CHẾ ĐỘ NGÔ ĐÌNH DIỆM
TỪ GÓC NHÌN CỦA MỘT TRÍ THỨC
MIỀN NAM
[Trích từ “Thân
Phận Trí Thức” của
Vũ Tài Lục]
Bìa Thân Phận Trí Thức
(Việt Chiến, Sài Gòn, 1969)
LGT
– Nếu học giả Đoàn
Thêm, người được may mắn nằm ở trung tâm quyền lực chính trị dưới nhiều chế
độ, đã cần mẫn và chi li ghi lại những biến cố tại Việt Nam qua hai tác phẩm “Hai Mươi Năm Qua - Việc Từng Ngày (1945-1964)”
và “Những Ngày Chưa Quên (1954-1963)”
mà nhờ đó, ta mới có được một kho tài liệu vô giá về giai đoạn lịch sử nhiều biến
động, thì nhà nghiên cứu Vũ
Tài Lục, cũng là một “người chép sử” (History Recorder) khác, nhưng với
phong thái của một người “ngoài cuộc” để mô tả và phân tích các lực vận động lịch
sử xã hội nào đã tác động vào vận mệnh nước ta trong những thập niên 1960’s và
70’s. Ông là một loại “Sĩ phu Bắc hà” di cư vào Nam trong thập niên 1950’s. Là
người quen biết rộng và sâu với Who’s Who
của miền Nam, bạn thân với nhiều giới trong và ngoài chính quyền nhưng chưa bao
giờ tham chính để giữ cho tư duy và ngòi bút của mình được ngay thẳng.
Ngoài
Thân Phận Trí Thức, ông còn xuất bản Quốc Tế Chính Trị, Thủ Đoạn Chính Trị, Những Quy
Luật Chính Trị Trong Sử Việt, Những
Khuôn Mặt Tài Phiệt, Nói Chuyện Tam
Quốc, …và một số sách nghiên cứu Tử vi, Tướng mệnh Đông phương.
Trích
đoạn dưới đây là góc nhìn của ông về chế độ Ngô Đình Diệm. Phần nhấn mạnh là
của HNG
… Ông Ngô Đình Diệm với sự ủng hộ đặc biệt của Hoa Kỳ được đưa về chấp chánh toàn miền Nam kể
từ vĩ tuyến 17 trở vào. Năm đầu ông phải đương đầu với vấn đề xã hội. Nhờ miền
Nam sung túc phì nhiêu, nhờ viện trợ Mỹ đầy đủ, vấn đề xã hội miền Nam không
những ổn định dễ dàng mà còn chuyển thành công cuộc thống nhất văn hóa lớn lao
chưa từng có trong lịch sử. Sang năm thứ hai ông phải đương đầu với vần đề
chính trị. Pháp thỏa thuận với Mỹ lặng lẽ rút lui nhưng còn những thế lực chính
trị của Pháp ở lại. Nhờ chính phủ Ngô Đình Diệm là chính phủ đầu tiên mang
nhiều sắc thái độc lập nhất kể từ lúc người Pháp đặt chân lên đây cho nên toàn
dân nhiệt liệt ủng hộ. Quan trọng hơn hết là quân đội cũng ủng hộ để tiêu diệt
các thế lực chính trị của Pháp qua trung gian (par personne interposé). Và từ
đó quân đội lớn lên trong chiến tranh Việt-Pháp bây giờ thực sự trở thành một
quân đội của quốc gia độc lập. Nhờ lực
lượng quân đội ông Ngô Đình Diệm đã giải quyết vấn đề quét sạch các thế lực
chính trị đối nghịch dễ dàng.
Chính phủ Diệm sau khi đã củng cố vững mạnh phải gánh vác
hai sứ mạng trọng đại:
-
Thứ nhất là đấu tranh
quốc tế, chặn đứng ngọn sóng lan tràn của thế lực đỏ cho thế giới tư sản tự do.
-
Thứ hai là đấu tranh
xây dựng một quốc gia chống Cộng sản.
Ông Ngô Đình Diệm có thành công không?
Mấy năm đầu sứ mạng ngăn chặn ngọn sóng đỏ có thành công.
Ký giả thân cộng Burchett cũng thú nhận điều này. Nhưng thành công xét kỹ ra là
nhờ thế cục nhiều hơn là giỏi giang.
Đến sứ mạng xây dựng một quốc gia để tạo ra hình thế Quốc
Cộng thì ông Diệm lại thất bại ngay từ
đầu. Ông Ngô Đình Nhu, người trí thức của chính quyền Diệm, trước khi về
chấp chánh ông rất thận trọng bằng việc mang chủ nghĩa nhân vị về nước làm căn
bản đấu tranh tư tưởng chống lại chủ nghĩa Mác xít. Nhưng ông đã lầm và chủ nghĩa nhân vị có gốc gác thần học không
thể được người trí thức Việt, vốn cho tôn giáo là mê tín, chấp nhận. Chủ
nghĩa nhân vị cũng không thể đi vào tâm hồn người công giáo chất phác vốn tin
Chúa và phép lạ một cách tuyệt đối vì nó tự do quá. Thế là chủ nghĩa nhân vị bị
bỏ sang một bên. Nghiên cứu nhân vị chủ
nghĩa là công việc làm cho có lệ, chẳng một ai tin tưởng vào nó.
Ông Ngô Đình Diệm, một vị quan tu xuất làm Tổng thống
Ông Ngô Đình Nhu, một chiến lược gia cuồng vĩ làm Cố vấn
Nhờ được thế tốt, mọi việc trôi chảy dễ dàng. Uy tín ông
Diệm bành trướng quá mau chóng. Qua tâm trạng say với quyền bính, qua sự phỉnh
nịnh của quyền uy, các nhà lãnh đạo cho vứt
xó mọi lý tưởng để thiết lập chế độ… chế độ Diệm và gia đình. Một trận
tuyến quốc gia dân tộc đâu có bằng một trận tuyến anh minh Ngô Đình Diệm.
Những năm tháng thắng lợi to tát làm cho ông Nhu tưởng ông
có một tài năng chính trị vô biên, ông không bao giờ nghĩ rằng ở Austerlitz,
Napoléon là một thiên tài nhưng ở Moscou, Napoléon là một tên imbécile [ngu xuẫn – HNG].
Phần ông Diệm, ông là người của tín ngưỡng. Ông tin Chúa
nhưng lỗi lầm của ông là ông cũng tin Chúa
tin ông ta. Ông ưa học thuyết Khổng Tử nhưng lỗi lầm của ông là ông ưa học
thuyết này vì nó nói rằng địa vị ông bây giờ đứng ở đầu tam cương ngũ thường.
Bởi vậy thay vì gây dựng hình thế Quốc-Cộng, hai ông Nhu, Diệm đã gây dựng hình thế Diệm-Cộng. Thêm vào đấy, hai ông Ngô
Đình Thục và ông Ngô Đình Cẩn gây dựng hình thể Công giáo-Cộng sản.
Dưới chế độ Diệm, phần tử trí thức đi theo đều bị biến
thành bọn thư lại, thấp hơn nữa là gia nhân của một triều đại.
Do ảnh hưởng quốc tế thay đổi, một bộ phận lớn trí thức
được đào tạo vào hoạt động thông ngôn. Vì hết chiến tranh, vì những cuộc di
động của một số lớn người nên phong trào đi học dâng lên như nấm mà vẫn không
đủ cung cho số cầu. Nhưng bởi không có một chính sách văn hóa đúng đắn, không
có một chính sách giáo dục hẳn hoi, chỉ biết vá chắp nay đổi mai thay, bởi chế độ Diệm đã đem thần tài vào học cung
cho nên giáo dục rơi vào tình trạng hỗn tạp quái đản. Trên mặt văn học, chế độ phong kiến của gia đình Diệm
không thể đi đôi với một nền văn học dua nịnh tâng bốc khiến cho hàng ngũ trí
thức chia hẳn.
Phần tử trí thức phản kháng thì hoàn toàn tiêu cực, chui
rúc vào tư tưởng tự do bằng một số từ ngữ tối nghĩa. Ở đó chủ nghĩa hiện sinh
đã du nhập. Một số khác thì viết báo chửi tục để xả hơi, hoặc nói bóng gió chửi
xiên xéo cho hả giận.
Năm khúc quanh
Ảnh hưởng chính trị Mỹ với Việt Nam có năm khúc quanh (virage)
1) Ngày 27-6-1950, Tổng Thống Truman tuyên bố gởi một phái
bộ quân sự tới Đông Dương để cộng tác
chặt chẽ với quân viễn chinh Pháp.
2) Pháp thua trận Điện Biên Phủ đặt thành vấn đề Mỹ phải thay Pháp trong chiến tranh
Đông Dương? Tổng Thống Eisenhower áp dụng chính sách triết-trung giữa hai chủ
trương: can thiệp quân sự và khoanh tay bỏ mặc. Người đại diện thi hành chính sách này là ông Ngô Đình Diệm.
3) Năm 1961 tại Washington xôn xao về tin chế độ Diệm hấp
hối. Vấn đề đặt ra cho chính quyền Kennedy là làm thế nào tránh cho Việt Nam một sự sụp đổ? Có hai nhóm đưa ra
giải pháp:
a/- Nhóm Harriman, Galbraith và H.
White chủ trương chính trị, đòi thay
chính phủ Saigon, không ủng hộ chính thể Diệm, tách chính trị Saigon ra khỏi lệ
thuộc quân sự.
b/- Nhóm Maxwell Taylor và W.
Rostow chủ trương quân sự, đề nghị
gửi những bộ đội chiến thuật (groupement tactique) của Mỹ qua Việt Nam, ít thôi
nhưng có sức quật (force de frappe) rất mạnh. Dean Rusk ủng hộ nhóm Taylor.
Cuối cùng nhóm Taylor và Rostow được Tổng Thống Kennedy
nghe theo. Chấp nhận giải pháp quân sự có nghĩa là tăng cường luôn cả sự ủng hộ chính phủ Diệm. Ông đại sứ Nolting và
tướng Harkins thi hành.
4) Năm 1963 nhiều quan sát viên Mỹ phàn nàn Hoa Kỳ không hề ủng hộ một chính phủ Việt
Nam mà ủng hộ một gia đình phong kiến kỳ cục. Các chính khách Hoa Kỳ đã bắt
đầu nhìn các ông Diệm, Nhu, Thục, Cẩn và bà Nhu bằng nhãn quan tâm lý bệnh học.
Họ gọi những người ấy là bọn mất hết lý
trí (déraison absolue) và chính phủ Diệm là chính phủ của những người điên (un government de fous).
Chiến tranh và chính
trị phong kiến của Diệm đã làm cho chế độ suy yếu. Chế độ Diệm càng suy yếu
thì bang giao giữa chế độ này với Hoa Kỳ càng tàn hoại. Hoa Kỳ muốn thay Diệm
mà Diệm cứ cố nắm chặt chính quyền. Hoa Kỳ sửa soạn và rình rập một sai lầm là
quật đổ người mà Hoa Kỳ đã tố cáo là điên. Tháng 5-1963, do kỳ thị tôn giáo của chế độ Diệm- Thục đã
đến độ không thể chịu đựng hơn nữa, Phật giáo biểu tình phản đối giám mục
Thục cấm treo cờ Phật giáo ngày Phật đản. Chính phủ huy động lực lượng cảnh sát
đàn áp, bắn vào đám quần chúng Phật giáo. Phong trào lan rộng ra toàn quốc. Ông
Thích Quảng Đức tự thiêu vang dội đấu tranh ra khắp thế giới. Tình hình nặng nề
kéo non 6 tháng. Tháng 11 quân đội hưởng
ứng phong trào đấu tranh Phật giáo, nổi dậy đảo chính. Chế độ Diệm sụp đổ.
5) Ngày 28-7-1965 Tổng Thống Johnson loan báo với dân chúng
Mỹ và thế giới ông đã quyết định gửi một số quân quan trọng sang dự chiến ở
Việt Nam. Quyết định này nằm trong quyết định tham dự không hạn chế. (engagement illimité).
….
Vũ Tài Lục
[Thân Phận Trí Thức,
Nhà xuất bản Việt Chiến, Sài Gòn, 1969]
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét