Chủ Nhật, 4 tháng 8, 2019



MỘT KHUYNH HƯỚNG PHI DÂN TỘC

Lý Nguyên Diệu


Tạp chí Free Inquiry số tháng 6&7 năm 2019 có 1 bài tiểu luận với tựa đề “Why Do Fundamentalists Lie about the Bible” (“Vì Sao Con Chiên Cuồng Tín Giáo Điều Nói Láo về Kinh Thánh”) của Giáo sư Tiến sĩ Tâm lý học Brian Bolton. Bài viết dài 8 trang nầy phân tích những lý do vì sao các con chiên cực đoan nói láo, họ nói láo như thế nào và nói láo về những chuyện gì trong Kinh Thánh. Cuối bài là một danh sách tóm lược 10 chủ đề nói láo của các con chiên đạo Thiên Chúa theo chủ nghĩa giáo điều. Trong danh sách nầy, một chủ đề đáng chú ý là chuyện Kinh Thánh chấp nhận và yểm trợ chế độ nô lệ đã được Giáo sư B. Bolton viết / tạm dịch như sau (xem nguyên bản tiếng Anh sau phần Việt dịch):


Hình bìa Tạp chí Free Inquiry, Volume 39, No. 4 – June/July 2019.

Tán Trợ Chế Độ Nô Lệ

Giáo Đoàn Báp-tít Miền Nam (Southern Baptist Convention) là giáo phái cuồng tín giáo điều lớn nhất của Mỹ được thành lập năm 1845. Để bênh vực chế độ nô lệ, họ tự biện minh bằng cách đưa ra rằng [chế độ nô lệ được] sự chấp thuận của Thánh Kinh, vì nền kinh tế đồn điền của con chiên Báp-tít trong chín tiểu bang miền Nam nước Mỹ  hoàn toàn lệ thuộc vào chế độ nô lệ. Vấn đề nầy cũng liên hệ đến chuyện tranh cãi nên giữ hay phá các tượng đài tưởng niệm Liên quân miền Nam [ủng hộ chế độ nô lệ trong cuộc Nội Chiến năm 1861/65 – lnd] và sự nổi dậy của chính sách thượng tôn da trắng [của Tổng thống Donald Trump – lnd].
Thực tế là Thánh Kinh của Thiên Chúa giáo và Do Thái giáo có thiện cảm và ủng hộ chế độ nô lệ. Vì vậy mà một số chủ nô đã tố các con chiên chống lại chế độ nô lệ là kháng cự ý muốn của Thượng Đế. Cách thức đặc biệt hữu hiệu của những người sùng bái Kinh Thánh là họ trích ra từ trong Kinh Thánh những chuẩn nhận hùng hồn của ba nhân vật hàng đầu trong Thiên Chúa giáo: Giê-su, Thánh Phao-lồ và Thánh Phê-rô.

Có tám dụ ngôn của Giê-su cho thấy rõ ràng là ông đã chấp thuận chế độ nô lệ khi ông nói về những chủ nhân và những đầy tớ. Giê-su không bao giờ chỉ trích hay lên án chế độ nô lệ và cũng không cấm chuyện sở hữu nô lệ thì coi như ông đồng ý chuyện nầy trên nguyên tắc. Trong  một dụ ngôn, Giê-su còn chấp thuận rõ ràng mối liên hệ tàn khốc giữa chủ nhân và nô lệ khi ông khuyên nên đánh đập nô lệ nào không vâng lời chủ.
Năm trong tám dụ ngôn nầy đã nổi bật tính cực kỳ hung bạo qua hành động giết người, phân thây xẻ thịt người. Trong những dụ ngôn kinh khủng đó, vai chánh là chủ nhân hoặc là Giê-su, con của chủ nhân. Và chủ đề chính của những dụ ngôn đó là kẻ nào không vâng lời chủ nhân hoặc không nhận chủ nhân Giê-su là Đấng Cứu Thế thì sẽ bị trừng phạt hành hạ đời đời trong địa ngục.
Giê-su cho phép chủ nhân trừng phạt các nô lệ bằng cách đặt ra các chức năng thần thánh của Thiên Chúa Gíáo để biện minh cho sự đánh đập các nô lệ da đen trong các tiểu bang miền Nam nước Mỹ. Giê-su cũng chấp thuận điều lệ về các chủ nô lệ trong chương 21 của Exodus (sách thứ hai của Kinh Cựu Ước - lnd). Ngoài ra, hai phép lạ của Giê-su có liên hệ đến nô lệ là việc chữa lành một đầy tớ của một chiến sĩ và việc tái tạo lỗ tai của thằng bé nô lệ tên Malchus.

Trong Sứ Đồ Thư Ca (Epistles), Thánh Phao-lồ ra lệnh nô lệ phải vâng lời chủ nô một cách kính sợ mọi chuyện như họ phải vâng lời Giê-su. Nếu họ vâng lời như vậy thì đời sau sẽ được ban thưởng. Thánh Phê-rô nhấn mạnh niềm tin Thiên Chúa và nổi khiếp sợ Thượng Đế buộc nô lệ phải phục tòng chủ nhân dù có bị đối xử tàn nhẫn đến mức nào. Vị Thánh này nói nô lệ sẽ đáng được khen nếu chịu đựng được những khổ nạn bất công do ý của Thượng Đế.”

Dưới đây là nguyên văn bản tiếng Anh:
Slavery Endorsement
The largest fundamentalist denomination in the United States, the Southern Baptist Convention, formed in 1845 because Baptists in nine southern states justified slavery by pointing out that scripture sanctions the institution upon which the plantation economy depended completely. The issue has contemporary implications for the Confederate memorial controversies and the resurgence of white supremacy politics.
It is a fact that both the Hebrew and Christian Testaments are sympathetic and supportive of slavery. For this reason, some southern slave owners argued that Christian abolitionists were defying God’s will by opposing slavery. Of special relevance for bibliolatrists is the strong authorization of slavery in the statements of the Bible’s three leading Christian figures: Jesus, Paul, and Peter.

Jesus’s approval of slavery is readily apparent in his inclusion of servants and their masters in eight of his parables. Because he never criticized or condemned slavery and did not forbid people from owning slaves, he tacitly endorsed the practice. In one of these parables, he explicitly authorized the cruel master-slave relationship when he recommended whipping disobedient slaves.
Five of the eight parables are noted for their extreme violence through murder, killing, or maiming. The central figure of the master or the son is Jesus himself, and the consistent theme in these violent stories is that those who disobey Jesus or reject him as Messiah will be punished with unending torture in hell.
Jesus granted authority to slave owners to discipline their slaves, establishing the divine Christian mandate used to justify the beatings of black slaves in southern states. Jesus also approved of the rules of slave owners in chapter 21 of Exodus. Further, two of his miracles involved slaves: the healing of the centurion’s servant and the restoration of the slave boy Malchus’s ear.

In the Epistles, Paul decreed that slaves should obey their masters with respect and fear in everything, just as they would obey Jesus. And for their obedience they will be rewarded in the next life. The apostle Peter emphasized that slaves are obligated by Christian faith and fear of God to submit to their owners, no matter how brutal. He said that it is commendable when slaves endure unjust suffering that is willed by God.

Đọc xong đoạn nầy ta không khỏi thương cảm cho thân phận khốn khổ của những nạn nhân Phi Châu nô lệ trong nền văn minh Thiên Chúa Giáo của Tây phương. Nhưng một tôn giáo hiện hữu được hơn 2000 năm thì cũng phải biết tự chữa những khiếm khuyết. Để chống đối các con chiên chủ nô trong chế độ nô lệ đó, những con chiên có lương tâm đã đem lòng bác ái và quyền năng vô biên của Chúa, của Thánh Phao-lồ, ... trong cố gắng giải phóng nô lệ. Hai phe chống nhau kịch liệt đến mức làm bùng phát cuộc Nội chiến Bắc-Nam dài 5 năm trên nước Mỹ. Vậy thì phe nào nắm chân lý và phe nào dối trá?

Phía những người chủ nô da trắng, họ không chỉ núp sau Giê-su và Kinh Thánh mà còn đưa ra một lý luận cực kỳ xuẩn động: “Dầu sao qua Mỹ họ cũng còn sướng hơn ở Phi Châu”. Chẳng hạn như sức khoẻ được các bác sĩ chăm sóc trong các nhà thương mà Phi Châu thời ấy hầu như không có. Ngay cả con cái của người nô lệ cũng được chích ngừa các bệnh dịch. Quả là các chủ nhân có lo cho sức khoẻ của người nô lệ. Quả là họ có xây nhà thương cho người nô lệ (144 nhà thương trên toàn nước Mỹ năm 1944).

Với người Việt Nam thì điều nầy không khác chi bác nông dân phải lo cho sức khoẻ của con trâu mà bác ta đã bỏ tiền ra mua. Một ngày trâu bị bệnh không ra ngoài đồng là một ngày ruộng không được cày. Vậy, phải lo cho trâu được ăn, phải lo cho trâu được mạnh khoẻ, phải gọi bác sĩ thú ý đến khám bệnh cho trâu.

Đó là sự thực tàn nhẫn về thâm tâm của người Mỹ da trắng khi họ lo cho sức khoẻ của người nô lệ da đen mà họ đã mua. Sẽ dễ hiểu hơn nếu ta phóng chiếu sự thực đó lớn ra trong kích thước toàn cầu và theo dõi thời sự gần đây nhất để thấy một cách hiển nhiên dự án liên lục địa vĩ đại  “Con Đường Tơ Lụa“ (Nhất Đới Nhất Lộ) của chủ tịch Tập Cận Bình  (hãy xem phóng sự: https://www.youtube.com/watch?reload=9&v=FuhUo7Tt7Hc ) cũng nằm gọn trong tinh thần “lo lắng cho nô lệ” đó. Thấy được như vậy thì khỏi phải bàn cãi chuyện dân Tây Tạng, dân Hồi giáo, và cả dân Thổ Nhĩ Kỳ, dân Ý, dân Pháp có nên ghi nhớ công ơn, lao lực, chi phí làm đường, xây cầu của đảng Cộng sản Tàu từ Bắc Kinh đến Luân Đôn.

Vậy mà trong vài năm gần đây, trong cộng đồng người Việt xử dụng Internet lại hiện ra dưới nhiều hình thức khác nhau một khuynh hướng khá đồng nhất trong mưu toan tuyên truyền để biện hộ cho sự trở lại Việt Nam của thời kỳ đầu thế kỷ 20 khi thực dân Pháp và đạo Thiên Chúa của họ thống trị toàn cõi Việt-Miên-Lào. Cũng như những ngừơi da trắng miền Nam nước Mỹ, khuynh hướng nầy được biện minh bằng lý luận “Tây thực dân cũng lo cho dân thuộc địa” qua những video về Sài Gòn những năm 1950, nhà thương Đồn Đất, cầu Long Biên Hà Nội, nhà thờ Đức Bà ngạo nghễ vươn cao trước Bưu Điện Sài Gòn, ... Đi xa hơn nữa, ngay cả trong những video có Khánh Ly hát nhạc Trịnh Công Sơn, những người Việt Nam thân Tây của khuynh hướng nầy cũng nhét vào hình ảnh nhà thờ Đức Bà trong cố gắng thay thế biểu tượng cũ của Sài Gòn là Lăng Ông (Lê Văn Duyệt). Bên cạnh còn có những loạt tài liệu về các dinh thự cũ, nhà ga Đà Lạt, Toà Đô Chánh  của thời Tây đô hộ với thông điệp ngầm “người Pháp cũng xây dựng cho Việt Nam các công thự, đường xe lửa, cầu cống, ...”. Thật u mê không khác gì chuyện  dân nô lệ gốc Phi Châu cám ơn chủ nhân Mỹ trắng đã xây nhà thương chăm sóc họ.
Nhưng tinh vi và hiểm độc hơn cả là khuynh hướng vinh danh cái gọi là “công ơn” cố đạo Pháp (Alexandre de Rhodes, nhưng thật ra là Linh mục Bồ Đào Nha Francisco de Pina mới đúng lịch sử) đã “phát minh ra chữ quốc ngữ” dù chính các “Linh mục học giả” Công giáo Việt Nam thừa biết rằng các cố đạo Tây chỉ tạo ra những chử cái Latinh đó để dễ dàng giảng đạo (cho các con chiên của họ) và được Thực dân Pháp tận dụng như một công cụ để tiêu diệt nền văn hóa bản địa, đồng thời để cũng cố bộ máy hành chính đô hộ của chính quyền thuộc địa mà thôi. Tuy được sự tiếp tay đắc lực của những con chiên bản địa cuồng tín (như Nguyễn Trường Tộ, Trương Vĩnh Ký, …) nhưng cũng may mà sĩ phu và các nhà ái quốc nước ta đã biết dùng “gậy ông đập lưng ông”, vận dụng thứ chữ Latinh đó để “khai dân trí”, sáng tác và phổ biến những công trình tri thức, khơi dậy lòng yêu nước và tinh thần chống xâm lăng (Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Lương Văn Can, Nguyễn Đình Chiểu, Lý Đông A, Huỳnh Phú Sổ…) trong công cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.  

Rõ ràng là những người-Việt-gốc-Tây-thuộc-địa nầy vì niềm tin tôn giáo cuồng tín mà đánh mất hết trí tuệ và lòng yêu nước. Họ có biết hay không là họ đang bán linh hồn để được làm kiếp nô lệ cho ngoại bang? Điều đáng quan ngại là bên ngoài thì họ vẫn hô hào Tự do, Dân chủ, Nhân quyền, làm cho cuộc tranh đấu thường trực cho những giá trị nầy mất đi chính nghĩa trong sáng. Làm sao mà có chính nghĩa khi lẫn lộn với những thành phần muốn trở về thời kỳ người Việt kéo xe cho ông Tây, bà Đầm đi lễ nhà thờ có lính Tây canh gác?


Trong lúc toàn dân tham gia kháng Pháp và bị tra khảo tù đày (Ảnh: Các nam nữ nghĩa quân bị gông cùm sau khi chiến khu Ba Đình của anh hùng Đinh Công Tráng bị thất thủ năm 1887. Đại tá Pháp Brìsand thống lĩnh 3 nghìn quân Pháp và gần 5 nghìn giáo dân Việt do Linh mục Trần Lục huy động để tham gia trận đánh nầy)….
… thì vẫn có một bộ phận những người Việt Nam bị tiêm nhiễm tinh thần nô lệ của Kinh Thánh Thiên Chúa giáo, nên xem việc dân ta làm culi kéo xe cho “ông Tây” và lính Pháp bảo vệ cho “bà đầm” đi nhà thờ là chuyện … văn minh phải mang ơn! 

Bài nầy bắt đầu bằng chế độ nô lệ và đạo Thiên Chúa, một vết nhơ của văn minh Tây Phương như ta vẫn thường nói huy chương nào cũng có mặt trái. Bài nầy xin kết thúc bằng một lời khuyên nhủ (viết từ năm 1946 trong thời kỳ thuộc địa) của một người Việt đã từng sống đời lưu vong trên đất Tây phương, với hy vọng sẽ làm những người phi dân tộc sáng mắt mà nhìn thấy chính đạo để quay về với quê hương, dân tộc:    
"Hin nay, bn thy Tây phương đắc thng, chiếm địa v ti thượng, hãnh din vi thế gii. V quân s, v kinh tế, v chính tr, Tây phương là tt c. Bn cho Tây phương là cái gương duy nht, ri bn toan nêu cái "văn hóa" Tây phương làm văn hóa Vit Nam.
Tôi van bn. Tôi ước mong bn xây đắp riêng cho Vit Nam mt nn văn hóa rc r, để trình trước Đại hi đồng nhân loi làm s nghip ca mình." (trang 39)
[Trích từ: “Tương lai Văn hoá Việt Nam” của Hồ Hữu Tường (Nhà xb: Hu Minh, 1965)].

Lý Nguyên Diệu
8/2019

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét