KENNETH TODD YOUNG VÀ NGÔ ĐÌNH DIỆM:
SỰ RA ĐỜI CỦA LIÊN MINH VIỆT-MỸ
Stephen B. Young
Đầu năm 1954, ông Cụ của tôi, Kenneth Todd Young, đương
làm việc cho Bộ Ngoại giao Mỹ với chức Chủ Sở Đông-Bắc Á Châu vụ. Cụ tham
gia cuộc thương lượng chắm dứt chiến tranh Triều tiên tại Pan Mun Jom. Sau khi
Trung Quốc và Hoa Kỳ đồng ý ngưng chiến tại Triều Tiên, và Chánh phủ Pháp quyết
định không kéo dài chiến tranh kiểu xăm lăng thuộc địa tại Đông Dương nữa, các
cường quốc đồng ý mở một hội nghị tai Genève để giải quyết hai vấn đề giữa thế
giới tự do và khối cộng sản quốc tế.
Bố tôi đi Genève để phụ tá cho Ngoại trưởng John Foster Dulles
trong nhiệm vụ chấm dứt chính thức chiến tranh Triều Tiên.
Sau việc đó xong rồi, Ngoại trưởng Dulles giao cho ông trách nhiệm về Đông Nam Á
để giải quyết sự ra đi của Chánh phủ Pháp tại Đông Dương.
Ông đã thăm viếng Việt Nam và Cao Miên lúc còn thanh niên
năm 1937 để xem cho biết Hà Nội, Sài Gòn và Angkor Wat. Ngoài ra, ông không
biết nhiều về Việt Nam. Nhưng ông đã học tiếng Trung hoa tại Quảng Châu và Bắc
Kinh năm 1936 và hiểu biết được sự tranh quyền giữa đảng cộng sản tàu và chánh
phủ quốc gia tàu. Ông đã nghĩ chủ nghĩa cộng sản không hợp với người Á châu vi
các dân tộc Á châu đã có sẳn dân tộc tính, nền văn hóa lâu đời và tiếng nói
riêng từ mấy ngàn năm trước. Ông nghĩ rằng chủ nghĩa Mác-Lê là thứ xa lạ từ Tây
phương du nhập qua Á châu sẽ khó tránh khỏi sự xung đột văn hóa, tư tưởng.
Vì vậy ông cũng nghĩ rằng chế độ thuộc địa Âu châu của thể ký thứ
19 cũng không có nghĩa lý gì nữa ở Đông Dương. Nó không
thể tồn tại lâu dài. Các dân tộc Á châu, theo ông, nên đi đến tự trị và chọn
cho mình chế độ chánh trị độc lập như các dân tộc khác trên thế giới.
Tháng 7 năm 1954, Chánh phủ Mỹ phải lựa chọn một trong hai đường
đối với Đông Dương. Một là theo Pháp để giúp duy trì ảnh hưởng của Pháp
tại Việt Nam, Cao Miên và Lào. Thứ hai là ủng hộ thành lập các chánh phủ độc
lập tại ba nước đó để tránh áp lực của người Pháp theo đuổi tham vọng lâu đời
nhằm tái lập chế độ thuộc địa.
Cụ Young lựa chọn con đường thứ hai. Vậy là Hoa kỳ phải một lúc
làm ba việc: ủng hộ các chánh phủ mới tại Sài Gòn, Nam Vang và Vientianne;
chống sự phá hoại, xâm lăng, của Hà Nội và đảng Cộng sản Việt Nam và đảng Cộng
sản Trung Quốc, đồng thời nhờ đó khuyến khích người Pháp dẹp bỏ chủ trương và
hành động kiểu đế quốc cũ.
Lúc Trung Quốc đề nghị chia Việt Nam làm hai quốc gia: một cho
đảng Cộng sản và một giao cho người Pháp cai trị, dĩ nhiên người Pháp đồng ý, bố
tôi bàn với Ngoại trưởng Dulles rằng Hoa Kỳ phải chấp nhận như vậy nên phải dốc
lòng, dốc sức ủng hộ một miền Nam Việt Nam độc lập tự do, có khả năng
phòng thủ và chống lại Cộng sản Bắc việt. Ông Dulles đồng ý và quyết định
chánh sách của Hoa kỳ tại Việt nam là ủng hộ những người Việt Nam không
cộng sản và đồng thời không ngã theo lập trường của Phap. Tức là chánh sách của
Hoa Kỳ là đi tìm kiếm những người Việt Nam “nationalist”, có tinh thần dân tộc
mạnh.
Cụ Young cũng nghĩ rằng nếu chánh phủ mới không tranh đấu cho
quyền lợi đích thực của quốc gia dân tộc mà cứ làm tay sai cho Paris, dân miền
Nam sẽ không ủng hộ và Hà Nội sẽ dễ xâm chiếm trọn nước Việt Nam từ Lạng Sơn
đến Cà Mau.
Nếu người Việt Nam có lòng ái quốc, biết rỏ các thủ đọan gian
manh của cộng sản, muốn đẩy lui và thanh toán các nổ lực bạo động của cộng sản
để bảo vệ phần đất cuối cùng của mình thì họ phải biết làm cho mọi người
thấy rỏ chánh nghĩa quốc gia, thấy rỏ rệt và toàn diện, từ chánh trị tự
do dân chủ đến kinh tế thật sự là nến kinh tế tư hữu lành mạnh và nền văn hóa
giáo dục khoa học, khai phóng, nhơn bản áp dụng đồng đều từ thành thị đến xã
ấp.
Lúc đó cụ Ngô Đình Diệm là Thủ tướng Chánh phủ Quốc gia Việt Nam
do Hoàng đế Bảo Đại bổ nhiệm. Cụ Young tìm hiểu về ông Diệm và nghe nói ông
Diệm có tiếng chống Pháp. Tại Genève, Ngoại trưởng Việt Nam là cụ Trần Văn Đỗ.
Cụ Young làm quen ông Đỗ và hai người trở thành bạn lâu năm. Năm 1970, ông Cụ
tôi bịnh, không qua Việt Nam được để tham dự lễ cưới của tôi, con
trai đích tôn của ông, nên cụ Đỗ đã vui lòng nhận lời đứng ra đại diện họ đàng
trai.
Ông Cụ tôi có lúc nói với tôi rằng ông Diệm vừa có lập trường
vững vàng, không theo Pháp và không nhượng cộng sản và có được một
số người quốc gia chống cộng, nhứt là những người Bắc di cư công giáo tín
nhiệm, ủng hộ. Nên Cụ quyết định cho ông Diệm một cơ hội để xem ông Diệm có khả
năng thật sự xây dựng Miền Nam trở thành một quốc gia dân chủ tự do và phát
triển được hay không.
Sau hội nghị Genève, người Pháp không thuận với chánh sách của
Hoa Kỳ. Hoa Kỳ muốn người Pháp rút hết những viên chức của họ ra khỏi Việt Nam
và Mỹ sẽ đưa cố vấn tới thay thế. Hoa Kỳ sẽ cho tiền và huấn luyện quân đội miền
Nam Việt Nam đủ sức ngăn chận quân đội Bắc việt khi xâm nhập qua biên
giới. Sau mấy tháng thương lượng với Chánh phủ Pháp, cụ Young thấy rằng
họ không có thiện chí giúp miền Nam đứng vững theo nghĩa một quốc gia độc lập.
Vì vậy Cụ Young phải vận động Chánh phủ Mỹ để Hoa kỳ sẽ
thương lượng với Pháp để Hoa Kỳ một mình ủng hộ chánh phủ của ông Diệm.
Tháng 10 năm 1954, cụ Young soạn thảo một bức thơ để Tổng thống
Eisenhower gởi cho Thủ tướng Ngô Đình Diệm. Trong thơ, Hoa Ky hứa sẽ ủng
hộ Việt Nam nếu Việt Nam áp dụng đường lối chánh trị theo lý thuyết quốc gia
dân tộc (tức “nationalist”), tức ý muốn nói Việt Nam phải xây dựng một chế độ
dân chủ tự do thật sự để có thể động viên được sức mạnh của toàn dân chống cộng
sản xâm lược Hà Nội. Bức thư đó viết:
“The purpose of this offer is to assist the Government of
Vietnam in developing and maintaining a strong, viable state, capable of
resisting attempted subversion or aggression through military means. The
Government of the United States expects that this aid will be met by
performance on the part of the Government of Vietnam in undertaking needed
reforms. It hopes that … such a government (of Vietnam) would … be so responsive
to the nationalist aspirations of its people, so enlightened in purpose and
effective in performance, that it will be respected both at home and abroad and
discourage any who might wish to impose a foreign ideology on your free
people”.
Cuối năm 1954, Hoa Kỳ bắt đầu gia tăng gởi viện trợ quân sự và
kinh tế trực tiếp giúp chánh phủ Sài Gòn, không thông qua chánh phủ Pháp nữa.
Dĩ nhiên chánh phủ Pháp không vui lòng. Họ thấy ông Diệm thật sự là người cứng
rắn, có lập trường chống Pháp, không muốn nghe lời họ nữa. Vi vậy họ tìm cách
hạ ông Diệm để thay thế bằng người khác.
Tổng Tư lịnh Pháp, Tướng Ely, vốn bạn khá thân với Tướng Collins
của Mỹ, dành nhiều thì giờ thuyết phục ông bạn Tướng Collins, người Đại diện
đặc biệt của Tổng Thống Eisenhower, rằng ông Diệm bất tài, mưu sỉ, không thành
thật, có tinh thần độc tài, không chịu lắng nghe ý kiến phải trái của ai hết
cả, không có uy tín, không có quần chúng ủng hộ. Pháp xui Tướng Nguyễn văn Hinh
chống lại Ông Diệm.
Đến tháng 4 năm 1955 có biến loạn xảy ra. Cuối cùng, Tướng
Collins nghe theo Pháp và đi về Washington xin Tổng thống Eisenhower không ủng
hộ ông Diệm nữa. Lúc Tướng Collins lên đường đi Washington, ông Diệm ra lịnh
cho Quân đội tấn công căn cứ của lực lực lượng võ trang của Bình Xuyên ở Cầu
Chữ Y. ( Lực lượng Bình Xuyên, truớc tình hình mới, rủ áo giang hồ anh chị, nhiệt
tình tham gia kháng chiến chống Pháp. Sau không chịu theo cộng sản Hà Nội,
không chịu nổi áp lực của Tướng cộng sản Nguyễn Bình, chấp nhận thương lượng
với Pháp rút về Chợ lớn, lập vùng Chợ lớn như khu tự trị để cán binh kháng
chiến thuần túy, không cộng sản, có con đường trở về không bị mặc cảm về với
Tây nhưng Pháp không giữ lới hứa để cho “khu tự trị thật sự được tự trị ”,
mà “ thực dân hóa ” lực lượng võ trang này. Từ đây, lực lượng Bình xuyên bắt
đầu mang nhiều tai tiếng xấu do nhóm cán binh gây ra trong dân chúng. Nhưng lực
lượng Bình Xuyên khi về Chợ Lớn, kiểm soát an ninh được vùng này, đẩy lui Việt
Minh ra khỏi ven đô khá xa, đã làm cho Nguyễn Bình bị Hà Nội khiển trách và sau
đó, triệu hồi về Bắc ).
Về tới Washington, Tướng Collins họp với Tổng thống Eisenhower
và Ngoại trưởng Dulles tại Tòa Bạch ốc. Tổng thống Eisenhower nhân nhượng
trước những lời yêu cầu thiết tha của Tướng Collins và đồng ý trở lại hợp tác
với chánh phủ Pháp, cho ngưng chức Thủ tướng của ông Diệm, thay thế bằng ông
Phan Huy Quát.
Ông Dulles về Bộ Ngoại giao chỉ thị cho ông Cụ tôi gởi điện tín
cho Tòa Đại sứ Hoa Kỳ tại Sài Gòn nói rằng Hoa Kỳ không ủng hộ Ông Diệm nữa.
Ông Cụ tôi rất buồn vì biết rằng nếu Pháp có quyền thực sự tại miền Nam nữa,
thì chắc chắn Hà Nội sẽ lại cướp luôn phần đất này. Đó chỉ là vấn đề thời gian
mà thôi. Tuy nghĩ như thế nhưng bố tôi vẫn phải làm theo chỉ thị của cấp
trên.
Gởi điện tín xong, ông về phòng làm việc. Bổng có cú điện
thoại của chính ông Ngoại trưởng Foster Dulles. Ông báo tin : “Tại cơ quan
CIA, Ông Allen Dulles (em ruột của Ngoại trưởng Foster Dulles, lúc đó làm Giám
đốc CIA ) mới nhận được một điện tín của Ed Lansdale gởi từ Sài Gòn.
Lansdale nói rằng Ông Diệm ra lịnh dẹp Bình Xuyên, Quân đội Quốc gia nghe theo
lịnh đang đánh Bình Xuyên, và dân chúng Sài Gòn ra đường mừng và ủng hộ quân
đội (?). Yêu cầu Allen cho biết quyết định phải làm thế nào bây giờ”.
Cụ Young lập tức gọi ông Allen Dulles. Hai ngườii lấy quyết định
không bỏ ông Diệm vì nếu bỏ ông Dìệm lúc này chỉ có lợi cho Pháp và sau đó, khó
tránh sẽ bị Pháp buông ra cho cộng sản Hà Nội.
Sau đó, ông Cụ tôi phụ trách về “ Chánh sách liên hệ giữa Hoa kỳ và Việt nam
Cộng hòa ”. Ông qua Việt Nam mấy lần nghiên cứu tình hình. Ông
đã gặp cụ Diệm riêng mấy lần. Cụ cũng có dịp gặp Ông bà Ngô Đình Nhu,
Giám mục Ngô Đình Thục, và nhiều người lớn trong chánh phủ nữa.
Sau này, ông Cụ tôi nói rằng ông Diệm là người tốt, khá thông
minh, lương thiện, tỏ ra có khả năng, có thể dám hy sinh cho quyền lơi của dân
tộc, biết suy nghĩ, biết lo cho người làm ruộng, làm việc chăm chỉ, hết
mình. Nhưng ông Cụ tôi đã thấy sớm
rằng ông Ngô Đình Nhu có ảnh hưởng bao trùm lên chế độ. Nhiều lúc Cụ
gặp mặt ông Diệm có ông Nhu nữa. Nhiều khi, lúc ông Diệm đương nói, ông Nhu
chen vào, dành nói hết, không để khách nghe riêng lời nói của ông Tổng thống.
Có khi ông Nhu cải với ông Diệm hay cắt
lời của 6ng Diệm đang nói mà ông Diệm vẫn im lặng.
Ông Cụ tôi trọng Ông Diệm là người đứng đắn và quí mến ông vì
ông tỏ ra thành thật với ông Cụ tôi. Ông Diệm có vẻ tin ông Cụ tôi vì Cụ đã ủng
hộ ông ấy vô điều kiện trong biến cố tháng 4 năm 1955.
Lần cuối cùng mà ông Cụ tôi gặp mặt cụ Diệm là đầu năm 1963 tại
phòng khách ở Dinh Gia Long, Sài gòn. Phòng đó ở trên lầu hai cùa dinh Gia Long.
Ông Diệm lo lắng lắm về sự nhượng bộ của Hoa Kỳ ở Lào, việc này do Ông
Averill Harriman phụ trách vì ông Harriman không thích chống cộng ở Đông Nam Á.
Hiệp định Genève 1962 về Lào không bắt buộc Hà Nội rút ra khỏi Lào. Như vậy, ông
Diệm biết Hà Nội sẽ dùng đường mòn Hồ Chí Minh vượt qua Lào để đẩy mạnh sự xâm
lăng ngầm miền Nam nhằm đánh lừa dư luận thế giới rằng cuộc chiến ở miền Nam
chỉ là cuộc chiến tranh du kích do nhơn dân miền Nam bất mản nổi dậy chống Mỹ
Ngụy cứu nước.
Nói chuyện xong rồi, cụ Diệm đưa ông Cụ tôi ra khỏi phòng khach,
tới đầu cầu thang đi xuống. Cụ Diệm bắt tay ông Cụ tôi và nói bằng tiếng Pháp:
“ Tôi sẽ tiếp tục tranh đấu cho tới khi
họ …”. Và lúc đó, cụ Diệm đưa tay mặt lên làm bộ cầm súng và bắn một viên
đạn vào đầu ông.
Trên đây là những kỷ niệm đẹp của ông Cụ tôi giử riêng đối với Cụ
Ngô Đình Diệm từ những ngày đầu cụ Diệm về lập chánh phủ do sự bổ nhiệm
của Quốc trưởng Bảo Đại.
Không biết phải chăng vì ảnh hưởng bố tôi mà tôi năng duyên nợ
với Việt Nam, một đất nước xa xôi với quê hương của tôi? Sau này, trong những
năm cuối 60 và đầu 70, tôi tới Việt Nam làm việc cho chương trình CORDS (Civil Operations and Revolutionary
Development Support), chương trình đặc biệt của Hoa kỳ về bình định và phát
triển xã ấp. Trong chức vụ cố vấn an ninh và phát triển, tôi tiếp xúc, quen
biết nhiều giới chức VNCH trong đó có các bạn của bố tôi như Bs Trần Văn Đỗ, Bs
Phan Huy Quát và những đảng viên Đại Việt Quốc Dân đảng, Việt Nam Quốc Dân
đảng, những nhơn sĩ từng ủng hộ cụ Diệm khi về chấp chánh. Tôi cũng để thì giờ
tìm hiểu về các tôn giáo như Đạo Phật, Cao Đài và Hòa Hảo nữa. Qua sự quen biết
này, tôi bắt đầu tìm hiểu về chế độ Đệ I Cộng hòa. Tôi cũng tìm đọc thêm nhiều
thông tin liên quan đến cụ Diệm và gia đình của cụ. Tôi thấy bản thân cụ là
người trong sạch, không tham nhũng. Nhưng cụ nặng tình gia đình, nặng tinh thần phân biệt đối xử, phán quyết độc
đoán, nên đã để mất sự thuận lợi của tình hình lúc ban đầu cho thế đại đoàn kết
dân tộc; điều này chắc chắn đã không tránh khỏi góp phần tạo ra sự lớn mạnh nhanh chóng của Việt Cộng mà hậu quả vô
cùng thảm hại sau này.
Riêng Đại Việt, với Bs Nguyễn Tôn Hoàn và Ông Nguyễn Ngọc Huy
liên lạc viên giữa hai người, đã từng hợp tác chặt chẻ với ông Ngô Đình Nhu,
Giám mục Ngô Đình Thục, …trong giải pháp Bảo Đại từ những năm 40. Thế mà những
người này và nhiều nhơn sĩ khác như các Ông Vũ Tam Anh, Nguyển Phan
Châu, Nguyễn Bảo Toàn, Phạm Thái Nguyễn Ngọc Tân, …kẻ bị giết, người phải bỏ chạy trốn ra nước ngoài. Hai ông Nguyễn Tôn
Hoàn, Nguyễn Ngọc Huy phải đi bán hủ tiếu ở đường Montagne Ste Geneviève,
Paris, cho tới sau 1963 mới có cơ hội hồi hương.
Tôi nhớ lại năm 1967, lúc tôi đương học tiếng việt tại “ Việt nam Training Center ”, ở
Arlington, Virginia, tôi được mấy lần gặp Ông Bà Trần Văn Chương tại nhà riêng
ở Chevy Chase, Washington, DC. Ông Chương là cựu Đại sứ Việt Nam Cộng hòa tại
Hoa kỳ. Ông Bà là bố mẹ của Bà Trần thị Lệ Xuân, vợ của ông Ngô Đình Nhu, Cố
vần của Tổng thống Ngô Đình Diệm. Một hôm, ông Chương mời tôi uống trà với ông
tại phòng ăn. Tôi hỏi ông Chương tại sao ông Diệm có vẻ không tin ai ngoài gia
đình. Ông Chương cười và đáp: “Ông Diệm không tin chính ông thì thử hỏi làm
sao tin người khác được?”.
Một buổi khác nữa, ông Chương tiết lộ một chuyện, tôi cho là rất
quan trọng và rất đặc biệt. Trước cuộc đảo chánh 1/11/1963 độ 10 hôm hay một
tuần, ông Diệm nhận thấy ông không còn
đủ uy tín để tiếp tục chức Tổng thống. Tình hình phức tạp quá,
khó tìm người ủng hộ ông hết mình. Ông
Diệm có ý từ chức và xuất ngoại để Phó Tổng thống Nguyễn Ngọc Thơ lên
thay. Lúc đó, bà Nhu đang ở ngoại quốc vận động dư luận thế giới ủng hộ
đường lối của chánh phủ Sài Gòn. Sau khi ông Diệm nói ra quyết
định từ chức, ông Nhu gọi điện thoại cho bà Nhu báo tin quan trọng này.
Lúc đó bà Nhu đang ở Nhựt Bổn. Ông Nhu
cho vợ biết rằng ông và Ông Diệm sẽ xuất ngoại và ông sẽ gặp bà ở Nhựt
trong vài ngày nữa.
Bà trả lời với sự giận
dử, lớn tiếng, chửi chồng nặng nề, nói rằng nếu hai người (ông Nhu và ông Diệm)
hèn như thế, nhát như thế, thì bà sẽ không làm vợ ông Nhu nữa. Bà nhắc Ông Nhu rằng lúc cuộc chỉnh lý 1960,
cả hai người đều muốn chịu thua phe đảo chánh, chỉ có bà là không chịu thua và
nhứt định giữ lập trường cứng rắn bảo vệ chế độ bằng cách đi kiếm các tướng
lãnh trung thành để cứu mình. Bà nhấn mạnh với ông Nhu rằng bà
không bao giờ muốn làm vợ người không đủ can đảm, đủ tài trí đối phó với hoàn
cảnh khó khăn. Bà chỉ làm vợ kẻ anh hùng chớ không thể làm vợ kẻ tiểu nhơn
được.
Ông Nhu nghe những lời
vợ nói như vậy và không cải lại được một lời nào hết. Ông phải dẹp bỏ ý
định đi ra nước ngoài lánh nạn với Ông Diệm, ở lại giử Dinh Gia long theo ý bà
vợ muốn. Ông Diệm cũng nghe theo em.
Một chuyện khác về ông Diệm và ông Nhu. Giáo sư Nguyễn Ngọc Huy,
một lần cho tôi biết, thời gian 1954/1955, chính Ông Diệm muốn có sự hợp tác
của Bs Nguyễn Tôn Hoàn trong chức vụ Bộ trưởng Quốc phòng. Ông Diệm nhờ ông Nhu
mời ông Hoàn. Ông Nhu không liên lạc với ông Hoàn, trái lại nói dối với ông Diệm rằng ông Hoàn từ
chối, không muốn ủng hộ chánh phủ của ông Diệm. Nghe qua, ông Diệm tức giận
lắm. Vì sự hiểu lầm này mà ông Diệm đã
không ngăn cản ông Nhu khi đàn áp các đảng phái và cả Đại Việt.
Buồn, tiếc ! Nhưng tôi cũng hiểu, và hiểu rỏ, trong chánh trị có
ai là bạn muôn thuở, có ai là kẻ thù muôn đời bao giờ đâu. Chánh trị chỉ là
“mục tiêu” !
Nhưng theo nhà triết lý Hy- lạp thời xưa, số mạng được hiểu theo
đức tính “character is destiny”. Đức tính của ông Ngô Đình Diệm, như đức tính
của mọi người, có phần thuận lợi và có phần bất lợi. Ông làm được một số việc
lịch sử có giúp ích cho dân tộc của ông, nhưng có một số việc khác ông làm
không đúng theo sự mong đợi của dân.
Thi hào Việt Nam Nguyễn Du đã viết:
“Trăm năm trong cõi người ta,
Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau.
Trải qua một cuộc bể dâu,
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng ”.
Sau 50 năm, từ sự ra đi của cụ Ngô Đình Diệm, tôi cảm thấy đời
người dường như không khỏi bị hệ lụy theo số mạng do Trời Đất xếp đặt sẳn, như cụ Nguyễn Du đã để lại cho chúng ta.
Stephen B. Young
St Paul, Minnesota, Oct 27, 2013
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét