Thứ Tư, 19 tháng 2, 2014


NHỚ VỀ THIỀN SƯ KIẾM SĨ MUSASHI

Trí Tánh Đỗ Hữu Tài



Viết lại, nhân được nghe Bát Nhã Tâm Kinh tụng bằng 12 thứ tiếng khác nhau tại
Hội nghị Phật giáo Quốc tế về ngày Phật Đản của Liên Hiệp Quốc
(International Buddhist Conference on the UN Day of Vesak – Bangkok, 10-5-2006)


Cứ từ từ mà thấm nên tôi không biết mình trở thành một Phật tử, theo cái nghĩa thông thường nhất, từ lúc nào. Tuy nhiên, vì “Phật tử” là một tiến trình đang thành, cho nên bây giờ, giữa rằm tháng Tư, trong sự nhiệm mầu lãng đãng của một ngày lễ Phật Đản trên xứ Thái xa xôi, tôi vẫn thấy mình đang lang bạt đâu đó trên con đường tìm Đạo, lo nhìn mây bay nước chảy, thích nghe câu tranh cãi tiếng biện luận, và nhất là quan tâm đến cái “mình to, ta đúng” hơn là xả tâm để đi vào sự tĩnh mặc huyền diệu của con đường dài chứng ngộ trước mắt.

Cho nên trong ngày Hội lớn, rất lớn, nầy của nhân loại, ngày mà cách đây hơn 25 thế kỷ, có một con người bình thường ra đời và đã đẩy tầm trí tuệ lên cao vút mà đứng dậy, giác ngộ, rồi quét sạch mảng vọng thức bụi bặm của sở tri chướng mà vạch ra con đường chánh đạo giải thoát, tôi bỗng thấy mình như vượt thoát ra được khỏi cơn hôn mê trầm ám để nhất định dành một ngày, dù chỉ một ngày ngắn ngủi trong cả năm dài bôn ba, để, nói như một vị Thiền sư, “lần giở kinh xưa sách cũ mà đuổi bóng ra khỏi hình”. Người có câu nói như nghịch lý với khoa học tự nhiên nhưng lại rất phù hợp với tâm cảnh đạo học đó chính là Thiền sư Kiếm sĩ Miyamoto Musashi, đệ nhất kiếm khách Nhật Bản của thế kỷ thứ XVI. Và kinh xưa sách cũ là tập Ngũ Đai Thư của vị Phật tử lạ lùng nầy.

Chuyện của vị Thiền sư nầy thì hoang đường và quyến rũ như một huyền thoại sương khói dù ông chỉ sống cách chúng ta hơn 400 năm. Miyamoto Musashi ra đời vào năm 1584 tại tỉnh Mimasaka, cách Đông Kinh 40 dặm về phía Tây Nam. Thân phụ của ông vốn là một lãnh chúa ngang tàng, đầu đội trời chân đạp đất, “biên thùy một cõi” trên hòn đảo lớn Kyushu, dưới triều đại của Shogun Nobunaga. Bé Misashi mồ côi cả cha lẫn mẹ năm mới lên bảy tuổi và được người cậu ruột là một vị Hòa thượng mang vào chùa nuôi nấng dạy dỗ. Tuổi ấu thơ của Misashi cũng hao hao giống như Lý Công Uẩn của nước ta, người sống cách ông sáu thế kỷ trước đó.

Vì cơ chế nghiệp lực vận hành kỳ ảo nên con đường tu chứng của Misashi đã phải kinh qua một trở ngại lớn, một thử thách dài trong thời đại loạn lạc bấy giờ, đó là phải trở thành kiếm khách số một trong số hơn tám vạn Samurai đang tranh nhau thư hùng. Nghĩa là trở thành một thứ “Độc cô Cầu bại”, cô đơn vác kiếm đi giang hồ khắp xứ Phù Tang để thành tâm tìm cho ra một đối thủ đánh bại được mình! Thế là chủng tử “Nhất tướng công thành vạn cốt khô” bắt đầu len lén, rồi theo thời gian mà huân tập, vào trong Thân Khẩu Ý của cậu bé quét lá sân chùa ...

Cho nên, tuy chỉ tự học trong sân chùa vào những đêm thanh vắng, thế mà lúc mới 13 tuổi, ông đã lẫm liệt xẻ đôi thân xác Kihei, đệ nhất dũng sĩ của quân trường Shinto Ryu. Năm 16 tuổi, ông thong dong đánh bại Akiyama, trưởng tràng của kiếm phái Tadashima. Sau ngày oai hùng nhưng oan trái đó, với nghịch giới sát sinh vần vũ trên đầu, ông lạy Phật bỏ Chùa, lưng mang kiếm gỗ, một thân một bóng lên đường thực hiện cuộc hành trình chứng ngộ của một Võ sĩ đạo thời chiến chinh. Cuộc hành trình bi hùng tuyệt đẹp nầy sẽ mở lối khai đường cho kiếm pháp Nhật Bản, nâng kiếm thuật lên đỉnh cao kiếm đạo, và tạo thuận duyên cho Kiếm sĩ hóa thân thành Thiền sư.

Không vợ con, không hành lý. Cũng không sợ hãi, không đam mê. Chỉ với hai bộ quần áo tả tơi dưới chiếc nón tre rộng vành và thanh kiếm gỗ đã săn cứng lại vì gió sương chiến trận, Misashi đã lang bạt trong núi cao hang sâu của miền Hokkaido băng giá, trong rừng dày bão dữ của vịnh Kyushu mịt mùng, trong cung cấm nghiêm mật lòe ánh thép của các lãnh chúa cao kỳ, và đọ kiếm 129 trận không một lần chiến bại. Lần quyết tử duy nhất đã làm ông ngẩn ngơ trong thoáng chốc là khi ông phải nhờ đến nắng quái chiều tà và tiếng sóng đập vào ghềnh đá làm phân tâm đối thủ để giúp ông hạ đường kiếm tuyệt chiêu đánh bại Kojiro, chưởng môn lừng lẫy của kiếm phái Tadaoki. Đó là lần duy nhất ông phải vận dụng thiên nhiên để cho đường kiếm của mình phá được thế thủ vững chãi của một kỳ phùng địch thủ. [Video clip trận đấu giữa Musashi và Kojiro: http://www.youtube.com/watch?v=8GQGLvsVeXo ]

Năm đó ông mới 29 tuổi. Và cũng từ sau trận thư hùng đó, ông được giới kiếm sĩ Nhật Bản tôn xưng là Kiếm Thánh. Nhưng cũng từ đó, ông bẻ kiếm và suy nghiệm về kiếm như một cá thể hữu tình, việc múa kiếm như con đường tỉnh thức để tự giải thoát ra khỏi thiên la địa võng xao động của cuộc đời. Ông để ra 30 năm trời để suy nghiệm, sống âm thầm vô danh trong một làng chài hẻo lánh ven biển, hành xử như một lão già khật khùng mất trí. Và đến năm 59 tuổi, khi hạt bồ đề năm nao trong chùa cũ bắt đầu trổ hoa, ông bỏ làng vào động đá Reigendo để bắt đầu viết tác phẩm duy nhất của đời mình. Tác phẩm dày chỉ mười trang giấy bổn mà ông phải mất hai năm trường mới hoàn tất. Một tuần sau, ông từ giã cõi đời. Ung dung và tự tại giải nghiệp để tan biến vào trời đất. Năm đó là năm 1645.

Cuốn sách ông viết có tựa đề là Ngũ Đai Thư (“Go Rin No Sho”, nói về năm Vòng Đai), gồm 5 chương: ThổThủyHỏaPhong và Hư không. Trong phần mở đầu, ông viết vài dòng ngắn ngủi và khiêm cung về cuộc đời và thân phận của mình rồi tự thú rằng: “Tất cả chiến thắng của tôi từ trước đến nay có lẽ nhờ trời cho, hoặc nhờ khéo tay, vì mãi cho đến năm 50 tuổi, tôi mới chứng ngộ được kiếm đạo chân thực... Tôi viết cuốn sách nầy vào cuối đời, khi không còn nhớ đến bất kỳ một chiêu thức kiếm pháp nào... Tôi chỉ quy chiếu về Tâm mà viết”.

Trong bốn chương đầu (Thổ, Thủy, Hỏa, và Phong), ông nhận định về thanh kiếm như một ngoại vật vô thường, có đó nhưng không đó nên làm bằng chất liệu gì cũng được; về người múa kiếm như tha nhân vô ngã, vừa vô hình vừa vô tướng; về kiếm thuật như các pháp đan xentrùng trùng duyên khởi. Cũng trong bốn chương nầy, ông luận về các sách lược công và thủ trong kiếm pháp thông qua hai phạm trù Diệu hữu và Chân không, cho rằng vì vọng tâm nên điêu đứng giữa hai bờ Không-Có của làn kiếm. Ông đúc kết: Có đấu kiếm, nhưng không có thanh kiếm mà cũng chẳng có người đấu.

Riêng chương thứ Năm (Hư không) và cũng là chương cuối cùng, chỉ dài nửa trang giấy, ông đề cập đến Kiếm Đạo như con đường giải thoát, rồi ông kết thúc cuốn sách như sau: “Biết rằng cái gì Có chính là Không Có, mà cái Không Có chính là Có, tức là biết được Đạo vậy. Nhưng đến lúc biết được Đạo rồi thì chính Đạo cũng không còn nữa”. Chưa hề đọc Bát Nhã Tâm Kinh, chỉ biết múa kiếm để giết người, rồi buông kiếm để quán chiếu, thế là “đồ tể” Kiếm thánh Musashi trở thành “phật tử” Thiền sư Musashi.

Miyamoto Musashi (宮本 武蔵?, 1584 – 1645), còn có tên Shinmen Takezō,
Miyamoto Bennosuke , Pháp danh Niten Dōraku,

Vì vậy khi ông buông bút chấm dứt cuốn sách trong động đá quạnh hiu, 129 nhát kiếm oan nghiệt chém chết 129 mạng người bỗng chỉ còn là những nghiệp chướng nhân quả lồng lộng. Mười sáu năm tung hoành trong chốn gió tanh mưa máu bỗng trở thành 16 năm đoạn trường giải nghiệp. Musashi đã đứng dậy, thanh thoát nhẹ tay phủi đám bụi hồng. Vì tâm đã trong, tâm đã tĩnh, Tâm không còn là tâm.

Cuốn Ngũ Đai Thư, từ đó, trở thành sách gối đầu cả trong tự viện của tăng sĩ lẫn trong cung điện của quân vương; trở thành cẩm nang không thể thiếu của các nhà lãnh đạo chính trị cũng như kinh tế của Nhật Bản trong suốt bốn thế kỷ qua. Gần đây hơn, khi xuất hiện tại Tây phương (A Book of Five Rings – The Overlook Press, Woodstock, New York, USA), tác phẩm của ông được giới doanh nhân Mỹ gọi là Japan’s answer to the Harvard MBA. Và tạp chí Time đã ví von rằng On Wall street, when Musashi talks, people listen.

Tội nghiệp cho Thiền sư Musashi: Con người duy lý và duy vật Tây phương chỉ thủ đắc và vận dụng được phần Thuật hời hợt trong bốn chương đầu của cuốn sách để sát phạt nhau hầu chiếm ưu thế trong thương trường, mà không nắm bắt và khai dụng được phần Đạo tinh túy ở trong đó. Nói gì đến chương Năm với nội dung nhằm giải phóng chính con người kinh doanh ra khỏi tiền tài danh vọng phiền trược của cuộc đời.

Kiếm sĩ Musashi đã chém chết 129 chúng sanh và suy nghiệm 30 năm mới trở thành Phật tử Musashi. Tôi nhất định không tin rằng con đường tìm đạo thì luôn luôn truân chuyên và chập chùng như thế. Tám vạn bốn ngàn pháp môn trùng trùng điệp điệp mà điểm đi cũng như điểm đến đều khởi động do Tâm, thì khó hay dễ, thành hay bại, có lẽ là do chính tại mình.

Cho nên trong ngày Hội lớn, rất lớn, nầy của nhân loại, tôi muốn kéo 400 năm về nén lại trong một ngày vui hôm nay, bá cổ quàng vai Phật tử Musashi mà cùng nhau cười ha hả dưới ánh trăng rằm vằng vặc của mùa Phật ra đời.

Để cùng ông chuếnh choáng “đồng ca” một điệp khúc đã từng vang vọng trong trời đất: Gate, Gate, Paragate, Parasamgate, Bodhi Svaha ...

Trí Tánh Đỗ Hữu Tài   


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét