CIA: CUỘC NÓI
CHUYỆN BÍ MẬT
CỦA TƯỚNG TRẦN VĂN
ĐÔN
Foreign
Relations of the United States, 1961–1963
Volume III, Vietnam, January–August 1963, Document 275
Volume III, Vietnam, January–August 1963, Document 275
(LỜI NGƯỜI
DỊCH: Điện văn này do CIA từ Sài Gòn gửi về CIA Trung ương ở Hoa Kỳ, kể
lời Tướng Trần Văn Đôn vài ngày sau trận tổng tấn công các chùa do ông Ngô Đình
Nhu thực hiện.
Vài điểm ghi nhận từ lời của Tướng Đôn trong điện văn:
-
Nhiều lính đào ngũ, tinh
thần binh sĩ suy sụp vì bất mãn khi Phật Tử bị đàn áp;
-
Ông Diệm nắm quyền xuyên qua ông Nhu;
-
Ông Diệm xem Bà Nhu như người vợ trên mây (platonic wife);
-
Ông Diệm đã thăng chức một trung sĩ trẻ làm vườn đẹp trai, lên
chức Trung Tá;
-
Tướng Đôn nói ông sắp xếp giai đoạn đầu của kế hoạch đảo chánh
ông Diệm;
-
Tướng Đôn có vẻ muốn giữ ông Diệm ở ghế Tổng Thống, trong khi
phải gạt bỏ ông bà Nhu và rất nhiều Bộ Trưởng ra ngoài quyền lực;
-
Tướng Đôn không muốn Nguyễn Tôn Hoàn (Đại Việt) về nước thay thế
ông Diệm;
-
Tướng Đôn kể tên một số tướng lãnh trong kế hoạch đảo chánh, nhưng
không nhắc tên Tướng Tôn Thất Đính, lúc đó là Tổng Trấn Biệt Khu Sài Gòn/Gia Định.
Đôn nhắc tới cuộc đảo chánh thất bại năm 1960 của các đại tá, và nói kế hoạch
của các tướng sẽ rất là tuyệt hảo.
Toàn văn dịch bởi Cư sĩ Nguyên Giác.)
BẢN DỊCH
275. Điện
Văn từ Văn Phòng CIA tại Sài Gòn gửi về Sở Tình Báo Trung Ương CIA (1)
Sài Gòn,
ngày 24-8-1963, lúc 6:45 giờ chiều
0265.
1. [còn giữ bí mật chưa tới một dòng]
đã có buổi nói chuyện ba giờ đồng hồi với Tướng Trần Văn Đôn (2) vào đêm 23-8-1963 tại
văn phòng Tướng Đôn ở Bộ Tổng Tham Mưu. Sau đây là tóm lược cuộc nói chuyện.
2. Tướng
Đôn được hỏi là ai đang nắm quyền, và đã trả lời rằng Tổng Thống Diệm nắm quyền
xuyên qua Cố Vấn Ngô Đình Nhu. Tất cả các tướng lãnh trước khi gặp ông Diệm đều phảỉ qua sự cho phép của Nhu. [Tướng Đôn]
giảỉ thích điều này bằng cách nói rằng Diệm sử dụng Nhu như “lý thuyết gia” và
cố vấn, nhưng không phảỉ luôn luôn nghe lời khuyên của Nhu. Tổng Thống Diệm ghen tỵ với thẩm quyền và khả năng của Nhu.
Tướng Đôn
cho một thí dụ. Vào lúc nửa đêm của ngày 22-8-1963, các Tướng Trần Văn Đôn, Tôn
Thất Đính và Trần Thiện Khiêm tới gặp Nhu về vụ các sinh viên, khuyến cáo rằng
nên đóng cửa toàn bộ các trường ở Sài Gòn bằng cách thiết quân luật, bởi vì họ
có tin rằng vào các ngày 23, 24 và 25 tháng 8-1963 sẽ có sinh viên biểu tình ở
Sài Gòn. Nhu đồng ý với khuyến cáo của các tướng lãnh, nói với họ rằng họ phải
xin phép Tổng Thống. Nhu và các tướng lãnh tới gặp ông Diệm và đề nghị đóng cửa
các trường. Ông Diệm nói: “Không. Người trẻ phải có phương tiện để bày tỏ chính
họ.” Tướng Đôn lập lại rằng, Diệm là người ra quyết định cuối cùng.
3. Tướng
Đôn giải thích về quan hệ trong Phủ Tổng Thống. Nói rằng nên nhớ là trong nhiều
năm, Tổng Thống Diệm là người chống lại chế độ thực dân. Trong thời gian đó, Diệm
đã tự suy nghĩ rất nhiều. Khi nắm chính phủ năm 1954, Diệm thấy chuyện này khác
hẳn và cần có những người chung quanh giúp suy nghĩ. Ông Diệm tìm sang người em
là Nhu, một người suy nghĩ có lý thuyết, có triết lý. Với thời gian, Diệm cho phép Nhu lo hầu hết mọi chuyện suy
nghĩ. Như thế không có nghĩa là Tổng Thống Diệm luôn luôn nghe lời cố vấn của
Nhu. Diệm thích Nhu viết các bản tuyên bố, các bài diễn văn cho Tổng Thống. Ông
Diệm thích tự mình gặp người dân, nói chuyện với người dân. Trong cách này, Nhu
có quyền lực đặc biệt như là nhà lý thuyết cho Tổng Thống.
4. Mô tả
về quan hệ với Bà Nhu trong Tổng Thống Phủ,
Tướng Đôn nói rằng trong tâm tưởng
ông Diệm, Bà Nhu có vị trí là “vợ” của ông Diệm. Tổng Thống Diệm chưa bao
giờ kết hôn, và không quen có đàn bà ở chung quanh mình. Trong 9 năm qua, ông
Diệm có Bà Nhu an ủi sau khi hoàn tất một ngày làm việc. Bà Nhu có sức quyến rũ,
nói chuyện với ông Diệm, làm giảm căng
thẳng cho ông Diệm, tranh cãi với ông Diệm, phê bình ông Diệm, và như một người
vợ Việt Nam, bà khống chế chuyện trong
nhà.
Tổng Thống
Diệm và Bà Nhu cư ngụ ở 2 căn phòng tách biệt nhau. Không có quan hệ tình dục
giữa ông Diệm và Bà Nhu. Theo ý kiến của Tướng Đôn, Tổng Thống Diệm chưa bao giờ
có quan hệ tình dục nào.
Tướng Đôn
so sánh tình hình đó y hệt như giữa Hitler và Eva Braun. Đôn cũng nói, Tổng Thống
Diệm thích có đàn ông đẹp trai ở chung quanh. Đôn dẫn ra trường hợp một trung sĩ trẻ, đẹp trai, người làm vườn
công cộng ở Đà Lạt. Tổng Thống Diệm đã hỏi rằng ai đã chăm sóc vườn đó, và
khi được thông báo, ông Diệm đã gọi viên trung sĩ kia tới Dinh Tổng Thống và tức khắc thăng chức người này lên Trung Tá
và giao nhiệm vụ quản trị nông nghiệp quân sự.
Ông Diệm
có những đam mê cực đoan. Khi ông thích ai, ông thích họ mọi cách; khi ông ghét
ai, ông ghét họ toàn diện. Không có ở chặng giữa. Bà Nhu đã sử dụng vị trí đặc quyền của bà với Tổng
Thống để làm ông Diệm nói thuận, khi ông Diệm muốn nói chống; nhưng vì ông
Diệm bị thuyết phục bởi sức quyến rũ của Bà Nhu.
Tướng Đôn
nói, “Như tôi biết, Bà Nhu cực kỳ quyến rũ.” Đôn nói thực tế không thể loại bỏ ông
bà Nhu vì vị trí đặc biệt mà họ đang nắm giữ; Ngô Đình Nhu là lý thuyết gia của
Tổng Thống Diệm và Bà Nhu là người vợ trên mây của ông Diệm. (LND: chữ “platonic wife” có
nghĩa là người vợ trên cõi lý tưởng, không phải cõi đời này.)
5.
Quyết định hành động vào ngày 20-21/8/1963 đã đạt được do 10 tướng lãnh vào đêm
18-8-1963: Trần Văn Đôn, Tôn Thất Đính, Đỗ
Cao Trí, Trần Thiện Khiêm, Nguyễn Khánh, [còn
giữ bí mật chưa tới một dòng], Mai Hữu Xuân, Nguyễn Ngọc Lễ, Lê Văn Kim, và
Dương Văn Minh. Theo lời Đôn, họ đạt quyết định này mà không do Nhu đưa ra khuyến cáo. Chỉ có lần Nhu
nói chuyện về bất kỳ việc lập kế hoạch nào là trong buổi họp ngày 11 tháng
7-1963 với sự hiện diện của tất cả các tướng lãnh. Đôn không nói là ai đã triệu
tập các tướng họp vào ngày 18-8-1963.
Việc lập
kế hoạch này gồm cả việc ban lệnh thiết quân luật và do đó, bắt các nhà sư từ
ngoài vào Sài Gòn để đưa họ về các ngôi chùa của họ ở các tỉnh. Kế hoạch này do
các tướng lãnh trình lên ông Nhu vào ngày 20-8-1963. Nhu nói với họ là hãy thảo
luận kế hoạch với Tổng Thống Diệm. Khi các tướng lãnh trình kế hoạch lên TT Diệm,
ông Nhu không có mặt. Các tướng lãnh có mặt lúc đó là: Khiêm, Trí, Khánh, Đính,
[còn giữ bí mật chưa tới một dòng],
Kim và Đôn. Đôn hướng dẫn nhóm tướng lãnh naỳ trình kế hoạch lên Tổng Thống Diệm.
6. Các
tướng lãnh nói với ông Diệm rằng tinh
thần binh sĩ đang suy sụp, và họ thực sự thấy sợ khi thấy rằng một đồn lính
tới mức gần như đào ngũ cả đồn. Các
tướng nói rằng vợ các binh sĩ và các sĩ quan cấp nhỏ đang hoang mang. Họ giải
thích cho Tổng Thống Diệm về tình hình đối
với Phật tử như quân đội đang thấy. Đôn kể rằng Đôn đã nói với ông Diệm rằng câu
chuyện ngày 8 tháng 5-1963 tại Huế có thể đã thương thuyết được rồi nhưng vì VC
đã trà trộn vào Phật Tử tại Chùa Xá Lợi.
Đôn mô
tả các kỹ thuật sử dụng trong các cuộc biểu tình ngày 11 tháng 8-1963, khi nhà sư Thích Tâm Châu
đang nói chuyện trước đám đông ở Chùa Xá Lợi. Vị sư này hô trước đám đông những
câu hỏi như “chúng ta sẽ diễn hành trên đường phố chứ?” Đám đông hô lớn lời đáp,
“Xuống đường.”
Đột nhiên
vị sư Thích Tâm Châu nói, “Không, chúng ta sẽ không
diễn hành trên đường phố. Sự kiện rằng quý vị nói rằng chúng ta sẵn sàng diễn hành
trên đường phố cũng là tương đương với việc diễn hành trên đường phố rồi.”
Đôn cảm
thấy rằng nhà sư nói tiếng Anh, sư Thích Đức Nghiệp, là rất nguy hiểm và các tướng
lãnh sợ rằng nếu các lãnh đạo Phật Giáo quy tụ một đám đông đủ lớn, họ có thể
ra lệnh diễn hành về hướng Dinh Gia Long và quân đội sẽ không chặn họ lại.
7. Đôn
nói rằng Tổng Thống Diệm ra quyết định thiết quân luật sau khi các tướng khuyến
cáo như thế. Diệm ra quyết định đưa binh sĩ vào giữ các điểm chiến lược ở Sài Gòn
và Chợ Lớn, và chấp thuận giải pháp trả về nguyên quán các nhà sư vào Sài Gòn,
về lại các chùa ở tỉnh. Tuy nhiên, Tổng
Thống Diệm nói rằng đừng làm nhà sư nào bị thương tổn.
Đôn nói
điều đó làm ông rất cảm động khi Tổng Thống yêu cầu đừng làm hại các Phật Tử.
Diệm bổ nhiệm Tướng Đôn làm người kế nhiệm tạm thời cho Tướng Lê Văn Tỵ. Diệm
giao cho Đôn quyền chỉ huy tất cả quân sĩ ở Nam VN, thực hiện lệnh thiết quân
luật, và áp dụng các biện pháp cần thiết.
Tướng Tôn
Thất Đính được bổ nhiệm làm Tổng Trấn Biệt Khu Thủ Đô Sài Gòn/Chợ Lớn. Lực Lượng
Đặc Biệt của Đại Tá Lê Quang Tung vẫn
dưới quyền Tổng Thống Phủ. Đôn chỉ ra rằng Đính không chỉ huy lính của Tung, mặc dù Đính
là Tổng Trấn Quân Khu Thủ Đô. Đính trong cương vị Tổng Trấn điều hợp với Đôn,
nhưng Đôn không chỉ huy Đính. Đính có xin lệnh Bộ Tổng Tham Mưu về các chỉ dẫn,
nhưng Đính không thực hiện tất cả các lệnh của Bộ Tổng Tham Mưu.
Đính nhận
lệnh trong cương vị Tổng Trấn từ Tổng Thống Phủ, y hệt như Đại Tá Tung [nhận lệnh
từ Tổng Thống Phủ]. Đôn nói Đại Tá Tung là kẻ nguy hiểm, vì Tung không do quân đội
kiểm soát và Tung thi hành lệnh duy nhất từ Tổng Thống Phủ.
Đôn cũng
nói rằng các tướng lãnh rất ghét Tung.
Tung chỉ đáp ứng lệnh của Diệm và Nhu.
Tung điều hợp với Nhu, nhưng khi cần có quyết định, lệnh sẽ tới từ Tổng Thống.
Tướng Đôn nói rằng các tướng lãnh khác ủng hộ Đôn, chỉ trừ một số tướng lãnh trẻ
hơn. Các tướng lãnh trẻ ghen tỵ về việc Tướng Đôn nắm quyền tư lệnh của Tướng Tỵ.
Đôn không
kể tên tướng trẻ nào ra. Đôn bị các tướng lãnh trẻ này chỉ trích vì đã có hành động
chống lại các Phật Tử. Đại đa số các tướng lãnh đều là Phật Tử. Thí dụ, Đôn nói,
“Khi tôi muốn bảo Tướng Trần Tử Oai điều gì, Oai nói với tôi rằng ông ta là dân
sự; ông ta có trách nhiệm dân sự.”
Khi được
hỏi cụ thể là Tướng Nguyễn Khánh có ủng hộ Đôn hay không, Đôn trả lời rằng Khánh
ủng hộ Đôn 100%. Đôn cũng nói rằng Dương Văn Minh, Trần Văn Minh, các tướng Trí,
Khiêm, Kim và “ngay cả Tướng Xuân” cũng ủng hộ Đôn. Khi được hỏi về Tướng Văn
Thành Cao, Dân biểu, có trong kế hoạch không. Đôn nói rằng Văn Thành Cao ở ngoài
hoàn toàn. Các tướng khác nhìn Văn Thành Cao như là dân sự.
8. Tướng
Đôn nói ông không biết rằng Phật Tử sắp bị tấn công bởi cảnh sát và Lực lượng Đặc
biệt (LLĐB). Tướng Đính, trong cương vị Tổng Trấn, nhận lệnh từ Tổng Thống Phủ
và được nói là các binh sĩ của Đại Tá Tung sẽ được dùng hỗ trợ cho cảnh sát bởi
vì LLĐB có “phương tiện đặc biệt.”
Đôn ám
chỉ, nhưng không nói cụ thể, rằng lệnh
ban ra từ ông Nhu. Dấu hiệu đầu tiên Tướng Đôn có về các chùa bị tấn công là
khi Đôn nghe từ làn sóng truyền thanh của bộ chỉ huy. Các Tướng Khiêm và Đôn có
mặt ở Bộ Tổng Tham Mưu (BTTM) khi nghe rằng các chùa đã bị tấn công. Tướng Đôn
lập tức đi từ văn phòng BTTM tới Chùa Xá Lợi.
Giám đốc
Cảnh sát Trần Văn Tư đang chỉ huy trận tấn công tại Chùa Xá Lợi, yểm trợ bởi LLĐB
của Đại tá Tung ở vòng quanh khu vực. Cảnh sát là những người đầu tiên tiến vào
chùa. Khi Đôn tới Chùa Xá Lợi, một trung úy cảnh sát đang chỉ huy một đơn vị
trong Chùa Xá Lợi. Các vị sư đã bị bắt đưa đi, khi Đôn tới. Trong toàn bộ chiến
dịch ở đây, tổng cộng 30 người bị thương, 5 người bị thương nguy kịch; những
con số này bao gồm cả nhân viên công lực và Phật Tử. Không có vị sư nào bị giết
ở Chùa Xá Lợi.
Vào lúc
4:30 giờ sáng ngày 21-8-1963, chiến dịch quân sự hoàn tất ; nhiều điểm chiến lược đã được đóng
quân. Đôn nói rằng có 1,420 nhà sư bị
bắt khắp Nam VN.
9. Tướng
Đôn rất hãnh diện về sự kiện rằng các tướng lãnh đã có thể giữ bí mật [LND: âm mưu đảo chánh] trước
khi khởi động chiến dịch. Đôn cũng hãnh diện về kỹ thuật áp dụng bởi binh sĩ và
ông nói “mọi người luôn luôn nói về các đại tá, những người sẽ tổ chức đảo chánh. Họ không có khả năng đó.
Chúng tôi đã chứng minh điểm này bằng kế hoạch của chúng tôi, và kỹ thuật của
chúng tôi.”
Ông dẫn
ra một thí dụ về cuộc đảo chánh ngày 11-11-1960, lúc đó do các đại tá soạn kế
hoạch và thất bại. Tướng Đôn không bày tỏ phản ứng cá nhân về trận tấn công các
chùa. Đôn nói rằng ông muốn thực hiện kế hoạch nguyên thủy để thanh lọc tất cả
các nhà sư và trả họ về tỉnh nhà, chùa nhà.
Đôn cũng
nói rằng Mỹ đang giữ sư Thích Trí Quang ở trụ sở USOM. Đôn thêm rằng sư Thích
Trí Quang là một trong những người kích động chính, và chính phủ VNCH muốn bắt
giam vị sư này. (Lời nhận xét từ người lấy tin: Đôn lộ vẻ tin rằng sư Trí Quang
là một trong hai nhà sư đang tỵ nạn trong USOM. Một viên chức CAS, người biết rõ
về Thầy Trí Quang, đã thấy cả 2 vị sư tại USOM vào ngày 24-8-1963 và xác nhận rằng
cả 2 sư này không có ai là Thầy Trí Quang.) (LND: CAS là văn phòng tình báo CIA ở Sài Gòn.)
10. Tướng
Đôn đã nghe trực tiếp từ công chúng Việt Nam rằng quân đội bị đổ tội tấn công các chùa. Ông nói rằng chính phủ Mỹ có lỗi về dư luận sai trật này,
bởi vì Đài VOA loan báo rằng quân đội đã
tấn công các chùa. Đôn chất vấn rằng tại sao VOA không nhìn nhận rằng LLĐB
của Đại tá Tung và Cảnh sát đã tấn công.
Đôn tin
rằng [nhìn nhận] như thế sẽ giúp quân đội lúc này. Đôn nói rằng Mỹ nên nêu rõ lập
trường của Mỹ. Tướng Đôn không muốn ông Diệm bị thay thế, thí dụ như bởi một người
lưu vong như Hoan (có lẽ, Đôn nói tới Nguyễn Tôn Hoàn), người hiện đang có mặt ở
Hoa Kỳ. Đôn nói rằng trong quân đội hiện nay không có ai thay được ông Diệm. Đôn
dẫn ra, như một thí dụ, chính ông, nói, “Tôi không đủ thông minh, cũng không có
tham vọng. Tôi chỉ giữ vai trò mời các tướng lãnh chung sức với nhau.” (LND: Đôn bàn về hậu đảo chánh, ai nên thay ông
Diệm.)
11. Đôn
ám chỉ rằng ông có biết về những diễn tiến tương lai soạn ra. Đôn nói, “Đây là
bước đầu tiên, và sự bí mật về điều sắp xảy ra thì không phải là cái của tôi để
đưa ra.” Khi được hỏi thiết quân luật sẽ kéo dài bao lâu, Đôn nói sẽ tùy theo tình
hình. Khi được hỏi cuộc bầu cử Đại hiểu Quốc hội vào ngày 31-8-1963 có sẽ được
tổ chức hay không, Đôn nói cuộc bầu cử sẽ có thể bị hoãn, nhưng sẽ nới lỏng thiết
quân luật vào ngày 24-8 trong mức độ lệnh giới nghiêm được suy tính.
12. Tướng
Đôn không nói gì về việc giữ ông Diệm trong ghế Tổng Thống hay thay ông bằng người
khác tại Nam VN, ngoại trừ ông nói rằng ông
không muốn một trong các chính khách lưu vong về nắm quyền, và rằng không nhân
vật quân sự nào có thể làm tốt nhiệm vụ Tổng Thống. Viên chức CAS nhận ra cái ấn
tượng, và chỉ là một ấn tượng thôi, rằng Tướng Đôn và nhóm của ông muốn giữ ông Diệm trong ghế Tổng Thống trong
giai đoạn hiện nay của kế hoạch cuả họ.
13. Đôn
cũng nói rằng ông nhận thức rằng ông sẽ có thể bị “hy sinh” do kết quả của việc
thực hiện thiết quân luật, nhưng điều này không quá quan trọng, bởi vì có những
lãnh đạo quân sự khác sẽ thay vị trí của ông (LND: để thực hiện đảo chánh). Đôn không kể tên ai.
Đôn cho ấn tượng rằng Đôn không phải là người đứng sau mọi chuyện. Đôn là vị lãnh
đạo bề ngoài thôi. Đôn chịu trách nhiệm giai đoạn đầu tiên. Có những người khác
trong nhóm sẽ bước ra thực hiện các giai đoạn khác.
Những lời
Đôn nói không ám chỉ gì về một người nào hay một số người nào sẽ đứng ra thực
hiện các giai đoạn khác. Đôn nhắc về sự kiện rằng VOA đang làm lớn bản tin về
việc Đại sứ Trần Văn Chương từ chức. (LND: ông Chương là cha ruột của Bà Nhu, từ chức Đại sứ VN
ở Hoa Kỳ để phản đối nhà Ngô đàn áp Phật Tử.) Đôn lập lại rằng các bản tin VOA làm tổn thương quân lực VNCH. Đôn nói đài này không
tốt khi nói rằng quân lực VNCH đàn áp Phật Tử và rằng chính phủ Mỹ lên án việc
này, và cùng lúc nói rằng Mỹ sẽ tiếp tục viện trợ. Đôn không giải thích về điều
này để ám chỉ xem Mỹ nên làm gì.
14. Đôn
không nhắc tới Phó Tổng Thống Thơ hay bất kỳ Bộ Trưởng nào.
15. Đôn
nói rằng sau giai đoạn đầu tiên này, không thể đảo ngược để trở lại
như trước đó. Khi được hỏi có phải ông nói về chính phủ, Đôn trả lời, “Vâng, tôi
đang nói chuyện về chính phủ. Tổng Thống phải thay đổi một số Bộ trưởng.” Đôn
không kể tên bất kỳ Bộ trưởng nào cụ thể.
Đôn nói
các sự kiện đang kiểm soát tình hình. Đôn nói nếu ông phải chọn giữa Tổng Thống
Diệm và Nhu, ông sẽ chọn TT Diệm. Đôn không
nói gì về chuyện các sĩ quan khác có thể suy nghĩ về Nhu. Khi được hỏi nếu có
chuyện xảy ra, và Tổng Thống Diệm không còn giữ quyền lực, Đôn có sẽ làm việc với
Nhu, thì Đôn nói, “Nếu tôi phải lựa chọn giữa Tổng Thống Diệm và Nhu, người phải
ra đi là Nhu.” Đôn không muốn có Nhu.
16. Viên
chức tường trình đã nhận ra ấn tượng từ Đôn rằng TT Diệm ngồi trên ngai hiện đang bị Nhu kiểm soát. Ấn tượng mãnh mẽ
rằng Tướng Đôn không hoàn toàn biết mọi thứ chung quanh ông. Từ những lời nói của Tướng Đôn,
có vẻ rằng có một thành phần trẻ trong các tướng lãnh đang làm Đôn bị rắc rối.
Đôn ám
chỉ rằng ông muốn sự bảo đảm cách này
hay cách khác từ phía chính phủ Mỹ. Ông có vẻ không biết phải làm gì kế tiếp.
Đôn hoàn toàn bị kiểm soát bởi tình thế, và phản ứng, chứ không lên kế hoạch các
việc làm kế tiếp. Dường như tự Đôn cảm thấy Đôn không đủ quyến lực để [hay là?]
ảnh hưởng lên các tướng lãnh để lật đổ Tổng Thống Diệm. Tuy nhiên, Đôn không cho ấn tượng rằng Đôn muốn
tự ý quyết định lật đổ TT Diệm.
Đôn muốn
hòa giải với Phật Tử và nói rằng quân đội nên
hồi phục lại các chùa và các pho
tượng đã bị phá hủy ở một số ngôi chùa. Đôn không nói gì về giai đoạn thứ
nhì của kế hoạch. Đôn không cho thấy bao lâu giai đoạn đầu sẽ kéo dài, nhưng có
nói rằng nói sẽ kéo dài tói sau cuộc bầu cử
Quốc Hội.
17. Ấn
tượng của chúng tôi là có một ý nghĩa đáng cứu xét trong lời của Tướng Đôn rằng
đây chỉ là giai đoạn đầu, và sự bí mật của các giai đoạn tương lai không phaỉ là
chuyện của ông để nói ra. Chúng tôi không thể nhận ra rằng có phải Đôn muốn nói
rằng các giai đoạn tương lai bao gồm “sự bí mật” sẽ bị kiểm soát từ bên trong
quân đội hay, thí dụ, từ Nhu, hay bởi các nhân vật dân sự khác. Đôn không nói tên
bất kỳ nhân vật dân sự nào. Đôn nói mục
tiêu chính của quân đội là tác chiến chống Cộng. Đôn cũng nói rằng không hề có
buổi họp ngày 10 tháng 8-1963 giữa các tướng với Ngô Đình Nhu.
18. Đã gửi
thông tin về cuộc nói chuyện này tới Đại sứ Lodge và Tướng Harkins (Tư lệnh Quân
viện Hoa kỳ tại VN).
GHI CHÚ:
(1) Nguồn:
Library of Congress, Harriman Papers, Vietnam Policy. Bí mật. Cũng đã gửi tới
Honolulu. Bản văn nguồn là phó bản do CIA gửi về Bộ Ngoại Giao cho Hilsman
(Giám đốc Phòng Tình Báo và Nghiên Cứu) và Hughes (Phó Giám đốc Phòng Tình Báo
và Nghiên Cứu); cũng gửi tới Bạch Ốc cho Bundy (Cố vấn An ninh Quốc gia) và tới
JCS (Bộ Tổng Tham Mưu Quân Lực Mỹ) cho Tướng Krulak (Phụ tá Đặc biệt về Chống
Phiến Loạn). Theo một ghi chú về bản văn nguồn, điện văn này phổ biến theo phân
loại TDCS. Bản phúc trình ghi mã số “TDCS DB-3/656,252, August 24,” đã in trong
hồ sơ giải mật Declassified
Documents, 1977, 93C.
(2) Đôn hồi tưởng về cuộc nói chuyện này, trong tác
phẩm của Trần Văn Đôn, tưạ đề Our Endless
War, pp. 90-91.
PHÓNG ẢNH các trang 614, 615, 616, 617,
618, 619 và 620 của Điện tín FRUS1961-1963/275
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét