Thứ Sáu, 12 tháng 6, 2015


GÓP PHẦN NGHIÊN CỨU VỀ TRƯƠNG VĨNH KÝ

Nguyên Vũ



L.T.S: Nguyên Vũ (tên thật là Vũ Ngự Chiêu), Tiến sĩ Sử học và Tiến sĩ Luật học, định cư ở Houston, bang Texas, là một nhà nghiên cứu sử học chuyên sâu tại Hoa Kỳ, với nhiều tác phẩm sử học đã xuất bản.
Chuyên luận Góp phần nghiên cứu về Trương Vĩnh Ký (1837-1898) của ông soi tỏ nhiều góc khuất trong cuộc đời của Trương, từ thuở thiếu thời đến lúc đi học ở trường Dòng Pinang và phục vụ cho thực dân Pháp. Với những tư liệu lịch sử xác tín, với những lập luận chặt chẽ, ông đã nhận chân con người và sự nghiệp Pétrus Ký (mà ông cũng gọi là P. Key như Trương đã từng tự gọi).
Rất tiếc là số trang Hồn Việt có hạn, nên chỉ xin phép tác giả trích đăng một số đoạn. Nhưng thiết tưởng chừng ấy cũng tạm đủ để hiểu đúng về Trương Vĩnh Ký.

… Năm 1996, khi tìm đọc các tài liệu về Giám mục Dominique Lefèbvre, tôi vô tình bắt gặp lá thư thủ bút của Petrus Key vào cuối tháng 3-1859 để tự tiến thân với các quan tướng Pháp. Khi đọc tư liệu của Trung tá Hải quân Henri Rieunier, cựu chánh văn phòng của Jean Bernard Jauréguiberry, cũng người cầm đầu phái bộ Pháp của “Cochinchine” (Nam Kỳ) bên cạnh sứ đoàn Phan Thanh Giản năm 1863, mới xác tín rằng Petrus Key, thông ngôn hạng nhất của Soái phủ Sài Gòn, là thông ngôn của phái bộ Pháp, dưới quyền Gabriel Aubaret, mà không phải của sứ đoàn Việt như thường huyễn truyền (thông ngôn của triều Nguyễn là hai người khác, kể cả một linh mục Việt, Nguyễn Hoằng). Khi đọc tư liệu văn khố Hội truyền giáo hải ngoại, mới biết chính sách mua trẻ mồ côi để tăng số giáo dân và thầy kẻ giảng (thí dụ như Lettre commune năm 1858), và từ đó hiểu tại sao những Petrus Key và Ngô Ðình Khả v.v... bỗng dưng trở thành các “chú” của nhà Chúa Blời. Ðọc tư liệu Joseph Page và Jauréguiberry mới rõ nghị quyết của Ủy ban Cochinchine năm 1857 yêu cầu sử dụng “thầy kẻ giảng và 600.000 giáo dân Kitô làm nòng cốt” cho “tân trào” bảo hộ Pháp. Ðọc tài liệu trường Collège général de Pinang (Ðại chủng viện Pinang) mới rõ chương trình huấn luyện các thầy kẻ giảng bản xứ và đại cương về các chủng sinh. (Nên không thể không đặt câu hỏi Petrus Key tốt nghiệp trường Pinang chưa mà không được thụ phong linh mục hay thầy kẻ giảng ở Pinang, đã phải vội vã “cưỡi ngựa”, vượt sông vượt biển về Cái Nhum chờ đón những sứ giả “Moises và Jacobs” mà “Thiên chúa” gửi sang “giải phóng” giáo dân Việt năm 1858? Phải chăng vì Lefèbvre (người ngày đêm trông đợi binh thuyền Pháp tới đòi vua Tự Ðức nợ máu) đã được thông báo về Nghị quyết 1857 của Ủy ban Cochinchine, yêu cầu thiết lập một tân trào với các thầy kẻ giảng làm trụ cột và sự trợ giúp của 600.000 giáo dân?).

Công bố những tài liệu mới phát hiện này hay không, chúng vẫn nằm ở đó, thu thập bụi thời gian và chờ ngày bị mục nát, nếu chưa được những người nghiên cứu khác tìm đọc. Nhưng tôi đã quyết định công bố tất cả các sử liệu tìm được suốt hơn 30 năm qua, dưới sự hướng dẫn của ánh sáng lương tâm nghề nghiệp. Sự thực nhiều khi khiến đau lòng, nhưng hậu thế Việt Nam xứng đáng và có quyền được hiểu biết những sự thực ấy. Họ có đọc chăng, suy nghĩ gì, đó là quyền của họ. Gần trọn nửa đời bị bưng tai, bịt mắt tại Việt Nam, thấy xà cừ mà tưởng lầm là bạc - nửa đời trăn trở dưới vực thẳm giữa những triền đá dựng đứng, dốc ngược của sự ngu dốt sặc sỡ và lừa dối hào nhoáng - khiến tôi không-thể-không công bố chúng. Thứ bóng tối kinh hoàng nhất là bóng tối của sự ngu dốt, khiến nhân diện nhợt nhạt, trí tuệ hôn ám. Nỗi hổ nhục sâu cay nhất, nói theo Socratus (470-399 TTL), là cứ tưởng mình “biết rồi!” những điều mình thực sự chẳng biết gì cả.

* * *

Petrus Key, sau này đổi thành Petrus Trương Vĩnh Ký, P.J.B. Trương Vĩnh Ký, Sĩ Tải Trương Vĩnh Ký, hay Petrus Ký, thường được coi như một đại văn hào của miền Nam dưới thời Pháp thuộc. Có người xưng tụng Petrus Key như “đại ái quốc”, “đại học giả”, “bác học”, thông thạo tới “26 thứ tiếng” (xem: Nguyễn Văn Trấn, Trương Vĩnh Ký (Con người và sự thật), Sài Gòn, 1993, tr.7) Dưới thời Pháp thuộc, rồi Cộng hòa Nam Kỳ Quốc, Quốc gia Việt Nam, và Việt Nam Cộng hòa, người ta lấy tên Petrus Key (Ký) đặt cho trường trung học công lập lớn nhất ở Sài Gòn, đúc tượng để ghi công lao v.v... danh nhân này. Với chương trình giáo dục nhiều hạn chế (nhắm mục đích ngu dân), được đặt tên cho trường công lập lớn nhất miền Nam là vinh dự không nhỏ; vì nơi đây chỉ có con ông cháu cha cùng những học sinh xuất sắc được thu nhận, qua các kỳ thi tuyển khó khăn.


Dưới thời Pháp thuộc và thời chế độ Ngô Đình Diệm,
tượng của Petrus Ký được đặt ở công viên quan trọng nhất của Sài Gòn,
nằm giữa Dinh Độc Lập (cũ) và Nhà thờ Đức Bà

Thực chất, trước năm 1975, chúng ta biết rất ít về Petrus Key. Hầu hết chi tiết về gia đình, thân thế và hoạt động chính trị của Petrus Key đều chịu ảnh hưởng chung của hai trào lưu trong nước: đó là “cung văn” và “đào mộ”. Tuy nhiên, đã hơn 100 năm qua sau ngày Petrus Key nằm xuống, xúc động về lập trường chính trị hợp tác-kháng chiến, đạo-ngoại đạo, hay yêu-ghét đã lắng dịu, đủ để các nhà nghiên cứu tái dựng lại vai trò Petrus Key trong lịch sử.

Về các sách nghiên cứu của Trương Vĩnh Ký

…Ông Trung (tức Nguyễn Văn Trung trong tác phẩm về Trương Vĩnh Ký, 1995) cố lý luận rằng Giáo sư trường Thông ngôn và rồi Tập sự Hành chính (hay, “Hậu bổ” nếu muốn) đã trở thành một nhà ngôn ngữ học - có lẽ do những chữ linguiste hay philologue ghi trong hồ sơ cá nhân Petrus Key - dù chính ông chưa được đọc những tựa sách như Essai sur la similitude des langues et des écritures orientales (Bàn về sự tương đồng trong các ngôn ngữ và cách viết Ðông phương); Analyse comparée des principales langues du monde (Phân tích tỉ đối các ngôn ngữ chính trên thế giới); Etude sans titre sur les langues de la Péninsule indochinoise (Nghiên cứu không có tựa đề về các ngôn ngữ ở bán đảo Ðông Dương); Etude comparée sur les langues, les écritures, les croyances et les moeurs de l’Indochine (Nghiên cứu tỉ đối về ngôn ngữ, chữ viết, tín ngưỡng và phong tục Ðông Dương); Combinaisons des systèmes conventionnels d’écritures idéographiques, hiérogliphiques, phonétiques et alphabétiques (Sự phối hợp những hệ thống quy ước về các lối chữ viết hội ý, ký hiệu (giống như chữ cổ Ai Cập), ghi âm và bằng mẫu tự La tinh); hay Etude comparée des langues et écritures des trois branches linguistiques (Nghiên cứu tỉ đối về ba ngành ngôn ngữ học).

Chưa một ai cho biết mỗi cuốn trong 6 tựa sách trên dày bao nhiêu trang, nội dung ra sao. Cuốn Essai sur la similitude des langues et des écritures orientales (Bàn về sự tương đồng trong các ngôn ngữ và cách viết Ðông phương) còn dưới dạng bản thảo, được Giáo sư Elucian Luro nhắc đến năm 1872, và in lại trong Thành tích biểu Hội Giáo dục Ðông Dương (BSEI, tome XV, No.1-2, 1er & 2è trimestre 1940, tr.73). Bản thảo Analyse comparée des principales langues du monde (Phân tích tỉ đối các ngôn ngữ chính trên thế giới) do ông Nguyễn Văn Tố nhắc đến năm 1937 trong Thành tích biểu Hội Truyền bá Quốc ngữ Bắc Kỳ(BSEMT, tome XVII, No.1-2, Janvier-Juin 1937, tr.37). Bản thảo Etude sans titre sur les langues de la Péninsule indochinoise (Nghiên cứu không có tựa đề về các ngôn ngữ ở bán đảo Ðông Dương) do ông Lê Thanh nhắc đến trong cuốn Trương Vĩnh Ký, in tại Hà Nội năm 1941 (có lẽ là tập ghi chép 33 trang trao tặng cho Viện Khảo cổ Sài Gòn năm 1958). Tương tự, ba bản thảo Etude comparée sur les langues, les écritures, les croyances et les moeurs de l’Indochine (Nghiên cứu tỉ đối về ngôn ngữ, chữ viết, tín ngưỡng và phong tục Ðông Dương); Combinaisons des systèmes conventionnels d’écritures idéographiques, hiérogliphiques, phonétiques et alphabétiques (Sự phối hợp những hệ thống quy ước về các lối chữ viết hội ý, ký hiệu (giống như chữ cổ Ai Cập), ghi âm và bằng mẫu tự La tinh); và Etude comparée des langues et écritures des trois branches linguistiques (Nghiên cứu tỉ đối về ba ngành ngôn ngữ học) chỉ thấy ghi trong thư mục chép tay của Petrus Key năm 1892, nhưng chưa ai được tham khảo. Hình dạng sách hay bản thảo chưa hề thấy, nội dung sách hay bản thảo chưa được đọc mà cứ nhắm mắt lại khen nức nở, sợ có thái quá chăng?

Ðoạn nói về “Nghiên cứu nguồn gốc chữ viết Việt Nam” của Petrus Key, ông Trung dẫn hai cuốn Sách mẹo An Nam, Abrégé grammaire annamite (1867, 1924) và Ecriture en Annam (Chữ viết ở An Nam) để giới thiệu “thuyết” của Petrus Key rằng “chữ cổ Việt” vốn “ghi âm” (phonétique) hơn “tượng hình”. Lời võ đoán này chẳng dựa trên bằng chứng cụ thể nào ngoài câu tuyên bố vu vơ như dấu khắc tìm thấy trên đá núi Dahia. (Trương Vĩnh Ký, Sách mẹo An Nam, Abrégé grammaire annamite, Sai Gon, 1867, phần mở đầu; và “écriture en Annam” BSEI, année 1888, 1er semestre, tr.5; dẫn trong Nguyễn Văn Trung, 1993, tr.143-144). Sợ rằng đây chỉ là thứ lập luận… “mua vui cũng được một vài trống canh!”. Chưa một tài liệu nào, kể cả các bộ cổ sử nặng mang tính cách dựng quốc thống của Ngô Sĩ Liên hay di tích khảo cổ, cho phép tuyên bố nước cổ Việt đã có chữ viết giống như những nét khắc trên đá “ở đỉnh núi Dahia”? Dựa vào những câu phụ chú hoang tưởng (exotic) của những học giả người Hán khi chú giải các cổ thư như Kinh Thư và Sử Ký về sứ nước Việt thường tiến cống rùa vàng (đời vua Nghiêu, 2356-2255 TTL) hay chim trĩ trắng (năm thứ sáu đời Chu Thành vương, 1115-1079 TTL), “chín lần” hay “ba lần” thông ngôn mới hiểu được nhau, để đoan chắc hoặc phóng tưởng rằng người cổ Việt đã có chữ viết từ thế kỷ thứ 5 TTL (?) sợ rằng lối suy luận ấy chẳng “science, conscience, modestie” chút nào! Nó là một thứ võ đoán, trong nhiều võ đoán khác của Petrus Key rải rác trong các sách còn lưu giữ được, tương tự như lời phán “con nít từ nách chui ra”. May mắn là thời gian Petrus Key còn sống, những di tích khảo cổ chưa được phát hiện, bằng không có thể sẽ có những loại lý luận kiểu “hoa văn (hình khắc) trên trống đồng Ðông Sơn” là “chữ cổ Việt theo dạng ghi âm”!

Nhưng hiện nay, văn khố thuộc địa Pháp cũng như Hội truyền giáo Paris đã mở ra cho giới nghiên cứu, đa số những điều người Pháp viết về “công ơn khai hóa” của họ tại Ðông Dương bắt đầu bị sự thực lịch sử đào thải dần. Những cung văn về các nhà đại ái quốc của tân trào bảo hộ Pháp như Petrus Key hay Hiệp sĩ Vatican Nguyễn Hữu Bài, Trần Bá Lộc, Ngô Ðình Khả, Ngô Ðình Diệm v.v... cũng chịu chung số phận khó tránh. Những tài liệu văn khố mới được công bố này rất khả tín (authentique), và không ai, nếu có đủ lý trí để suy xét và sự lương thiện trí thức tối thiểu, có thể bài bác. Vậy mà, thật đáng buồn, đôi ba người vốn chẳng có bao lăm kiến thức sử học, lại đầy tư tâm, tìm cách bênh vực Petrus Key bằng mọi giá, nhắm mắt lại mà đả kích những tác giả công bố các tư liệu mới về thông-ngôn-gia chính ngạch (chữ linguiste trong thế kỷ 19 chỉ có nghĩa thông ngôn) kiêm học giả miền Nam này!

Chuyến đi Bắc Kỳ Năm 1876 (Ất Hợi)

Năm 1876, Petrus Key được soái phủ Sài Gòn cử ra Bắc thi hành một nhiệm vụ bí mật. Chuyến đi này của Petrus Key khiến có người kết án Petrus Key “làm gián điệp” cho Pháp. Nhưng có thể đây chỉ là một chuyến du khảo miền Bắc, sau khi triều Huế đã ký Hiệp ước Giáp Tuất (15-3-1874) nhượng đứt sáu tỉnh miền Nam cho Pháp. Không hiểu chuyến đi này liên hệ gì đến lời phản kháng mạnh mẽ của Giám mục Paul Puginier và giới giáo sĩ về việc mà họ gọi là sự phản bội của ông Paul Philastre hay dự án ép triều Nguyễn tu chính Hòa ước 1874 của Duperré hay chăng? (Xem Vũ Ngự Chiêu, Các vua cuối, I:244-8).
Trong chuyến đi năm 1876, Petrus Key được tiếp xúc rất nhiều người. Thoạt tiên là Lãnh sự Hải Phòng, tức Y sĩ Hải quân Louis Turc, một cựu Ðốc lý Sài Gòn. Rồi đến Tổng đốc Hải Yên Phạm Phú Thứ, người từng biết Petrus Key khi qua Pháp năm 1863-1864. Linh mục Trần Lục, Chánh xứ Phát Diệm, cánh tay bản xứ của Giám mục Puginier–người tuyển mộ cho Francis Garnier từ 12,000 tới 14,000 lính đánh thuê trong cuộc xâm chiếm Bắc Kỳ năm 1873, mà đa số là giáo dân Kitô như Hồ Văn Vạn, Phạm Quang Diệu, Nguyễn Quí Cát, Lê Văn Tốn, Nguyễn Tích v…v... (ÐNTLCB, IV, 33:83-5; Vũ Ngự Chiêu, Các vua cuối, I:225-226) – cũng dẫn Petrus Key tới tận Thanh Hóa, Ninh Bình, Kẻ Sở. Thông điệp, hay lời khuyên của Petrus Key với các giới chức Việt là hãy hợp tác chân thành với người Pháp, đưa cả hai tay mà nắm lấy họ. Nguyên văn như sau:
Thưa quý ngài, tôi trả lời... quý ngài chỉ cần có lòng tin tưởng ở các đồng minh đáng kính của chúng ta (tức người Pháp) và nương tựa hết sức vào họ để mà tự đứng dậy, nhưng cần thẳng thắn, không một hậu ý, không có những mưu mẹo bí mật, đưa cả hai tay cho họ mà không chỉ đưa ra một tay, tay kia giấu lại”.

“Ẩn sĩ” ở Huế (1886)

Thời gian làm việc tại Viện Cơ mật Huế năm 1886 có lẽ là giai đoạn vàng son nhất của Petrus Key.
Ý định đưa Petrus Key ra Huế để lập một hạt nhân những người đồng hóa quyền lợi bản thân với quyền lợi Ðại Pháp đã được nghiên cứu ở Paris từ năm 1885, sau biến cố đêm mồng 4 rạng ngày 5-7-1885 ở Huế, tức Phụ chính Tôn Thất Thuyết tấn công quân Pháp, đưa ấu vương Hàm Nghi (1885-1888) đi kháng chiến. Ngày 28-10-1885, Bộ trưởng chiến tranh Pháp là Tướng Boulanger đề cử Petrus Key với Tướng Roussel de Courcy để phụ giúp Ðồng Khánh (1885-1889) - người được Giám mục Caspar và Puginier ủng hộ lên làm vua để “phục hưng dòng chính thống” và biến Hàm Nghi thành một “chú bé chạy trốn lang thang”, hầu lấy đi uy thế của phong trào Cần vương (Giúp vua). Tuy nhiên, de Courcy không muốn sử dụng Petrus Key, người mà theo ông ta từng dính líu vào vụ giặc biển Tạ Văn Phụng ở Bắc Kỳ (1861-1865), và chủ trương Pháp nên rút bỏ Bắc Kỳ gạo, tập trung giữ vùng Bắc Kỳ biển trong hai năm 1879-1880 của linh mục Peine (Pène?)- Siéfert (SHAT (Vincennes), 10H xxx). Nhưng khi de Courcy xin hồi hương, và Paul Bert được cử làm Tổng trú sứ Ðại Nam, cả Petrus Key lẫn Peine- Siéfert đều được trọng dụng. Ngày 12-4-1886, Bert cử Petrus Key vào làm việc trong Viện Cơ mật Huế. Trong gần nửa năm tại Huế, “ẩn sĩ” Petrus Key và linh mục Peine-Siéfert là cặp bài trùng gây nên nhiều chống đối trong giới quan lại. Linh mục Nguyễn Hoàng (Hoằng), người lo việc thông ngôn khá lâu ở triều đình, bị đuổi ra Thanh Hóa, rồi chết ở đấy.

Nhiệm vụ chính của Petrus Key trong giai đoạn này là nắm gọn vua Ðồng Khánh - dạy bảo vua phải biết đưa hai tay ra nắm lấy người Pháp, và lựa chọn vào Viện Cơ mật những người đồng hóa quyền lợi bản thân với quyền lợi nước Pháp. Ngoài ra, Tổng trú sứ Bert muốn Petrus Key khuyên dụ Ðồng Khánh ký một quy ước tách biệt Bắc Kỳ khỏi Huế, thành lập chức Kinh Lược Sứ Bắc Kỳ, có toàn quyền thay mặt triều đình xử lý mọi việc (Dụ ngày 3-6-1886). Nguyễn Hữu Ðộ được cử vào chức vụ này. Ðổi lại, Bert chính thức hủy bỏ Quy ước 30-7-1885, tức quy ước đặt phần lãnh thổ còn lại của Ðại Nam dưới chế độ quân quản Pháp, và cho phép 12 tỉnh An Nam được nhiều quyền tự trị hơn (ÐNTL,CB, 37:108; Vũ Ngự Chiêu, Các vua cuối, tập II. Xem thêm thư ngày 25-9-1886, Bert gửi Petrus Key; Trấn, 1993, tr.83-84). Việc sử dụng Hoàng Kế Viêm, một lão tướng trụ cột của nhà Nguyễn tại Bắc Kỳ trước năm 1883, để “an phủ” (chiêu hồi) các lực lượng Cần vương là một thành quả khác của Petrus Key.

Bert đã đề nghị Paris ban thưởng cho Petrus Key một tấm Ðệ ngũ đẳng Bắc đẩu Bội tinh, loại huân chương cao quý của nước Pháp mà rất ít người, kể cả sĩ quan và viên chức Pháp, được phong tặng (Thư ngày 25-9-1886, Bert gửi Petrus Key; Nguyễn Văn Trấn, 1993, tr.83-84). Trong số rất hiếm người Việt được ân thưởng Bắc đẩu Bội tinh còn có Huyện Sỹ, Trần Bá Lộc, Nguyễn Thân, Hoàng Cao Khải, Trần Lục, Ngô Ðình Khả, Nguyễn Hữu Bài v.v... Không hề vào sinh ra tử, chỉ với số vốn liếng chữ Pháp và La tinh hấp thụ được từ trường Collège général de Pinang và ngòi bút của mình, Petrus Key đã cấy xuống hạt mầm của kế hoạch tách hẳn Bắc Kỳ khỏi An Nam mà đến năm 1897 người Pháp mới thực hiện được qua nhóm Nguyễn Thân - Ngô Ðình Khả (Vũ Ngự Chiêu, Các vua cuối, II:542-43).
Chính phủ Bảo hộ Pháp đã ban thưởng cho Petrus Key một tấm
Ðệ ngũ đẳng Bắc đẩu Bội tinh, loại huân chương cao quý của nước Pháp
mà rất ít người, kể cả sĩ quan và viên chức Pháp, được phong tặng

Cái chết đột ngột của Bert vào tháng 11-1886 chấm dứt vĩnh viễn vai trò chính trị của Petrus Key tại Huế. Nhưng giai đoạn ngắn ngủi mà Petrus Key làm “ẩn sĩ” ở kinh đô lưu lại những kỷ niệm chẳng mấy tốt đẹp. Sau này, ngày 10-4-1892, Phủ Phụ Chính của Thành Thái (1889-1907) gửi công văn cho Jean de Lanessan yêu cầu Toàn quyền Pháp đừng bao giờ gửi ra Trung Kỳ những nhân vật như Petrus Key, Diệp Văn Cương, thông phán Nguyễn Trọng Tạo hay ký lục Lê Duy Hinh v.v... (Người dịch thư này từ Hán ngữ qua Pháp ngữ là Ngô Ðình Khả; Vũ Ngự Chiêu, Các vua cuối, II:534, 593 chú 43).

Mùa xuân năm 1888, Petrus Key lại có dịp tiếp tay Pháp mở rộng biên giới Ðông Dương. Tháng 4-1888, Petrus Key qua Bangkok để thi hành một sứ mệnh đặc biệt. Trong báo cáo vào tháng 5-1888, Petrus Key yêu cầu người Pháp khuyến khích triều Nguyễn tuyên bố các xứ Nam Chưởng (Luang Prabang), Vạn Tượng (Viêng Chăn) v.v... vốn là chư hầu của Ðại Nam, ba năm cống hiến một lần, hầu chống lại đòi hỏi lãnh thổ của Xiêm La (Bouchot, tr.91-97; bản dịch Những năm cuối cùng của cuộc đời Pétrus Ký của Tân Văn Hồng; Nguyễn Thanh Liêm, op. cit., tr.107). Cũng trong thời gian này, Toàn quyền Pháp cho lệnh triều Ðồng Khánh lục lọi văn khố, tìm bất cứ tài liệu nào về chủ quyền của Ðại Nam trên đất Lào. Nhờ vậy, Lào được sát nhập vào Ðông Dương như “xứ” (pays) thứ năm. Tháng 7-1893, Pháp gửi chiến hạm ngược sông Chaophraya lên Bangkok, uy hiếp chính phủ Chulalongkorn (1868-1910). May mắn cho Chulalongkorn, vì cả Britain và Pháp muốn duy trì Xiêm La (Syam) như một trái độn, nên năm 1896, hai bên ký Hiệp ước tôn trọng chủ quyền của Xiêm. Ðổi lại, Xiêm La nhìn nhận biên giới hiện nay.
Tóm lại, thời gian ở Huế nói riêng, và suốt gần 40 năm phục vụ chế độ Bảo hộ Pháp, Petrus Key luôn luôn bày tỏ một lòng yêu nước nồng nàn, nhưng là lòng yêu nước Pháp, tổ quốc mới của ông ta.

Kết từ

Dù muốn dù không, Petrus Key đã thủ vai một tác nhân lịch sử, gắn liền với cuộc xâm lăng của Pháp. Khởi đầu sự nghiệp bằng nghề thông ngôn cho quân viễn chinh Pháp, 26 năm sau, Petrus Key xuất hiện tại Huế như một “ẩn sĩ” đặc phái viên tín cẩn của Tổng trú sứ Bert, giữa lúc ngọn lửa Cần vương [rebelles, (phiến loạn) theo lối diễn tả của Petrus Key] đang hừng hực từ Bình Thuận tới Hà Nội. Sau đó, phục vụ tại một số Hội đồng bản xứ Nam Kỳ.

Trong dòng lịch sử quốc dân, vì lý do nào đi nữa, Petrus Key và số thông ngôn hay quan lại đương thời - cùng những Trần Bá Lộc, Huỳnh Công Tấn, Trần Lục, Vũ Văn Báo, Hoàng Cao Khải, Ngô Ðình Khả, Nguyễn Hữu Bài, Nguyễn Thân, Cao Xuân Dục v.v... - sẽ được xếp hạng chung là hợp tác với Pháp từ buổi đầu. Cách này hay cách khác, họ đã trở thành và được người Pháp nhìn nhận như những khai quốc công thần của chế độ Bảo hộ Pháp.
Trường hợp Petrus Key, công trình sáng tác và trước tác khá đồ sộ, lại có cả sách bằng Pháp ngữ, nhưng chưa ai thực sự kiểm kê và lượng giá toàn bộ công trình của ông. Cần những nhà ngôn ngữ học chuyên nghiệp - không bị ràng buộc bởi mục tiêu chính trị giai đoạn hay lòng yêu ghét cá nhân, và đủ can đảm gạt bỏ thứ lý luận viển vông về những bản thảo không còn lưu truyền - làm việc trong một thời gian trên các tác phẩm còn lại của Petrus Key, mới đủ căn bản để lượng giá. Petrus Key, tôi nghĩ, chỉ là một thông ngôn giỏi và được tin cậy trong thời ông, hơn một nhà ngôn ngữ học.

Riêng tác phẩm khá dày của Petrus Key về “bài giảng sử” bằng Pháp ngữ, khó thể gọi là một công trình sử học. Nó không có được giá trị của những cuốn thông sử như bộ Ðại Nam quốc sử diễn ca của Lê Ngô Cát mà Petrus Key sử dụng để viết từ thời thượng cổ tới nhà Lê, hay Việt Nam sử lược của Trần Trọng Kim. Ða số chi tiết đều là tin đồn, ngày tháng hỗn loạn. Khoảng thời gian từ nhà Tây Sơn đến vua Tự Ðức - vì sử dụng truyền khẩu sử của các nhà truyền giáo Pháp và trên quan điểm hợp thức hóa tân trào - đầy rẫy sai lầm kỹ thuật cũng như sai lầm có tư tâm, bất chấp sự thực lịch sử. Nét độc đáo duy nhất là Petrus Key lấy năm sinh của Jesus Christ - đúng hơn, năm khởi đầu Tây lịch (thường gọi là dương lịch hay công nguyên) - làm một dấu mốc phân chia thời đại của dòng lịch sử Việt. Sự phân chia này không những vô nghĩa, phi lý, chẳng dính nhập gì với dòng sử cổ Việt, mà còn hàm chứa tư tâm về tôn giáo hoặc thiết lập “tân trào” của Petrus Key. (Hy vọng rằng sẽ không có ai cung văn rằng Petrus Key đã biết sử dụng phương pháp “so sánh sử thế giới” (comparative world history) qua việc phân chia thời đại nói trên).

Về những tựa sách khác, dù phẩm chất của khối tác phẩm này ra sao đi nữa, chúng trực hay gián tiếp là công cụ của kế hoạch xâm lăng văn hóa của Pháp và các nhà truyền giáo. (Là một công chức của chế độ Bảo hộ Pháp, Petrus Key được trả lương để soạn thảo chúng, hay được bảo trợ bằng cách mua sách để sử dụng trong các lớp học). Và khi biên soạn các sách trên, Petrus Key chỉ nhằm chủ đích “biến đổi và đồng hóa dân An-nam-mít” thành người Pháp, và nhồi sọ thanh thiếu niên Việt lòng biết ơn công khai hóa của Pháp (thư ngày 12-1-1882, Petrus Key gửi Hội đồng Quản hạt; Phiên họp năm 1882 của Conseil Colonial, 15-11-1882, tr.14-15; Osborne 1969:137; Bùi Kha, Trương Vĩnh Ký là ai?, Giao Ðiểm, số 42, 2001, tr.54-55).

Nhưng cũng cần nhấn mạnh, muốn đánh giá vai trò lịch sử của Petrus Key, phải đặt Petrus Key vào khoảng không thời mà ông ta đang sống, hơn chỉ sử dụng những khuôn thành kiến, phê bình cứng ngắc chính trị tính của thế hệ chúng ta như xấu và tốt, “ái quốc” hay “Việt gian”.
Ðánh giá về vai trò văn hóa và giáo dục của Petrus Key, cũng cần thật công tâm, lý luận và sử dụng tài liệu một cách khoa học. Việc chữ quốc ngữ (tức quốc âm, theo chữ cái La tinh) hiện nay được chấp nhận, không có nghĩa những người sáng chế ra nó, ở dạng thức rất đơn sơ, phải được tôn xưng để “uống nước nhớ nguồn”. Các giáo sĩ Bồ Đào Nha đã chỉ phát minh ra chữ quốc âm hiện nay cho mục đích truyền giáo của họ. Cũng cần khẳng định thêm Alexandre de Rhodes không phải là người sáng chế ra chữ “quốc ngữ”. Trước Rhodes đã có ít nhất vài linh mục khác. Thêm nữa, những tác phẩm quốc ngữ đầu tiên của Petrus Key hay “Huỳnh Tịnh” Paulus Của v.v... tự bản chất cũng chẳng khác gì những tác phẩm của nhóm Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Quỳnh v.v... sau này. Họ đã ăn lương chính phủ Bảo hộ Pháp để soạn thảo, phổ biến, ấn hành, hoặc hoàn tất chúng với mục đích thương mại (bán cho chính phủ Bảo hộ Pháp). Nên cũng thật dễ hiểu khi Petrus Key và nhiều người đương thời đứng trên quan điểm của người Pháp mà nói về “sự bình định xứ Nam Kỳ”, “những nhà bảo hộ mới”, hay “quốc gia mới” (nước Pháp).

Nhưng quả thực có vẻ khó nghe khi Petrus Key tảng lờ cuộc kháng chiến chống Pháp hay gọi những lãnh tụ kháng chiến là “rebelles” (phiến loạn) trong các báo cáo bằng Pháp ngữ. Giống như Lê Tắc nhiều thế kỷ trước từng liệt kê các anh hùng dân tộc như Trưng Trắc, Triệu Ẩu, Lý Bí (Bôn) v.v... vào hàng ngũ “bạn nghịch” (những kẻ phản nghịch) (Lê Tắc, An Nam Chí Lược, bản dịch Trần Kính Hòa (Huế: Viện Ðại học Huế, 1961), tr.240-241).
Khoảng 50, 60 năm sau, một đạo hữu của Petrus Key là Ngô Ðình Thục, xuất thân từ một gia đình trung gian bản xứ tại miền Trung, cũng lập lại tiếng “rebelles” này để chỉ phong trào Cần vương của cụ Phan Ðình Phùng và khoe thành tích hạng mã cho chế độ Pháp của cha mình là Ngô Ðình Khả, chánh thông ngôn của Tòa Khâm sứ Huế. (Chính Ðạo, VNNB, I-A: 1939-1946 (Houston: Văn Hóa, 1996), tr.200).

Nói cho cùng lý, Petrus Key và bao người đồng thời khác chỉ là sản phẩm của chế độ thực dân Âu châu nói chung, và trực hoặc gián tiếp là nạn nhân của chính sách thực dân Kitô-vật bản của Pháp. Chính vì thế mà mới có những trăn trở cuối đời Petrus Key về “công và tội”, khi thức ngộ được rằng dẫu có “đưa cả hai tay ra mà nắm lấy người Pháp” thì mình vẫn chỉ một thứ “người bản xứ được khai hóađể phục vụ quyền lợi Pháp và Hội truyền giáo. Bài học “người bản xứ được khai hóa”, “văn minh hóa” hay “Pháp hóa” này quốc dân Việt sẽ còn phải suy gẫm suốt thế kỷ 21, nếu không phải lâu hơn.

Houston 11-2000 - Việt Nam 1-2005 - Houston 2-2010




Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét