| 
   
PHẬT GIÁO MÔNG CỔ ĐANG TRÊN ĐÀ
  TUỘT DỐC 
Michael Khon 
Hoang Phong chuyển ngữ 
Lời giới thiệu của người dịch: 
Tờ Thời Luận
  San Francisco (San Francisco Chronicle)một nhật báo lớn của
  Mỹ, ngày 17 tháng 9 năm 2008 có đăng một bài mang tựa: "Đạo
  Ki-tô đang phát triển nhanh chóng ở Mông Cổ, các nhà truyền giáo đã
  cải đạo cho hàng nghìn người trong khi những người Phật Giáo đang nơm nớp lo
  sợ là truyền thống văn hóa của mình sẽ bị mất đi"  (Christianity
  growing fast in Mongolia, Missionaries convert thousands while Buddhists fear
  losing traditional culture), tác giả là Michael Khon một ký giả trong
  nhóm bình luận gia thời sự quốc tế trong ban biên tập của tờ báo này. Bài báo
  khá xưa, cách nay đã hơn sáu năm, thế nhưng cũng không hẳn là lỗi thời, bởi
  vì tình trạng trên đây chẳng những vẫn còn đang tiếp diễn ở Mông Cổ mà cả
  nhiều nơi khác trên thế giới. Bài báo cũng đã được một trang mạng Phật Giáo
  có tầm cỡ quốc tế với 9 thứ tiếng khác nhau là Buddachannel dịch sang tiếng
  Pháp và đăng tải ngày 6 tháng 2 năm 2009, với tựa ngắn hơn:"Phật Giáo
  Mông Cổ đang bị mất đà" (Le Bouddhisme Mongol en perte de
  vitesse). 
           
  Chữ "Christianity" trong bản gốc tiếng Anh mang ý nghĩa rất tổng quát
  nhằm chỉ chung tất cả các tôn giáo thờ Chúa Giê-Su. Chữ này sẽ được dịch là
  Ki-tô Giáo trong bản chuyển ngữ tiếng Việt, tuy nhiên cũng có thể dịch chữ
  này là Cơ Đốc Giáo hay Thiên Chúa Giáo.  Chữ Thiên Chúa Giáo có vẻ quen
  thuộc hơn hết thế nhưng lại thường được hiểu lầm là Thiên Chúa Giáo La Mã tức
  là Đạo Thiên Chúa của Giáo Hội Vatican. Ki-tô Giáo phát sinh từ Do Thái Giáo
  và gồm rất nhiều tông phái khác nhau, Thiên Chúa Giáo La Mã chỉ là một trong
  các tông phái ấy. 
           
  Sau phần chuyển ngữ người dịch cũng xin mạn phép chia sẻ một bài phân tích
  với hy vọng cùng người đọc suy tư về một vài khía cạnh nêu lên trong nội dung
  của bài báo. Ngoài ra người đọc cũng có thể xem bản gốc bằng tiếng Anh của
  bài này trên trang mạng của tờ San Francisco Chronicle (SFGate):
  http://www.sfgate.com/news/article/Christianity-growing-fast-in-Mongolia-3268816.php,
  và bản dịch tiếng Pháp trên trang mạng Buddhachannel:  
PHẬT GIÁO MÔNG CỔ ĐANG TRÊN ĐÀ
  TUỘT DỐC 
Ulaan Bataar, Mông
  Cổ 
           
  Mitch Tillman trở thành một vị cứu rỗi linh hồn thật khá bất ngờ. Sáu năm
  trước anh ta còn nằm rã rượi trong các khám đường của tiểu bang Alabama chờ
  ngày ra tòa vì tội tàng trữ ma túy, thế nhưng ngày nay thì lại là người đang
  đứng ra xây cất bệnh viện, nuôi trẻ bụi đời và cứu rỗi linh hồn cho người
  Mông Cổ. 
Hình trái: Cảnh người Mông Cổ đang cầu
  nguyện trong giáo đường của đạo "Những Lời Phúc Âm Sinh Động"
  (Evangelic Living Word Church) một giáo phái Tin Lành Phúc Âm, ở Ulaan
  Bataar (thủ đô Mông Cổ), quy tụ khoảng 1000 tín đồ.
  Giáo đường này nằm trong khuôn viên của Cung Ulaan Bataar (UB Palace), một
  trung tâm văn hóa và thương mại to lớn của thủ đô, và cứ mỗi cuối tuần thì
  lại biến thành nơi ăn nhậu và hộp đêm. 
Hình phải: Mitch
  Tillman đang giảng đạo cho các tín đồ Mông Cổ thuộc giáo xứ của mình tại một
  tòa nhà mà trước đây dưới chế độ Cộng Sản đã từng là Bảo tàng viện tôn vinh
  Vladimir Lenin. 
(Hai ảnh này là của tác giả
  Michael Khon dành cho nhật báo San Francisco Chronicle) 
Đối với những người truyền giáo
  Ki-tô, chẳng hạn như trường hợp của mục sư Tillman, thì Mông Cổ đúng là một
  vùng đất vàng (trong bản gốc là tiếng Tây
  Ban Nha Eldorado, có nghĩa là Bằng Vàng, ý nói là một vùng đất mới tha hồ
  tung hoành và bành trướng). Sau
  khi chế độ Cộng Sản cáo chung năm 1990 và theo danh sách đăng ký của các giáo
  phái Tin Lành, chẳng hạn như Mormon (còn gọi là Latter-days Saints Church, có nghĩa là đạo của
  các Thánh trong những ngày cuối cùng. Khái niệm "Những ngày cuối
  cùng" là một khái niệm chung trong giáo lý của các tôn giáo độc thần chủ
  trương một sự tận thế sẽ xảy ra đánh dấu sự chấm dứt của một giai đoạn dài,
  và sau đó sẽ bắt đầu một thời đại mới. Thế nhưng khái niệm "tận
  thế" này lại mang các ý nghĩa khác nhau tùy theo các tông phái và giáo
  phái trong Ki-tô Giáo. Đối với giáo phái Mormon thì thời đại mới sẽ là thời
  đại của Chúa Ki-tô), giáo phái Adventist Ngày Thứ Bảy (Seventh-day Adventist Church, chữ Adventist do chữ La
  Tinh adventus mà ra và có nghĩa là "xuất hiện", ý nói sự trở về của
  Chúa Giê Su sau khi đã tận thế, tuy nhiên giáo phái này lại chọn ngày thứ bảy
  làm ngày thánh mà không chọn ngày chủ nhật), các giáo phái Tin Lành khác cũng như Thiên
  Chúa Giáo La Mã (Catholics), thì có khoảng  60 000
  người Mông Cổ đã theo Ki-tô Giáo (tổng số
  dân Mông Cổ là 2.839.000 người theo thống kê năm 2013). 
L.Chimgee một sinh viên 18 tuổi
  trường Đại Học Kỹ Thuật Ulaan Bataar cho biết như sau: "Nhiều bạn bè của
  tôi theo đạo Ki-tô, vì thế tôi cũng muốn tìm hiểu đức tin là gì. Tôi bèn tham
  dự một khóa tu học cuối tuần tại một trại họp mặt Ki-tô Giáo thiết lập trong
  một vùng nông thôn. Khóa tu thật hết sức là vui nhộn và nhờ đó tôi đã cảm
  thấy được ý nghĩa đích thật của giáo phái này. Và cũng chính vì thế mà tôi đã
  theo đạo".  
Năm 2002 Tillman được tòa tha bổng
  về tội tàng trữ nha phiến, anh ta quả quyết rằng sở dĩ được trắng án là nhờ
  mình cầu nguyện khi nằm trong khám. Tillman gốc gác ở tỉnh Chattanooga (một thị trấn nhỏ thuộc tiểu bang Tennessee), sau khi được phóng thích bèn bán cửa hiệu
  chuyên sơn sửa và làm đồng xe hơi của mình và sau đó lên đường sang Mông Cổ
  tìm cha mình là một mục sư Tin Lành Báp-tít (Baptism
  là đạo Tin Lành trong đó gồm chung một số các giáo phái đặt nặng tầm quan
  trọng của việc rửa tội, căn cứ vào sự tích của vị tiên tri John The Baptist
  được xem là đã từng rửa tội cho cả Chúa Giê-Su) đã thiết lập được một cơ sở truyền giáo
  tại đây. 
Tilman lúc đó 53 tuổi và có sáu
  con, trong số này có ba đứa là con nuôi gốc Mông Cổ, đã cho biết như
  sau: "Nước Mông Cổ đang bước vào một thời đại tự do và dân chủ,
  người dân đổ xô tìm kiếm một cái gì đó mới lạ hơn. Họ ước mong khám phá ra
  một niềm hy vọng và mang lại một cuộc sống tốt đẹp hơn cho con cái mình. Tôi
  tin rằng Chúa sẽ ban cho họ những điều ấy". 
Các nhà sư Phật Giáo trong tình
  trạng hốt hoảng 
Thế nhưng chiến dịch cải đạo người
  Mông Cổ [của các giáo phái Tin Lành] cũng đã gióng lên một hồi trống cảnh
  tỉnh trong các hành lang cổ kính của các ngôi chùa trong khuôn viên của tu
  viện Gandan, trung tâm Phật Giáo lớn nhất trong nước với 8000 nhà sư thường
  xuyên tu học. Vị trụ trì Khunhur Byambajav rất lo ngại khi nhận thấy người
  đến chùa ngày càng thưa thớt. 
Nhà sư Byambajav không ngần ngại
  tuyên bố: "Mọi chuyện cũng là do đồng tiền mà ra cả. Những người
  truyền giáo [Ki-tô] có sẵn tiền xây cất trường học và giáo dục trẻ con. Họ
  không từ nan bất cứ một phương tiện nào". Nhà sư này muốn ám chỉ
  những người truyền giáo đã mang đến cho [các tín đồ của mình] đủ mọi thứ, từ
  thức ăn, quần áo, đến cả học bổng để du học ở nước ngoài (nước ta có câu tục ngữ
  "Theo đạo lấy gạo mà ăn", thế nhưng cũng có câu "Áo rách phải
  giữ lấy lề". Ngày nay sau hàng bao thế kỷ cách biệt, thế nhưng ở Mông Cổ
  việc cải đạo cũng chẳng có gì khác hơn: "Miếng trầu là đầu câu
  chuyện"). "Trên
  phương diện tài chính thì làm thế nào mà chúng tôi theo kịp họ được, tuy thế
  chúng tôi cũng phải cố gắng thôi, nếu không thì sẽ không còn ai trong giới
  trẻ theo Phật Giáo nữa".     
Chẳng hạn như Trung tâm Phúc Âm
  Quốc Tế (Harbor Evangelism International) của Tillman có đến hai bệnh viện,
  một viện mồ côi, một nơi ăn uống miễn phí cho người nghèo, một chương trình
  cai rượu trong một nước mà nạn nghiện rượu đang lan tràn, và theo các nhà
  quan sát thì kể cả trong giới các nhà sư Phật Giáo!  
L. Odonchimed một cựu dân biểu
  quốc hội cho biết: "Chùa chiền Mông Cổ còn quá yếu kém, nhận
  tiền cúng dường của bá tánh nhưng lại không đủ sức hồi đáp lại [những gì mà
  họ mong cầu]. [Trong khi đó] những người truyền giáo thì lại mang tặng đủ mọi
  thứ quà cáp và trợ giúp mọi người - thiết nghĩ đấy cũng là trọng trách của
  một tổ chức tôn giáo". 
Có nhiều nhóm cải đạo hoạt động
  lén lút 
Nhà sư Byambajav cho biết là ông
  rất lo ngại vì có nhiều nhóm Ki-tô Giáo hoạt động lén lút, nhồi sọ trẻ con và
  xúi dục người Phật Giáo đốt bỏ các lễ cụ (religious
  articles, các vật sử dụng vào việc hành lễ và thờ cúng) và đập phá các bảo tháp (stupa, là
  các kiến trúc to lớn biểu trưng cho sự giác ngộ). Ông cho biết thêm: "[Nhà
  nước] không có một biện pháp kiểm soát nào cả, và cũng chẳng có ai quan tâm
  đến hành động của các nhóm hoạt động lén lút này".  
Trong tình trạng một nước [đang
  gặp phải khó khăn vì] chủ trương tách rời giữa tín ngưỡng và nhà nước - tương
  tự như Hoa Kỳ - Byambajav đã đề nghị với chính phủ nên đưa Phật Giáo lên hàng
  quốc giáo. Theo ông thì đất nước cần đưa ra một đạo luật cho phép sử dụng
  ngân quỹ quốc gia để giúp đỡ các nhà sư và cho phép giảng dạy Phật Giáo trong
  các trường học nhà nước. 
Nhà sư Byambajav còn cho biết
  thêm: "Chúng tôi đã từng gửi thư lên chính phủ xin thay đổi đạo
  luật về tín ngưỡng, thế nhưng các tổ chức tôn giáo nước ngoài vừa có thế lực
  lại có nhiều tiền. Họ tạo áp lực với các người lãnh đạo chính trị bằng cách
  đút lót tiền bạc. Điều này khiến chúng tôi bị thiệt thòi rất nhiều".  
Trở về với Phật Giáo 
Vị dân biểu lập pháp Odonchimed
  cũng xác nhận là một số lớn người Mông Cổ đã bị mê hoặc bởi mọi thứ dịch vụ
  của các nhóm Cơ Đốc Giáo, tuy nhiên ông cũng tiên đoán rằng mọi người sẽ
  không còn quan tâm đến các nhóm này nữa một khi tình hình kinh tế trong nước
  phát triển khá hơn (một lời tiên đoán quá đỗi ngây thơ) qua câu phát biểu sau đây: "Với
  thời gian rồi đây người dân sẽ dần dần không còn nhờ vả những người truyền
  giáo nữa, và sẽ không còn để ý đến họ nữa. Mọi người sẽ trở về với Phật
  Giáo" (đây là một sự suy nghĩ vô cùng thiển cận và thiếu hiểu
  biết, một hình thức cam phận và thụ động của các dân tộc quen chịu ách nô lệ,
  họ không thể hình dung được là một ngày nào đó sẽ có những người Mông Cổ Tin
  Lành hay Thiên Chúa Giáo - hoặc cũng có thể là những người chủ trương một chủ
  thuyết ngoại lai không tưởng - được ngoại bang đưa lên nắm chánh quyền, điều
  khiển quốc gia và đưa xứ sở vào vòng nô lệ. Nên hiểu rằng không có ai giúp đỡ
  mình một cách bất vụ lợi cả). 
Trong khi đó, Liên Đoàn Bảo Tồn
  Truyền Thống Đại Thừa (Federation for the Preservation of the Mahayana Tradition,
  một tổ chức Phật Giáo phi lợi nhuận đặt trụ sở tại tiểu bang Oregon, Hoa kỳ) lại sử dụng chính các phương pháp tiếp cận
  của người Tây Phương nhằm giúp người Mông Cổ tìm về với Phật Giáo (dầu sao tổ
  chức nhỏ này cũng không thể đọ sức với những ý đồ và sức mạnh tiền bạc của
  các hội đạo Tin Lành ở Mỹ - và phía sau biết đâu cũng có những nguồn tài trợ
  khác to lớn hơn - rất sở trường trong việc cải đạo người nghèo, các bộ tộc
  thiểu số ở các nước đang phát triển). Liên
  đoàn trên đây đã mở trường dạy học trong các chùa thuộc Tu Viện Trung Tâm ở
  Ulaan Bataar. Vị chủ tịch Liên Đoàn là Ueli Minder, người Thụy Sĩ, đã lên
  tiếng như sau: "Sở dĩ giới trẻ Mông Cổ ngày nay không có một kiến
  thức nào về Phật Giáo chẳng qua là vì chùa chiền không đủ sức giúp những
  người tu tập tại gia giữ vững được lòng tin của họ. Chủ đích của chúng tôi là
  giúp đỡ mọi người tìm hiểu đâu là cội nguồn của văn hóa và tín ngưỡng". 
Phương pháp của người
  Tây Phương 
Nhà sư Byambajav cho biết là tu
  viện Gandan cũng đã tìm cách sử dụng các phương pháp của người Tây Phương,
  chẳng hạn như thiết lập một đài phát thanh [Phật Giáo] và thực hiện nhiều dự
  án mở trường tư cũng như thành lập một đài truyền hình. 
Tuy nhiên vị chủ tịch Minder cũng
  thú nhận rằng các nhà sư Phật Giáo hiện đang phải đương đầu với một sự thách
  đố thật kinh hoàng khi quyết định chống lại những người truyền giáo Ki-tô:
  bởi vì đối với việc cải đạo người khác thì hầu hết trong số họ (tức là các nhà sư Phật
  Giáo) từ trước đến nay
  không có ai quen làm công việc này. 
Vị giám đốc Minder của Liên Đoàn
  Bảo Vệ Đại Thừa còn cho biết thêm: "[Dù rằng] không nên biến
  việc ấy thành một thứ tôn giáo nhằm cải đạo kẻ khác, thế nhưng chúng ta cũng
  phải có một kế hoạch nhằm xóa bỏ [ảnh hưởng] tuyên truyền tệ hại [dưới chế độ
  chính trị] trước đây cũng như các kế hoạch mê hoặc của những người truyền
  giáo [ngày nay]. Các vị lạt-ma (Tây Tạng và Mông Cổ) cần phải học hỏi
  thêm về các phương cách bảo vệ tín ngưỡng của mình..., hầu giúp phục hồi lòng
  tin của quảng đại quần chúng".   
Sự bành trướng của Cơ Đốc Giáo
  trong một xứ Mông Cổ theo Phật Giáo 
Trước khi chế độ Cộng Sản cấm tôn
  giáo từ năm 1921 thì hầu hết người Mông Cổ theo Phật Giáo Tây Tạng (Phật Giáo Tây Tạng
  được đưa vào Mông Cổ từ thế kỷ XIII, kinh sách, việc học hỏi và tụng niệm đều
  phải dùng tiếng Tây Tạng. Đến thế kỷ XVI thì Phật Giáo trở thành quốc giáo
  với hơn 90 phần trăm dân chúng theo tôn giáo này, thế nhưng việc dịch thuật
  vẫn không đáng kể. Xin nhắc thêm là người Trung Quốc phải mất nhiều thế kỷ để
  dịch kinh sách từ tiếng Phạn). Năm 1990 Cộng Sản sụp đổ, Mông Cổ được tự do
  bèn hợp thức hóa Phật Giáo và cho phép chùa chiền hoạt động trở lại, thế
  nhưng đồng thời cũng đã mở cửa cho các tín ngưỡng ngoại lai [được hoạt động
  trong nước]. 
Theo thống kê của CIA (cơ quan tình báo của
  Mỹ) thì
  hiện nay 50 % dân chúng Mông Cổ theo Phật Giáo Tây Tạng, 6 % theo tín ngưỡng
  Sa-man (Shamanism:
  một hình thức tín ngưỡng dân gian với ít nhiều "mê tín", chủ trương
  một sự liên hệ thần bí giữa con người, thần linh, ma quỷ, kể cả linh hồn của
  các loài thú vật. Tín ngưỡng này cũng khá tương tự với "đồng bóng"
  ở Việt Nam), và khoảng 40 % tuyên bố là mình không theo đạo
  nào cả. 
Công việc bảo toàn Phật Pháp chống
  lại các kế hoạch cải đạo của các tín ngưỡng Cơ Đốc là cả một sự thách đố vì
  phải vượt qua một trở ngại thật nan giải là vấn đề ngôn ngữ. Các nhà sư thì
  tụng niệm bằng tiếng Tây Tạng, một ngôn ngữ mà hầu hết người Mông Cổ không
  hiểu gì cả, trong khi đó thì Thánh Kinh và các bài thuyết giáo [của những
  người cải đạo] thì được viết và quảng bá bằng tiếng Mông Cổ (cũng gần tương tự với
  trường hợp của Việt Nam: các thuật ngữ và các khái niệm triết học Phật Giáo
  đều là tiếng Hán và kinh sách cũng chịu ảnh hưởng quá nặng nề từ Hán ngữ,
  giới trẻ ngày nay dù có đọc cũng không hiểu gì cả - đôi khi ngay cả đối với
  một số người tu hành cũng vậy). 
Theo các danh sách đăng ký các
  giáo phái Cơ Đốc hoạt động tại Mông Cổ thì có 60 000 người theo các đạo Cơ
  Đốc - mức độ gia tăng là 20% trong tám năm vừa qua. Về phần chính phủ Mông Cổ
  thì không thấy có một bảng liệt kê nào về số người theo các tín ngưỡng khác
  nhau. 
Theo phúc trình của Bộ Ngoại Giao
  Mỹ (U.S. State Department) thì một nửa dân chúng sinh sống ở thủ đô Ulaan
  Baatar theo Cơ Đốc Giáo (Christians), và các nhà thờ thì nhất loạt tập trung
  tại các khu sang trọng, chẳng hạn như giáo đường của giáo phái "Năm Câu
  Chuyện của đạo Mormon" (Five-story Mormon tabernacle) sừng sững bên cạnh
  khách sạn lộng lẫy nhất của thành phố. Người dân trong các khu này còn được
  xem cả các chương trình truyền hình của các giáo phái Cơ Đốc [của Mỹ] trên
  đài TV Chim Ưng (Eagle TV, là một đài truyền hình của Tin Lành và Thiên
  Chúa Giáo Mỹ), truyền đi khắp nơi [trên thế giới] bằng vệ
  tinh và do các hội đạo Tin Lành ở Mỹ tài trợ.  
Cách thuyết giáo theo kiểu Mỹ cũng
  rất phổ biến, trong các thính đường chật ních người, các vị mục sư hăng say
  và hùng hồn thuyết giáo, cứ như là lên đồng nhập bóng. Các lời thuyết giáo
  lại còn được đệm thêm nhạc rock, quang cảnh diễn ra dưới ánh đèn nê-ông sáng
  choang và hình ảnh video với kỹ thuật cao được chiếu lên các màn ảnh thật
  rộng. Các hộp bằng plastic trong (mục đích cho thấy các quà biếu bên trong) nhét đầy quà tặng được đem ra phân phát,
  bọn trẻ vị thành niên thì chen nhau ghi danh tham dự các buổi "Họp trại
  Giê Su" ("Jesus Camps") tổ chức ở các vùng nông thôn. 
Vị mục sư Báp-tít Tillman cho
  biết: "Đây chính thực là thể dạng (trong nguyên bản là tiếng La Tinh statu quo, có nghĩa là
  "hiện trạng", "thực trạng")
  giải thoát. Từ bao nhiêu năm nay người dân chỉ biết có Phật Giáo, và
  sau đó thì bị Cộng Sản ức chế. [Ngày nay] họ mong cầu tìm thấy một sự mới lạ
  và họ đã tìm thấy được sự mới lạ ấy nơi Chúa Giê Su". 
VÀI LỜI GHI CHÚ CỦA
  NGƯỜI DỊCH 
Thiết nghĩ nếu muốn tìm hiểu phong
  trào cải đạo vô cùng tích cực ngày nay của các giáo phái Tin Lành Mỹ thì
  chúng ta cũng cần mở rộng tầm nhìn hơn, tức là phải trực tiếp ngược dòng lịch
  sử di dân đã đưa đến sự hình thành của nước Mỹ và tình trạng tín ngưỡng ngày
  nay của quốc gia này. Một trong số các động cơ chính yếu thúc đẩy người di
  dân Âu Châu vượt Đại Tây Dương để đến nước Mỹ là tình trạng kỳ thị tín ngưỡng
  và chiến tranh tôn giáo triền miên trên quê hương họ. Nơi miền đất mới
  "tự do tín ngưỡng" trở thành cả một sự ám ảnh đối với họ, thế nhưng
  sự tự do tín ngưỡng hay sự ám ảnh đó lại bị đẩy đi quá xa để đưa đến việc làm
  phát sinh ra thêm vô số các giáo phái mới và quyết tâm thật hăng say cải đạo
  kẻ khác, không những đối với người trong nước mà còn lan rộng ra khắp thế
  giới. Trên thực tế quả thật hết sức khó có thể nắm bắt những chủ đích tàng ẩn
  phía sau sự "hăng say" ấy. Dầu sao các kế hoạch cải đạo của các
  giáo phái Tin Lảnh Mỹ hiện nay trên thế giới cũng cho thấy một vài đường nét
  tương đồng nào đó với các nỗ lực truyền bá đạo Ki-tô tại các lục địa Phi
  Châu, Á Châu, và cả Mỹ Châu của các nước thực dân qua nhiều thế kỷ trong các
  thời kỳ thuộc địa trước đây. 
Lịch sử nước Mỹ có thể thu gọn
  trong lịch sử của một phong trào di dân 
Dưới một góc nhìn nào đó, lịch sử
  nước Mỹ có thể được xem như là lịch sử diễn tiến của một cuộc di dân ào ạt
  nhất trong lịch sử nhân loại xuyên qua nhiều thế kỷ và vẫn còn tiếp diễn cho
  đến ngày nay. Trong vòng thập niên đầu tiên của thế kỷ XX, mỗi năm có hơn một
  triệu người di dân từ các nước Âu Châu đến vùng "đất mới". Trong
  thời kỳ khủng hoảng kinh tế xảy ra vào các năm 1920 và 1930, việc di dân vào
  nước Mỹ bị hạn chế và do đó đã có phần giảm xuống từ năm 1915 đến 1965, thế
  rồi sau đó lại gia tăng với gần một triệu người mỗi năm trong suốt thập niên
  sau cùng của thế kỷ này!  
Cảnh người di dân chờ đến lượt đăng
  ký 
trên đảo Ellis Island năm 1907 
Kha Luân Bố (Christophe Colomb)
  khám phá ra Mỹ Châu vào cuối thế kỷ XV (trong đêm 11 rạng ngày 12 tháng 10
  năm 1492). Không lâu sau đó người dân từ các nước Anh, Pháp, Tây Ban Nha và
  Hòa Lan bắt đầu đổ xô đến vùng đất mới này. Giai đoạn di dân đầu tiên trên
  đây kéo dài từ đầu thế kỷ XVI đến giữa thế kỷ XVII, và trong số những người
  di dân thì người Anh là đông nhất. Chính phủ hoàng gia Anh Quốc khuyến khích
  dân chúng nhất là người nghèo nên di dân đến vùng đất mới để khai phá, và
  thường thì họ phải vay nợ để ra đi. Dù số người di dân rất đông nhưng cũng
  không thấm tháp gì với đất Mỹ mênh mông, người khai khẩn vẫn thiếu. Bắt đầu
  từ năm 1622 hoàng gia Anh Quốc trực tiếp đứng ra huy động và tổ chức việc di
  dân sang Mỹ bằng cách giúp đỡ phương tiện cho người nghèo trong nước. Chính
  phủ trả tiền phí tổn chuyến đi cho cả gia đình và hứa sẽ cấp đất cho họ, bù
  lại thì người di dân phải làm việc không lương từ 4 đến 7 năm khi đặt chân lên
  đất Mỹ. Những người ra đi theo diện này được gọi là những người "giúp
  việc theo giao kèo" (indentured servants). Họ làm lụng cực khổ
  không khác gì những người nô lệ da đen được đưa đến từ Phi Châu. Theo ước
  tính thì từ 50% đến 60% người di dân đến Mỹ trong khoảng thời gian từ 1600
  đến 1776 đều là những người "giúp việc theo giao kèo". 
Ở Âu Châu trong khoảng thời gian
  từ 1641 đến 1661, những cuộc xung đột, hiềm khích và chiến tranh đã xảy ra
  triền miên giữa Anh Quốc, Tô Cách Lan (Scotland) và Ái Nhĩ Lan (Ireland), và
  số người di dân đến Mỹ không đủ, nên chính phủ hoàng gia Anh đã phải trực
  tiếp đứng ra mua bán nô lệ và chính thức lập ra "Công ty Hoàng
  Gia buôn bán nô lệ Phi Châu" (Royal Company of African Slave
  Trade) năm 1660, với mục đích giữ độc quyền lùa bắt,
  chuyên chở và buôn bán nô lệ Phi Châu. Năm 1650 số người da đen trên toàn
  nước Mỹ là 5%, và con số này đã tăng lên 22% vào năm 1775, đặc biệt nhất là
  trong khoảng thời gian này ở tiểu bang Virginia số người da đen đã gia tăng
  từ 2 000 lên 188 000 người. 
Tiếp theo là giai đoạn di dân thứ
  hai mang tính cách phức tạp và đa dạng hơn giai đoạn thứ nhất trên đây. Ngoài
  số người nô lệ vẫn được tiếp tục đưa vào Mỹ, hàng triệu người Tô Cách Lan, Ái
  Nhĩ Lan, Đức, Pháp, Hòa Lan, Ý, Nga, Ba Lan, Na Uy, Thụy Điển, Đan Mạch, Hy
  Lạp, Trung Hoa, Nhật Bản, các nước Trung và Nam Mỹ kể cả một số nước Phi
  Châu, ào ạt rời bỏ xứ sở của họ để đến Mỹ mong tìm một cuộc sống dễ dãi hơn.
  Giai đoạn di dân thứ hai này kéo dài gần một thế kỷ, từ năm 1680 đến năm
  1760. Người "da đỏ" trở thành thiểu số, người di dân tứ xứ gọi họ
  là "natives" có nghĩa là dân "bản xứ", đó là cách gián
  tiếp tự nhận mình là kẻ ngoại lai, thế nhưng trên thực tế thì người da đỏ
  "bản xứ" bị kỳ thị, khinh miệt và gạt ra bên lề xã hội. Dù phong
  trào di dân không ngớt ào ạt và người nô lệ vẫn tiếp tục được đưa vào
  Mỹ,  thế nhưng chính phủ Anh vẫn tìm đủ mọi cách gia tăng thêm số người
  di dân theo diện giao kèo (nô lệ không công trong một thời gian), chẳng hạn
  như đưa ra biện pháp trả tự do cho các tù nhân chấp nhận ký vào các giao kèo
  di dân và lên đường sang Mỹ. Hầu hết các sử gia đều cho rằng các biện pháp
  trên đây của Anh Quốc là nhằm đưa người nghèo và các thành phần bất hảo ra
  khỏi nước, nhưng dường như không thấy có sử gia nào (?) nghĩ rằng nước Anh
  đưa người ào ạt lên đất Mỹ là một cách gián tiếp áp đặt văn hóa, ngôn ngữ và
  tín ngưỡng của mình, tức là một hình thức thiết lập thuộc địa một cách kín
  đáo, không cần tuyên bố. Tưởng cũng nên hiểu rằng thời kỳ này là một giai
  đoạn lịch sử thật căng thẳng mà các nước thực dân Âu Châu bắt đầu dòm ngó
  nhau và tranh dành thuộc địa gay gắt nhất.   
Nếu nhìn vào vấn đề tín ngưỡng thì
  ngay trong chuyến du hành đầu tiên khám phá ra Mỹ Châu của Kha Luân Bố, cũng
  đã có một vị cố đạo Thiên Chúa Giáo La Mã trên tàu. Trong thời kỳ thực dân,
  các linh mục dòng Tên (Jesuits) của Thiên Chúa Giáo La Mã đã tạo được nhiều
  ảnh hưởng ở Ấn Độ, Trung Quốc và Nhật Bản, và các mục sư Tin Lành người Anh
  đã gây được nhiều ảnh hưởng ở Madagascar, Trung Quốc và Hawaii. Nhiều sử gia
  cho rằng các vị cố đạo ra đi khắp nơi là vì nguyện vọng truyền bá đạo Ki-tô
  và các đạo quân xâm chiếm thuộc địa thì chỉ giữ vai trò bảo vệ họ mà thôi,
  thế nhưng trên thực tế thì một sự cấu kết và hiểu ngầm nào đó dường như có vẻ
  là một sự kiện tất yếu và đương nhiên. 
Trở lại với vấn đề di dân thì
  tiếng đồn về một "Miền Đất Hứa " (Promised Land), rộng thênh thang,
  phong phú và tự do ngày càng được phóng đại thêm và đã biến nước Mỹ trở thành
  một huyền thoại, chẳng những thu hút người nghèo đói hoặc bị kỳ thị tín
  ngưỡng mà cả một số người khá giả ôm mộng rời bỏ quê hương mình trên lục địa
  Âu Châu già nua, chật hẹp và bon chen. Quả cũng lạ, những người di dân đến
  trước cảm thấy mình là người dân Mỹ "chính thống" không thích những
  người di dân mới tràn ngập nước Mỹ "của họ" và cạnh tranh với họ.
  Những sự xô xát, kỳ thị, khinh miệt, ngược đãi thường xuyên xảy ra ở một số
  tiểu bang như South Carolina, Maryland, Virginia..., nhất là đối với những
  người Ái Nhĩ Lan thường là người nghèo khổ, quá đông và nhất là họ lại theo
  Thiên Chúa Giáo La Mã. Miền Đất Hứa đôi khi cũng không hẳn là dễ sống và thật
  sự tự do như nhiều người mơ tưởng khiến  một số người thất vọng đã phải
  quay về quê hương họ ở Âu Châu.  
Thế nhưng đặt chân lên Miền Đất
  Hứa thì nào có phải là chuyện dễ dàng đâu. Tùy biển êm hay bão tố, cuộc hành
  trình vượt Đại Tây Dương mất từ 6 tuần đến 6 tháng. Hành khách chen chúc trên
  tàu, không chỗ nằm, thiếu vệ sinh, lây bệnh, ói mửa..., nhiều người già yếu
  và trẻ con đã không đến được bờ. Nếu cuộc hành trình kéo dài quá lâu thì
  thiếu nước, thiếu ăn. Năm 1741 một chiếc tàu Ái Nhĩ Lan chở 106 hành khách,
  khi đến được đất Mỹ thì chỉ còn 60 người sống sót, sáu xác trong số những
  người chết đã bị những người khác ăn thịt. Năm 1752 một chiếc tàu Hòa Lan chở
  340 hành khách cặp bến ở tiểu bang Philadelphia thì chỉ vỏn vẹn còn lại 21
  người sống sót, những người khác đều chết vì đói. Người di dân ra đi là cả
  một sự liều lĩnh, bọn chủ tàu hám lợi chở khách chật ních, thiếu thức ăn,
  thiếu nước. Thế nhưng nếu gặp gió thuận biển êm, tàu đến sớm thì bọn thủy thủ
  lại không cặp bờ, lấy cớ là còn phải chờ kiểm dịch để hạch sách hành khách
  bắt họ phải trả thêm tiền, cho đến khi nào hết sạch thì mới cho lên bờ. Những
  chuyện đại loại như thế thường xuyên xảy ra cho đến giữa thế kỷ XIX. Năm 1853
  người di dân Na Uy trên một chuyến tàu đưa khách của người Anh thuật lại là
  hành khách bị đối xử như thú vật, phụ nữ lo sợ bị hãm hiếp, những chuyện gây
  hấn và xô xát giữa các gia đình hay tập thể trên tàu xảy ra ngày một. Cứ mỗi
  lần phân phát thực phẩm thì không sao tránh khỏi chuyện tranh dành và cướp
  giật lẫn nhau. 
Đến được bờ cũng không có nghĩa là
  mọi sự gian nan chấm dứt. Những người "làm công theo giao kèo" bị
  chủ đến tìm và mang đi, trong cùng một gia đình mỗi người một ngã. Theo giao
  kèo nếu gia đình nào cha mẹ chết hết thì người chủ thuê phải nuôi đám con cái
  sống sót và chúng phải làm việc thay cha mẹ đến 21 tuổi mới được trả tự do.
  Thật xa với nước Mỹ, nơi các vùng ven biển xa xôi của lục địa Phi Châu, cả ở
  bờ phía tây lẫn phía đông, các bộ lạc người da đen bị bao vây và lùa bắt. Tất
  cả đàn ông khỏe mạnh đều bị bắt sạch, một số ít đàn bà và trẻ em cũng bị bắt.
  Anh và Pháp là hai nước lùng bắt nô lệ nhiều nhất và quy mô nhất. Nhiều làng
  và bộ lạc chỉ còn lại phụ nữ, trẻ con và người già yếu. Người nô lệ bị nhốt
  chật ních dưới khoang tàu, họ bị say sóng, đói khát, bệnh tật, chết chóc rất
  nhiều. Mỗi chuyến tàu phải mất từ hai tháng hoặc có khi phải lênh đênh hàng
  nửa năm mới đến được các bến cảng ở Âu Châu. Ở Pháp các cảng tạm chứa người
  nô lệ hầu hết nằm ven bờ biển Đại Tây Dương như Bordeaux, La Rochelle,
  Nantes..., và ở Anh là các cảng Luân Đôn, Liverpool, Bristol, Playmouth... Từ
  các nơi này những người người nô lệ sống sót được chuyển sang tàu khác để đưa
  đi Mỹ. Tuy nhiên cũng có những đường tàu chuyên chở người nô lệ thẳng từ các
  bờ biển phía tây Phi Châu đến các cảng ở bờ biển phía đông của nườc Mỹ. 
Sơ đồ một chiếc tàu (frigate, một loại tàu lớn có ba
  cột buồm) chở nô lệ của Pháp, tên tàu là Aurore, chủ nhân là một người ngụ ở
  cảng Nantes (Pháp). Tàu gồm ba tầng: boong tàu, tầng giữa và gầm tàu. Gầm tàu
  dùng để chứa các thùng gỗ đựng nước uống. Tầng giữa cao vừa đầu người dùng để
  chứa nô lệ, có thể chứa được 600 người, trong số này thường là gồm khoảng 400
  đàn ông, 120 đàn bà và 80 trẻ em. Ngoài ra tầng này còn có thêm các gác hẹp
  dọc theo vách tàu với diện tích chung là 55 m² có thể chứa thêm 190 người.
  Tính đổ đồng mỗi người nô lệ được 1/3 m² trên tàu. 
Quảng cáo trên báo ở Mỹ về việc buôn bán nô
  lệ. Xin lược dịch quảng cáo trong hình số 6 như sau:  Charleston (tiểu
  bang Nam Carolina), ngày 24 tháng 7 năm 1769. Sẽ rao bán vào thứ năm, ngày
  thứ ba trong tháng 8, một chuyến hàng gồm 94 người mọi thuộc loại tốt nhất,
  đầy đủ sức khỏe, gồm 39 đàn ông, 15 con trai, 24 đàn bà và 16 con gái, do
  thuyền nhỏ hai cột buồm (brigantine) tên tàu là Dembia vừa mới cặp bến,
  thuyền trưởng là Francis Bare, tàu đến từ Sierre Leone (Phi Châu), (các tư
  liệu trên đây được trích từ các sách giáo khoa cấp Trung Học ở Pháp) 
Một quốc gia trên nguyên tắc được
  hình thành từ một cộng đồng dân chúng với ngôn ngữ, văn hóa, tín ngưỡng và
  quá trình lịch sử của họ, nói lên một sự hòa hợp và đồng nhất nào đó. Thế
  nhưng nước Mỹ lại là một trường hợp đặc biệt, được hình thành từ một cuộc di
  dân lớn nhất trong lịch sử nhân loại. Như đã nói trên, trong số những người
  di dân thì người Anh là đông nhất và họ đã áp đặt ngôn ngữ, văn hóa, tập quán
  và cả tín ngưỡng của mình cho toàn thể quốc gia mới mẻ này. Vì thế nếu muốn
  tìm hiểu tín ngưỡng của nước Mỹ thì tất phải tìm hiểu tín ngưỡng mà người di
  dân Anh Quốc đã mang vào vùng đất "trinh nguyên" ấy. Chúng ta hãy
  thử trở ngược về nguồn gốc và nguyên nhân đưa đến sự hình thành của các tín ngưỡng
  trên đất Anh trước khi được người di dân đưa vào nước Mỹ. 
"Thâm cung bí sử" và sự hình thành
  của Anh Giáo vào thế kỷ XVI 
           
  Tiền bán thế kỷ XVI dưới triều đại
  của vua Henry VIII là một giai đoạn lịch sử khá quan trọng của nước Anh,
  riêng trên phương diện tín ngưỡng đã đưa đến sự hình thành của đạo Tin Lành
  Anh Quốc còn gọi là Anh Giáo (Anglicanism). Sự hình thành của tín ngưỡng này
  cũng trùng hợp với các đợt di dân đầu tiên của người Anh vào đất Mỹ. Thật hết
  sức trớ trêu, nguyên nhân đưa đến sự hình thành của Anh Giáo, đánh dấu một sự
  chuyển hướng tín ngưỡng vô cùng trọng đại của cả một dân tộc cũng chỉ là hậu
  quả của những "chuyện thâm cung bí sử" thời bấy giờ.  Những gì
  trớ trêu chính là những chuyện "tình sử" dưới đủ mọi hình thức
  "mưu mô" và " dàn xếp" xảy ra bên trong các lâu đài kín
  cổng cao tường, thế nhưng đã mang lại những hậu quả thật sâu rộng bên ngoài
  dân gian, làm chuyển hướng và thay đổi đức tin của cả một dân tộc, và còn gây
  ra ảnh hưởng đến cả nền tín ngưỡng của nước Mỹ sau này.   
… [Lời Tòa Soạn - Chương “Thâm cung bí sử”
  nầy rất quan trọng cho những ai quan tâm đến lịch sử hình thành của Anh Giáo
  trong giai đoạn khai sinh của nó. Vì xuất sinh từ đó, tôn giáo nầy đã trở
  thành “bà mụ đở đầu” cho hàng trăm giáo phái Tin Lành tại Mỹ sau nầy … Với
  tài liệu xúc tích và cách lý giải rõ ràng, tác giả đã cho thấy “các
  câu chuyện "thâm cung bí sử" trên đây đã phơi bày cho chúng ta thấy
  là các nguyên nhân sâu xa làm phát sinh ra Anh Giáo cũng "chỉ là con
  người" và mang bản chất cũng "rất là con người", những con
  người bình thường, lại gây ra những tác động vô cùng sâu rộng trong dân gian
  đưa đến các cảnh kỳ thị, xung đột và đàn áp tôn giáo, và người di dân đã mang
  theo với họ những đường hướng "cải cách" ấy sang tận nước Mỹ để
  phát triển thêm, và rồi một ngày đẹp trời, cha con Tillman lại tiếp tục mang
  theo sang tận xứ Mông Cổ xa xôi để cải đạo những người dân ở cái xứ này,
  những người dân chất phác chẳng hiểu biết gì về những chuyện "thâm cung
  bí sử" của Anh Quốc xảy ra từ năm thế kỷ trước.” 
Rất
  tiếc, vì dung
  lượng của trang Blog có giới hạn, chúng tôi đã không thể đăng được toàn bộ Chương
  nầy. Xin thành thật cáo lỗi cùng bạn đọc và tác giả/dịch giả Hoang Phong.
  Chúng tôi xin ân cần giới thiệu với bạn đọc Phân đoạn đó trên trang web Thư Viện Hoa Sen:   
Sự hình thành của các giáo phái
  Tin Lành Mỹ 
Miền Đất Hứa không nhất thiết chỉ
  thu hút những người nghèo đói hoặc nuôi mộng làm giàu mà còn là mảnh đất an
  toàn cho những người mong muốn tìm được sự tự do tín ngưỡng, được tôn thờ
  Thượng Đế theo quan điểm của mình. Nơi Miền Đất Hứa sự tự do tôn giáo đó đã
  bùng lên thật mạnh và đưa đến sự hình thành của vô số các giáo phái thật đa
  dạng. Các giáo phái này tuy thuộc chung trong Ki-tô Giáo nhưng tất cả đều chủ
  trương đứng ngoài quyền lực của Tòa Thánh La Mã. Sau đây là một vài giáo phái
  thịnh hành và tiêu biểu đã được đưa vào nước Mỹ hoặc được hình thành trên đất
  Mỹ. 
Giáo phái Thanh Giáo (Puritanism)
  được hình thành năm 1559 ở Anh Quốc với chủ đích triệt để "thanh
  lọc" (purify) Anh Giáo, chẳng hạn như loại bỏ các tàn tích nghi thức
  hành lễ của Thiên Chúa Giáo La Mã còn sót lại trong Anh Giáo. Các hình thức
  cải cách khá cực đoan của Thanh Giáo đã khiến các thành phần bảo thủ trong
  Anh Giáo chỉ trích thậm tệ và xem Thanh Giáo là "ngoại đạo". Những
  người theo Thanh Giáo bị kỳ thị và ngược đãi bèn di dân sang Mỹ và thiết lập
  trở lại giáo phái này ở các vùng New England (gồm sáu tiểu bang thuộc tây bắc
  nước Mỹ). 
Giáo phái Quakersism (còn gọi là
  Society of Friends/Hiệp Hội Thân Hữu, hoặc cũng còn được gọi một cách vắn tắt
  là Đạo của những người Quakers, chữ quakers có nghĩa là "những người run
  sợ" [trước Thượng Đế]) là một giáo phái Tin Lành do George Fox
  (1624-1691) thành lập ở Anh Quốc năm 1647 dưới hình thức một sự ly giáo chống
  lại Anh Giáo. Giáo phái này chủ trương một sự bình đẳng tuyệt đối, phá bỏ mọi
  đẳng cấp, tôn tri và thứ bậc (chủ trương đức tin mang tính cách cá nhân, tất
  cả mọi người đều là thân hữu và bình đẳng trên phương diện đức tin, không có
  chức tước, cha con hay giáo phẩm gì cả, và cũng không phân biệt Chúa Trời qua
  ba ngôi là Cha, Con, Thánh Thần). Người theo đạo Quaker bị kỳ thị, ngược đãi
  và tàn sát ở Anh, thế nhưng họ có đức tin rất vững và là những người rất gan
  lì (dù rằng được gọi là những người run sợ/quakers). Giáo phái này được đưa
  vào tiểu bang New-Jersey năm 1660 và bành trướng sau đó ở một số các tiểu
  bang như Rhode-Island, Maryland, Pennsylvania... 
Giáo phái Báp-tít (Baptism) là một
  giáo phái Tin Lành do John Smyth (1570-1612) một mục sư người Anh thành lập ở
  Hòa Lan năm 1609, sau đó giáo phái này được chính thức đưa vào nước Anh năm
  1689 và người di dân Anh Quốc đã mang sang Mỹ vào đầu thế kỷ XVII. Báp-tít là
  một giáo phái có nhiều tín đồ, nhiều tiền và cũng thế lực nhất ở Mỹ ngày nay
  (Tillman là một mục sư của giáo phái này). Chủ trương của Báp-tít là phải
  trực tiếp căn cứ vào giáo lý nêu lên trong Thánh Kinh và đặt vai trò của Giáo
  Hội cũng như uy quyền của hàng giáo phẩm vào hàng thứ yếu, đặc biệt nhất là
  rất tin vào phép rửa tội bằng cách trầm mình và ngụp đầu trong nước (theo tác
  giả Jay E. Adams trong quyển Meaning and Mode of Baptism, thì
  phép rửa tội theo cách trên đây đã được áp dụng từ những năm 1643). Trong
  thời kỳ chiến tranh Nam-Bắc ở Mỹ, đạo Báp-tít bị chia đôi thành hai giáo
  phái: Báp-tít Bắc và Báp-tít Nam, và sau đó mỗi giáo phái lại làm phát sinh
  ra nhiều chi phái nhỏ hơn.  
Rửa tội bằng cách trầm mình
  trong nước của các giáo phái Báp-tít. Trên phương diện  tổng quát, ý
  niệm tội lỗi là một sự ám ảnh rất sâu kín và nặng nề trên phương diện tâm lý
  con người nói chung, và những người theo các giáo phái của Ki-tô Giáo nói
  riêng. Rửa tội là một hình thức bên ngoài mang tính cách biểu trưng giúp làm
  nhẹ bớt đi sự ám ảnh đó bên trong nội tâm. 
Giáo
  phái Methodism (nguyên nghĩa của chữ này là "phương pháp" hay
  "phương cách") chủ trương phát huy các phương pháp thuyết giảng
  thật hữu hiệu nhằm thuyết phục người nghe và giúp họ phát huy đức tin,. Mục
  đích chính yếu của giáo phái này là làm gia tăng số người tin có Thượng Đế.
  Giáo phái Methodism do John Wesley (1703-1791) thành lập ở Anh vào thế kỷ thứ
  XVIII. Các mục sư của giáo phái này phải tích cực hô hào và thuyết giảng ở
  các nơi công cộng nhằm thu hút, quy tụ và thuyết phục người nghe. Anh Giáo
  chính thống không công nhận giáo phái này. Có thể kể ra một số các nhân vật
  nổi tiếng theo giáo phái Methodism như: Margaret Thatcher,  George W.
  Bush, Hillary Clinton, Nelson Mandela... 
Giáo Phái Presbyterianism là một
  giáo phái Tin Lành do John Knox (1513-1572) thành lập ở Tô Cách Lan
  (Scotland) vào thế kỷ XVI với chủ đích độc lập và đứng ra ngoài  Giáo
  Hội Anh Quốc (trong lịch sử, Tô Cách Lan và Anh Quốc là hai "nước"
  khác nhau, luôn kình chống và gây chiến với nhau). Giáo phái này chủ trương
  một sự bình đẳng tuyệt đối, không chấp nhận các hình thức phẩm trật của Thiên
  Chúa Giáo La Mã như các vị phó tế (deacon), linh mục, giám mục, tổng giám
  mục... và mỗi tín đồ đều là một "mục sư". Gần đây hơn, ngày 17
  tháng 3 năm 2015 vừa qua, có tin là giáo phái Presbyterianism (Presbyterian
  Church) ở Mỹ chính thức cho phép những người đồng tính luyến ái được kết hôn. 
Giáo phái Cơ Đốc Phục Lâm
  (Adventism), là một giáo phái do nhà tiên tri William Miller (1782-1849) sáng
  lập ở Mỹ năm 1844, chủ trương sự "xuất hiện trở lại của Chúa
  Ki-tô". William Miller gốc nông dân, tự học và say mê nghiên cứu Thánh
  Kinh, trước đó theo Tin lành Báp-tít. Theo các con tính của ông thì Chúa
  Ki-tô sẽ hiện xuống địa cầu trong khoảng thời gian giữa 21 tháng 3 năm 1843
  và 21 tháng 3 năm 1844, thế nhưng sau thời điểm trên đây chẳng có gì khác
  thường xảy ra cả. William Willer bèn giải thích là trong các con tính của
  mình có một chỗ sai nhỏ, và sau khi tính lại thì ông nhất định là Chúa Ki-tô
  sẽ hiện xuống địa cầu ngày 22 tháng 10 năm 1844. Thế nhưng lại thêm một lần
  nữa cũng sai nốt. Các tín đồ theo ông bèn tách ra làm hai nhóm, một nhóm quay
  về với các giáo phái trước đây của mình, một nhóm tiếp tục tin theo William
  Miller và thành lập ra giáo phái Adventism (Evangelical Adventists, còn gọi
  là Giáo Phái ngày Thứ Bảy, có nghĩa là ngày chết của Chúa và cũng là ngày báo
  hiệu sự phục sinh của Ngài). 
Giáo phái Mormonism (còn gọi
  là  "Giáo Hội Ki-tô của Các Thánh Cuối Cùng") do Joseph Smith
  (1805-1844, chết vì bị ám sát) sáng lập ở Mỹ năm 1830. Những người theo giáo
  phái này diễn đạt Thánh Kinh theo quan điểm của họ và viết thành một quyển
  Thánh Kinh mới gọi là Kinh Mormon. Họ tin rằng Chúa Ki-tô đã phục sinh và
  hiện nay vẫn còn sống trên địa cầu, do đó họ không sử dụng các biểu tượng như
  thánh giá, các ảnh tượng Chúa Giê Su..., mà chỉ duy nhất sử dụng ảnh tượng
  của vị tiên tri Moroni của họ, dưới thể dạng một vị thiên thần ngước cổ thổi
  kèn biểu trưng cho việc quảng bá Phúc Âm. Giáo phái này chủ trương đa thê với
  mục đích làm gia tăng tín đồ cho giáo phái (ngoài việc thuyết phục người
  khác). Giáo chủ Joseph Smith có khoảng 30 đến 40 vợ, trong số này các bà vợ
  trẻ nhất chỉ mới 14 tuổi (1/3 các bà vợ của ông ở lứa tuổi từ 14 đến 20). Chế
  độ đa thê được áp dụng trong suốt 50 năm, trong thời gian này khoảng 20% đến
  40% tín đồ đàn ông đã thực thi chế độ đa thê, có một ông có đến hơn 50 bà vợ.
  Giáo phái này cho biết là chế độ đa thê chỉ là hình thức tái lập lại những gì
  mà các vị tiên tri trong quá khứ đã từng nói đến, và theo lời các vị tiên tri
  ấy thì ngay cả Chúa Trời cũng đã từng tạm thời cho phép với mục đích làm gia
  tăng số con chiên của Ngài trên địa cầu. Trong các năm gần đây dư luận và báo
  chí ở Mỹ và khắp nơi trên thế giới bỗng xôn xao trở lại về chuyện này vì cho
  rằng giáo phái Mormonism ở Mỹ đang âm thầm tái lập lại chế độ đa thê. 
Một số vợ và con của giáo chủ Joseph
  Smith.  
Hình trái: Joe Darger và ba bà vợ, và cũng là ba
  người em họ của ông. Trong số này hai người là hai chị em sinh đôi. - Hình phải: Gia đình của Joe Darger, vợ và 24
  người con. 
(Hình trích từ trang
  mạng MailOnline của Mỹ đăng ngày 2 tháng 5 năm 2012. Nhiều trang mạng khác và
  báo chí khắp nơi trên thế giới (trong số này có tạp chí Nouvel Observateur
  của Pháp số ngày 3 tháng 3 năm 2014) cũng đã tường thuật về sự kiện này và
  đăng lại các hình trên đây, và cho rằng chế độ đa thê dường như đang được
  giáo phái Mormon kín đáo tái lập (theo bản tin của hãng thông tấn AFP). 
Giáo phái Nhân Chứng Giê-hô-va
  (Jehovah's Witness) tách ra từ giáo phái Cơ Đốc Phục Lâm (Adventism), do
  Charles Taze Russell (1852-1916) sáng lập năm 1870 ở tiểu bang Nữu Ước. Giáo
  phái này bác bỏ khái niệm về Chúa Ba Ngôi (Trinity/Cha, Con, Thánh Thần) và
  chỉ tin vào một vị Trời duy nhất mang tên là Giê-hô-va. Về phần giáo lý thì
  họ tin vào thuyết tận thế (echatology), và con người hiện nay đang sống ở
  giai đoạn cuối cùng trước khi tận thế xảy đến. Bằng các phương tiện như chiến
  tranh, nghèo đói, bệnh tật, thiên tai (nhất là động đất)...,vị Trời Giê-hô-va
  sẽ tận diệt tất cả những ai không thần phục Ngài, và sau đó sẽ khởi đầu một
  giai đoạn mới gọi là "Thời đại của Chúa Ki-tô", và thời đại này sẽ
  kéo dài 1000 năm. Trong "Thời đại của Chúa Ki-tô" sẽ không còn
  những cảnh bất công, chiến tranh, thiên tai, động đất..., và nhất là con
  người sẽ không còn bệnh tật và tất cả đều trở nên bất tử. Giáo phái này cấm
  tiếp máu dù bị tai nạn hay bệnh tật ngặt nghèo, bởi vì sinh mạng của mỗi
  người là do ý chí và sự quyết định của Trời. Ngoài ra giáo phái này còn
  khuyến cáo tín đồ không được tố cáo những chuyện lạm dụng tính dục với trẻ em
  (pedophilia) vì có thể làm phương hại đến thanh danh của giáo phái,
  v.v...  
Thật ra còn rất nhiều các giáo
  phái và chi phái khác phát triển ở Mỹ, thế nhưng không sao kể ra hết được
  trong khuôn khổ những lời ghi chú này. Nói chung Tin Lành Giáo là một hình
  thức ly giáo, tách ra khỏi Thiên Chúa Giáo La Mã vào thế kỷ XVI, với chủ đích
  phủ nhận uy quyền của Giáo Hoàng và toàn bộ hệ thống Giáo Quyền của Tòa Thánh
  Vatican, và đồng thời đưa ra một số cải cách trên phương diện giáo lý cũng
  như việc thực thi nghi lễ. Trước đó vào năm 1054 cũng đã từng có một sự ly
  giáo quan trọng khác xảy ra đưa đến sự hình thành của Chính Thống Giáo
  (Orthodox Christianity), thế nhưng sự ly giáo này lại chủ trương một đường
  hướng trái ngược lại với Tin Lành Giáo bằng cách tự cho mình là trung thực và
  theo đúng truyền thống của Ki-tô Giáo và cho rằng Thiên Chúa Giáo La Mã là
  lệch lạc. 
Một cách tổng quát, Tin Lành Giáo
  gồm có bốn nhóm chính, mỗi nhóm phát sinh và bành trướng trong các vùng địa
  lý khác nhau. Nhóm thứ nhất là đạo/giáo phái Luther (Lutherianism) do Martin
  Luther thành lập ở Đức năm 1521. Ông bị Tòa Thánh La Mã khai trừ và phải lánh
  nạn ở Thụy Sĩ. Giáo phái Luther sau đó phát triển ở Đức, Đan Mạch và các nước
  Bắc Âu. Nhóm thứ hai là Anabaptism (nguyên nghĩa của chữ này trong tiếng Hy
  Lạp là "rửa tội trở lại" với hậu ý nói lên một sự "cải
  cách" hay "đổi mới) gồm chung nhiều phong trào "cách
  mạng" tách ra khỏi Thiên Chúa Giáo La Mã. Các nhóm này lần lượt được
  hình thành trong suốt thế kỷ XVI ở Đức và Thụy Sĩ, và sau đó được đưa vào Hòa
  Lan và Anh Quốc. Ngày nay các giáo phái trong nhóm thứ hai này được gọi chung
  là đạo Tin Lành Phúc Âm (Evangelical Church), trong số này có thể kể ra các
  giáo phái Báp-tít và Tin Lành Ngũ Tuần (Pentecotism). Nhóm thứ ba là Anh Giáo
  (Anglicanism) do vua Henry VIII thiết lập năm 1534 (đã được nói đên trên
  đây). Nhóm thứ tư là giáo phái Calvin phát sinh từ nhiều nhóm khác nhau do
  nhiều người chủ xướng, trong số này có Jean Calvin (1509-1564) là người nổi
  bật nhất, do đó "phong trào" cải cách gồm nhiều nhóm trên đây được
  gọi chung là giáo phái Calvin hay Calvinism. Jean Calvin là người Pháp, bỏ
  đạo Thiên Chúa La Mã và gia nhập các phong trào cải cách này năm 1530, trong
  lúc mà Tin Lành Giáo đang bị ngược đãi và sát hại ở Pháp, và Jean Calvin đã
  phải lánh nạn sang Thụy Sĩ. Giáo phái Calvin phát triển ở các nước Thụy Sĩ,
  Hòa Lan, Tô Cách Lan, Hung Gia Lợi, Ba lan và Pháp. 
Ngoài lý do sinh tồn, bối cảnh tín
  ngưỡng sôi sục ở Âu Châu tạo ra bởi tình trạng kỳ thị các giáo phái Tin Lành
  vừa được thành lập, đã thúc đẩy một số người Âu Châu theo các giáo phái này
  rời bỏ quê hương họ để lánh nạn ở Mỹ. Nơi Miền Đất Hứa tự do, các giáo phái
  này lại được tổ chức trở lại, và sau đó tiếp tục biến dạng và làm phát sinh
  ra vô số những giáo phái mới đưa đến sự hình thành của nền tín ngưỡng đặc thù
  của nước Mỹ. 
Những đóng góp của người di dân
  vào sự hình thành của nền tín ngưỡng ở Mỹ    
Nếu sự pha trộn và hòa đồng giữa
  các nhóm di dân mang nguồn gốc khác nhau đã làm phát sinh ra "dân
  tộc" Mỹ, và nếu sức làm việc của họ đã mang lại sự phồn vinh cho một
  vùng đất mới mênh mông, thì các giáo phái mà họ mang theo cũng đã tạo ra một
  tình trạng tín ngưỡng vô cùng đa dạng và phức tạp. Người ta thường ví sự
  "pha trộn" và "hòa đồng" giữa những người di dân nơi Miền
  Đất Hứa với một "lò nung kim loại" (melting-pot). Thuật ngữ này
  xuất hiện lần đầu năm 1924 và các thống kê thời bấy giờ cho biết là 80% dân
  chúng cho rằng hình ảnh so sánh ấy có thể biểu trưng trung thực cho xã hội
  Mỹ, thế nhưng ngày nay không còn mấy ai đồng tình với cách so sánh đó nữa mà
  nhiều người cho rằng sự "hòa đồng" ấy thật ra cũng chỉ là một
  "thố sà lách" (salad bowl, người Tây Phương thường trộn chung sà
  lách với cà chua, củ hành, v.v.). Lò nung kim loại hay cái thố sà lách ấy gồm
  có nhiều chủng loại và màu sắc khác nhau, từ xã hội, văn hóa, tập quán cho
  đến tín ngưỡng. Trong khuôn khổ những lời ghi chú này, chúng ta cũng sẽ chỉ
  tìm hiểu sơ lược một vài nét về sự hình thành của nền tín ngưỡng chung của
  nước Mỹ mà thôi.  
Trong số các tập thể di dân thì
  tập thể nói tiếng Anh là đông nhất, gồm người Bắc Ái Nhĩ Lan (thời bấy giờ
  gọi là Scotch-Irish), người Anh, người Tô Cách lan, người Ga-lơ (Welsh/miền
  nam nước Anh). Trong số này người Bắc Ái Nhĩ Lan là tập thể đông nhất, họ
  theo Thiên Chúa Giáo La Mã và cũng thường là những người nghèo khổ nhất nơi
  quê hương họ trước khi ra đi. Trên đất Mỹ họ thường gây ra nhiều việc phạm
  pháp, do đó cũng mang nhiều tai tiếng nhất. Họ rất "liều lĩnh" và
  thường xung phong "di dân" lần thứ hai, ra đi tìm đất sống ở miền
  Viễn Tây xa xôi (Far West), và thường hay bị người da đỏ phục kích giết hại.
  Tống Thống Robert Kennedy là người gốc Bắc Ái Nhĩ Lan theo Thiên Chúa Giáo La
  Mã. Số còn lại trong tập thể những người nói tiếng Anh đều theo Tin Lành Giáo
  với nhiều giáo phái khác nhau. 
Nhóm di dân quan trọng thứ hai là
  người Đức, thường tập trung ở tiểu bang Pennsylvania. Thống kê năm 1760, cho
  biết là 33% dân số của tiểu bang này là người gốc Đức. Họ rất khắc khổ, cần
  cù, chịu khó, rất giỏi về canh nông và chăn nuôi. Tín ngưỡng của họ cũng phức
  tạp nhất, gồm các giáo phái Tin Lành như: Pietist, Menonist, Moravian,
  Swenkfelder, Amish, Dunker, v.v... Họ sống chung đụng với nhau, nói tiếng
  Đức, chính vì thế mà những người di dân Anh không thích tập thể này, lý do là
  lối sống của người Đức đi ngược lại với chủ trương của họ là áp đặt tập quán,
  văn hóa cũng như ngôn ngữ của mình cho toàn thể nước Mỹ. Benjamin Franklin
  (1706-1790), gốc người Anh theo Thanh Giáo (Puritanism), là một trong những
  người soạn thảo bản tuyên ngôn độc lập và bản hiến chương của Hoa Kỳ, và cũng
  được xem là một trong những vị cha đẻ của nước Mỹ, rất lo ngại là nước Mỹ sau
  này sẽ bị Đức hóa. Trong một lá thư viết cho Ezra Stlies (1727-1795) theo đạo
  Tin Lành Calvin ông có viết một câu như sau: "Tôi chỉ tin vào một vị
  Thượng Đế duy nhất... Đối với Giê Su Nazareth..., thì tôi không tránh khỏi ít
  nhiều Nghi Ngờ về tính cách Thiêng Liêng của Vị này/I believe in one God...
  As for Jesus of Nazareth ... I have ... some Doubts to his Divinity). Năm
  1754 "Hiệp hội quảng bá Kiến Thức Ki-tô Giáo cho người Đức ở Mỹ"
  (Society for the Propagating of Christian Knowledge among the Germans in
  America) đã được thành lập. Điều này cho thấy giữa các tập thể di dân cũng đã
  xảy ra rất sớm sự kỳ thị tín ngưỡng và các ý định "cải đạo" lẫn
  nhau. 
Ở Pháp trong suốt hậu bán thế kỷ
  XVI, tám trận chiến tranh tôn giáo liên tiếp xảy ra giữa Thiên Chúa Giáo La
  Mã và Tin Lành Giáo, nhiều làng mạc bị giết sạch. Chiến tranh chấm dứt bằng
  "Sắc lệnh Nantes" (Édit de Nantes) do vua Henri IV ban hành năm
  1598, cho phép những người theo đạo Tin Lành được tự do hành đạo, được giữ
  quyền công dân và tham gia chính trị. Thế nhưng gần một trăm năm sau sắc lệnh
  này lại bị vua Louis XIV hủy bỏ vào tháng 10 năm 1685 bằng một sắc lệnh khác
  gọi là "Sắc lệnh Fontainebleau". Sau khi sắc lệnh mới này được ban
  hành, khoảng 300 000 người theo các giáo phái Tin Lành, thường được gọi chung
  là những người huguenots, đã rời bỏ nước Pháp. Hầu hết chạy sang Mỹ, số còn
  lại tản mác khắp nơi ở Âu Châu. Người Pháp di dân sang Mỹ rất sở trường về
  việc buôn bán và trở nên giàu có nhanh chóng. Câu tục ngữ "giàu có như
  người huguenots" rất phổ biến thời bấy giờ. Người di dân Pháp theo đạo
  Tin Lành sinh sống tại các vùng hải cảng dọc bờ Đại Tây Dương. Họ học tiếng
  Anh rất nhanh và ngoài việc thương mại ra thường được đề cử đảm trách các
  chức vụ hành chánh quan trọng. Không như người Đức, họ được người di dân Anh
  rất quý trọng. Thế nhưng sau khi các cuộc chiến tranh tranh dành các quyền
  lợi thuộc địa bùng nổ giữa Anh và Pháp vào đầu thế kỷ XIX thì người di dân
  Pháp trên đất Mỹ bị người di dân Anh kỳ thị và phải dần dần rút về phía miền
  nam (New Orleans). 
Người Hòa Lan di dân đến Mỹ rất
  sớm và thiết lập "Quốc Gia Hòa Lan Mới" (1609-1674), với "thủ
  đô" là Nieuw Amsterdam (New Amsterdam). Năm 1664 người di dân Anh tiến
  chiếm thành phố này và đổi tên là New York (Nữu Ước). Cũng tương tự như
  trường hợp người Đức, người di dân Hòa Lan tìm cách sống chung với nhau nhằm
  bảo tồn tập quán, văn hóa và ngôn ngữ của mình. Các trường học của họ giảng
  dạy bằng tiếng Hòa Lan. Thế nhưng dần dần với thời gian, người di dân Hòa Lan
  cũng như người Đức không sao tránh khỏi bị đồng hóa bởi văn hóa, tập quán và ngôn
  ngữ của người Anh. Phần đông người di dân Hòa Lan theo Do Thái Giáo, một ít
  theo Tin Lành. Nói chung ở Mỹ người di dân theo Do Thái Giáo vẫn bị kỳ thị
  không kém gì ở Âu Châu, tuy thế trong khoảng thời gian từ 1880 đến 1924 cũng
  đã có hơn ba triệu rưởi người theo Do Thái Giáo rời bỏ Âu Châu để đến Mỹ,
  nhất là từ các nước Đông Âu, tập thể này chiếm một nửa tổng số những người di
  dân trong khoảng thời gian trên đây. Trước khi xảy ra Thế Chiến Thứ Hai, lại
  có thêm một đợt di dân khác của những người theo Do Thái Giáo ở Âu Châu,
  trong số những người này có nhà bác học Albert
  Einstein.      
"Lò nung kim loại" của
  Miền Đất Hứa dần dần biến người di dân đến từ khắp nơi trở thành công dân của
  một quốc gia mới, hội nhập vào một nền văn hóa mới. Thế nhưng dường như trên
  phương diện tín ngưỡng thì vẫn còn là một "thố sà lách" gồm những
  gì mà họ mang theo từ lục địa Âu Châu kỳ thị, già nua và cằn cỗi. Thố sá lách
  đó được pha trộn thêm các gia vị mới, phù hợp với khẩu vị của một dân tộc đa
  nguyên trong một bối cảnh tín ngưỡng tự do quá trớn. Ngoài các giáo phái phát
  sinh từ trước ở Âu Châu tiếp tục được phát triển thêm trên đất Mỹ với ít
  nhiều biến dạng, thì người di dân trên đất Mỹ còn phát minh ra thêm vô số các
  giáo phái mới nữa. Thế nhưng thật ra "giáo lý" của tất cả các giáo
  phái này cũng như của các giáo phái đã được du nhập từ Âu Châu chẳng có gì
  mới lạ, cũng chỉ loanh quanh dựa vào các cách diễn đạt khác nhau về một vài
  câu hay một vài khái niệm nào đó trong Thánh Kinh, và nhất loạt không thừa
  nhận sự độc tôn của Tòa Thánh Thiên Chúa Giáo La Mã. 
Sự tự do tôn giáo và nhà nước ở Mỹ 
Như đã nói đến trên đây, một trong
  các động cơ chính yếu thúc đẩy người di dân là tình trạng kỳ thị tín ngưỡng
  Tin Lành trên quê hương họ. Tự do tôn giáo trở thành một nỗi ám ảnh to lớn nhất
  đối với người di dân nói chung. Trong lần sửa đổi Hiến Pháp đầu tiên của nước
  Mỹ, một bản Tuyên Ngôn các Quyền Hạn (Bill of Rights) đã được đưa ra và được
  biểu quyết ngày 25 tháng 9 năm 1789, và sau đó được áp dụng kể từ ngày 15
  tháng 12 năm 1791. Điều khoản sửa đổi (Amendment) số I trong bản Tuyên Ngôn
  trên đây nêu lên hai điểm chủ yếu: thứ nhất là Quốc Hội không được quyền đưa
  ra bất cứ một đạo luật nào nhằm thiết lập một tôn giáo chính thức (có nghĩa
  là không được xem bất cứ một tôn giáo nào là quốc giáo), điều thứ hai là
  không được cấm đoán sự tự do hành đạo, tức là chủ trương sự tự do tôn giáo
  (Amendment I: Congress shall make no law respecting an establishment of
  religion, or prohibiting the free exercise thereof). 
Thế nhưng trên thực tế thì thật hết
  sức trớ trêu, nghịch lý và mâu thuẫn, bởi vì chính quyền Mỹ cũng như xã hội
  Mỹ luôn tự nhận mình là một quốc gia theo Ki-tô giáo. Các vị tổng thống Mỹ
  khi nhậm chức phải áp tay lên một quyển Thánh Kinh để thề nguyện và mỗi khi
  đọc diễn văn thì thường là phải nhắc đến Thượng Đế. Ở đầu giường trong các
  khách sạn thường có đặt sẵn một quyển Thánh Kinh của Tin Lành Giáo ("King
  James Bible", một bản "Thánh Kinh" được dịch ở Anh Quốc
  năm 1611, dưới triều đại của vua James Stuart). Trong thời kỳ chiến tranh
  lạnh giữa Mỹ và Liên Bang Xô Viết vào hậu bán thế kỷ XX, khẩu hiệu "Một
  Quốc Gia dưới [quyền lực/sự bảo vệ của] Thượng Đế" (A Nation under God)
  đã được nhà nước Mỹ nêu cao, quảng bá và tuyên truyền rầm rộ, với mục đích tự
  phân biệt mình với các nước Cộng Sản vô thần. Ngoài ra trên đồng đô-la cũng
  như trong bản quốc ca đều có câu "Chúng tôi đặt lòng tin nơi Thượng
  Đế" (In God we trust). Trên phương diện hiến pháp thì Nhà Nước phải độc
  lập và tách ra khỏi Nhà Thờ, thế nhưng trên thực tế thì Nhà Nước lại xem
  Ki-tô Giáo là "quốc giáo".  
Hình trái: Đồng đô-la có hàng chữ "In God
  we Trust" (Chúng tôi đặt lòng tin nơi Thượng Đế). Hình phải: Kể cả đồng tiền một xu cũng có khắc
  câu này. 
(Đồng tiền đôi khi cũng không được sạch sẽ
  gì, vì thế thiết nghĩ - nếu tin vào Thượng Đế - thì tốt hơn nên đặt Thượng Đế
  trong tâm hồn mình hay trong con tim của mình). 
Đối với điều khoản thứ hai là sự
  tự do hành đạo thì như thế nào? Nếu điều khoản bắt buộc Nhà Nước phải độc lập
  và đứng ra ngoài Nhà Thờ không hề được tôn trọng ở Mỹ, thì trái lại điều
  khoản tự do hành đạo lại được tôn trọng một cách quá đáng, hơn nữa lại còn
  được đẩy đi quá xa: người dân chẳng những có quyền theo bất cứ đạo nào, giáo
  phái nào mà cả việc sáng chế ra các giáo phái mới cũng hoàn toàn được tự do.
  Sự tự do hành đạo và sáng chế ra các giáo phái mới chẳng phải là chủ đích mà
  những người di dân hằng mong cầu khi rời bỏ xứ sở của họ để đến Miền Đất Hứa
  hay sao? Thế nhưng sự tự do quá trớn đó đã đưa đến những sự lạm dụng không
  thể chấp nhận được. Chỉ cần nêu lên một thí dụ cũng đủ, đó là giáo phái
  "Giáo đường của người dân" (The People's Temple) do James Warren
  Jones (1931-1978) thường được gọi dưới tên Jim Jones, sáng lập sau khi được
  thụ phong mục sư Tin Lành của giáo phái "Các tông đồ của Chúa Ki-tô"
  (The Disciples of Christ) năm 1964. Giáo phái do Jim Jones sáng lập cổ súy
  việc tự tử tập thể, và việc này cũng đã xảy ra ở Guyana (Nam Mỹ), ngày 18
  tháng 11 năm 1978, khiến 918 người chết trong đó có cả Jim Jones, và trong số
  này có 276 trẻ em. 
 Mục sư Jim Jones và trẻ em 
Người di dân Âu Châu sở dĩ phải ra
  đi cũng chỉ vì trên quê hương họ các giáo phái "cải cách"
  (non-conformist) bị ngược đãi và chính bản thân họ cũng bị hăm dọa. Họ vượt
  Đại Tây Dương để đặt chân lên đất Mỹ hầu tìm cho mình một mảnh đất "an
  toàn" (refuge). Sự tự do tín ngưỡng nơi Miền Đất Hứa trở thành một lý
  tưởng và cả một sự ám ảnh đối với họ. Trong khi đạo luật tách rời Nhà Thờ và
  Nhà Nước ở Pháp chỉ được Quốc Hội biểu quyết vào năm 1905, thì điều khoản này
  (dù chỉ là trên mặt lý thuyết) và sự tự do tín ngưỡng đã được đưa vào hiến
  pháp Mỹ từ năm 1791! Cũng xin mạn phép ghi chú thêm là ngày nay ở các nước Âu
  Châu, chính quyền vẫn thường xuyên canh chừng và kiểm soát các giáo phái nhằm
  ngăn chận mọi sự lạm dụng và lừa bịp những người yếu đuối và nhẹ dạ. Nói
  chung không như ở Mỹ nhiều giáo phái ngày nay ở Âu Châu không hề được xem là
  tôn giáo và không được hưởng các quy chế quy định cho một tôn giáo. 
Năm 1777 Thomas Jefferson
  (1743-1826, trở thành tổng thống thứ ba của nườc Mỹ từ năm 1801 đến 1809) đã
  bắt đầu kín đáo soạn thảo Đạo Luật Tự Do Tín Ngưỡng của tiểu bang Virginia
  (Virginia Statute for Religious Freedom) và sau đó đã đưa ra bàn thảo trước
  "Đại Hội Dân Biểu" (Virginia General Assembly) của tiểu bang này
  năm 1779, và đã được Đại Hội Dân Biểu của tiểu bang biểu quyết và trở thành
  luật năm 1786. Trong lần sửa đổi hiến pháp đầu tiên của nước Mỹ năm 1791 đạo
  luật này đã được đưa vào Hiến Pháp của nước Mỹ dưới cái tên là Bản Tuyên Ngôn
  về các Quyền Hạn (Bill of Rights) như đã được nói đến trên đây. 
Nếu nhìn vào trường hợp của Việt
  Nam thì làn sóng di cư từ miền Bắc năm 1954 với một số tập thể theo Thiên
  Chúa Giáo La Mã đã tạo ra ít nhiều ảnh hưởng đến sinh hoạt xã hội và chính
  trị ở miền Nam. Các ảnh hưởng đó có thể phản ảnh qua sự chi phối trực tiếp
  hay gián tiếp của ngoại bang vào chính trường Việt Nam xuyên qua các vị tổng
  thống theo Thiên Chúa Giáo La Mã. Dù rằng hình ảnh trên đây mang tính cách
  thật giới hạn và thu hẹp thế nhưng cũng có thể mang lại một vài ý niệm nào đó
  giúp chúng ta tìm hiểu và so sánh với ảnh hưởng của các phong trào di dân của
  các tập thể tín ngưỡng ở Âu Châu vào nước Mỹ qua nhiều thế kỷ liên tiếp. Thật
  vậy các giáo phái Tin Lành du nhập hay phát sinh trên đất Mỹ rất sinh động,
  tích cực và nhất là rất dồi dào về tài chính, đã gây ra nhiều tác động đối
  với sinh hoạt xã hội, và các đường hướng chính trị ở Mỹ. Tổ Chức Từ Thiện Hoa
  Kỳ (Foundation Giving USA) cho biết là tổng số tiền quyên góp với mục đích từ
  thiện của người dân Mỹ năm 2008 là 307.65 tỉ đô-la, xấp xỉ với ngân quỹ quốc
  gia của cả nước Pháp trong cùng năm này (người chuyển ngữ không tìm được các
  thống kê mới hơn). Trong số tiền quyên góp này, 35% là dành cho Nhà Thờ,
  trong khi đó các tổ chức khác chẳng hạn như các cơ quan y tế từ thiện chỉ
  nhận được 7%  và  các tổ chức bảo vệ môi sinh 2%. Các con số này
  cho thấy hết sức rõ ràng ảnh hưởng rộng lớn của tín ngưỡng trong sự sinh hoạt
  của xã hội Mỹ. Người làm chính trị tất nhiên là phải nhận thấy sự kiện này. 
Tín ngưỡng phải chăng cũng là một
  thứ vũ khí? 
Sở dĩ dông dài như trên đây là
  nhằm giúp chúng ta hiểu được tại sao Tillman đã bán hết cơ sở sinh nhai của
  mình để tìm cách cải đạo người dân Mông Cổ và cha của Tillman đã thiết lập
  được một cơ sở truyền giáo ở một xứ sở thật xa xôi. Thật ra các giáo phái Tin
  Lành của Mỹ và Ki-tô Giáo nói chung không những chỉ nhắm vào mục đích cải đạo
  người Mông Cổ mà cả thế giới. Nếu nhìn vào phúc trình năm 2013 của Chủng Viện
  Thần Học Gordon-Conwell (Gordon-Conwell Theological Seminary) thuộc giáo phái
  Báp-tít được thành lập từ năm 1888 với trụ sở chính ở tiểu bang
  Massachusetts, về sự phát triển nhanh chóng của đạo Ki-tô trên thế giới sẽ
  không khỏi khiến chúng ta phải kinh ngạc. Trong số 20 quốc gia mà các giáo
  phái Ki-tô phát triển nhanh nhất thế giới, có 11 nước theo Hồi Giáo (6 ở Trung
  Đông và 5 ở Phi Châu). Trong số 20 quốc gia này, nước chiếm kỷ lục là Nepal
  (theo Ấn Giáo) với chỉ số người theo Ki-tô giáo gia tăng trung bình hàng năm
  (Percentage Christianity Average Annual Growth Rate - AAGR) là 10.93%. Đứng
  hàng thứ hai là Trung Quốc (được xem là quốc gia không tôn giáo) với chỉ số
  10.86%. Trong danh sách này có 3 nước Phật Giáo: Mông Cổ đứng hàng thứ 8 với
  5.96%, Campuchea đứng hàng thứ 9 với 5.87%, và Singpore đứng hàng thứ 19 với
  4.12%. Nếu so chỉ số cải đạo (Chrstianity AAGR) với chỉ số gia tăng dân số
  (Population AAGR) thì ba quốc gia có chỉ số cải đạo theo Ki-tô Giáo cao nhất
  thế giới là Trung Quốc, Nepal, Campuchea và Mông Cổ (xem phụ lục 1). Riêng
  đối với trường hợp Việt Nam thì Bộ Ngoại Giao Mỹ đưa ra con số rất "ấn tượng"
  (nói theo ngôn ngữ mới của báo chí ngày nay) là 600% chung cho 10 năm sau
  này! ("Annual Report on International Religious Freedom for 2005 -
  Vietnam". U.S. Department of State, 2005-06-30. Retrieved
  2007-03-11). Trong khi đó thì Hồi Giáo nào có "buông tay" vô điều
  kiện đâu: chỉ số cải đạo của Hồi Giáo trên thế giới cũng gia tăng không kém,
  đặc biệt nhất là đối với những người gốc Trung Đông và Phi Châu đã du nhập và
  định cư bên trong lãnh thổ của các nước Tây Phương! Trên bình diện tổng quát,
  trong khoảng thời gian từ năm 2000 đến 2010, chỉ số gia tăng toàn cầu của
  Ki-tô Giáo là 1.31% và chỉ số gia tăng của Hồi Giáo là 1.83% (xem phụ lục 2). 
Những gì nêu lên trên đây cho thấy
  là một cuộc xung đột kín đáo, êm thắm, không hề được tuyên bố, nhưng không
  phải vì thế mà kém sôi sục, đã và đang mở ra cho nhân loại, và vũ khí được
  mang ra sử dụng là tín ngưỡng. Thật vậy chiến tranh nóng và chiến tranh lạnh
  đã lỗi thời từ cuối thế kỷ XX. Chiến tranh ngày nay đã thay đổi bộ mặt: đó là
  một cuộc chiến với các loại "vũ khí nguội" là kinh tế, kỹ thuật và
  tín ngưỡng. Chiến tranh kinh tế là cách làm cho kẻ địch phải lệ thuộc vào sự
  giàu có và giá trị đồng tiền của mình, nhằm biến họ trở thành những người nô
  lệ phục vụ cho sự tiêu dùng của mình. Chiến tranh kỹ thuật là cách làm cho kẻ
  địch luôn ở trong tình trạng lạc hậu, không bao giờ bắt kịp sự tiến bộ khoa
  học và kỹ thuật mà mình đang có. Các nước tân tiến luôn luôn có sẵn các phát
  minh mới trong két sắt và chỉ tung ra khi nào các nước chậm tiến bắt đầu bắt
  chước được, hoặc theo kịp các kỹ thuật mà mình đang nắm giữ ưu thế. Chiến
  tranh tín ngưỡng là cách làm cho kẻ địch tự đánh mất nhân phẩm, cá tính và
  truyền thống văn hóa của dân tộc mình, biến họ trở thành những con người nô
  lệ, ngoan ngoãn trên phương diện tâm lý và mất gốc trên phương diện văn hóa.
  Nêu lên điều này không phải là một cách khích động sự hận thù giữa các tôn
  giáo và các dân tộc khác nhau mà trái lại là cách giúp mỗi người trong chúng
  ta ý thức được là không nên để mình vô tình trở thành những người lính của các
  đạo quân tín ngưỡng. Ý thức được điều ấy sẽ giúp chúng ta biết thận trọng
  hơn, không hăng say cải đạo người khác một cách mù quáng. Đấy mới thật là
  cách mang lại một sự hòa đồng tôn giáo đích thật và chân
  chính.    
Nếu bom hạt nhân, hàng không mẫu
  hạm, phi cơ oanh tạc khổng lồ trong cuộc chiến tranh lạnh của hậu bán thế kỷ
  XX đã lỗi thời, thì thị trường các loại vũ khí nóng tầm cỡ trung bình và cá
  nhân vẫn tiếp tục được sản xuất mạnh và tràn ngập khắp nơi trên thế giới.
  Nước Mỹ đứng hàng đầu trong việc xuất cảng vũ khí nóng và cũng là nước xuất
  cảng vô địch về vũ khí "êm dịu" là các giáo phái Tin Lành rất hiện
  đại, tân tiến và dồi dào về tài chính. Dủ không tạo ra các tác động ngoạn
  mục, thế nhưng tín ngưỡng là một loại vũ khí hay ít ra cũng là một công cụ
  "đạo đức", ít tốn kém và hữu hiệu trong lâu dài. Nước Nga đứng hàng
  thứ hai về xuất cảng vũ khí nóng thế nhưng Chính Thống Giáo thì lại quá xưa
  và không thấy ai mua! Trung Quốc đứng hàng thứ ba thế nhưng về vấn đề tín
  ngưỡng và tâm linh - kể cả đạo đức - lại là con số không, bởi vì không có gì
  để mà bán. Phật Giáo Trung Quốc ngày nay đã lỗi thời chỉ còn rơi rớt lại một
  chút vang bóng mà thôi. Hai nước xuất cảng vũ khí nóng đứng hàng thứ tư và
  thứ năm là hai nước cựu thực dân: đó là nước Pháp và nước Anh, hai nước này
  cũng đã từng tích cực sử dụng loại vũ khí "đạo đức" trên đây trong
  thời kỳ thuộc địa. Dù chế độ thực dân đã cáo chung vào đầu thế kỷ XX, thế
  nhưng hậu quả gây ra bởi các thứ vũ khí ấy vẫn còn tiếp tục gây ra tác hại
  ngày nay. Trong một số các quốc gia từng là thuộc địa, các cuộc xung đột kín
  đáo giữa những người dân cùng một giống nòi, xử dụng các loại vũ khí "êm
  thắm" mà những người thực dân lưu lại cho họ, đôi khi cũng đã bùng lên
  thật nóng bỏng 
Trở về với nước Mỹ thì những người
  di dân trước đây cũng đã từng sử dụng loại vũ khí này trong các kế hoạch
  "phúc âm hóa" (evangelisation) người da đỏ bản xứ (natives) và
  người nô lệ da đen được mang từ Phi Châu vào nước Mỹ. Phúc âm hóa người da đỏ
  là để đồng hóa và diệt chủng họ, và người di dân Mỹ cũng đã thành công trong
  mục đích này. Đối với người nô lệ da đen thì ngày nay các kế hoạch phúc âm
  hóa đã đưa đến những kết quả như thế nào? Người nô lệ da đen được phúc âm hóa
  bắt đầu từ thế kỷ thứ XVIII, có nghĩa là vào giai đoạn gọi là "Sự Thức
  Tỉnh Lớn" (Great Awakening), một giai đoạn mà các giáo phái Tin Lành bộc
  phát rầm rộ và bành trướng đồng loạt ở Anh và ở Mỹ. Lúc đầu các giáo đường
  ngụy trang dành cho người nô lệ được dựng lên lén lút trong các vùng khai
  quang và đồn điền, dần dần sau đó mới được công khai hóa. Phúc âm hóa người
  nô lệ là một cách làm nhẹ bớt đi sự đày đọa của họ. 
Ngày nay trong các nhà thờ Tin
  Lành của người da đen, các vị mục sư rất rành tâm lý và khéo léo, họ lợi dụng
  việc cầu nguyện và ca hát tập thể để tạo ra các hình thức xúc cảm thật mạnh.
  Đôi khi họ còn tận dụng cả sự mộ đạo (piety/sự thành tín) bằng các động tác
  trên thân thể, chẳng hạn như vỗ tay thật nhịp nhàng, lắc lư và nhún nhảy, tạo
  ra những xúc động thật mạnh khiến người tín đồ có thể la hét hoặc khóc sướt
  mướt. Các thể dạng xúc cảm này phản ảnh một sự mê mẫn tâm thần cao độ, tương
  tự như bị thôi miên (trance/nhập hồn hay lên đồng), nói lên một thể dạng hòa
  nhập nào đó với nhân vật mà mình tin tưởng và cầu xin. Cầu nguyện bằng cách
  ca hát và các động tác cơ thể được đệm thêm các điệu nhạc rock là một cách
  biểu lộ đức tin thật "căng thẳng" của người da đen và cũng là một
  phương tiện giúp họ tự nhân bản hóa mình (self-humanization) mang lại một
  hình thức tự do nào đó trong nội tâm, giúp họ quên đi - dù chỉ trong chốc lát
  - thân phận và nguồn gốc nô lệ của chính mình. Cách bộc lộ xúc cảm qua các
  hình thức ca hát và các động tác tay chân mang lại cho họ sự nhẫn nhục, giúp
  họ thoát ra khỏi sự tuyệt vọng và các ý nghĩ đen tối của sự nổi loạn và tình
  trạng hận thù chính mình và kẻ khác, Các hình thức biểu lộ xúc cảm trong khi
  hành lễ trên đây dường như nói lên một hình thức tín ngưỡng Tin Lành đặc thù
  dành cho người da đen. Chúng ta hãy thử tìm hiểu trường hợp tiêu biểu của ca
  sĩ quá cố Michael Jackson. Cách diễn đạt xúc cảm bằng tiếng hát gần như là la
  hét và các động tác cơ thể cực mạnh và "rắn rỏi" của ca sĩ này nói
  lên tâm trạng và sự "nổi loạn" sâu kín trong lòng mình, thế nhưng
  bên trong tâm thức thì người ca sĩ này lại không hề ý thức được sự kiện ấy và
  cũng không chấp nhận cái số phận ấy của chính mình, mà lại chỉ muốn mình trở
  thành người da trắng. Sự mâu thuẫn đó phải chăng cũng đã nói lên phần nào
  những nỗi khổ đau sâu kín trong lòng của người ca sĩ da đen, và biết đâu cũng
  đã phản ảnh ít nhiều tâm trạng, thân phận và những ước mơ của tổ tiên mình từ
  nhiều thế kỷ trước?   
Khổ đau sâu kín của con người có
  thể phát lộ qua muôn ngàn hình thức khác nhau. Tillman tàng trữ ma túy nhưng
  nhờ cầu nguyện mà được trắng án nên đã bán cơ nghiệp của mình để làm phương
  tiện cải đạo người Mông Cồ. Thế nhưng cũng có những người cầu nguyện thế
  nhưng khi ra tòa thì vẫn bị lãnh án. Cũng tương tự như thế, có những thuyền
  nhân nhờ cầu nguyện mà đến được bờ thì gửi tiền về nước tu bổ hoặc xây nhà
  thờ, thế nhưng cũng có những người dù cầu nguyện thật chân thành nhưng đã
  không đến được bờ. Cha con Tillman là những người cải đạo thật hăng say, thế
  nhưng thật ra thì họ cũng chẳng khác gì những tay súng tình nguyện của một
  đạo quân yên lặng mà thôi. 
Đến đây thiết nghĩ chúng ta cũng
  nên bỏ ra thêm vài phút để nhìn lại những người phụ nữ Mông Cổ trong tấm hình
  số 1 ở đầu bài chuyển ngữ, và biết đâu khi nhìn vào những người phụ nữ ấy
  chúng ta cũng sẽ khó tránh khỏi dâng lên trong lòng mình một niềm đau nào đó.
  Đôi mắt nhắm nghiền và động tác hai tay của những người phụ nữ ấy dường như
  nói lên là có những viên đạn bọc nhung đang bắn trúng vào giữa ngực mình.
  Phải chăng gương mặt đau thương và cử chỉ cầu cứu của những người phụ nữ
  ngoan đạo đó cũng chỉ là cách che dấu những niềm đau thật sâu kín trong nội tâm
  mình? Chỉ khi nào giải trừ được tất cả các loại vũ khí trong tâm thức và
  những vết đau cũng như những niềm tin mù quáng trong con tim mình, thì khi đó
  chúng ta mới có thể mang lại một sự hòa đồng tôn giáo chân thật, một sự giải
  thoát tâm linh đúng nghĩa của nó và một nền hòa bình lâu bền cho nhân loại.
  Cha con Tillman và những người phụ nữ Mông Cổ cũng chỉ là những nạn nhân của
  vô minh, của những thể dạng u mê trong tâm thức mình. Tín ngưỡng đơn thuần
  dưới một góc nhìn nào đó đôi khi cũng có thể chỉ là một phương tiện để đánh
  lừa và lợi dụng kẻ khác. Chỉ có sự "hiểu biết" mà đôi khi người ta
  còn gọi là "trí tuệ" mới có thể giúp chúng ta biết yêu thương và
  kính trọng con người một cách chân thật và sâu xa mà thôi. Tôn giáo không hẳn
  chỉ đơn giản là một phương tiện quảng bá đức tin mà phải mang lại "sự
  thật" và sự "hiểu biết" cho con người. 
Bures-Sur-Yvette,
  28.05.15 
Hoang Phong chuyển
  ngữ 
PHỤ LỤC 1 
Table 1. The Top 20 Countries Where Christianity Has the
  Highest Percentage Growth Rate 
Độc
  giả có thể tham khảo toàn bộ tư liệu này trên trang mạng:
  https://discipleallnations.wordpress.com/2013/08/25/the-top-20-countries-where-christianity-is-growing-the-fastest/  
 
PHỤ LỤC 2 
  | 
 |||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Thứ Bảy, 2 tháng 5, 2015
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)










Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét