ĐI TÌM MỘT PHẬT GIÁO MỸ
Charles Prebis
Chúng
ta thường nghe các danh xưng “Phật
giáo Tây Tạng”, “Phật giáo Tích Lan”, “Phật giáo Việt Nam”, “Phật giáo Nhật
Bản”, … Tại Mỹ, theo thống kê của PEW
Research Center (2007, và cập nhật 7/2012, thêm số liệu về Phật tử Mỹ gốc Á châu), có tất cả 4 triệu Phật tử, đứng thứ ba về số lượng tín đồ, sau Thiên
Chúa giáo và Do Thái giáo; nhưng lại đứng đầu
về tỷ lệ tăng trưởng, 170%, từ năm 1990 đến 2000.
Vậy thì, với 4 triệu tín đồ và
150 năm sau khi Phật giáo được du
nhập vào Mỹ, chúng ta đã có một “Phật
giáo Mỹ” chưa? Quá trình hình thành và diện mạo đặc thù của Phật giáo Mỹ là
gì? Viên ngọc quý trong chéo áo của chàng cùng tử (da đỏ) “sắc nước hương trời”
ra sao? Bài phát biểu dưới đây là những mô tả và quan điểm của một Phật tử Mỹ
về chủ đề nầy. Ông đã quy y và tu học hơn 45 năm, và hiện đang dạy Tôn giáo học (Religious Studies) với chuyên ngành “Phật giáo
Mỹ” (American Buddhism) tại hai đại học Penn State và USU ở bang Utah. – Trí
Tánh
Đi tìm một Phật Giáo Mỹ
(Pursuing an American
Buddhism)
Ký giả Linda Heuman (Providence, RI)
phỏng vấn học giả
Phật học Charles Prebish
Bài đăng trên Tạp chí
Tricycle - Số Spring 2012
Giáo sư Charles Prebish có lẽ là người đã viếng thăm nhiều tu
viện Phật giáo Mỹ hơn bất kỳ người nào khác tại Hoa Kỳ. Với những ai quen thuộc
với hoạt động của ông, điều nầy chẳng có gì đáng ngạc nhiên vì ông là người đã
đi tiên phong trong lãnh vực học thuật về Phật giáo Mỹ như một chuyên đề trong
toàn bộ ngành nghiên cứu Phật học. Vào cuối thập niên 1960’ và đầu thập niên
1970’, khi ông bắt đầu dạy đại học, nghiên cứu kinh viện về Phật giáo chủ yếu
được coi như là nghiên cứu một đặc sản của văn hóa “Đông phương”. Lúc bấy giờ
đang là một học giả trẻ, ông chuyên chú vào Phật giáo Ấn Độ buổi sơ kỳ, gồm
lịch sử phát triển hệ thống tu viện và Luật Tạng Vinaya, vốn là những chủ đề nằm hoàn toàn trong lãnh vực nghiên cứu
truyền thống về Phật Học. Nhưng vào thập niên 1970’, ông Prebish là một trong
những học giả Phật Học đầu tiên quan sát thấy rằng Đạo Phật nảy mầm thông qua
con đường ngoại nhập vào Mỹ thì đang hình thành một diện mạo văn hóa đặc thù của nó, một diện mạo đáng quan sát và cần
tìm hiểu. Thế là ông soạn giáo trình và mở lớp dạy đầu tiên về “Phật Giáo Mỹ” (American Buddhism) vào năm 1974 và xuất
bản tác phẩm đầu tiên về chủ đề nầy vào năm 1979. Trong những thập niên sau đó,
trong bối cảnh nở rộ của Đạo Phật tại Tây phương, ông đã theo dõi lộ trình tiến
hóa nhanh chóng của hiện tượng nầy, ghi chép tiến bộ và đánh dấu các cột mốc của
hiện tượng đó.
Hiện nay (12/2012), ông Charles
Prebish là giáo sư danh dự (Emeritus Professor) về Tôn giáo học (Religious
Studies) tại Đại học Tiểu bang Pennsylvania (PSU – Penn State) và Đại học Tiểu bang Utah (USU). Ông đã kể
lại những trải nghiệm của ông về việc học đạo và tu chứng Đạo Phật tại Mỹ trong
bốn thập niên vừa qua trong hồi ký mới đây của ông: “Cuộc đời của một Phật tử Mỹ” (An
American Buddhist Life, Memoirs of a Modern Dharma Pioneer
- The Sumarun Press, Inc., Canada, 2011) - Linda
Heuman
■ Chúng
ta đã thật có một Phật giáo
Mỹ chưa ?
Nhiều người không thích dùng cụm
từ “Phật giáo Mỹ”. Cuối tuần vừa rồi, [nữ học giả Phật học] Jan Willis nói rằng
“Tôi không nghĩ rằng chúng ta đã có một
Phật giáo Mỹ đâu”. Tuy tôi cũng đã từng nói như thế từ năm 1975, nhưng
[ngay cả đến bây giờ] có lẽ bà ấy nói đúng; có lẽ chúng ta chưa có một Phật giáo
Mỹ. Trước hết, chúng ta cần tất cả mọi truyền thống khác nhau của Phật giáo đến
Mỹ một cách trọn vẹn - với những truyền thống, tông môn, nghi thức, vân vân
…của họ. Rồi phải cần thời gian để những truyền thống nầy trở thành Mỹ một cách
rạch ròi hầu chúng có thể hội nhập vào văn hóa Mỹ, làm cho Phật tử của truyền
thống nầy có thể truyền thông được với Phật tử của truyền thống khác. Chúng ta
cần kiên nhẫn. Rồi cuối cùng thế nào cũng xuất hiện một cái mà ta gọi là “Phật giáo Mỹ”. Nhưng điều nầy không có nghĩa là chúng ta sẽ
có chỉ một “Thừa” (vehicle). Chúng ta sẽ vẫn có các môn phái, nhưng tôi nghĩ
rằng chúng sẽ tương nhập với nhau hơn
[1]
Người Mỹ thường thiếu kiên
nhẫn. Chúng ta nghĩ rằng vì Phật giáo đã có mặt trên đất nước nầy 150 năm nên
tất nhiên Phật giáo phải là hoàn toàn Mỹ rồi. Suy nghĩ nầy không lý đến sự kiện
rằng ở Á châu, Phật giáo phải mất nhiều thế kỷ mới hoàn thành quy trình tiếp
biến văn hóa (acculturation) khi tiếp
cận với những vùng văn hóa khác nhau. Khi chuyển dịch từ Ấn Độ qua Trung Hoa,
Phật giáo phải mất ít nhất 500 năm mới hoàn thành công trình Hán hóa. Vậy mà
người Mỹ chúng ta lại mong Phật giáo sẽ trở thành Mỹ rất nhanh. Chúng ta phải
chờ thôi.
■ Cái gì làm cho Phật giáo Mỹ
có “tính Mỹ” một cách rạch ròi ?
Phật giáo Mỹ sẽ phải phản ánh những nguyên tắc dân chủ, trong cái nghĩa “tự do và công lý cho mọi người” [2] . Đó chính là những nguyên tắc hòa
hợp trong Tăng đoàn - tính bình đẳng trong ý nghĩa tốt nhất của từ nầy. Hiểu Bồ
Tát đạo trong một khung cảnh Mỹ thì phải gồm cả việc dấn thân vào xã hội -
những hoạt động như nhà dưỡng lão, bảo vệ môi trường, hoằng pháp trong tù.
Phật giáo Mỹ còn phản ánh những giá trị mà chúng ta tìm được trong
nền văn hóa của chúng ta, dù những giá trị nầy không phải luôn luôn có tính
tích cực. Người Mỹ rất quan tâm đến chứng ngộ cho riêng cá nhân mình; trong
Phật giáo Mỹ, Phật tử thường nhấn mạnh vai trò của Thiền hành trên tất cả những
pháp môn khác, ngay cả trên tư cách là thành viên của một cộng đồng Phật tử. Vì
vậy mà Phật giáo Mỹ có thể sẽ bao gồm cả những người tự nhận là Phật tử nhưng thật
ra không có quan hệ gì với cộng đồng Phật giáo hay với Tăng già cả. Nhưng về điểm
nầy, tôi thấy chúng ta còn cần phải thảo luận thêm.
Ví dụ như trường hợp của tôi. Tôi quy y ở một trung tâm Phật giáo Nguyên Thủy, thường xuyên trao đổi với vị Sư Tây Tạng Chögyam Trungpa Rinpoche, và vị giáo thọ riêng về Phật học của tôi là ông Richard Robinson. Nhưng tại Đại học Pennsylvania PSU, tôi chưa bao giờ gia nhập vào một cộng đồng (Phật tử) nào cả, cho nên trong 36 năm qua, tôi hành thiền một mình, tu tập một mình; tôi là Tăng đoàn một người. Đối với tôi, trạng huống đó đã là và đang là một tình trạng khó khăn vì tôi thiếu tinh thần cộng đồng, vốn thật sự giúp tôi xác định truyền thống Phật giáo mà tôi theo. Không có chỗ cho tôi đến và chia sẻ với những đồng đạo Phật tử khác. Có những điều thiếu sót mà ta có thể tìm ra được ở một cộng đồng Phật giáo Tây Tạng nào đó, hay nếu vào dịp cuối tuần, ta đi đến Thiền viện Zen Mountain Monastery ở New York [3] chẳng hạn, tham dự vào các chương trình sinh hoạt của họ, và tỉnh tọa trong Thiền đường rồi cùng ăn cơm với nhau. [Sự thiếu sót] nầy rất đáng ngại, vì loại ứng xử cộng đồng như vậy thì thật sự giúp chúng ta cũng cố tín tâm rất nhiều.
Học giả Phật học Michael
Carrithers có viết một câu mà tôi luôn luôn ghi nhớ. Câu đó đại khái là “Không
có Phật giáo nếu không có Tăng già, và không có Tăng già nếu không có Giới luật”.
Như vậy, có thể nói rằng chúng ta vẫn đang mong muốn có một Phật giáo Mỹ tại vì
Tăng già chưa được thật sự phát triển hoàn chỉnh tại Mỹ, dù bây giờ rõ ràng đã
tiến bộ rất nhiều so với năm 1975 chẳng hạn, khi tôi bắt đầu nghiên cứu về Phật
giáo Mỹ.
Một sự phát triển hoàn chỉnh của
Tăng già thì không dễ dàng như ta tưởng, vì phạm trù Tăng già mang một nội hàm phức tạp hơn ta nghĩ. Trong truyên thống
sơ kỳ của Phật giáo, khi Đức Phật dùng từ Tăng
già, Ngài chỉ muốn nói đến các Tỳ kheo mà thôi. Nhưng rồi theo thời gian,
Tăng già được biết đến như Tứ chúng
gồm tất cả mọi Phật tử: Tăng, Ni, nam Phật tử và nữ Phật tử. Như vậy, ta có thể
nói rằng Tăng già đã có đó, chỉ có điều chưa hoàn toàn phát triển mà thôi.
■ Vậy thì
tiêu chuẩn để có thể nói “Bây giờ Tăng
già đã hoàn toàn phát triển” là gì ?
Chúng ta sẽ cần một hệ thống kinh
sách đầy đủ và kết cấu hơn. Truyền thống Phật giáo luôn nhấn mạnh rằng học và
hành đi với nhau; cả hai tương nhập với nhau. Và vì học đạo và hành đạo tương
nhập nên càng học thì càng hiểu sự phức tạp và các sắc thái của Phật pháp, từ đó,
hành đạo càng trở nên tinh vi và sâu sắc. Và khi mà ta hành đạo có chiều sâu,
ta sẽ có khả năng hiểu được giáo pháp một cách tinh tế hơn. Học và hành, do đó, vận động đối đãi qua
lại. Tôi nghĩ rằng nhiều cộng đồng Phật giáo tại Mỹ hình như chưa đạt được điều
nầy. Và chúng ta cũng cần một Phật giáo hoàn chỉnh, nhấn mạnh đến thực hành hơn
là chỉ theo truyền thống ngồi Thiền.
■ Tại sao ông nghĩ rằng Phật tử Mỹ quá nhấn mạnh đến hành Thiền ?
Khi có người nói đến thực hành
Phật pháp, tôi nghĩ rằng nhiều khi họ không ý thức được rằng Phật pháp là một
hệ thống tôn giáo toàn diện. Nó không chỉ có nghĩa là ngồi trên bồ đoàn và tập
trung theo dõi hơi thở. Phật giáo là một sự thực hành suốt đời.
Khi tôi quy y vào năm 1965, tôi
không biết nhiều về Phật giáo, nhưng tôi biết rằng tôi muốn học ngồi Thiền. Sư
phụ tôi bảo rằng “Nếu con muốn ta dạy
Thiền cho con thì con phải ngồi Thiền bốn giờ mỗi ngày, và ngồi suốt ngày chủ
nhật”. Tôi bắt đầu ngồi Thiền như thế từ năm 1965, và tiếp tục cho đến năm
1974, khi tôi gặp vị Sư Tây Tạng Chögyam Trungpa Rinpoche. Tôi đã thực hành
điều mà tôi nghĩ là đúng theo truyền thống Phật giáo tốt nhất tại Mỹ lúc bấy
giờ. Nhưng trong buổi gặp gở đầu tiên với vị Sư Tây Tạng nầy, chỉ trong 30 giây
đầu tiên, Ngài bảo tôi rằng “Ta cần nói
với con về cách hành trì của con”. Cho đến nay, tôi vẫn không biết vì sao
Ngài lại biết được cách hành trì của tôi, tại vì không có cách nào Ngài có thể
biết đươc. Nhưng Ngài đã nói với tôi rằng “Ta
biết rằng con đã từng ngồi Thiền bốn giờ mỗi ngày. Và ta cũng biết rằng trong
bốn tiếng đồng hồ đó, con đã chủ yếu rời
bỏ thế giới để trốn vào trong sự yên tĩnh của cái đầu của con, hầu vận dụng
những điều mà con nghĩ là của Phật giáo. Ta muốn con đừng ngồi như thế nữa”. Lời vị Sư Tây Tạng thật như một cú đá vào mông
của tôi.
Ngài giải thích rằng tôi đã đóng được
rất chặt cánh cửa liên thông với thế giới. Tôi cho rằng tôi đã tỉnh thức và quán
sát được hơi thở, thân thể và cảm xúc của mình. Điều nầy có thể đã xảy ra thật
như thế, nhưng tôi đã hành trì như vậy trong một khoảng trống rỗng hoàn toàn,
không có sự tham dự của con người Phật tử của tôi trong thế giới. Ngài bảo tôi
hãy đem những điều tôi học được trong lúc hành trì, những giá trị của Đạo Phật,
rời bồ đoàn và bước vào cuộc sống. Và ngài nói với tôi một cách rõ ràng rằng “Thỉnh thoảng, sẽ có lúc con mất tín tâm vào
Phật giáo. Những lúc đó là lúc con lại cần ngồi xuống bồ đoàn, thanh thản không
vướng mắc, và tái xác quyết cam kết của con với Giáo pháp”. Lời của Ngài quả
thật là một bước ngoặt trong đời tôi.
Phật tử “Mỹ bản địa” đa số tu tập
theo Thiền tông,
nhưng cũng có một số chọn các Tông phái
khác như Tịnh Độ tông, Mật tông, …
Tôi mong rằng tôi đã hiểu và thọ
trì từ lâu điều mà Stephen Batchelor [4]
gọi là “trì giới chính là tu tập”
(precepts as practice) vì những giới căn bản của một cư sĩ Phật tử - không sát
sinh, không nói dối, không trộm cắp, không dùng chất làm say, và không tà dâm -
thì không phải chỉ giữ gìn trong 30 phút hay một giờ trên bồ đoàn. Đó là những
giới mà ta phải giữ mọi lúc mọi nơi với tư cách là một Phật tử sống trong một
nước Mỹ hiện đại. Và với những cam kết đó, khi ta đi vào đời với ý thức rằng
chúng là kết quả của công phu trì giới, thì ta đã đạt được một chứng nghiệm
Phật giáo quân bằng và tròn đầy mà tôi
nghĩ rằng sẽ mang đến một sự trưởng thành và chuyên chú trong vốn sống tôn giáo của đời ta. Thêm vào
đó, thỉnh thoảng ta nên tham dự các nghi lễ tại các công đồng Phật giáo. Tôi
nghĩ rằng nhiều người đã đánh giá thấp những nghi lễ. Họ không muốn dính líu gì
đến các nghi lễ. Nhưng nếu ta hành lễ một cách đúng đắn, thì ta thật sự đang
hành Thiền đấy. Hành lễ là bảo tồn truyền thống một cách thấm thía đến tận đáy
lòng.
■ Ông có thể mô tả quá trình phát triển của Phật giáo Mỹ trong bốn thập
niên vừa qua không ? Và ông có thấy những xu hướng mới nào không ?
Khi tôi bắt đầu đến với Đạo Phật,
chúng tôi đã đề cập đến Phật giáo Mỹ và tự hỏi liệu có một thực thể như thế
không? Điều nầy rõ ràng đã được triển khai đến một lúc mà chúng tôi nhận ra
rằng có một Phật giáo với hình thức Tây phương rõ rệt. Nhưng bây giờ thì chính
điều đó cũng là quá khứ rồi. Khi tôi mới bắt đầu nghiên cứu Phật giáo Mỹ, chúng
tôi dùng điện thoại. Hôm nay chúng ta có Internet. Những cộng đồng Phật giáo
khắp nơi ở Bắc Mỹ và trên toàn thế giới thì được nối mạng (networked) với nhau
đến độ tôi phải bắt đầu dùng cụm từ “đối
thoại Phật giáo toàn cầu” (global Buddhist dialogue) để nói đến một Phật
giáo toàn thế giới thay vì chỉ Phật giáo Á châu, Phật giáo Âu châu hay Phật
giáo Mỹ. Phật giáo Tây phương càng lúc càng trở thành một bộ phận của Phật giáo
toàn cầu.
Trong thập niên 1970’s và ngay cả 1980’s cũng như đầu thập niên 1990’s, mỗi nhóm Phật tử thì chỉ theo một truyền thống Phật giáo rõ rệt. Ngày nay, khá nhiều cộng đồng Phật giáo phối hợp từng mảng nhỏ các truyền thống Phật giáo khác nhau thành một hình thức tu tập hiệu quả cho họ. Ví dụ như ta thấy có nhóm lấy một ít nội dung và phương pháp hành trì vừa của Thiền tông vừa của Phật giáo Nguyên Thủy. Vài học giả gọi hiện tượng nầy là “lai tông phái” (hybridity) [5]
■ Hiện tượng “Lai Tông phái” nầy đã được triển khai như thế nào ?
Vào cuối thế kỹ thứ 20, chúng ta
thấy hiện diện tại Mỹ mọi tông phái của tất cả các truyền thống Phật giáo
(Nguyên Thủy, Phát triển, Mật Tông, …) cũng như tất cả Phật giáo theo văn hóa
chủng tộc (Phật giáo Nhật Bản, Tích Lan, Trung Hoa, Tây Tạng, …). Họ đã gặp gở
nhau, và trong quá trình giao tiếp đó, họ tôn trọng nhau vì cùng chia sẻ những
truyền thống của Đức Phật. Đã có vài nhóm quốc tế được tổ chức ra chỉ để dứt khoát làm chuyện
nầy - như Hội đồng Tăng già Phật giáo tại
Nam California (Buddhist
Sangha Council of Southern California) hay Ủy hội Phật tử Mỹ (ABC: American Buddhist
Congress). Và tuy họ chưa thành công như ý muốn, nhưng ít nhất họ cũng đã
khởi động việc tập họp Phật tử lại để thảo luận với nhau.
Có một ví dụ rất rõ ràng về tình
trạng “Lai Tông phái” hybridity nầy mà
tôi được chứng kiến khoảng ba năm trước đây, khi tôi trở lại Cleveland, bang Ohio, để tham dự một buổi họp mặt ái hữu
của một người đồng nghiệp. Khi tôi bắt đầu nghiên cứu Phật giáo Mỹ, tổ chức Những Giáo hội Phật giáo tại Mỹ (BCA: Buddhist Churches of America)
– Jodo Shinshu Buddhism – là một tổ chức mà đa số Phật tử là người Mỹ gốc Á châu.
Và cũng có vài nhóm Thiền tông với các Thiền đường ở Cleveland mà họ chẳng quan
hệ gì với cộng đồng Phật tử Mỹ gốc Á cả. Khi tôi trở lại Cleveland, tôi thấy
hai nhóm nầy đã chia sẻ với nhau một ngôi chùa mà họ gọi là Chùa Phật giáo
Cleveland. Có khi, họ gọi đó là “Zen Shin
Sangha”. Khi họ đăng ký tông phái thì họ dùng cụm từ “Japanese Zen/Shin Buddhism”. Vị sư Trưởng giáo thọ là người Nhật và
họ là thành viên của Những Giáo hội Phật
giáo tại Mỹ (BCA). Như vậy, họ bắt
đầu tiếp xúc với nhau. Và kết quả là ý niệm “Lai Tông phái” được mang ra để đề
nghị với những Phật tử dù họ thuộc về những tông phái Phật giáo rõ ràng khác
nhau. Thiền tông không bắt buộc phải hoàn toàn xa lạ với Hoa Nghiêm tông và họ
có thể học hỏi lẫn nhau và chia sẻ với nhau như những Phật tử, dù tông phái,
chủng tộc và tư cách thành viên của những tổ chức có khác nhau chăng. Kết quả
là Phật tử càng lúc càng học hỏi về nhau.
■ Trong quá trình phát triển của Phật giáo Mỹ, ông thấy có một tình trạng
căng thẳng giữa các truyền thống khi họ muốn duy trì sự nguyên vẹn của tông
phái nhưng phong trào hiện nay thì lại đang tiến về (một Phật giáo Mỹ) lai Tông
phái hybridity không?
Chúng ta nên nhớ rằng một cái “ấn”
trong Tam Pháp ấn là Vô thường. Mọi vật đều thay đổi theo thời gian. Nếu ta khảo
sát lịch sử phát triển Phật giáo thời sơ kỳ ở Ấn Độ, ta sẽ thấy rằng những truyền
thống ban đầu, nhiều lúc gọi chung là Phật giáo Nikaya [6], có đến 18 bộ phái.
Vậy thì [ngay từ thời đó] cũng đã có nhiều ý nghĩ khác nhau về Phật giáo. Tại
sao? Tại vì khi Phật giáo lưu chuyển từ cộng đồng nầy đến cộng đồng khác, những
vị đại sư phải sống trong các khu vực với tập tục khác nhau: Người dân ăn mặc
khác, cư xử khác và suy nghĩ khác. Và vì vậy, vài bộ phái nầy đã triển khai [những
giáo thuyết] phản ánh không phải sự khác biệt về học thuyết giữa các cộng đồng
Phật giáo (dù đôi khi cũng có) mà phản ánh sự khác biệt giữa cách thế sống và
giá trị [văn hóa] của các cộng đồng khác nhau.
Và đó là lý do vì sao Phật tử đã
tách rời nhau. Dĩ nhiên, trong số 18 bộ phái Nikaya đó, chỉ có một bộ phái tồn
tại cho đến ngày nay - Phật giáo Nguyên Thủy (“Tiểu Thừa”). Nhưng điều nầy cũng
đúng cho Phật giáo Phát Triển (“Đại Thừa”). Khi Phật giáo Phát Triển mở mang rộng
ra, họ cũng tách ra thành nhiều bộ phái.
Điều tất nhiên là những bộ phái nào tồn tại được trong thế giới hiện đại
thì phải rất kiên trì. Khi những tông phái nầy đến Mỹ, ta có thể tin chắc rằng
các tông phái đó lại sẽ thay đổi. Có thể trong thế kỷ 21 nầy, ta có thể thấy vài
tông phái trở thành “tông Bắc Mỹ” một cách rạch ròi.
■
Khi ta trộn những tông phái với
lịch sử và bối cảnh thành hình khác nhau như vậy vào cái nồi nấu hổ lốn Mỹ
(melting pot), liệu chúng có nguy cơ trộn lẫn với nhau thành một khối hổn hợp không
? [Còn] nếu duy trì sự khác biệt giữa
các tông môn thì tính nguyên vẹn vẫn có thể giữ được hay không?
Theo một cách riêng, tôi muốn thấy mỗi truyền thống Phật
giáo duy trì sự toàn vẹn của riêng họ, nhưng tôi cũng hiểu rằng, dù sao, chúng
ta cần quan tâm đến cứu cánh của Phật giáo là gì – là diệt trừ cái khổ của con
người. Và tôi nghĩ rằng nếu có vài truyền thống kết hợp với nhau khiến cho con
người tỉnh thức, thiện lành, có thể thoát ra khỏi nỗi khổ, có thể ra khỏi vòng
luân hồi [nếu họ tu tập theo truyền thống Nguyên Thủy] hay [nếu họ tu theo truyền
thống Đại Thừa] thì phát tâm Bồ Tát cho đến khi tất cả chúng sinh được cứu độ,
trong trường hợp như thế thì tôi nghĩ rằng thật quý giá. Nhiều khi, trong các
cuộc tranh luận, chúng ta không ý thức được rằng cứu cánh của Phật giáo là đem
mọi chúng sinh ra khỏi nỗi khổ và đưa đến tỉnh thức.
Tăng đoàn “Mỹ bản địa” ít khi theo một Tông
môn hay Tông phái thuần nhất nào nhất định. Lại càng không có một Giáo hội theo
nghĩa tổ chức giáo quyền theo mô thức Phật giáo Á châu, do đó nghi lễ, kinh
điển, giáo phẩm, tăng bào … hầu như không thống nhất, trăm hoa đua nỡ.
■ Nghiên cứu Phật học ở mức độ học thuật thì quan trọng như thế nào cho
việc hành trì ?
Truyền thống Phật giáo thưở ban
đầu thường phân biệt hai loại Tăng sĩ. Một loại tu theo Minh Sát học (vipassana dhura), họ tu Thiền định,
thường ẩn cư và/hoặc du hành trong rừng sâu. Một loại tu theo Kinh Điển học (gantha dhura), họ là những Tăng sĩ học
thức, thường quanh quẩn trong làng mạc hay nơi thị tứ. Ta có thể xem họ là Tăng
sĩ-học giả hơn là Tăng sĩ-hành giả
[7]. Trên nhiều khía cạnh, Tăng sĩ-Hành giả
là những người đã trao truyền Phật pháp cho cư sĩ trong làng mạc. Và khi ta hỏi
Phật tử trong hai vị Thầy đó ai quan trọng nhất, thì thật là ngạc nhiên khi Phật
tử trả lời là vị Thầy tu theo Kinh Điển, vì họ cho rằng nếu kinh điển (Pháp: Nhị bảo) biến mất thì sẽ không còn ai để mà Thiền định, và do
đó cũng sẽ không còn Tu sĩ (Tăng: Tam
bảo) nữa.
Trở về với thế giới Tây phương
thời hiện đại, Hoa Kỳ chưa bao giờ có văn hóa tu viện, ngay cả với những truyền
thống tôn giáo khác [như Thiên Chúa giáo chẳng hạn] . Người Mỹ không có xu
hướng chối bỏ cuộc đời, và trong nước Mỹ hiện đại, có rất ít Tăng Ni. Nếu vậy
thì ai sẽ là người đóng vai trò Tăng sĩ-Học giả cho Phật tử và cho những người
muốn trở thành Phật tử? Từ đầu thập niên 1990’, tôi đã cổ xúy rằng chính một vị
học giả-hành giả sẽ là người đóng vai
trò đó, vì họ đã có một phát nguyện riêng tư với đạo. Họ hành đạo, nhưng họ cũng có hiểu
biết trí thức đến từ quá trình lấy Tiến sĩ trong ngành Phật học.
■
Vào năm 1978, ông đã đề cập đến
“hai Phật giáo” - Một do cộng đồng “Người Mỹ cải đạo thành Phật tử” và một do
những cộng đồng di dân Á châu. Đến nay [2012], ông vẫn thấy như thế sao ?
Lần đầu tiên khi tôi chế ra thuật
ngữ “hai Phật giáo”, thuật ngữ đó đã rất chính xác; nhưng bây giờ thì không còn
đúng nữa. Một học giả trẻ, ông Jeff Wilson, gần đây đã chỉ ra rằng chúng ta đã
không thật sự nghiên cứu những khác biệt trong các cộng đồng Phật giáo Mỹ căn
cứ trên vị trí địa dư của họ. Phật tử đồng quê (rural Buddhists) ở tiểu bang
North Carolina thực hành Thiền định có thể rất khác với Thiền sinh ở San
Francisco. Điều nầy thì đúng thật
tuyệt đối, và không ai chịu điều tra hiện tượng nầy. Khoảng một năm trước đây, khi ông Wilson viết
một tiểu luận về ý tưởng nầy, mà ông gọi là “chủ nghĩa địa phương”, tôi đã nói với ông ta là ông hoàn toàn đúng,
nhưng mười năm nữa thì sao? [Vai trò của] Facebook và YouTube và Skype sẽ ra
sao, có thể Phật tử ở New York sẽ hiểu biết Phật giáo đồng quê hơn bây giờ, và
người sống ở bang Iowa hiểu biết về người thị tứ khác hơn bây giờ. “Chủ nghĩa
địa phương” có thể sẽ chỉ còn là quá khứ. Và tôi liên hệ điều nầy với lý thuyết
“hai Phật giáo” của tôi vì chính hiện tượng nầy cũng đã tác động lên [và làm
thay đổi] lý thuyết của tôi.
■ Vậy thì liệu ông có thể nói rằng những Phật tử cải đạo (convert
Buddhists) sẽ học được đôi điều từ những cộng đồng Phật tử di dân Á châu không?
Vâng. Ngược lại với những cộng đồng
Phật tử Mỹ cải đạo, vốn chọn pháp môn mình thích nhất là Thiền định hay pháp môn
nào mà họ nghĩ sẽ đạt đến trạng thái tỉnh thức nhanh nhất, cộng đồng Phật tử di
dân Á châu hiểu rõ rằng tu tập là một phần của trải nghiệm cuộc sống. Đó là một
sự tu tập mà ta chia sẻ với con cái. Đó là một sự tu tập mà ta mang theo khi ra
khỏi chùa. Điều đó không có nghĩa là ta không hành Thiền, mà có nghĩa là cần hiểu
rằng bối cảnh mà ta tu tập thì cần tương ứng với truyền thống tu tập và tông môn
mà ta đã chọn. Tôi sẽ không muốn khuyến khích rằng tất cả Phật tử đổi đạo hãy
nhảy ngay vào những phương pháp tu tập vốn là truyền thống của các pháp tu Á châu.
Tôi chỉ muốn nói rằng các bạn hãy chọn pháp tu nào tốt nhất cho bạn, nhưng hãy
chọn lựa [khi đã cứu xét] toàn diện và với tất cả sáng suốt.
Việt dịch và hình minh họa: Trí Tánh Đỗ Hữu Tài
[Nguồn Anh ngữ: http://www.tricycle.com/feature/pursuing-american-buddhism
]
[Nguồn Việt ngữ: http://www.thuvienhoasen.org/D_1-2_2-85_4-17394_5-50_6-1_17-151_14-1_15-1/
]
GHI CHÚ (của người dịch):
[1] tương nhập /interpenetrating và tương tức/interbeing là hai thuật ngữ Phật
học mô tả mối quan hệ
(hay vận động) của vạn
pháp trong Kinh Hoa Nghiêm / Avatamsakia Sutra.
[2] “Tự do và công lý cho mọi người” là dịch
từ câu “liberty and justice for all” trong Lời thề Trung thành Pledge of Allegiance của công dân Mỹ
nguyện trung thành với
Quốc kỳ và nền Cọng hòa Mỹ.
[3] Xin xem đoạn phim The Story of Zen Mountain Monastery về đời sống tu tập và sinh hoạt
hằng ngày trong một Thiền viện Mỹ:
[4] Stephen Batchelor nguyên là một tăng sĩ người Anh, xuất gia theo cả hai truyền thống Mật tông (ở Dharamsala, Ấn Độ, 1974) và Thiền tông (ở Songgwangsa, Hàn Quốc, 1981). Nhưng sau đó, ông xuất tu và trở thành một học giả, giáo sư và tác giả của nhiều cuốn sách nỗi tiếng về Phật học. http://en.wikipedia.org/wiki/Stephen_Batchelor_(author)
[5] Từ
“hybrid” của tiếng Anh nghĩa là “lai
giống”, “lai chủng loại”, được dùng đầu tiên trong lãnh vực Sinh học. Sau đó, được
dùng trong các lãnh vực khác và không còn mang nguyên nghĩa là lai “giống” nữa. ( http://en.wikipedia.org/wiki/Hybrid
). Tiếng Việt hình như chưa có từ để dịch chữ “hybrid”. Thường thường, tiếng
Việt ghép những thành tố tạo ra tình trạng “lai” nầy, ví dụ như “Thiền-Tịnh song tu”, “xe hơi điện-xăng” (hybrid car).
[6] Theo giáo sư Robert Thurman (Buddism Studies
– Columbia U), tên gọi “Phật giáo Nikaya”
là do giáo sư Maatoshi Nagatomi của Đại học Harvard sáng chế ra như một cách
thế để tránh dùng thuật
ngữ Tiểu Thừa.
[7] “Các hệ thống tu tập để phát triển Trí huệ đó
ngày nay được biết đến dưới các từ ngữ chuyên môn là Vipassana dhura, Minh Sát học. Danh từ Vipassana
dhura, Minh Sát học, đối
ngược với danh từ Gantha dhura,
Kinh Điển học, cả hai ngành nầy ngày nay được xem như hai phương diện của
sự tập luyện và bổ túc cho nhau. Minh Sát học là môn học hướng nội, thu hẹp
chặt chịa vào sự huấn luyện tâm linh, chẳng màng đến kinh sách. Cả hai danh từ,
Vipassana dhura và Gantha dhura, đều chẳng thấy được ghi trong
Tam Tạng Kinh Điển; cả hai đều được nói đến trong các kinh sách về sau”