HUYỀN THOẠI
Cao Huy Thuần
Như một người dân hèn mọn đứng xếp hàng trên đường Hoàng Diệu, tôi xin gửi
mấy dòng đơn sơ này kính viếng anh linh Đại Tướng.
Thật lòng mà nói, người dân hèn mọn có cả một nỗi lòng để thốt ra với Đại
Tướng trong ngày quốc táng, nhưng nỗi lòng ấy nghẹn lời ở cổ. Nói được gì
chăng, chắc Đại Tướng đã nghe rồi và sắp nghe nữa, quá nhiều. Nhưng quá nhiều
mà vẫn chưa đủ. Đáng lẽ phải dùng một con tàu mang di hài của Đại Tướng đi từ
Ải Bắc đến Cà Mau để Đại Tướng nghe tiếng nói không nói được trong tim mọi
người trên mọi con đường của đất nước.
Bởi vì, thưa Đại Tướng, Đại Tướng là anh hùng của dân tộc. Của cả một dân
tộc từ Bắc chí Nam, không phải của riêng ai. Và thế nào là anh hùng? Thế nào là
anh hùng dân tộc? Anh hùng là người đã hiến cả cuộc đời của mình cho một cái gì
cao hơn chính mình. Cái ấy phải là thiêng liêng. Anh hùng dân tộc là người đã
hiến cả cuộc đời của mình cho một cái gì cao hơn chính mình và cái đó, dân tộc
ấy cho là thiêng liêng chung. Với Việt Nam trong thế kỷ 20, cái đó là độc lập.
Nhưng như thế vẫn chưa đủ để Đại Tướng là anh hùng dân tộc. Không ai là anh
hùng nếu không được người khác truy nhận. Không ai là anh hùng dân tộc nếu
không được chính dân tộc truy nhận. Và sự truy nhận ấy trở thành thiêng liêng
khi được chuyên chở trên sức mạnh của huyền thoại. Không có huyền thoại thì
không có anh hùng. Không có huyền thoại cộng đồng thì không có anh hùng dân
tộc. Huyền thoại ấy không phải do một thế lực nào nặn ra. Tự nhiên nó đến qua
sự giao cảm thần kỳ giữa một dân tộc với vị anh hùng của họ.
Đại Tướng đang đi vào huyền thoại ấy. Đã là huyền thoại thì không nên cắt
nghĩa bằng luận lý. Không nên hỏi: đâu phải chỉ một mình Đại Tướng hiến cả cuộc
đời cho độc lập dân tộc? Nhưng huyền thoại là vậy: huyền thoại của Việt Nam
muốn rằng vị anh hùng của dân tộc là tướng. Chẳng phải Đại Tướng là cha đẻ của
một quân đội chỉ có dăm ba khẩu súng trường lúc khai sinh đó sao? Chẳng phải
chỉ gọi "Đại Tướng" là ai cũng biết đích danh một người? Cũng đừng
nên hỏi: bao nhiêu vua đã chống xâm lăng, đâu phải chỉ tướng? Nhưng huyền thoại
là vậy: huyền thoại là lịch sử được cảm xúc hóa, tưởng tượng hóa. Lịch sử tôn
quý vua, nhưng huyền sử sắc phong thần cho tướng. Vua chỉ huy nhưng tướng ra
quân. Và trận mạc đã đi vào tưởng tượng của mọi cái đầu từ thời cắp sách trong
suốt thế kỷ. Mở sách giáo khoa của lớp ba ngày xưa, cả mấy thế hệ học trò say
mê gì, say mê ai, nếu không phải là sông Như Nguyệt, sóng Bạch Đằng, ải Chi
Lăng, áo bào đẫm mùi thuốc súng của Nguyễn Huệ, Thoát Hoan chui vào ống đồng
chạy dài? Hơn thế nữa, cao tột bậc, lịch sử có Trần Nhân Tông, nhưng huyền sử
có đức Thánh Trần. Từ nhỏ, trong tưởng tượng, chiến công là của tướng. Vua thì
có minh quân và hôn quân, tướng chỉ có trận mạc hiển hách, vuốt ve tự hào dân
tộc. Như con người có xương có thịt, dân tộc cần thương yêu và được thương yêu,
cần vỗ về và được vỗ về. Nhất là trong giai đoạn mất nước. Nhất là trong giai
đoạn thui chột tự hào.
Tôi đã lặp đi lặp lại quá nhiều hai chữ dân tộc. Là bởi vì huyền sử của dân
tộc đang làm nhiệm vụ cảm xúc hóa lịch sử để đưa Đại Tướng vào vai trò trưởng
tử của Trần Hưng Đạo. Nhân dân đang sắc phong cho Đại Tướng. Bất cứ ở đâu, mọi
con mắt đều nhìn về một phương, mọi trái tim cùng đập chung một nhịp. Trong
lịch sử chiến tranh gần đây, nếu lấy một thời điểm để nói chính xác rằng mọi
con tim cùng đập một nhịp, thì thời điểm duy nhất ấy là Điện Biên Phủ. Tôi
thuộc thế hệ những anh học trò sống trong vùng ảnh hưởng của Pháp có bạn bè,
thân nhân bị động viên để tham gia chiến trận ngoài Bắc. Không mấy ai trong các
anh ấy nghĩ rằng mình cầm súng để bảo vệ một lý tưởng. Không mấy ai nghĩ rằng
mình đang đứng vào phía dân tộc. Họ thầm nghĩ: phía của dân tộc là phía kia. Và
phía ấy đang vang vọng gầm trời tiếng pháo Điện Biên. Kể cả những người đang
cầm súng ở bên này chiến tuyến, súng ấy cũng có trái tim để cùng đập một nhịp
với nhịp máu tự hào của cả một dân tộc chiến thắng. Điện Biên không có giới
tuyến. Không phải là chiến thắng của một phe. Cho nên Điện Biên là Bạch Đằng.
Điện Biên là duy nhất trong huyền sử thoát nhục thuộc địa. Giống như Bạch Đằng,
một bên là dân tộc, một bên là kẻ thù chung, từ phưong Tậy hoặc từ phương Bắc.
Và Điện Biên, và Bạch Đằng chỉ nói lên một điều: là anh hùng dân tộc vị nào
đã cầm thanh gươm mà chính dân tộc trao cho để chém một kẻ thù chung. Anh hùng
là người ngồi trên ngựa, giữa trận mạc. Huyền sử của Việt Nam muốn thế. Không
cần lý luận. Trái tim cộng đồng tạo ra huyền sử ấy không cần lý luận. Cũng
không có giới tuyến. Đại bác Điện Biên không có giới tuyến.
"Bất hạnh thay cho những dân tộc
nào cần anh hùng", xin Đại Tướng đừng nghe câu nói ấy của Brecht. Dân
tộc Việt Nam đang cần anh hùng.
NHỮNG ĐIỀU ÍT ĐƯỢC BIẾT ĐẾN VỀ TƯỚNG GIÁP
By Trọng
Nghĩa / RFI
Vào hôm nay,
13/10/2013, Đại tướng Võ Nguyên Giáp về đến nơi an nghỉ cuối cùng tại quê nhà
tỉnh Quảng Bình. Từ lúc ông qua đời đến nay, đã có rất nhiều bài viết về cuộc
đời và sự nghiệp của ông. Trong khuôn khổ tạp chí đặc biệt hôm nay, RFI Việt
ngữ xin giới thiệu nhận định của Giáo sư Carl Thayer - chuyên gia kỳ cựu về quân sự và chính trị Việt
Nam tại Học viện Quốc phòng Úc (Đại học New South Wales) - về một số yếu
tố ít được nói đến, nếu không muốn nói là hoàn toàn vắng bóng - trong tiểu sử
chính thức của Đại tướng Giáp.
RFI : Cho đến nay, các nhà báo và các nhà bình luận đã nói
rất nhiều về cuộc đời của tướng Giáp. Theo quan điểm của Giáo sư, di sản chính
của ông Giáp là gì ?
CarleThayer : Sự nghiệp của Tướng Võ Nguyên Giáp trải dài trên 64 năm
kể từ năm 1927, khi ông bị trục xuất khỏi trường Quốc Học vì hoạt động chính
trị, cho đến năm 1991 khi ông chính thức rời bỏ tất cả các chức vụ trong Đảng
và Nhà nước. Sự nghiệp của ông có thể chia thành năm giai đoạn :
- 1927-1944 : Ông còn là một học
sinh đấu tranh, nhà báo, một nhà tuyên truyền chính trị, một tù nhân, một giáo
viên và một sinh viên sau đại học ;
- 1944-1973 : Ông giữ nhiều chức vụ
trong đó có chức chỉ huy Quân đội Nhân dân Việt Nam, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng và
Ủy viên Bộ Chính trị ;
- 1974-1980 : Ông từ bỏ quyền kiểm
soát hoạt động của quân đội và giữ chức Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng
và Ủy viên Bộ Chính trị ;
- 1980-1991 : Ông thôi làm Bộ trưởng
Bộ Quốc phòng và Ủy viên Bộ Chính trị ; trong thời gian này, ông phụ trách khoa
học và công nghệ, dân số và kế hoạch hóa gia đình, và sau đó giáo dục ;
- 1991-2013 : Tướng Giáp rời khỏi
chức vụ cuối cùng là Phó Thủ tướng chính phủ và nghỉ hưu vĩnh viễn.
Di sản chính của Tướng Giáp xuất
phát từ vai trò tư lệnh Quân đội Nhân dân Việt Nam trong giai đoạn hai
(1944-1973). Ông bắt đầu chỉ huy một trung đội 34 người và phát triển lực lượng
này thành một đạo quân nhân dân gồm vài trăm ngàn người trong không đầy mười
năm. Tướng Giáp đồng thời kết
hợp các tác phẩm quân sự của Napoleon, Clausewitz và Mao Trạch Đông với truyền
thống quân sự cổ xưa của Việt Nam.
Tướng Giáp nắm vững nghệ thuật chiến
tranh nhân dân bằng cách vận động dân chúng để chiến đấu và trở thành nhân công
trong mạng lưới hậu cần rộng lớn của ông. Tướng Giáp biết kết hợp đấu tranh
chính trị và quân sự. Mục
tiêu của ông là đuổi Pháp ra khỏi Việt Nam trong một cuộc chiến tranh
trường kỳ.
Chiến công lẫy lừng nhất của ông là
chiến dịch dẫn đến sự thất bại của Pháp ở Điện Biên Phủ. Tướng Giáp dùng chiến
thuật nghi binh, gửi lực lượng của mình sang Lào và rồi sau đó cấp tốc chuyển
hướng tiến đến vùng thung lũng Điện Biên Phủ. Tướng Giáp đã nhanh chóng bác bỏ lời khuyên của các
chuyên gia Trung Quốc tung các làn sóng người tấn công vào doanh trại quân Pháp.
Ông đã sử dụng chiến thuật bao vây, với lực lượng được tiếp ứng liên tục về mặt
hậu cần, cung cấp lương thực, thiết bị vật tư, vũ khí và đạn dược cho chiến
trường.
Tầm quan trọng của trận Điện Biên
Phủ là nó không chỉ đánh
dấu sự thất bại của thực dân Pháp ở Đông Dương, mà cả của chủ nghĩa thực dân
như một hệ thống trên toàn thế giới. Trong vòng tám năm sau đó, Pháp sẽ
phải chịu thất bại ở Algeri.
Hai tiểu sử : Chính thức và không
chính thức
RFI : Giáo sư đánh giá sao về một số « điều được che giấu »
về cuộc đời của Tướng Võ Nguyên Giáp, những điều không hề xuất hiện trong tiểu
sử chính thức ?
Carl Thayer : Có hai phiên bản về cuộc đời và sự nghiệp của Đại tướng Võ
Nguyên Giáp. Trước hết là tiểu sử chính thức mang tính chất tôn vinh, gán cho
ông tất cả những thành công quân sự của Việt Nam kể từ năm 1944 và miêu tả ông
như một viên tướng tài ba hoàn hảo.
Phiên bản thứ hai về sự nghiệp của
Tướng Giáp không mang tính chất chính thức và cho thấy rằng ông là một người
kiên định – có người cho đây là tính kiêu ngạo về mặt trí thức – một người cá
nhân chủ nghĩa dễ nổi giận khi bị can thiệp vào vai trò tổng tư lệnh các lực
lượng vũ trang của ông. Ông được mô tả như là "ngọn núi lửa dưới lớp băng tuyết" chính vì yếu tố được cho là
nóng nảy đó.
Tướng Giáp có nhiều người ủng hộ
nhưng cũng bị nhiều người gièm pha. Lúc còn công tác, ông thường xuyên đụng
chạm với những người gièm pha và các đối thủ của ông, những người không ngần
ngại chỉ trích ông. Những người phê phán ông xuất phát từ hai động cơ : Chủ
nghĩa giáo điều về mặt ý thức hệ và lòng ghen tị, sợ rằng Tướng Giáp nổi tiếng
sẽ làm quyền lực của họ suy yếu. Đấy là thời kỳ lãnh đạo tập thể vô danh.
Trong suốt sự nghiệp của mình, ông
Giáp từng bị chỉ trích vì đã tìm kiếm một học bổng của chính quyền thực dân
Pháp, có người thậm chí còn hàm ý rằng - nếu không nói là buộc tội ông - là một
nhân viên Sở Mật thám Pháp.
Ông cũng bị đả kích vì học chương
trình Pháp, có được bằng tú tài baccalauréat, học tại trường Trung học Albert
Sarraut có uy tín, nơi ông
đứng đầu môn triết học, và Trường Đại học Luật Hà Nội, nơi ông tốt nghiệp thủ khoa về kinh tế
chính trị. Đối thủ của Tướng Giáp đã dùng thành tích học tập của ông để
quật lại ông. Dẫu sao thì ông thành viên duy nhất trong ban lãnh đạo bên trong
(tối cao) của Đảng có được một nền giáo dục phương Tây.
Các yếu tố không được phép nêu lên
trong sự nghiệp của Tướng Giáp cho thấy một tập thể lãnh đạo chia rẽ và sự ganh
đua rõ ràng giữa các cá nhân. Cuộc đối đầu giữa Tướng Giáp với nhà ý thức hệ
Trường Chinh đã thành huyền thoại, tương tự như các cuộc đụng độ sau này của
ông với Tướng Nguyễn Chí Thanh và ông Lê Duẩn, Bí thư Thứ nhất của Đảng Cộng
sản.
Bất đồng với Trường Chinh về vai trò
cố vấn Trung Quốc
Năm 1946, Trường Chinh, đứng thứ hai
trong ban lãnh đạo sau Hồ Chí Minh, đã thất bại trong việc ngăn không cho ông
Giáp được phong cấp Đại tướng và chức chỉ huy Quân đội Nhân dân. Trường Chinh và Tướng Giáp bất
đồng về phạm vi và mức độ mà các cố vấn quân sự Trung Quốc có thể ảnh hưởng đến
chiến lược chiến trường của Việt Nam, và trên quyền của Tướng Giáp được đơn
phương bổ nhiệm các trợ lý quan trọng.
Vào năm 1951, Tướng Giáp đã cho mở
một cuộc tấn công quá sớm vào các vị trí kiên cố của Pháp ở đồng bằng sông
Hồng. Chiến dịch thất bại và Quân đội Nhân dân bị thương vong nặng nề. Tướng
Giáp bị buộc phải tự phê bình, cách chức một số phụ tá quan trọng, cho phép
thành lập một hệ thống chính trị viên trong quân đội, và chấp nhận các cố vấn
quân sự Trung Quốc ở các cấp độ khác nhau trong Quân đội Nhân dân.
Sau khi Chiến tranh Đông Dương đầu
tiên (1946-1954) kết thúc Việt Nam bị chia cắt. Mặc dù Tướng Giáp đã có uy tín
rất lớn, nhưng những kẻ đả kích ông vẫn tiếp tục thách thức quyền lực của ông
và đặt nghi vấn về cách ông điều hành cuộc chiến ở miền Nam Việt Nam. Bí thư
Thứ nhất của Đảng là Lê Duẩn muốn đẩy mạnh việc lật đổ chính quyền miền Nam,
ông Giáp thận trọng hơn và hai người kình chống nhau.
Phe gièm pha Tướng Giáp đã thành
công trong việc đề bạt ông Nguyễn Chí Thanh (1959) và sau đó là ông Văn Tiến
Dũng (1974) lên cấp Đại tướng. Trước lúc những người này được thăng cấp, chỉ có
ông Giáp mang cấp Đại tướng mà thôi. Cả hai vị tướng mới đề bạt về sau, đều đã giành lấy quyền kiểm soát hoạt
động chiến tranh trong Nam từ tay của ông Giáp.
Vào năm 1960, Tướng Giáp đã bị đẩy
lùi từ hàng thứ tư xuống hàng thứ sáu trong Bộ Chính trị tại Đại hội Đảng toàn
quốc lần thứ ba. Chủ trương chung sống hòa bình của lãnh đạo Liên Xô Nikita
Khrushchev vào năm 1960 là điều đã tác hại đến nhiều người trong giới lãnh đạo
Việt Nam.
Tướng Giáp, người thiên về phía Liên
Xô – nước đã hỗ trợ quân sự cho Việt Nam – và có thái độ phê phán với Trung Quốc, đã không đồng nhịp
với các lãnh đạo khác. Một lần nữa, ông đã bị các đồng chí chỉ trích.
Trong năm 1965, khi Hoa Kỳ tung lực
lượng chiến đấu vào Việt Nam, Lê Duẩn và Nguyễn Chí Thanh ra lệnh tung các đơn
vị Quân đội Nhân dân miền Bắc vào cuộc chiến. Nguyễn Chí Thanh là người thiết
kế chiến dịch Tết Mậu Thân 1968 nhưng qua đời vì một cơn đau tim trước khi
chiến dịch được thực hiện. Lực lượng Cộng sản miền Nam nằm vùng bị thương vong
rất lớn, Tướng Giáp được phuc hồi và uy tín của ông tăng thêm.
Sau cái chết của Hồ Chí Minh vào năm
1969, một bộ ba lãnh đạo mới nổi lên : Lê Duẩn, Phạm Văn Đồng và Võ Nguyên
Giáp. Vào thời điểm đó, Tướng Giáp nắm ba vai trò quan trọng : Ủy viên Bộ Chính
trị, Bí thư Quân ủy Trung ương Đảng, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng. Tuy nhiên, ông
không bao giờ lấy lại được quyền kiểm soát hoạt động của các lực lượng vũ
trang. Tướng Giáp đã phản
đối cả hai chiến dịch Tết Mậu Thân và chiến dịch Nguyễn Huệ 1972, và ý kiến ông
đã bị bác bỏ cả hai lần.
Tháng 4 năm 1972, Tướng Văn Tiến
Dũng chỉ huy chiến dịch Nguyễn Huệ và đến tháng 10 năm 1973, ông được trao
quyền chỉ huy của cuộc tấn công cuối cùng của cuộc chiến : Chiến dịch Hồ Chí
Minh. Điểm đáng chú ý, đó là sự kiện chính một Ủy viên dân sự cao cấp của Bộ
Chính trị - ông Lê Đức Thọ - chứ không phải là Tướng Giáp, là người ra chỉ thị
cho Quân đội Nhân dân bắt đầu chiến dịch tấn công cuối cùng của mình bằng cách
tấn công Ban Mê Thuột ở vùng Cao nguyên.
Sau năm 1975, bị gạt ra bên lề,
nhưng vẫn lên tiếng
RFI : Về các hoạt động của ông sau năm 1975, một số người cho
rằng ông đã hoàn toàn không còn vai trò gì, nhưng cũng có người thấy rằng người
ta gạt được ông ra bên lề, nhưng không hoàn toàn bịt miệng được ông. Ý kiến
của Giáo sư như thế nào ?
Carl Thayer : Sau khi Việt Nam thống nhất, Tướng Giáp vẫn làm Bộ trưởng
Quốc phòng cho đến năm 1980. Nhưng chính Tướng Văn Tiến Dũng là người chỉ huy
quân đội Việt Nam đánh qua Cam Bốt vào cuối năm 1978 và bảo vệ miền Bắc Việt
Nam vào tháng Hai - tháng Ba năm 1979 khi Trung Quốc xâm lăng Việt Nam để trả
thù.
Rõ ràng ngôi sao của Tướng Giáp vào
thời điểm đó lu mờ nhanh chóng. Năm 1976, Tướng Văn Tiến Dũng là người đọc báo
cáo quân sự tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ tư, còn Tướng Giáp được phân
công nói về các chính sách của Đảng về khoa học và công nghệ. Tướng Giáp cũng
không thành công khi phản đối việc giao cho quân đội nhiệm vụ xây dựng đất nước
sau chiến tranh. Ông đã phải cúi đầu trước nguyên tắc "tập trung dân
chủ" của Đảng và bảo vệ chính sách của Đảng trước công chúng.
Tháng 2 năm 1980, Tướng Giáp rời
khỏi Bộ Quốc phòng, nhưng vẫn giữ chức Phó Thủ tướng. Năm 1981, ông thoạt đầu
bị giáng cấp từ Phó Thủ tướng thứ nhất xuống làm Phó Thủ tướng thứ ba. Đến
tháng Ba năm 1982, Tướng Giáp bị loại ra khỏi Bộ Chính trị tại Đại hội Đảng
toàn quốc lần thứ năm, nhưng vẫn giữ được chức Ủy viên Trung ương Đảng.
Tướng Võ Nguyên Giáp rất được lòng
dân và có hậu thuẫn mạnh mẽ trong Đảng. Vào giữa những năm 1980, những người
ủng hộ ông đã thất bại trong việc đưa ông lên thay thế ông Phạm Văn Đồng ở chức
Thủ tướng. Cũng có rất nhiều tin đồn về việc những người ủng hộ Tướng Giáp vận
động để ông trở thành lãnh đạo Đảng. Sau đó, ông Giáp lần lượt phụ trách vấn đề
nhân khẩu học và kế hoạch hóa gia đình, rồi vấn đề giáo dục. Ông rời khỏi chính
quyền vào năm 1991 khi về hưu trong tư cách là Phó Thủ tướng.
Rất khó đánh giá về những đóng góp
của Tướng Giáp trong giai đoạn này. Việt Nam khi ấy được lãnh đạo tập thể, và
cho đến năm 1986 vẫn tiếp tục đi theo mô hình kế hoạch tập trung không thành
công của Liên Xô. Điều đáng nêu bật là Tướng Giáp tiếp tục hoạt động trong
chính phủ cho đến năm tám mươi tuổi.
Kiên trì bảo vệ chủ quyền Việt Nam
trước Trung Quốc
RFI : Có người cho rằng gần đây Tướng Giáp rất lo ngại về sự
thao túng của Trung Quốc đối với Việt Nam. Nhận định này có phần nào đúng hay
không ?
Carl Thayer : Sự nghiệp quân sự lâu dài của Tướng Giáp cho thấy rõ là ông sẵn sàng chấp nhận sự giúp
đỡ của Trung Quốc và kể cả những tư vấn, nhưng ông vẫn đấu tranh để giữ được sự
tự chủ và độc lập trong hành động của Việt Nam.
Tướng Giáp nghiêng về Matxcơva nhiều
hơn Bắc Kinh trong thời kỳ chiến tranh, vì sự chi viện quân bị to lớn của Liên
Xô cho Việt Nam - bao gồm cả tên lửa phòng không. Mặc dù Liên Xô được cho là đã
khuyên Tướng Giáp “thực hiện một vụ Afghanistan” bằng cách tấn công Cam Bốt và
lật đổ chế độ Khmer Đỏ được Trung Quốc ủng hộ, Tướng Giáp vẫn chống lại việc can thiệp quân sự trên quy
mô lớn.
Khi Trung Quốc và Việt Nam bình
thường hóa quan hệ trở lại vào năm 1991, Tướng Giáp đã hoàn toàn nghỉ hưu
Trong những năm tháng nghỉ hưu,
Tướng Giáp rất được biết đến với hai lần lên tiếng.
Năm 2004, ông đã viết thư cho Bộ
Chính trị phê phán sự can thiệp của tình báo quân đội (Tổng Cục II) vào các
công việc nội bộ của Đảng.
Năm 2009, ông thu hút sự chú ý của
công luận khi viết ba thư ngỏ gửi tới các lãnh đạo Đảng và Nhà nước cảnh báo
tác động môi trường của dự án khai thác bauxite, do Trung Quốc tài trợ, ở Cao
nguyên Trung phần. Ông đề cập đến vấn đề này với lập luận rằng đó là mối đe dọa
đối với an ninh quốc gia.
Sự kiện đó gây ra một dây chuyền
cộng hưởng trong dân chúng nói chung, đang ngày càng lo lắng trước sự quyết
đoán của Trung Quốc tại Biển Đông.
Vị anh hùng Việt Nam cần khi phải
đối mặt với ngoại bang xâm lược
RFI : Giáo sư giải thích thế nào về việc Tướng Giáp được lòng
dân đến như vậy ?
Carl Thayer : Tướng Võ Nguyên Giáp là một nhà chiến lược quân sự tầm cỡ thế giới. Vào
năm 1944 - khi ông chỉ huy một trung đội 34 người - ai có thể nghĩ được rằng
trong vòng 10 năm, ông đã phát triển lực lượng lên thành một quân đội có hàng
trăm ngàn binh sĩ và đánh bại được Pháp, một trong những thế lực quân sự mạnh
nhất vào thời điểm đó ? Tướng Giáp đã có được uy phong rất lớn với chiến thắng
tại Điện Biên Phủ, một sự kiện đã để lại dấu ấn trong suốt cuộc đời ông.
Sự được lòng dân của ông dựa trên
nhiều nền tảng. Trước tiên, hàng triệu người Việt Nam đã phục vụ trong Quân đội
Nhân dân khi Tướng Giáp là Tổng chỉ huy và Bộ trưởng Bộ Quốc phòng. Ông là
nguồn cảm hứng của họ. Các cựu chiến binh và gia đình của họ là một thành phần
to lớn trong cư dân tại Việt Nam.
Thứ hai, sau Hồ Chí Minh và có thể
Phạm Văn Đồng, Tướng Giáp là lãnh đạo quốc gia duy nhất nổi bật bên trên một
ban lãnh đạo tập thể mờ nhạt. Ông có sức lôi cuốn, phát biểu lưu loát và truyền
cảm hứng cho người dân. Ông là vị anh hùng mà Việt Nam cần có khi phải đối mặt với sự xâm lược của
ngoại bang, từ năm 1946 đến 1973 và sau đó, trong những năm 2000, khi
Trung Quốc đe dọa chủ quyền của Việt Nam ở Biển Đông.
Sau thời gian làm một nhà quân sự,
Tướng Giáp đã phụ trách những lãnh vực quan trọng liên quan đến sự phát triển
như khoa học và công nghệ, dân số và kế hoạch hóa gia đình và giáo dục. Đó là
nền tảng thứ ba của việc ông được lòng dân.
Uy tín Tướng Giáp trong dân chúng
còn dựa trên sự thành công của ông trong suốt 64 năm phục vụ Đảng Cộng sản Việt
Nam, Quân đội Nhân dân Việt Nam và đất nước Việt Nam. Ông sẽ luôn luôn được
tưởng nhớ như là người chỉ
huy chính, đã đánh bại hai cường quốc lớn.
Rõ ràng, Tướng Giáp đã thu hút được
cảm tình của cả hai thế hệ trẻ và già tại Việt Nam. Điều này được thấy qua việc
người dân đủ mọi lứa tuổi thể hiện sự đau buồn, tự động đổ xô đến nhà ông để
thắp nến và hương.
Tướng Giáp là hiện thân của một
chính khách Việt Nam biết
sử dụng trí tuệ để đưa ra các chiến thuật và chiến lược cho phép kẻ có
vẻ là yếu đánh bại được kẻ mạnh.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét