bằng mẫu tự Bồ Đào Nha, sự việc cũng thế thôi.
Cái chân lý vẫn không đổi là Việt ngữ là một ngôn ngữ đã phát triển đến chỗ tinh
hoa dù viết bằng phương pháp nào. Nói cách khác, Quốc ngữ hay Việt ngữ có lịch
sử dài như lịch sử đất nước, chứa đựng tất cả văn hoá và văn minh Việt Nam.
Cái vốn 8000 chữ các cha Bồ để lại
có giúp gì cho Quốc ngữ không? Sự thật là không có bao nhiêu. Những từ quá cũ
sau ba bốn thế kỷ đã tự đào thải ra khỏi ngôn ngữ dân chúng. Nhiều từ khác cũng không dùng được vì đánh vần không
chuẩn, như Trời đánh vần thành Blời, Bậy đánh vần ra Vạy, vân
vân và vân vân. Chỉ cần đọc Phép Giảng
Tám Ngày của Rhodes ta thấy ngay vấn đề của 8000 từ các giáo sĩ đã phiên âm
và để lại. Tại sao các tu sĩ Bồ đã phiên âm không chuẩn? Lý do hiển nhiên là
phiên âm tùy thuộc rất nhiều khả năng nghe của nguời phiên âm. Nghe sai thì
đánh vần sai. Những tu sĩ Bồ dù học vấn uyên thâm cũng ít khi có cặp tai của
người bản xứ khi nghe tiếng Việt.
*
Khi mập mờ lẫn lộn Quốc ngữ với
tiếng An Nam của từ điển Rhodes, Pháp muốn ta hiểu lầm rằng tất cả ưu điểm của
Việt ngữ là nhờ phiên âm ra mẫu tự Bồ mà có. HIểu lầm như vậy, ta phải ơn
Rhodes vì ông là cha đẻ của Quốc ngữ.
Pháp vun đắp cho sự ngộ nhận bằng đủ mọi cách.
Hình
ảnh của Rhodes xuất hiện khắp nơi, từ bìa vở học trò cho đến con tem bưu điện...
Những hội ái hữu Việt Pháp treo những tấm chân dung vĩ đại của ông. Sách giáo
khoa bậc trung và tiểu học có những bài vô cùng kính phục và ưu ái, tri ân vị
giáo sĩ gốc Avignon đã tận tình chế tạo cho Việt Nam một văn tự thích nghi để
bước vào thời đại văn minh... Rhodes sau khi được Pháp tô điểm có thể sánh với
các thánh hiền thời tiền sử như Thần Nông, Nhân Diêm hay Sĩ Nhiếp...
Lập
luận tuyền truyền của Pháp không phải không có ảnh hưởng. Thời Cộng hòa của chính phủ miền Nam, ảnh Rhodes vẫn được in trên tem
bưu điện. Ngòai Bắc, tượng Rhodes dựng tại vườn hoa bờ hồ Hòan Kiếm bị dẹp
đi một thời gian, đến gần đây được phục hồi và đặt lại tại công viên cũ. Ta
phải phục khả năng thuyết phục của người Pháp, khi khá gần đây một hoạ sĩ Việt
Nam vẽ bức tranh lớn trình bày cảnh Rhodes đã thành thánh, ân cần đưa thi hài
cụ Nguyễn Văn Vĩnh vào thiên đường. Tôi không tin cụ Vĩnh muốn như vậy. Tất nhiên cụ đã qua đời trước khi
bức tranh được vẽ, và cụ không thể cải chính được sứ điệp của người hoạ sĩ xu
thời.
Sau
cùng là huyền thoại về Pháp tịch của
Alexandre de Rhodes. Huyền thoại này tóm
gọn tất cả những mập mờ về giáo sĩ thành một chủ đề, là Việt Nam nợ nước Pháp
một thánh nhân đã có công lớn mang lại văn tự và văn minh cho mình.
Nhưng
sự thật là sự thật, và trước khi sang đề tài khác, tôi xin tóm tắt những nhược
điểm chính của luận điệu thực dân:
1.
Alexandre de Rhodes không phài là người
Pháp. Cha ông gốc Tây Ban Nha và mẹ ông gốc Ý Đại Lợi. Thời Rhodes, sanh
quán Avignon của ông cũng không thuộc địa phận Pháp khi ông ra đời. Nhiều nhiều
năm sau, Avignon mới sát nhập với Pháp.
2.
Alexandre de Rhodes không phải là người
có sáng kiến lấy mẫu tự Bồ để phiên âm chữ Nôm. Khi ông tới Việt Nam thì
nhà dòng Hà Nội đã phiên âm tiếng Việt từ lâu. Chính họ đã vỡ lòng Rhodes về
tiếng Việt phiên âm bằng mẫu tự Bồ của họ.
3.
Cuốn từ điển của Alexandre de Rhodes là một sưu tập từ ngữ không mấy hữu dụng. Như đã nói, không kể sự già cỗi bắt buộc
sau hơn ba thế kỷ đông lạnh, một phần không nhỏ của 8000 từ sưu tập bị đánh vần
không chuẩn. Các tu sĩ Bồ dù sao cũng là người ngoại quốc, nên tai nghe chỉ
chính xác đến mức tương đối.
4.
Cuốn Phép Giảng Tám Ngày phản ánh sự giới hạn kiến thức trầm trọng của Rhodes
về văn hoá, triết học, và tôn giáo Đông phương nói chung và Việt Nam nói riêng.
Phát biểu một cách bừa bãi (Chương 4, các Đạo
Vạy), sách cũng phản ánh sự coi
thường nước chủ nhà của tác giả. Đây là sự hỗn hợp đáng tiếc của sự khiếm khuyết kiến thức trầm trọng với cung
cách phát biểu bất nhã và thô bạo. Nó nguy hiểm cho liên hệ hài hòa giữa
Lương với Giáo, và gây ra một hình ảnh bất lợi cho nhà thờ Thiên Chúa giáo, nơi
tôi có nhiều thầy cũng như bạn.
*
Vậy
thì ta nên ơn ai hay ơn cái gì? Không phải bỗng dưng trên trời rơi xuống
mà ta có được chữ Quốc ngữ. Tôi nghĩ ta phải cảm ơn các giáo sĩ Bồ đã chế tạo
cho ta một mẫu tự rút ra từ mẫu tự của họ. Dù họ đi khỏi Việt Nam đã mấy thế
kỷ, các nhà từ điển Việt nam vẫn có thể tiếp tục phiên âm một mình bằng cách
dùng bảng mẫu tự này mà đánh vần. Không có một bảng mẫu tự nào khác trên thế giới
có thể đóng góp như vậy cho chúng ta.
Cái
kỳ diệu của bản mẫu tự này là mặc dù đã có hàng chục người việt Nam làm từ
điển, mà kết quả kể như vẫn tương đối nhất quán. Khác nhau chút đỉnh từ người
này sang người khác vì cách phát âm địa phương, nhưng tựu trung vẫn là tiếng
Việt, không ngô ngọng như mớ từ An Nam của từ điển Rhodes.
Vấn
đề còn lại là một ngày nào đó, một viện hàn lâm Việt Nam sẽ xét lại mỗi từ Việt
Nam, để hoàn tất toàn bộ chính tả theo một số quy ước chung được mọi người đón
nhận trong tinh thần yêu thương dân tộc. Một công cuộc như vậy không phải là
không làm được.
Nhu
cầu tương lai. Sau cùng tôi có vài suy ngẫm phát xuất từ sự thiếu thông tin bản
thân về nguồn gốc tiếng Quốc Ngữ. Có lẽ trong tương lai càng gần càng tốt,
chương trình giáo dục tại cấp tú tài hay dự bị đại học nên có ít nhất trong các
lớp chuyên về nhân văn một số giờ tối thiểu về ngôn ngữ và văn hoá Bồ Đào Nha,
mà bản mẫu tự đã là chìa khoá để phiên âm chữ Nôm ra Quốc ngữ trong dạng thức
Việt ngữ hiện tại.
Một
số giờ tối thiểu cũng nên dành cho các tu sĩ Dòng Tên đã tiên phong trong việc
La-tanh hoá chữ Việt như Francisco de Pena, Antonio Barbosa, Gaspar do Amaral,
và sau cùng như Alexandre de Rhodes. Với họ, và đặc biệt với tu sĩ Rhodes, ta cần một cái nhìn mới dưới ánh sáng khoa học
thuần túy, thay vì xu hướng thần thánh hoá nặng ý đồ tư lợi của chánh quyền Bảo
Hộ trong quá khứ, hay xu hướng khắt khe về sau của một vài học giả quốc gia mà
lòng căm phẫn chưa nguôi vì những tội ác cũ của thực dân.
Sau
cùng, ta cũng không nên quên những người Việt đã cộng tác với các giáo sĩ Bồ
trong công trình La-tanh hoá chữ Nôm. Họ là ai, cuộc sống như thế nào, tương
quan với các tu sĩ ngoại quốc như thế nào, ta hòan tòan không biết hay chưa
biết thấu đáo. Ta chỉ biết họ phần đông là giáo dân, đúng đắn thấy được giá trị
tâm linh của đạo Chúa để gửi đức tin, mặc dù sự cấm đạo không sáng suốt của vua
quan ta bấy giờ, cũng như sự cẩu thả của những văn bản như Phép Giảng Tám Ngày của Rhodes.
Cuộc
đời của mỗi đồng bào ruột thịt ấy là một cuốn tiểu thuyết về thân phận con
người giằng co giữa những thử thách của đức tin, lương tâm, xã hội và lịch sử.
Là dân bản xứ phục vụ trong cơ sở ngoại nhân, họ bị coi như nhân viên phụ thuộc
trong công tác ngữ học của các giáo sĩ. Vậy mà trong mỗi ê-kíp phiên âm Bồ
Việt, với mỗi chữ Nôm được đem ra đánh vần, tôi không ngạc nhiên nếu họ hiểu rõ
ý nghĩa hơn, nghe và phát âm chuẩn hơn, so với đối tác ngoại quốc. Vì sự lãng
quên của hòan cảnh, tên tuổi họ chưa được truy nguyên rõ ràng và công lao của
họ chưa được ghi nhận đúng mức. Đã đến lúc trả cho César cái gì của César, và
một Đại học Ngôn Ngữ chân chính phải tìm hiểu cho rõ danh tánh cũng như công
lao của những người Việt tiên phong trong công cuộc phiên âm chữ Nôm ra vần
La-tanh.
Tôi
có bệnh lạc quan kinh niên và những ước vọng không mệt mỏi cho tương lai Việt
ngữ. Tôi thấy trong tương lai gần một trường cao đẳng ngôn ngữ quốc gia được
thành lập. Trường có một đội ngũ học giả có khả năng quốc tế, chuyên về những
vấn đề liên quan đến tiếng Việt trước cũng như sau Quốc ngữ.
Nhìn
trong khuôn khổ hẹp của bài này, cơ sở ấy sẽ đánh giá bằng cái nhìn phi chính
trị, phi cảm tính, và nếu cần phi hận thù, phần công lao của các nhà tiền phong
Việt cũng như Bồ hay Pháp trong việc La-tanh hoá chữ Nôm...
Nhìn
rộng ra thì cơ sở ấy sẽ là điểm phát xuất những trao đổi lưỡng lợi và
rộng rãi với các cơ sở quốc tế như Trường Ngôn Ngữ Á Đông của Pháp hay
một cơ sở tương đương của Bồ Đào Nha, hay văn khố Hội Truyền Giáo Paris cũng
như văn khố giáo hội Lisbonne... Những luận án giá trị do sự cố gắng quốc gia
hay sự cộng tác quốc tế sẽ ra đời, về những tác phẩm đầu tiên viết bằng Quốc
ngữ tại vùng thuộc địa Nam Kỳ hay vùng Bảo Hộ Trung và Bắc Kỳ, về những suy
ngẫm đối chiếu hai ngôn ngữ Bồ Việt, từ ngữ vựng tới văn phạm, từ sự giống nhau
hay khác nhau của linh hồn hai dân tộc qua tiếng nói, về chuyện lợi lạc của
Quốc ngữ trong việc chống nạn mù chữ, hay chuyện thiệt thòi vì bỏ chữ Nôm mà
mất liên lạc với văn học Tàu cùng với kho tàng dịch thuật đồ sộ người Tàu đã
thực hiện từ cuối nhà Thanh tiếp nối bởi chế độ Dân Quốc cho đến bây giờ... Đó
là những bông hoa sẽ nở trong vườn văn học và nhân văn đất nước.
Mai
Kim Ngọc
(Phần
nhấn mạnh – in bold – là của
hoangnamgiao)
Thượng thư Phạm quỳnh viết 1 bên chữ Hán, 1 Bên chữ Pháp(Anh) thế mà ta lại có 1 chữ Việt La Bồ để cho dân tộc cái tinh túy là người giỏi học 1 tháng là xong, Người rốt 1 năm cũng xong trong khi 20 tuổi mưới nhó được 2.000 chữ Hán đã là giỏi( Thượng chi văn tập) ---- Cách mangh tháng 8 thành công Cụ Hồ diệt giác dốt chỉ 3 tháng đã cơ bản xóa xong 90% số dân không biết chữ sau đó tổng tuyển cử duy nhất duy nhất trên thế giới!!!!!
Trả lờiXóa