ĐỐI
THOẠI VỀ BẤT BẠO ĐỘNG VỚI AUNG SAN SUU KYI
Cao
Huy Thuần
I
Ngay
khi khởi đầu cuộc tranh đấu chống chính sách kỳ thị tôn giáo của ông Ngô Đình
Diệm, các vị lãnh đạo đã ra một bản Tuyên ngôn đọc ngày 10-5-1963 tại chùa Từ
Đàm, trong đó phương pháp bất bạo động được long trọng xác định:
“Phương pháp tranh đấu mà chúng tôi áp dụng
là bất bạo động. Chúng tôi phải thể hiện tư tưởng của Phật giáo ngay trong cuộc
tranh đấu của chúng tôi. Chúng tôi chấp nhận một sự hy sinh đến cùng độ và lấy
sự hy sinh ấy làm sức mạnh để rung chuyển tận lòng người chứ không phải chỉ
rung chuyển chính sách mà thôi. Ngay từ bây giờ chúng tôi có thể tuyên bố minh
bạch rằng những người Tăng sĩ của Phật giáo là những người sẵn sàng noi gương
Gandhi - vị Thánh của sức mạnh bất bạo động”.
Và
quả thật như vậy, thế giới đã chứng kiến thế nào là sức mạnh bất bạo động. Ngày
hôm nay, hồi tưởng lại những hy sinh đã đổ ra trong cuộc tranh đấu bất bạo động
ấy, chúng ta thật không thể tưởng tượng được Phật giáo Việt Nam đã viết được
một trang sử vinh quang như vậy về sức mạnh tâm linh cho cả dân tộc và cho cả
thế giới. Phật giáo Việt Nam đã thắp lên được một ngọn lửa sáng rực huyền vi để
cả thế giới biết thế nào là Đại Hùng, Đại Lực, Đại Từ bi.
Tưởng
niệm 50 năm Bồ-tát Quảng Đức vị pháp thiêu thân, chúng ta hãnh diện về gia tài
tâm linh được thừa hưởng. Nhưng dường như Bồ-tát đang nói với chúng ta: hãy lấy
ngọn lửa đó để thắp sáng hành động thường ngày, bởi vì bất bạo động không phải
là chuyện gì cao xa, nó nằm sẵn trong huyết mạch của tư tưởng Phật giáo. Đó là
đề tài nói chuyện của tôi hôm nay. Tư tưởng ấy là gì? Nó khác với tư tưởng của
các tôn giáo khác như thế nào? Đâu là điểm chung, đâu là điểm riêng? Cái gì là
đặc thù của Phật giáo?
Trả
lời những câu hỏi này, riêng kinh nghiệm Việt Nam không đủ, vì kinh nghiệm 1963
là kinh nghiệm hành động, không phải kinh nghiệm lý thuyết. Ngày nay, khi thế
giới tìm hiểu về lý thuyết bất bạo động, ai cũng chỉ nghĩ đến Gandhi, và sau đó
là Martin Luther King. Có một nhân vật thứ ba nữa được nhắc đến là Nelson
Mandela, cựu Tổng thống Nam Phi. 1963 của Việt Nam không để lại lý thuyết cho
nên sách vở về bất bạo động trên thế giới không nhắc đến cũng là dễ hiểu. Sách
vở thế giới đặt 1963 vào một chương khác, chương nói về chiến tranh. Bởi vậy,
nếu muốn tìm trong sách vở thế giới mối liên quan giữa bất bạo động và tư tưởng
Phật giáo, tôi bắt buộc phải nhìn qua một nước khác, Phật giáo như chúng ta,
với một kinh nghiệm tranh đấu bất bạo động lâu hơn chúng ta, rất đáng kính và
rất trung thực với tư tưởng Phật giáo: đó là nước Miến Điện của người phụ nữ
Phật tử gương mẫu, bà Aung San Suu Kyi.
Tôi
sẽ đọc một quyển sách của bà. Nhưng trước khi đi vào tư tưởng Phật giáo, tôi
muốn nêu lên ngay ở đây hai điểm vì lát nữa chúng ta sẽ gặp phải, một điểm có
liên quan đến lý thuyết, một điểm có liên quan đến hành động.
Về
lý thuyết, Gandhi và Phật giáo rất gần nhau, chỉ khác ở một chỗ thôi là Gandhi
tin ở Thượng đế vì ông là tín đồ của Ấn Độ giáo. Niềm tin ấy tất nhiên ảnh
hưởng rất nhiều trên tư tưởng của ông. Tuy vậy, quan điểm của ông về Thượng đế
không ngăn cản ai khác tôn giáo của ông chấp nhận tư tưởng bất bạo động của
ông. Ông nói: “Thượng đế là một cái gì
không định nghĩa được, ta chỉ cảm thấy nhưng ta không thể biết. Đối với tôi,
Thượng đế là sự thật và tình thương”. Ở một nơi khác, ông nói: “Tôi thờ phụng Thượng đế như là sự thật mà
thôi. Tôi chưa tìm được Thượng đế, nhưng tôi đang tìm Thượng đế. Tôi chuẩn bị
hy sinh tất cả những gì thân yêu nhất của tôi để đi tìm Thượng đế. Dù cho tôi
phải hy sinh mạng sống của tôi, tôi hy vọng rằng tôi có thể chuẩn bị để cho”.
Thêm một định nghĩa nữa: “Tôn giáo của
tôi đặt căn bản trên sự thật và bất bạo động. Sự thật là tôn giáo của tôi. Bất
bạo động là phương tiện để thực hiện Thượng đế”. Có ai cảm thấy xa xôi gì
với các định nghĩa đó đâu? Bởi vậy, Mục sư Tin Lành Martin Luther King, người
lãnh đạo cuộc tranh đấu đòi bình đẳng cho người da đen ở Mỹ trong những năm 60,
tuy có một quan niệm khác về Thượng đế, dễ dàng tự nhận mình là tiếp nối truyền
thống của Gandhi không chút vướng ngại. Gandhi là của chung của nhân loại.
Điểm
thứ hai là về hành động. Câu hỏi thường đặt ra cho các cuộc tranh đấu bất bạo
động là: nếu phương pháp bất bạo động không đưa đến thành công thì sao? Gandhi
nói: “As the means, so the end” (“phương tiện thế nào, cứu cánh thế ấy”). Vững
chắc như thành đồng. Nhưng Malcolm X, lãnh tụ da đen chủ trương bạo động đối
nghịch với King, cũng cả quyết như thành đồng vững chắc: tự do phải đến với
người da đen “bằng mọi phương tiện cần thiết”. Sau khi King bị ám sát năm 1968,
Malcolm X đòi chỉnh lý lại thuyết bất bạo động của King như thế này: “Nếu bất bạo động có nghĩa là tiếp tục dời
lại vô thời hạn không giải quyết vấn đề dân da đen với cái giá là từ chối bạo
động, thì, vâng, tôi chọn bạo động”. Bạo động hay bất bạo động, như vậy, là
được đánh giá trên tiêu chuẩn thành công hay không. Đó là vấn đề đã đặt ra cho
ông Nelson Mandela, lãnh tụ cuộc tranh đấu chống chính sách kỳ thị chủng tộc ở
Nam Phi cũng vào thời gian những năm 60. Đây là nhân vật thứ ba được thế giới
vinh danh là lãnh tụ bất bạo động, cụ thể hóa bằng Giải thưởng Nobel về hòa
bình năm 1993, giống như Luther King năm 1964. Thế nhưng có thật Mandela là
chiến sĩ trung thực của bất bạo động không? Ông chịu ảnh hưởng của Gandhi, đúng
vậy, và khi ra tù, thắng trận, ông không ngớt kêu gọi hòa giải và tha tội để tránh
cho nước của ông hận thù đẫm máu, không ngớt viện dẫn Gandhi để chứng minh cho
thế giới thấy rằng nước của ông có thể xây dựng một nền dân chủ hòa bình sau cả
mấy thế kỷ cai trị dưới tàn bạo chủng tộc. Thậm chí, ông nhận được Giải thưởng
Gandhi/Luther King năm 1999 từ bàn tay của người cháu gái của Gandhi. Thế
nhưng, từ 1954, ông đã tuyên bố: “Giai
đoạn của chống cự thụ động đã chấm dứt, bất bạo động chỉ là một chiến lược vô
hiệu, sẽ không bao giờ lật đổ được thiểu số da trắng sẵn sàng nắm giữ quyền lực
với bất cứ giá nào...”. Ông giải thích: “Tranh đấu bất bạo động chỉ hiệu quả khi đối thủ của ta thừa nhận những
nguyên tắc như ta. Nhưng khi tranh đấu hòa bình chỉ gặp phải bạo lực, hiệu quả
chấm dứt. Đối với tôi, bất bạo động không phải là một nguyên tắc đạo đức mà là
một chiến lược. Không có một sự tốt lành đạo đức nào để sử dụng một khí giới vô
hiệu”. Bị nội bộ chỉ trích, ông thú nhận: “Tôi chấp nhận chỉ trích và sau đó tôi trung thực chấp hành chính sách
bất bạo động trước công chúng. Nhưng tự trong thâm tâm, tôi biết rằng bất bạo
động không phải là giải đáp”. Năm 1960, khi chính quyền Nam Phi cho tắm máu
cuộc biểu tình hòa bình ở Sharpeville và Langa, Mandela tuyên bố giai đoạn bất
bạo động chính thức chấm dứt. Đáng để suy nghĩ, Martin Luther King công khai
ủng hộ Mandela và đảng ANC của ông từ 1961, bởi vì, King nói, Mandela không còn
đường lối nào khác. Như vậy, phải chăng, như Mandela tự biện hộ, “bạo động và
bất bạo động chẳng hề loại bỏ nhau”?
II
Đó
là những vấn đề gai góc luôn luôn được đưa ra trong các tranh luận. Bây giờ,
tôi đi vào quyển sách của bà Aung San Suu Kyi để xem tư tưởng Phật giáo đã được
áp dụng cụ thể như thế nào trong cuộc tranh đấu bất bạo động của bà. Quyển sách
nhan đề “The Voice of Hope” (Tiếng nói của hy vọng), ghi lại nhiều buổi
đối thoại giữa bà với một học giả người Mỹ, Alan Clements, cũng là một Phật tử.
Đây là câu hỏi đầu tiên:
-
Thưa bà, tôi muốn hỏi thêm bà về “đạo Phật dấn thân”. Năm nay, tôi đã sống vài
tháng ở Việt Nam và đã viếng thăm, trong một vùng ngoại ô thành phố Huế, ngôi
chùa của một vị sư Việt Nam đã tự thiêu năm 1963... Một nhà sư trẻ đã cắt nghĩa
cho tôi rằng “tự thiêu không phải là hành
vi tự hủy hoại hay tự tử mà là một hành động của từ bi: đó là cách của Ngài làm
cho thế giới chú ý đến sự đau khổ mà dân chúng Việt Nam đang chịu đựng trong
chiến tranh”. Hiển nhiên một hành động như vậy của đạo Phật dấn thân là đã
đạt đến cực điểm. Nhưng hình ảnh đó khiến tôi phải hỏi bà làm thế nào để đạo
Phật dấn thân có thể sinh động hơn ngày nay, nhất là trong một triệu Tăng và
một trăm ngàn Ni trong nước của bà?
Tôi
dịch gần như nguyên văn câu hỏi, chỉ giản lược bớt vài chữ để câu văn nhẹ nhàng
thôi. Và tôi cũng dịch như thế câu trả lời. Ngắn, gọn, thẳng như mũi tên bắn.
Và thật là bất ngờ:
-
Đạo Phật dấn thân là từ bi tích cực.
Và
thế nào là từ bi tích cực? Là như kinh đã dạy: “Như mẹ hiền yêu thương con
một / Dám hy sinh bảo vệ cho con...” Bà không nói cái gì khác với chúng ta
hồi 1963: bất bạo động là từ bi và vô úy. Là không sợ. Là dám hy sinh. Và không
sợ vì tâm đã tràn đầy từ bi, không còn chỗ nào nữa cho sợ hãi. Giữa từ bi và vô
úy có sự liên hệ mật thiết. Bà nói: “từ
bi toàn vẹn thì đuổi sợ hãi”. Bà không nói gì khác, nhưng xác quyết của một
người hành động làm ta vững tin hơn. Bà nói thêm, rất cụ thể: “Tôi chưa bao giờ học ghét những người đã cầm
tù tôi, bởi vậy tôi không bao giờ cảm thấy sợ họ”. Hơn thế nữa, “mẹ tôi không bao giờ dạy tôi ghét ngay cả
những người đã giết cha tôi”.
Nữ Phật tử gương mẫu, bà Aung San Suu Kyi
Và
đây là câu hỏi thứ hai có liên quan đến vấn đề lý thuyết mà tôi đã nêu lên
trong phần trước:
-
Thưa bà, có một sự phân biệt lớn giữa những người lãnh đạo các phong trào chính
trị bất bạo động. Có thể nói là có hai quan niệm chính về bất bạo động. Một
quan niệm có cội rễ từ lòng tin Thượng đế, lấy hứng và sức mạnh từ tín ngưỡng
độc thần, như Gandhi, như Martin Luther King, như Nelson Mandela, như Václav
Havel... Trong khi đó, quan niệm thứ hai của Phật giáo có cội rễ ở niềm tin vào
vô ngã, không có thần nào trong đó cả. Ngài Đạt Lai Lạt Ma là một ví dụ. Và bây
giờ là bà. Khi bà suy nghĩ về những ví dụ đó, tất cả những quan niệm hữu thần
đều thành công trong tranh đấu của họ, còn Phật tử thì không thành công trong
việc mang lại những thay đổi chính trị. Ngài Đạt Lai Lạt Ma cũng phải công
nhận: “mỗi giờ phút trôi qua, Tây Tạng
mất đi một ít”. Tôi có thể hỏi bà: bà nghĩ thế nào về sự phân biệt giữa hai
trường phái bất bạo động ấy?
Câu
hỏi rất hóc búa, buộc người trả lời phải đi vào thực tế của hành động, chứ
không phải chỉ quả quyết trên lý thuyết.Tôi cũng xin nói thêm rằng khi người
hỏi đề cập đến sự “thất bại” của bất bạo động ở Việt Nam là nói về giai đoạn
sau 1963, khi ông Nguyễn Cao Kỳ đem quân ra đánh Huế và bắt HT.Trí Quang cầm tù
trong một bệnh viện tư ở Sài Gòn. Bởi vậy câu trả lời của bà Aung San Suu Kyi
bắt đầu bằng nhận xét này, tôi dịch nguyên văn:
-
Ở miền Nam Việt Nam ngày trước có quá nhiều người Thiên Chúa giáo, và quá nhiều
người trong họ nắm giữ những chức vị then chốt trong chiến tranh. Tôi nghĩ một
trong những lý do tại sao phong trào Phật giáo thất bại là vì có quá nhiều
người không phải Phật giáo nắm quyền. Phong trào Phật giáo không vận động được
những người cốt cán của tình thế.
Câu
trả lời không làm thỏa mãn người hỏi. Vì vậy, người hỏi nhấn mạnh một lần nữa:
-
Trở về lại với câu hỏi khi nãy, có thể nói gì về niềm tin của người có Thượng
đế trong linh hồn đối với những người thấy vô ngã trong chân lý?
Tôi
dịch nguyên văn câu trả lời, vẫn phân tích thực tế hơn là đi vào lý thuyết:
-
Tôi nghĩ có một lý do gì thực tế hơn chăng. Các phong trào của những người
Thiên Chúa giáo được tổ chức chặt chẽ, điều đó là cốt yếu. Nhà thờ của họ được
tổ chức như thế, trong khi Phật tử không được tổ chức thực sự trong các chùa.
Mặc dầu người ta có thể đi đến một chùa địa phương, hoặc quen đi đến chùa của
mình, người ta không nhất thiết chỉ giới hạn trong chùa đó. Còn người Thiên
Chúa giáo thì khác: họ đi lễ ở một nhà thờ năm này qua năm khác, và vì vậy mà
làm phát triển những quan hệ tín hữu. Có thể cha mẹ của họ cũng đã từng đi lễ
cùng một nhà thờ ấy và nhờ vậy mà họ làm quen với nhiều người đã từng quen biết
cha mẹ họ trước đây. Tôi nghĩ đó là cách để các phong trào tổ chức cơ sở. Tôi
thường nghĩ cũng có thể đó là một trong các lý do tại sao các phong trào chính
trị của người Thiên Chúa giáo cất cánh nhanh chóng và hiệu quả. Tổ chức đã có
sẵn đấy rồi. Cứ xem các nước ở Nam Mỹ: nhiều phong trào chính trị chống đối các
chính thể độc tài, mặc dầu không phải bất bạo động, đều có cơ sở là nhà thờ,
khiến các phong trào ấy cất cánh rất nhanh. Ngay cả trong các nước Hồi giáo, họ
cũng có nhà thờ của họ, được tổ chức chặt chẽ, với hội họp đều đặn mỗi tuần.
Trong các nước Phật giáo, cách tổ chức có quy mô hình thức như vậy không có.
Đọc
câu trả lời, tôi nhận thấy à ra vậy, tưởng các chùa ở nước Phật giáo Miến Điện
tổ chức chặt chẽ hơn, hóa ra cũng “nhẹ nhàng” như ở ta! Nhưng câu trả lời vẫn
chưa làm hài lòng người phỏng vấn. Ông này nhấn mạnh lần nữa:
-
Vậy thì rõ ràng bà không nghĩ rằng các phong trào đó thành công là có cái gì đó
liên quan đến niềm tin ở Thượng đế?
Tôi
cho rằng câu hỏi chứng tỏ người phỏng vấn rất am hiểu vấn đề. Nhưng câu trả lời
vẫn tiếp tục triển khai ý nghĩ như cũ:
-
Tôi nghĩ rằng đó chỉ vì họ có thể gặp nhau đều đặn. Ngay cả ở Ấn Độ, chính
quyền cũng không thể nói rằng dân Hồi giáo không được đi nhà thờ. Họ phản ứng
ngay lập tức. Chính quyền phải để cho họ đi, và như vậy họ luôn luôn gặp nhau
đều đặn, ít nhất mỗi tuần một lần. Trong khi đó thì, Phật tử gặp nhau ở đâu?
Nếu Phật tử bắt đầu gặp nhau mỗi tuần một lần tại một chùa nào đó, cảnh sát sẽ
đến hỏi họ ngay các bạn thân mến gặp nhau làm gì vậy? Nhưng cảnh sát không thể
ngăn dân đạo đến nhà thờ. Trong các nước Đông Âu ngày trước, cảnh sát cũng đã
từng ngăn người ta đến nhà thờ, nhưng khi các nước Tây Âu sẵn sàng phản đối, và
khi các nước Đông Âu ấy cần mượn tiền của Tây Âu, chính quyền không thể nói:
“Này, không được đi lễ”. Nước Ba Lan ngày trước là như vậy. Hoạt động chính trị
có nhà thờ làm cơ sở. Còn bây giờ, nếu lấy Miến Điện làm ví dụ thì...
Tôi
không cần dịch thêm, quý vị cũng biết bà nói gì. Sức mấy mà bọn quân phiệt để
yên. Nhưng, hồi tưởng lại năm 63 nghiệt ngã, tại sao Phật tử chúng ta đã làm
được sơ thất, nhị thất, tam thất, chung thất cho các Thánh tử đạo? Tại sao ông
Diệm không giập tắt được bất bạo động của chúng ta? Bà Aung San Suu Kyi trả lời
giùm tôi: tại vì kẻ yếu có “sức mạnh của
kẻ yếu”.
-
Sức mạnh đến từ bên trong - bà nói thế. Nếu ta tin tưởng vào việc ta làm, nếu
ta vững chắc trong niềm tin của ta rằng việc mà ta đang làm là đúng, chỉ vậy
thôi là đã có đủ sức mạnh, và sức mạnh đó là rất quan trọng khi ta muốn hoàn
thành một công việc gì. Nếu ta không tin ở việc ta làm, hành động của ta sẽ
thiếu xác quyết. Ta có cố gắng bao nhiêu đi nữa, nhược điểm thiếu chính xác,
minh bạch ấy vẫn sẽ xảy ra.
Một
cách gián tiếp, bà đã trả lời câu hỏi hóc búa về Thượng đế hay vô ngã. Thượng
đế hay vô ngã không quan trọng bằng niềm tin vào việc mình làm. Chính vì niềm
tin đó mà 1963 là vô địch.
Riêng
bản thân tôi, tôi có câu trả lời trực tiếp. Vâng, đúng thế, dưới danh nghĩa
Thượng đế, động viên người ta dễ hơn là dưới đề tài vô ngã, nhưng sự khác nhau
không phải nằm ở đó. Hãy xem các nước Hồi giáo ngày nay: dưới danh nghĩa Thượng
đế, bao nhiêu máu đã chảy? Bao nhiêu bạo lực! Còn dưới danh nghĩa vô ngã... chỉ
có thể là bất bạo động mà thôi! Bồ-tát Quảng Đức, đúng là hiện thân của vô ngã.
Không có ta, không có kẻ thù. Hay như ngài Đạt Lai Lạt Ma nói: kẻ thù là ông
thầy tốt nhất của ta. Có điều là: dưới danh nghĩa Thượng đế, nói lên một tiếng,
hàng vạn người theo, còn nói vô ngã... khó có ai biểu tình để nói rằng tôi vô
ngã.
Bất
bạo động khó khăn là vì thế. Nhưng chính vì thế mà ta phải suy nghĩ cho tương
lai. Chẳng lẽ vì bất bạo động khó khăn mà không có tương lai? Bởi vậy, tôi đặc
biệt chú ý đến đối thoại sau đây:
-
Nelson Mandela viết trong hồi ký “Long Walk to Freedom”(“Trường hành vào
tự do”) rằng “năm 1961, chúng tôi ngưng
cuộc tranh đấu bất bạo động... Chúng tôi không có cách nào khác hơn là phải bạo
động”. Để tạo cơ sở cho cuộc chuyển hướng từ bất bạo động qua bạo động, ông
trích một câu tục ngữ của Phi châu: “Khi
một con thú dữ tấn công, ta không thể chống lại bằng tay không”. Tuy vậy có
vài người trong đảng ANC của ông lý luận rằng bất bạo động là một nguyên tắc
không thể vi phạm được, không phải là chiến thuật để mà bỏ qua khi không còn
hiệu nghiệm. Ông Mandela trả lời: “Tôi
nghĩ hoàn toàn ngược lại... bất bạo động là một chiến thuật phải gác qua một
bên khi không còn hiệu nghiệm... Và quả là sai lầm và vô đạo đức nếu ta đặt dân
chúng của ta trước tấn công vũ lực của chính quyền mà không mang đến cho họ một
biện pháp gì khác để thay thế”. Thưa bà, nếu tôi nghĩ đúng, bà cho rằng
hành động chính trị bất bạo động là một nguyên tắc đạo đức và tâm linh chứ
không phải là một chiến thuật chính trị?
Giáo sư Cao Huy Thuần tại Hội thảo khoa học
"50 năm phong trào Phật giáo ở miền Nam", Bình Dương, 2013 - Ảnh: V.G
Là
con người hành động và đồng thời có niềm tin sắt đá vào đạo Phật, câu trả lời
của bà Aung San Suu Kyi rất quả quyết nhưng khá mềm dẻo để không xa rời thực
tế:
-
Không, không hẳn thế. Đó cũng là một chiến thuật chính trị. Đảo chánh quân sự
đã diễn ra nhiều lần ở Miến Điện là những biện pháp để thay đổi tình thế bằng
bạo lực. Nhưng tôi không muốn khuyến khích, cũng không muốn tái diễn cái tập
tục ấy. Bởi vì tôi sợ rằng nếu chúng tôi thực hiện dân chủ bằng cách ấy, chúng
tôi sẽ chẳng bao giờ gạt bỏ được ý nghĩ rằng ta mang lại những thay đổi cần
thiết bằng bạo lực. Chính cái phương pháp ấy sẽ đe dọa chúng tôi mãi hoài. Bởi
vì lúc nào mà chẳng có người không đồng ý với dân chủ? Và nếu chúng tôi thực
hiện dân chủ bằng bạo lực, bao giờ cũng sẽ có những người cực đoan trong số
những người chống lại dân chủ ấy nói: “Chúng nó đã thay đổi hệ thống bằng bạo
lực, vậy nếu chúng ta làm bạo lực hay hơn, ta sẽ chiếm lại chính quyền”. Và như
vậy là chúng ta rơi vào cái vòng luẩn quẩn. Đối với tôi, bạo lực không phải là
đường lối đúng đắn, dù như là một chiến thuật chính trị hay như là một niềm tin
tâm linh. Đơn giản là nó chẳng giúp ích gì được cho chúng tôi xây dựng một nền
dân chủ mạnh mẽ.
Câu
trả lời rất khéo nhưng thiếu khẳng định. Thoạt đầu, bà nói: bất bạo động không
hẳn không phải là một chiến thuật chính trị, nhưng cuối cùng, bà đưa về lại
hoàn cảnh chính trị thực tế của Miến Điện để gạt bỏ bạo động, dù được áp dụng
như một chiến thuật, vì không lợi ích gì cho việc xây dựng dân chủ. Nghĩa là
câu trả lời vẫn dựa trên thực tế, chưa đi vào lý thuyết trừu tượng. Cho nên,
người đối thoại xoáy sâu thêm vào lý thuyết:
-
Nhưng khi bà thấy rằng những phương pháp bất bạo động không còn hiệu nghiệm
nữa, với tư cách là người lãnh đạo, bà có thấy bổn phận phải thay đổi chiến
thuật bất bạo động hay không để mài lại cho sắc cuộc đấu tranh của bà, hay là
bà vẫn chấp thủ bất bạo động dù bất cứ chuyện gì xảy ra, bởi vì đó là một
nguyên tắc đạo đức mà bà gần gũi? ... Hay là, tôi hỏi bà thế này, vì tôi muốn
hiểu bà: có phải bất bạo động là một nguyên tắc đạo đức và tâm linh bất di bất
dịch, không bao giờ biến chuyển được trong đường lối tranh đấu của bà?
Câu
trả lời bắt buộc phải rõ hơn:
-
Chúng tôi luôn luôn nói rằng chúng tôi sẽ không bao giờ phủ nhận các sinh viên
và các người khác đã chọn bạo động. Chúng tôi biết rằng mục đích của họ cũng
giống như mục đích của chúng tôi. Họ muốn dân chủ và họ nghĩ rằng cách hay nhất
để đi đến dân chủ là thông qua tranh đấu vũ lực. Chúng tôi cũng không nói rằng
chúng tôi có độc quyền trên những phương pháp đúng nhất để thực hiện điều chúng
tôi mong muốn... Chúng tôi chọn đường lối bất bạo động chỉ vì chúng tôi nghĩ
rằng điều đó tốt hơn về phương diện chính trị cho đất nước tôi về lâu về dài để
chứng minh rằng ta có thể mang lại thay đổi mà không cần đến khí giới. Chính
sách của đảng tôi rõ ràng từ đầu là như vậy. Ở điểm này, chúng tôi không nghĩ
đến vấn đề tâm linh gì cả. Có thể, với ý nghĩa như vậy, chúng tôi không giống
Gandhi, Gandhi có lẽ sẽ kết án tất cả những phong trào nào không phải là bất
bạo động. Tôi không dám chắc nói như vậy là đúng. Nhưng Gandhi có lần nói rằng
nếu ông phải lựa chọn giữa bạo động và hèn nhát, ông sẽ chọn bạo động. Như vậy,
ngay cả Gandhi, người được xem là tiêu biểu cao cả nhất của bất bạo động, cũng
không phải là người không biết ngoại lệ.
Đối
thoại đi sâu hơn nữa:
-
Nhưng giữa lựa chọn bạo động vì từ bi và lựa chọn bạo động thay vì hèn nhát, có
gì khác nhau? Nelson Mandela viết: “Lãnh đạo sẽ phạm một tội ác đối với dân tộc
nếu ngần ngại không chịu mài giũa cho sắc những khí giới chính trị ở chỗ nào đã
trở thành kém hiệu quả”. Như vậy, chẳng phải ông ấy nói rằng chấp chặt bất bạo
động sẽ trở thành một hành động bạo động trên thực tế đối với dân tộc ấy khi
đường lối bất bạo động không còn hiệu nghiệm nữa?
Vẫn
không rời thực tế, câu trả lời soi sáng đường đi cho chúng ta, những người cư
sĩ tầm thường, sống trong một thế giới tầm thường, nhưng luôn luôn muốn vươn
lên để xứng đáng với danh nghĩa là người Phật tử, hơn thế nữa, người “Phật tử
dấn thân”. Dấn thân, người Phật tử có lý tưởng, nhưng người Phật tử phải sáng
suốt trước thực tế. Trên thế giới ngày hôm nay, cũng như những ngày vừa qua,
không ai khác cho chúng tôi một cái nhìn chính trị trung thành với lý tưởng đạo
Phật hơn là bà Aung San Suu Kyi. Bởi vì lẽ đơn giản, bà là người làm chính trị
Phật tử duy nhất xứng đáng để chúng ta chiêm nghiệm, theo dõi. Giữ hay bỏ bất
bạo động khi không còn hiệu nghiệm? Đây là câu trả lời:
-
Điều này tùy thuộc vào hoàn cảnh, và tôi nghĩ rằng trong hoàn cảnh Miến Điện
hiện nay, đường lối bất bạo động là tốt nhất để thực hiện mục đích của chúng
tôi. Nhưng chắc chắn tôi không kết án những người tranh đấu cho cuộc “đấu tranh
chính nghĩa”, như người ta thường nói. Cha tôi đã tranh đấu như thế, và tôi rất
thán phục cha tôi vì thế... Chúng tôi để mở ra mọi cánh cửa - mọi lựa chọn.
Điều rất quan trọng là chúng tôi phải mềm dẻo, uyển chuyển. Chúng tôi đã chọn
bất bạo động bởi vì đó là phương pháp tốt nhất để bảo vệ người của chúng tôi,
và về lâu về dài bảo đảm cho sự bền vững của dân chủ trong tương lai. Chính vì
vậy mà cha tôi đã thay đổi từ bạo động qua bất bạo động. Cha tôi biết rằng, vì
tương lai của dân tộc, thực hiện một nước dân chủ bằng những phương thức chính
trị và thương thuyết thì tốt hơn nhiều bằng phương thức quân sự. Với ông
Mandela cũng vậy. Ông đã trở lại với bất bạo động khi tình thế cho phép. Tất
nhiên trước đó ông dùng bạo động vì bất bạo động không thích hợp và còn bị xem
là yếu đuối hơn là sức mạnh. Nhưng trong thời gian ấy, sự việc khác hẳn. Khi
Nelson Mandela và nhiều người Nam Phi khác lần đầu tiên thử dùng phương pháp
bất bạo động, thế giới đang còn quá bận rộn với chiến tranh ý thức hệ giữa Đông
và Tây, không mấy ai tha thiết với nhân quyền. Trong một thế giới bạo tàn,
Nelson Mandela và các vị Nam Phi khác cảm thấy rằng họ phải chọn lựa những
phương tiện nào có khả năng gây ra chấn động để làm thế giới biết lập trường
của họ hơn. Còn bây giờ, trong thời đại này, chúng ta có thể dùng những phương
tiện chính trị bất bạo động để thực hiện cứu cánh của chúng ta. Nhưng nếu ta có
thể có một sự lựa chọn và nếu ta cảm thấy có triển vọng thành công bằng nhau,
tôi nghĩ rằng chắc chắn ta phải chọn đường lối bất bạo động, bởi vì phương pháp
đó sẽ làm ít người bị thiệt hại hơn.
Như
vậy, phải chăng bà đã trả lời rằng bất bạo động không phải là nguyên tắc bất di
bất dịch? Người đối thoại chắc đã hiểu như thế nên dồn bà vào một câu hỏi cuối
cùng:
-
Trở về lại với Nelson Mandela, tôi đặc biệt lý thú khi ông kể về một ray rứt
của ông, lúc các nhà báo Mỹ phỏng vấn ông trong nhà tù. Họ có ý dán cho ông cái
nhãn hiệu cộng sản và khủng bố, cũng như không phải là tín đồ Thiên Chúa giáo.
Họ nói: Martin Luther King không bao giờ dùng đến bạo động. Mandela cãi lại:
ông là tín đồ Thiên Chúa giáo và ngay cả Chúa Giê-su, người làm hòa bình, khi
không có lựa chọn nào khác, đã dùng bạo lực để đuổi kẻ cho vay ra khỏi đền thờ.
Trả
lời của bà Aung San Suu Kyi lần này có thể xem như kết luận:
-
Đúng vậy. Ngài cầm gậy mà đuổi. Tôi nghĩ rằng ta không thể chấp chặt tín điều
trong chính trị. Chấp chặt tín điều là một trong những nguy hiểm của chính trị.
Gần
đây, mới năm ngoái, 2012, trong một đối thoại với Stéphane Hessel, ngài Đạt Lai
Lạt Ma đã được hỏi về một nhận xét có liên quan đến việc bảo vệ nhân quyền. “Bảo vệ nhân quyền phải được thực hiện bằng
bất bạo động. Nhưng nhân quyền bị chà đạp thì có thể làm dấy lên bạo động”.
Phải chăng như thế?
Đây
là câu trả lời của ngài Đạt Lai Lạt Ma: “Nếu
các trường hợp xảy ra mà dữ dội đến nỗi phải có những hành động cứng rắn, nếu
không có lựa chọn nào khác hết thảy, thì ngay những hành động ấy, dù có vẻ bạo
động, trong bản chất vẫn chính yếu là bất bạo động. Đứng về phương diện lý
thuyết, có thể quan niệm như vậy. Nhưng trên bình diện thực tiễn, không đơn
giản như thế. Biên giới duy nhất để phân biệt bạo động và bất bạo động là ý
định. Riêng về vấn đề tham nhũng, bây giờ đã trở nên đại họa truyền nhiễm trên
thế giới hiện đại, tôi thường nói rằng đó là một hình thức bạo động. Bởi vì ý
định của tham nhũng là lừa gạt, dối trá. Đó là một hành động cực kỳ bạo động
trong bản chất”.
Ngài
được hỏi tiếp: “Vậy thì người ta có thể làm một hành động bạo lực với một trái
tim bất bạo động?”
Trả
lời: “Về lý thuyết thì vậy, nhưng về thực tế, như tôi đã nói, không đơn giản”.
Thú
thật, riêng tôi, chưa bao giờ tôi thấy vấn đề là đơn giản. Không những khó nói,
lại còn rất dễ bị lợi dụng để biện minh cho hành động này hay hành động ngược
lại. Đúng như ngài Đạt Lai Lạt Ma nói, tiêu chuẩn duy nhất là ý định. Nhưng ý
định là chủ quan, một mình mình biết một mình mình hay.
Đức Dalai Lama
Bởi
vậy, ngài lại được hỏi tiếp: “Gandhi cũng đi khá xa, đến độ nói thế này: “Thực
sự, tôi tin rằng nếu nhất thiết phải làm một sự lựa chọn giữa hèn nhát và bạo
động, tôi khuyên làm bạo động”. Và để ví dụ, ông kể rằng người con trưởng của
ông một hôm hỏi ông đáng lẽ anh ta phải làm gì khi ông bị mưu sát năm 1908, ông
đã trả lời: ‘bổn phận của con đáng lẽ là phải dùng đến bạo động’.
Gandhi
đưa ra một tiêu chuẩn hành động có thể áp dụng được trong cách xử thế: giữa hèn
hạ và bạo động, ông chọn bạo động. Nhưng, nói cho cùng, hèn hạ hay không vẫn là
một tiêu chuẩn chủ quan. Bởi vậy, ngài Đạt Lai Lạt Ma vẫn giữ tiêu chuẩn của
mình, mà cũng là tiêu chuẩn của Phật giáo, là ý định. Ngài trả lời bằng cách kể
lại câu chuyện sau đây mà Phật tử ở đây chắc ai cũng biết. Dù vậy, tôi vẫn dịch
nguyên văn:
“Trong đạo Phật có một ẩn dụ mà ý nghĩa cũng
giống như vậy. Trong một tiền kiếp, Đức Phật là một thuyền trưởng của một chiếc
thuyền gồm 500 thủy thủ; thuyền trưởng biết một người trong đoàn thủy thủ đang
âm mưu giết 499 người kia để chiếm đoạt tài sản. Ba lần, thuyền trưởng tìm cách
can ngăn, nhưng anh kia không nghe. Thuyền trưởng bèn suy luận như sau: Nếu ta
không giết anh thủy thủ này, 499 người kia sẽ chết. Nhưng mặt khác, giết anh
này, ta sẽ bị nghiệp xấu vì đã giết người. Nhưng nếu ta không giết kẻ đang âm
mưu, ta gián tiếp phạm tội để cho 499 người kia chết. Thuyền trưởng bèn giết
tên thủy thủ ấy”.
Tôi
không bình luận gì thêm ở đây, chỉ nhắc lại câu nói khi nãy của bà Aung San Suu
Kyi: trong chính trị, chấp chặt tín điều là rất nguy hiểm. Người hành động chỉ
có thể chân thành tự vấn lương tâm để xét ý định của mình là gì. Ý định của
viên thuyền trưởng trong chuyện tiền thân khi nãy là tình thương, là từ bi.
III
Tôi
muốn kết luận bài nói chuyện của tôi hôm nay bằng một vấn đề lý thuyết mà bất
cứ ai học môn xã hội học đều biết: lý thuyết của nhà xã hội học danh tiếng Max
Weber về sự phân biệt giữa hai loại đạo đức: đạo đức của niềm tin và đạo đức
của trách nhiệm. Người hành động không thể nào không theo đạo đức của trách
nhiệm. Đó là thứ đạo đức buộc họ phải thấy rõ thực tế, thấy họ đứng ở đâu, trong
hoàn cảnh nào, đâu là những hậu quả nếu họ quyết định thế này hay thế khác, và
như vậy thì phải quyết định thế nào để đạt được những hậu quả hay kết quả mong
muốn; đạo đức trách nhiệm xét hành động trong tương quan giữa cứu cánh và
phương tiện. Nếu xét cho đến tận cùng thì dù phải nói láo hay làm ác, nghĩa là
chịu phạm tội xuống địa ngục, vẫn làm nếu đất nước được vinh quang.
Ngọn lửa vô úy, lửa từ bi của Bồ-tát Thích
Quảng Đức
Tôi
nghĩ, trong lịch sử Việt Nam, người làm chính trị tiêu biểu cho thứ đạo đức này
là Trần Thủ Độ. Lợi ích của đất nước siêu việt cá nhân riêng tư của người lãnh
tụ. Đó là nói cho rốt ráo, cho đến cực điểm, chứ thông thường thì đạo đức của
trách nhiệm chỉ là đạo đức khiến người hành động lo nghĩ đến hiệu quả, suy tính
làm thế nào để lựa chọn phương tiện gì phù hợp với kết quả mong muốn. Đạo đức
của trách nhiệm buộc phải hy sinh, hy sinh một giá trị vì một giá trị lớn hơn.
Tôi nhắc lại: đạo đức của trách nhiệm không đi đến mức xem mọi phương tiện đều
tốt miễn là đạt được kết quả. Cực đoan kiểu đó thì không còn đạo đức, luân lý,
giá trị gì nữa, thì qua bên Tàu làm con cháu Tào Tháo.
Giá
trị, và sự lựa chọn giữa những giá trị: đó là tiêu chuẩn để nhận ra đạo đức của
niềm tin. Đây là thứ đạo đức buộc ta phải hành động theo đúng niềm tin của ta,
tình cảm của ta, không cần để ý gì đến hệ quả, dù xa dù gần, dù trực tiếp dù
gián tiếp. Ví dụ: tín đồ của chủ nghĩa hòa bình nhất quyết không cầm súng,
không giết ai. Ví thử nước của họ bị ngoại xâm, cũng vậy, họ nhất thiết không
cầm súng. Họ có thể xung phong vào đội cứu thương, làm y tá, nhưng họ không
bắn. Mặc ai chỉ trích với bất cứ lý luận gì, họ vững như bàn thạch, vì người
duy nhất có thể phán đoán thái độ của họ là lương tâm của họ và lương tâm của
họ chỉ có một tiêu chuẩn để phán đoán thôi là họ có trung thành với niềm tin
của họ hay không.
Chắc
chắn đạo đức của niềm tin không thể là đạo đức của người làm chính trị. Thế
nhưng có phải giữa hai thứ đạo đức có một biên giới rõ ràng, dễ dàng phân biệt
trắng đen hay không? Đến một mức nào đó, một tình thế nào đó, đạo đức của niềm
tin cũng vấp phải vấn đề hợp lý, cũng bị lý trí soi ánh sáng vào, để thấy một
thái độ tuyệt đối có khi là bất hợp lý.
Cũng
vậy, đâu có phải đạo đức của trách nhiệm là hoàn toàn không lấy hứng từ niềm
tin? Tôi nghĩ đến hiệu quả của hành động, đúng vậy, nhưng đâu có phải tôi chỉ
nghĩ đến hiệu quả, tôi còn nghĩ đạt đến hiệu quả ấy vì mục đích gì. Mục đích ấy
liên quan đến niềm tin của tôi, đến những giá trị mà tôi theo đuổi. Bởi vậy,
xét cho kỹ, đạo đức của niềm tin và đạo đức của trách nhiệm không trái ngược
nhau mà bổ túc cho nhau, và đã làm người thì ai cũng phải có cả hai, nhất là
người làm chính trị.
Và
chính vì vậy mà tôi chọn đề tài này để tưởng niệm 50 năm Bồ-tát Quảng Đức vị
pháp thiêu thân. Trong cuộc tranh đấu bất bạo động của Việt Nam, Ngài là bậc
siêu nhân, vượt lên trên sự phân biệt giữa niềm tin và trách nhiệm. Ngài là
hình ảnh lý tưởng của tư tưởng bất bạo động trong Phật giáo, là hiện thân cụ
thể của vô úy và từ bi. Phật tử chúng ta chiêm ngưỡng Ngài để luôn luôn thắp
sáng niềm tin trong lòng. Nhưng để làm người Phật tử trong hành động, tôi phải
mượn kinh nghiệm và con người của bà Aung San Suu Kyi, một người cư sĩ như
chúng ta, đã biết hòa hợp khéo léo đạo đức của niềm tin và đạo đức của trách
nhiệm, xứng đáng để chúng ta theo dõi như một người làm chính trị đích thực
Phật tử duy nhất trên thế giới hiện nay.
Cao
Huy Thuần
________________
Chú
thích:
-
Các câu trích dẫn Gandhi là lấy từ: “Gandhi’s Views on God”, www.gandhi-manibhavan.org/gandhiphilosophy/philosophy_god_god.htm
và “My religion is based on truth and non violence. Truth is my God. Non
violence is the means of realising Him” www.brainyquote.com/quotes/m/mahatmagan160725.html
-
Các câu trích dẫn Nelson Mandela là lấy từ Sylvie Laurent, La non-violence
est-elle possible? www.laviedesidees.fr/la-non-violence-est-elle-possible.html
-
Về đối thoại với ngài Đạt Lai Lạt Ma, lấy từ: Dalaï-Lama et Stéphane Hessel,
Déclarons la paix! Pour un peogrès de l’esprit, Indigène éditions, Avril 2012.
- Quyển sách của bà Aung San Suu Kyi: The Voice of Hope,
Conversations with Alan Clements, Penguin Books, 1997.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét