HÒA
THƯỢNG THÍCH QUẢNG ĐỨC,
BIỂU TƯỢNG VỀ TINH THẦN DÂN
TỘC VÀ ĐẠO PHÁP
PGS
TS Trần Hồng Liên
Đã hơn nửa thế kỷ đã trôi qua kể từ ngày Hoà thượng Thích
Quảng Đức vị pháp thiêu thân. Nhưng ngọn lửa của tinh thần đấu tranh cho Đạo
pháp và cho Dân tộc của Hòa thượng như vẫn còn cháy mãi! Nhân dân trên
thế giới và Việt Nam, những người con Phật cũng như những người không theo
đạo đều như bùi ngùi nhớ lại hình ảnh ngọn đuốc rực cháy trên thân thể
Người vào năm 1963 ấy. Điều gì đã làm nên sự kỳ diệu đó ? Đây có phải chỉ
là những phản ứng chống lại sự kỳ thị về tôn giáo của một chế độ độc tài?
Có phải đó chỉ là “tiếng nói” thay cho những đòi hỏi về một sự công bằng trong
chính sách đối với các tôn giáo?? Tìm hiểu những câu hỏi trên chính là
nêu lên được những đóng góp lớn lao, những ý nghĩa sâu sắc từ hành động vì đạo
pháp và cho dân tộc của Hoà thượng Thích Quảng Đức; cũng chính là
góp phần chỉ ra được bản sắc của dân tộc Việt Nam và của Phật giáo Việt
Nam.
1.
Trở lại với thời điểm sôi động của đất nước năm 1963, từ nguyên cớ hạ cờ Phật
giáo của chế độ độc tài Ngô Đình Diệm ở Huế để thấy rõ một điều rằng sự độc
đoán, tính đố kỵ và lòng vị kỷ của những người cầm đầu chế độ ấy đã lên đến
đỉnh điểm. Việc hạ cờ Phật giáo chỉ là một hành động cuối cùng, là điểm nút
cuối cùng để bộc lộ hết tính vị kỷ, chấp chặt lấy đạo pháp
của một chế độ ! Chính sự chấp pháp ấy đã đưa đẩy chế độ độc tài Ngô Đình Diệm
mau chóng bị kết thúc từ những hành động mù quáng của mình.
Ngô Đình Diệm, với chính sách phân biệt đối xử, xem
đạo của mình mới thật là đạo, được ban cho đặc quyền, đặc lợi. Còn các đạo
khác, dù có lịch sử 2.000 năm , dù có hàng chục triệu tín đồ, vẩn bị
khinh miệt! Với Đạo dụ 10, sự phẩn uất của Tăng Ni, Phật tử càng lên cao. Chính
quyền đã đàn áp Phật giáo bằng những phương tiện quân sự và phương pháp tàn
bạo. Hàng chục Tăng Ni Phật tử, rồi đến hàng trăm Tăng Ni sau
đó bị bắt bớ và bị giết hại. Ngọn sóng đàn áp cứ thế mà ngày càng bùng lên mạnh
mẽ. Người dân sống ở Huế vào năm 1963 không thể quên được hình ảnh thảm
khốc từ những chiếc xe tăng của Diệm càn lên những người có đạo vô tội. Máu đã
đổ và hận thù như đã siết chặt thêm. Những người con Phật dùng vũ
khí từ tinh thần Bi -Trí -Dũng để chống trả! Trước những đàn
áp bạo tàn và khốc liệt, những người con Phật đã sử dụng thế Nhu của mình để chống trả lại thế Cương của chế độ Diệm . Lấy thân mình
thay cho tiếng nói cảnh tỉnh, như những gáo nước lạnh dội vào ngọn lửa
của sự thù hận và vô minh. Những ngọn đuốc được đốt lên từ thân thể, hình
hài của mỗi người con Phật như từng ngọn đèn thắp sáng,
soi rọi tận cùng vào sâu thẳm tâm hồn đen tối, độc tài của một chế độ. Và
cứ thế liên tục, hết người này đến người khác…sao cho đến một ngày hành động vị
pháp thiêu thân ấy đã trở thành một tiếng gọi vang vọng, làm rúng động lương
tri của những người yêu chuộng hoà bình trên thế giới. Đỉnh điểm ấy, ngọn sóng
trào dâng tột đỉnh ấy chính là hành động tự thiêu của Hoà thượng Thích Quảng
Đức, là tiếng chuông vang vọng ngân xa, lan tỏa ra ngoài phạm vi một quốc
gia và trở thành bất diệt.
2.
Hoà thượng Thích Quảng Đức, tên đời là Lâm Văn Tuấn, quê ở Khánh
Hoà, hoà thượng đã trụ trì chùa Quán Thế Âm trước khi tự thiêu. Trước tình thế
Phật giáo đồ bị sát hại thảm khốc, đã phát lời đại nguyện rằng: “ Nhận thấy Phật giáo nước nhà đương lúc ngửa
nghiêng, tôi là một tu sĩ, mệnh danh là trưởng tử của Như Lai không lẽ cứ ngồi
điềm nhiên tọa thị để Phật pháp tiêu vong, nên tôi vui lòng phát nguyện thiêu
thân giả tạm này cúng dường chư Phật để hồi hướng công đức bảo tồn Phật
giáo…Cầu nguyện cho đất nước thanh bình, quốc dân an lạc” ( Lời nguyện tâm
huyết, Tỳ kheo Thích Quảng Đức) .
Từ nhận thức được nung nấu sau bao cơn đàn áp bạo tàn của
Diệm, Hoà thượng Quảng Đức, đã viết : là
trưởng tử của Như Lai, được thấm nhuần lẽ đạo, nên không thể ngồi
yên. Hoà thượng hiểu rõ rằng, với một chế độ độc tài như vậy,
với những con người có hành động thiếu đạo đức và không có nhân bản như vậy,
đất nước sẽ không thể yên, lòng dân sẽ không thể được bình ổn, an lạc và đạo
pháp sẽ không thể được bảo tồn ! Vì vậy, thực hành lời nói ấy, quyết đem lại
một sự cảnh tỉnh lớn lao, làm thay đổi nhận thức con người, từ vô minh
đến giác ngộ, phải bằng việc hy sinh chính bản thân mình. Lấy sự xả thân, tinh
thần vô uý thí để đối lập lại cường quyền, bạo lực. Làm được điều
đó, thực hành được suy nghĩ trên, đó là điều không dễ dàng, không phải ai cũng
làm được. Do đâu Hoà thượng Quảng Đức có được quyết tâm đó?
3.
Trả lời câu hỏi trên chính là đi tìm lại cội nguồn của tinh thần dân tộc. Là
người dân Việt, không ai không yêu nước. Tinh thần yêu nước này ngày càng
được nhân lên cao hơn chính từ những cuộc ngoại xâm . Những người dân
nước Việt đã qua thử thách trước nguy cơ xâm lược, từ đó tinh thần yêu nước
càng như được củng cố. Tinh thần ấy còn được nhiều tấm gương trong lịch
sử in đậm thêm qua quá trình đấu tranh dựng nước, giữ nước. Từ đó,
hình ảnh của người dân ra biên cương chống giặc khi có ngoại xâm là hình
ảnh đẹp đẽ, được lập đi lập lại trong suốt chiều dài lịch sử Việt Nam, không
loại trừ những người theo đạo Phật , với tư tưởng nhập thế, cứu đời, giúp đời.
Không phải ngẫu nhiên mà có được một Hoà thượng Thích Quảng Đức của thế kỷ XX,
bởi vì đã có trong lịch sử hàng trăm năm trước , những thiền sư Vạn Hạnh,
Khuông Việt….đã biết đem tinh thần Phật pháp ra áp dụng vào đời sống hàng ngày.
Những tấm gương sáng ấy chính là bài học muôn đời về tinh thần yêu nước của dân
tộc Việt Nam , là sự thể hiện việc đem đạo vào đời, là tinh thần nhập thế của
Phật giáo Việt Nam. Nó được nhân rộng, kế thừa và tiếp nối
liên tục từ thế hệ này sang thế hệ khác. Vì vậy không phải ngẫu
nhiên mà có được những con người biết hy sinh thân mệnh mình cho đạo pháp , cho
dân tộc.
Mặt khác, còn chính trên cơ sở của dòng Phật giáo
Việt Nam, nổi bật từ thời các vua nhà Lý , nhà Trần…. đã biết đem thập
thiện đến từng gia đình, đã biết cụ thể hoá giáo lý nhà Phật trong điều kiện
đất nước Việt Nam, đã bằng chính hành động từ bỏ ngai vàng, danh lợi và
những ham muốn vị kỷ cá nhân để trao truyền cho những Thiền sư Việt Nam
một tinh thần xã thân cao quý . Tuỳ từng thời điểm lịch sử, tuỳ vào những
điều kiện, hoàn cảnh khác nhau mà các Thiền sư đã có những ứng xử khác
nhau, những cống hiến cho Đạo pháp và cho Dân tộc khác nhau. Nhưng trên hết ,
vẫn là lòng yêu nước nồng nàn, là tình yêu thương nhân dân sâu
đậm…Tình thương đó, lòng yêu người đó đã tạo thành, đã giúp phát khởi nên
một quyết tâm cao độ, một đại nguyện vang lừng, đó là tinh thần vô uý
thí.
Chính từ sự dâng hiến tất cả, không loại trừ ngay cả bản
thân mình, của những thiền sư trong lịch sử và của Hoà thượng Quảng Đức ở
thế kỷ XX đã làm cho sự cống hiến ấy trở thành bất tử, bởi vì một khi đã
cho đi hết thì sẽ nhận được tất cả!
4. Bài học về tinh thần xã thân này, được đưa ra
trong giai đoạn đạo pháp đang bị chia rẽ, đất nước đang bị ngoại xâm….càng có
một ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Cái chết của Hoà thượng không chỉ nhằm cảnh
tỉnh những người trong chế độ độc tài nhà Ngô, mà sâu sắc và lớn lao hơn,
nó còn mang ý nghĩa thời đại. Đó còn là tiếng chuông tỉnh
thức cho những người con Phật còn đang thờ ơ trước sự hưng vong của đạo pháp,
của quốc gia … kêu gọi họ cần nhanh chóng đoàn kết lại, một lòng chung sức cứu
lấy nước nhà. Bởi vì tổ quốc còn, đạo pháp mới có thể còn tồn tại được! Đánh
giá cao về hành động tự thiêu của Hoà thượng Quảng Đức, GS. Trần Văn Giàu
đã cho rằng: “ Đó là một hành động
chống chiến tranh, là hành động bảo vệ hoà bình, vì Hoà bình mà hi sinh (…) nhà
sư là một người yêu nước, Quảng Đức yêu nước theo phong cách một nhà sư”
[Trần Văn Giàu: Thích Quảng Đức. Tập Văn số 7, 1987, ban VHTW
GHPGVN xb, tr. 30.].
5.
Tìm hiểu về hành động “Vị pháp thiêu thân” của Hoà thượng Quảng Đức còn
là nhằm nêu lên bài học có giá trị lịch sử , có ý nghĩa thực
tiễn lớn lao. Qua cái chết của hòa thượng đã góp phần khơi gợi trong tư
duy của nhân dân thế giới, những ngườøi yêu chuộng hoà bình, suy nghĩ kỹ hơn về
giá trị đích thực của một đời người. Đó không phải là tính ham
sống, sợ chết ; không phải là lòng vị kỷ, độc tài, ham chuộng bạo lực…mà điều
vi diệu trong cuộc sống, tạo nên giá trị vĩnh hằng, chân lý tối thượng …chính
là tình thương, là lòng dũng cảm, là sự hy sinh cho những điều lớn lao , cao
cả, là quyền lợi và sự sống còn của dân tộc, của đất nước, của đạo pháp….Bài
học ấy mãi mãi sẽ còn nguyên giá trị , vì nhân dân thế giới đã có được hình ảnh
xác thực qua cái chết của hoà thượng , một dấu ấn sâu đậm về con người Việt Nam
biết hy sinh cho nghĩa cả, về một đất nước Việt Nam nhỏ bé nhưng kiên cường ,
bất khuất trước cái xấu, cái vị kỷ, trướùc những mưu toan đen tối nhằm đè bẹp,
trấn áp bằng bạo lực của ngoại xâm….Chính từ những ý nghĩa ấy, Hoà thượng Quảng
Đức đã thực sự trở thành một vị Bồ tát, người luôn hướng tâm hồn mình,
thể xác mình cho cuộc đời, cho người đời để cứu giúp và góp phần giác ngộ họ.
6.
Những vị Thiền sư Việt Nam, trên đường tiếp nối hướng đi đúng
đắn và có ý nghĩa của Phật giáo Việt Nam, đã “ nói” lên suy nghĩ của mình
bằng hành động. Bồ tát Thích Quảng Đức đã hoà nhập thực sự vào dòng chảy
nhập thế của Phật giáo Việt Nam, đã trở thành biểu tượng cho tính dân tộc và
đạo pháp của Phật giáo Việt Nam. Bồ tát Thích Quảng Đức vì vậy đã
trở thành bất tử. Trái tim để lại cho đời của Bồ tát Quảng Đức vì vậy đã trở
nên bất diệt!
Trần Hồng Liên
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét