Thứ Hai, 21 tháng 4, 2014


TÌNH BÁO VÀ TÔN GIÁO
Nhân đọc “Thy Will Be Done”

Thiện Pháp


Tôn giáo là một phần gắn bó và cũng là một yếu tố tạo thành lịch sử nhân loại. Nhưng trong khi tôn giáo thăng hoa con người với những ảnh hưởng tốt đẹp thì đôi khi lại trở thành tác nhân của các cuộc thánh chiến. Tôn giáo mới cũng vẫn xuất hiện liên tục, không chỉ tại Việt Nam, mà ở hầu như toàn cầu. Cho dù ở mức độ nhỏ thế nào, các tôn giáo mới cũng sẽ có ảnh hưởng tới xã hội, chứ không chỉ với riêng các tân tín đồ. Thực tế, dù tôn giáo mới hay cũ, ảnh hưởng xã hội lúc nào cũng có, nhưng các tôn giáo mới sẽ đưa thêm nhiều yếu tố bất khả đoán vào các chuyển động văn hóa, xã hội và cả chính trị, khi đám đông tín đồ bị kiểm soát và khống chế bởi giới tu sĩ. Do vậy, các tôn giáo mới luôn luôn bị quan sát và theo dõi kỹ hơn.

*

Nhìn từ phía chính quyền, sẽ rất là tốt nếu các tôn giáo tạo được sự hòa hài xã hội, nhưng sẽ bị cho nguy hiểm nếu tôn giáo  là tác nhân gây bất ổn.
Một thời, tôn giáo đã từng là công cụ để một số đế quốc kiểm soát vùng đất mới. Đó là lý do, vùng Châu Mỹ Latin hầu hết theo đạo Thiên Chúa La Mã. Đó là thời của lưỡi gươm đi kèm với thập giá.
Trong thế kỷ 20, mọi chuyện tinh vi hơn. Sở Tình Báo Trung Ương Hoa Kỳ CIA đã giúp rải Kinh Thánh Cơ Đốc trong vùng Đông Dương, và đã dùng một số giáo sĩ làm tai mắt.
Câu chuyện này được kể lại trong bộ sách biên khảo có tựa đề “THY WILL BE DONE: The Conquest of the Amazon: Nelson Rockefeller and Evangelism in the Age of Oil,” với tác giả là Gerard Colby và Charlotte Dennett (Nhà xuất bản Harper Collins, 1995).


Trong bài điểm sách vào ngày 14-5-1995 trên tờ Los Angeles Times, Frank Stewart ghi nhận rằng trong sách trên có nói về cuộc đời của William Cameron Townsend, người sáng lập tổ chức chuyên dịch Kinh Thánh Cơ Đốc ra nhiều ngôn ngữ thế giới có tên là Wycliffe Bible Translators, và tổ chức đưa các bộ Kinh Thánh trên tới các sắc dân trên các bộ lạc xa xôi có tên là Summer Institute of Linguistics (SIL)...

Stewart viết về liên hệ của Townsend với CIA:
“... By the time Townsend's Christian linguists entered their 1,000th tribe in 1984, the SIL was heavily implicated with spying for the CIA, from Vietnam and Laos to Amazonia, and, at the very least, with remaining silent for decades in the face of policies that encouraged genocide among those very tribes Townsend's missionaries zealously wished to convert. Townsend and the SIL denied all such charges...”

Dịch:
“Vào lúc các nhà ngữ học Cơ Đốc của Townsend đưa vào bộ lạc thứ 1,000 của họ vào năm 1984, tổ chức SIL đã bị cáo buộc nặng nề là đã làm gián điệp cho CIA, từ (các bộ lạc) tại Việt Nam và Lào cho tới tại vùng Amazon, và ít nhất là, khi họ giữ im lặng trong nhiều thập niên khi đối diện với các chính sách khuyến khích diệt chủng giữa các bộ lạc thiểu số mà các nhà truyền giáo của Townsend nhiệt tâm mong muốn lôi cuốn cải đạo. Townsend và SIL bác bỏ các cáo buộc đó...”

*

Trong sách, tác giả Colby đã mô tả các nhóm truyền giảng Kinh Thánh đó -- Wycliffe Bible Translators, cũng thường biết dưới tên gọi Summer Institute of Linguistics, hay SIL -- là nỗ lực “đưa Kinh Thánh tới tất cả mọi dân tộc trong mọi ngôn ngữ nói thẳng vào trái tim của họ. Trong lịch sử 70 năm, Wycliffe đã thực hiện hơn 600 bản dịch, để dùng cho hơn 77 triệu người. Hiện nay Wycliffe có hơn 6,000 người làm việc trong hợp tác với những kiều dân và công dân toàn cầu.”

Nhận định về tác phẩm biên khảo nêu trên, Constantine Report viết:
Acording to Gerard Colby and Charlotte Dennett, the association between the intelligence community and Christian missionaries predates the public emergence of the CIA.”

Dịch:
“Theo [hai tác giả] Gerald Colby và Charlotte Dennett, sự hợp tác giữa các sở tình báo và các nhà truyền giáo Cơ Đốc đã có từ trước khi CIA bị lộ trước công chúng về vai trò [hợp tác].”

Câu hỏi là, CIA đã phải trình bày thế nào trước công chúng và các định chế lập pháp Mỹ về chuyện sử dụng các nhà truyền giáo làm gián điệp nầy?

*

Có một bản phúc trình nên được các nhà nghiên cứu về tôn giáo và sử học đọc kỹ; đó là bản phúc trình dài 650 trang đưa ra Thượng Viện ngày 26-4-1976 (toàn văn ở đây: https://archive.org/stream/finalreportofsel01unit/finalreportofsel01unit_djvu.txt), có nói rằng CIA dè dặt khi sử dụng các nhà truyền giáo, nhưng nhìn nhận là có việc như thế, ở trang 201 và 202, trích:

In a letter to this Committee, however, Mr. Colby stated that the CIA used religious groups with great caution, and that their use required special approval within the Agency:
Denutv Director for Operations regulations require the Denuty Director for Operations' annroval for the u«e of religious groups. He has the resnonsibilitv of ensuring that such operational use avoids infringement or damage to the individual religious personnel involved in their group. Such use is carefully weighed and approvals in recent years have been relatively few in number.” (Ghi chú: đoạn vừa trích trong văn khố Archive có lẽ chưa được biên tập chung quyết nên có những lỗi chính tả.)

Dịch:

“Tuy nhiên, trong một lá thư gửi Ủy Ban này, ông [Giám đốc CIA Willam] Colby viết rằng CIA đã sử dụng các tổ chức tôn giáo với sự dè dặt lớn, và rằng sử dụng họ đòi phải có sự chấp thuận từ Sở:
Nội quy của Phó Giám Đốc Chiến Dịch yêu cầu phải có ưng thuận của Phó Giám Đốc Chiến Dịch mới được sử dụng các tổ chức tôn giáo [cho CIA]. Vị này có trách nhiệm phải bảo đảm rằng việc sử dụng như thế không phạm luật hay không thiệt hại cho vị giáo sĩ liên hệ trong nhóm đó. Việc sử dụng như thế được cân nhắc cẩn thận và sự chấp thuận sử dụng trong mấy năm gần đây tương đối là ít tính về số lượng.”

Cần ghi nhận, chữ “gần đây” trong đoạn văn dịch trên là nói trước năm 1976. Hiện nay, có lẽ CIA cũng đã thay đổi phương pháp làm việc.

Tuy nhiên, bản phúc trình nêu trên không nói gì cụ thể về các cơ quan khác của Hoa Kỳ, như Cơ quan Viện trợ Phát triển USAID  hay Sở Quân báo DIA, hay các cơ quan  khác.

*

Các thông tin trên được ghi lại nơi đây, không có ý nói rằng Hoa Kỳ vẫn sử dụng các phương pháp như thế (cho dù, Bắc Triều Tiên vẫn luôn luôn chụp mũ Hoa Kỳ như thế), cũng như không có ý nói rằng các chính phủ nước khác hoàn toàn không sử dụng tôn giáo cho ý đồ riêng.

Đặc biệt là, trong thời hiện nay, chiến tranh tôn giáo đang xảy ra ở Syria, Sudan, Somalia, Thái Lan, Philippines và một số nơi khác... tất nhiên phảỉ làm cho mọi người Việt Nam cảnh giác.
Hay như trường hợp mấy năm trước, Hoa Kỳ tài trợ kỹ thuật cho một tổ chức tôn giáo bị cấm ở Trung Quốc, theo báo Washington Post, ngày 12 tháng 5-2010

Chúng ta nơi đây chỉ ghi sự kiện, vì có khi sự thật về các sự kiện  chỉ được lộ ra vài chục năm sau, khi các hồ sơ liên hệ được giảỉ mật.

Câu hỏi khác nữa là, Hoa Kỳ đang trong cuộc chiến chống lại khủng bố Hồi Giáo, và chiêu bài “tự do tôn giáo” đang là một trong những công cụ được sử dụng trong chiến lược ngoại giao toàn cầu của Hoa Kỳ. Có hay không, việc sử dụng hay vận dụng tôn giáo   trong cuộc chiến đã ttrở thành thánh chiến đối với nhiều người và nhiều dân tộc? Trên nguyên tắc, chúng ta hiện nay chưa có thông tin chính xác về các diễn biến mới này, nhưng tất phải ngờ vực rằng tôn giáo có thể đang trở thành vũ khí ở một số trường hợp.

Thiện Pháp
20.4.2014




Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét