Thứ Tư, 2 tháng 11, 2016


ĐÁNH GIÁ HIẾN PHÁP ĐỆ NHẤT CỌNG HÒA 1956

Nguyễn Hữu Châu, Đoàn Thêm, Vũ Văn Mẫu,
Đỗ Mậu, Nguyễn Văn Bông, Nguyễn Quang Duy  


LGT - Từ những năm cuối của thập niên 2010’s, có một hiện tượng mới trong giới gọi là “đấu tranh” của người Việt. Đó là hiện tượng lực lượng chính trị của Công giáo Việt Nam tung ra một chiến dịch đề cao nền Đệ Nhất Cọng hòa của miền Nam cũ, và lấy chế độ Ngô Đình Diệm như một thể chế khuôn mẫu đề hy vọng thay thể chế độ Xã hội Chủ nghĩa trong tương lai, một khi họ lật đổ được chế độ hiện tại.
Một trong những nỗ lực để phục vụ cho chiến dịch đó là đề cao bản “Hiến pháp 1956” của chế độ Ngô Đình Diệm. Thế là hằng năm, cứ đến tháng 11, ta lại đọc được một số bài trên các báo điện tử phụ họa cho nỗ lực đó. Tác giả những bài viết nầy đa số là viên chức Việt Nam Cọng Hòa cũ ở hải ngoại, viết theo cảm tính. Nhưng cũng có những trí thức Hà Nội, còn rất mù mờ về tình hình miền Nam giai đoạn 1954-1963, bây giờ lại mồ côi chính trị vì “thoát Đảng”, nên viết thiếu dữ liệu và hoàn toàn không có cơ sở.    
Vì vậy, chúng tôi đã sưu tầm về đề tài nầy và xin giới thiệu những đánh giá về bản “Hiến Pháp 1956” của năm nhân vật mà chúng tôi cho là khả tín hơn vì chuyên ngành của họ, và nhất là vì họ đã sống trong giai đoạn lịch sử 1954-1963. Trong 5 nhân vật nầy thì có 4 vị đã từng sống và giữ những chức vụ quan trọng trong nền Đệ nhất Cọng hòa, còn một vị là chính khách thời Đệ Nhị Cộng hòa đồng thời cũng là giáo sư về Luật Công pháp. Ngoài ra, có một vị còn trẻ, sống ở Úc châu, là tín đồ Công giáo, đã là người thứ sáu trong bài nầy, sẽ đánh giá “Hiến Pháp 1956” sau hơn 60 năm sau...
[Sưu tầm, bình luận và nhấn mạnh trong bài nầy là của Kevin Trần, 11/2016]
--0--
Hiến pháp Việt Nam 1956 của đệ nhất Cọng hòa do Quốc hội biểu quyết ngày 20/10/1956 được Tổng thống Ngô Đình Diệm ban hành ngày 26/10/1956, thành lập nền Đệ nhất Cộng hòa. Hiến pháp gồm 98 điều, chia làm 8 thiên. Hiến pháp tuy là do sự đóng góp của nhiều người, kể cả đóng góp một cách gián tiếp của các chức sắc trong Giáo hội Công giáo Việt Nam (như linh mục Bữu Dưỡng và nhóm Tinh Thần), nhưng nội dung chính vẫn do ông Ngô Đình Nhu, người được cho là lý thuyết gia của chế độ, duyệt xét chung quyết. Bản Hiến pháp này, ngoài một vài từ ngữ mà trên mặt … tượng thanh có vẻ rút ra từ “chủ nghĩa” gọi là “Nhân Vị” như “giá trị siêu việt”, “nhân vị”, “duy linh”, “Đấng tạo hóa”, ... còn nội dung thật sự của nó chỉ là một nỗ lực “đầu Ngô mình Sở” (từ của ông Đoàn Thêm trong Những Ngày Chưa Quên, Đại Nam, 1969) của một ít thần học Thiên Chúa giáo Âu châu, pha trộn vài điều của Tổng thống chế Mỹ và một ít triết lý Đông phương mà thôi.

Nhưng nỗ lực khập khểnh đó đã hoàn toàn thất bại. Có hai lý do để giải thích sự thất bại này: 
● Thứ nhất là vì lúc bấy giờ (và sau đó tan dần không còn dấu vết gì đáng kể theo sự sụp đổ của chế độ vào năm 1963) thuyết Nhân Vị của ông Nhu là tổng hợp trụy thai (mượn từ kép của LM Kim Định viết về nhà lập thuyết Lý Đông A) còn hỗn tạp và còn ở dạng sơ khai nên không có những yếu tính đặc thù để tạo ra nét độc đáo riêng cho Hiến pháp; 
● Thứ hai là vì nhu cầu quyền lực chính trị quá lớn nên ông Nhu đã bất chấp nội dung “Nhân Vị” - dù còn mơ hồ chưa thành hình - để đưa vào Hiến pháp những nguyên tắc chuyên chính độc tài, chà đạp sinh hoạt dân chủ của quốc gia và quyền tự do của công dân, với mục đích tập trung quyền hành vào một thiểu số thống trị. Nghĩa là áp đặt càng nhiều càng tốt tính độc tài trong bộ luật căn bản và cao cấp nhất của quốc gia.

Nói chung, để kiểm soát và bóp nghẹt quyền của người dân, Hiến pháp 1956 đã tung ra một mớ gươm Damoclès treo trên đầu người dân với những từ ngữ mà chính quyền muốn giải thích thế nào cũng được như “điều kiện luật định, lý do quốc phòng, an ninh công cộng, an toàn chung, trật tự chung, lợi ích công cộng, đạo lý công cộng...”. Và để bảo đảm tối đa sự kiểm soát này, Hiến pháp còn nâng chủ trương nầy lên thành nguyên tắc tổng quát trong điều 28: “quyền của mỗi người đều được xử dụng theo những thể thức và điều kiện luật định”. Điều 28 quỷ quyệt này đóng kín một cách hoàn toàn và vĩnh viễn tất cả mọi hy vọng của người dân về một sinh hoạt dân chủ và an toàn cá nhân dưới chế độ, đồng thời trao lại một cách hoàn toàn và vĩnh viễn quyền sinh sát vào tay một thiểu số gia đình họ Ngô đang nắm quyền lực trong tay.

Theo Wikipedia thì: 
“Về mặt pháp lý, bản Hiến pháp Việt Nam Cộng hòa 1956 khẳng định việc phân chia quyền lực của chế độ là tam quyền phân lập và có mục tiêu để hai ngành lập pháp và hành pháp kiểm soát lẫn nhau. Về ngành tư pháp thì quyền lực kém hơn và không được độc lập hoàn toàn vì lệ thuộc vào Bộ Tư pháp và phủ Tổng thống bổ nhiệm và điều hành. So sánh với các quốc gia khác thì Hiến pháp 1956 dồn nhiều quyền lực vào ngành hành pháp hơn cả vì tổng thống có những đặc quyền trong những trường hợp nội loạn, chiến tranh hay khủng hoảng tài chánh.
Điều đáng ghi nhận là nền tảng của bản hiến pháp nêu ra ba khía cạnh: "văn minh Việt Nam", "duy linh", và "giá trị con người" như ghi rõ trong lời mở đầu. Vì văn bản ghi là dân tộc có "sứ mệnh" trước "Đấng Tạo hóa"nên có người cho rằng đây chứng minh sự thiên vị của chính quyền với Thiên Chúa giáo trong khi các tôn giáo khác không được đề cập đến.”
 (Nguồn Wikipedia: Hiến pháp Việt Nam Cọng hòa 1956 )

Ngoài một số nhà nghiên cứu Mỹ như Joseph Buttinger (trong Vietnam, a Political History, 1968), Stanley Karnow (trong VietnamA History, 1983), Frances Fitzgeral (trong Fire in the Lake, 1972), Robert Shaplen (trong The Cult of Diem, 1972) đã phân tích và chỉ trích nặng nề Hiến pháp 1956 của Đệ nhất Cộng hòa, nhiều luật gia Việt Nam tên tuổi cũng đã nghiêm khắc lên án Hiến pháp đó là thoái hóa, kỳ thị và độc tài:

■ Luật gia Nguyễn Hữu Châu, giáo sư đại học Luật khoa Paris, anh rễ bà Nhu (tức chồng bà Trần thị Lệ Chi) , nguyên Bộ trưởng Bộ Nội Vụ kiêm Bộ trưởng Phủ Tổng Thống năm 1956.
 

Ông đã có những phán xét không tốt đẹp gì cho “Hiến pháp Nhân Vị 1956” của Đệ nhất Cộng hòa trong Luận án Cao học Luật khoa (Mémoire DES, 1960) của ông. Thật vậy, sau khi phân tách từng chương từng mục của bản Hiến Pháp 1956, ông đã kết luận rằng:
 “Xét đến lịch sử các cơ chế và tư tưởng chính trị của Việt Nam, thật khó mà không công nhân rằng hệ thống của Hiến pháp ngày 26-10-1956 quả là một sự thoái hóa so với hệ thống chính trị cổ truyền. Tại vì Hiến pháp 26-10-1956 đã giữ lại những gì kém tiến bộ nhất của chế độ xưa cũ, rồi bổ túc bằng những sự kiềm chế tân tiến nhất.
Do đó mà cái ý niệm về lãnh đạo (leadership) được trình bày trong bản dịch chính thức của Hiến pháp Việt Nam Cộng hòa không có cái ý nghĩa mà các nhà Xã hội học Mỹ trao gửi lúc đầu” .
[Dans l’histoire des institutions et des idées politiques du Vietnam, il sera difficile de ne pas reconnaitre que le système de la constitution du 26 Octobre 1956 constitua une regression par rapport au système politique traditionnel. Car il a repris de l’ancien système ce qu’il a le moins progressiste pour le completer par les moyens de contrainte les plus modernes. Ainsi cette notion de Leadership qui figure dans la traduction officielle de la Constitution de la République du Vietnam n’a pas le sens que les sociologues Américains lui donnent originalement.]

Luật gia Đoàn Thêm, Đổng lý Văn phòng Phủ Tổng thống (cho ông Diệm trong hơn 7 năm, cho đến 11/1963), Giáo sư tại Học viện Quốc gia Hành chánh (Sài Gòn)

Trong tác phẩm “Những Ngày Chưa Quên 1954-1963” (Nam Chi và Cơ sở Xuất bản Phạm Quang Khai 1967, Sài Gòn), ông đã bỏ ra 11 trang để phân tích sự liên hệ giữa thuyết Nhân Vị và Hiến pháp Đệ Nhất Cộng hòa, liên hệ giữa Hiến pháp và Quốc hội, giữa Quốc hội và Tổng thống. Ông đã nhận xét rằng chính “áp lực rất mạnh mẽ của thực tế, của nhân vật và của thời cuộc” đã “xây dựng nền móng của chế độ” (chứ chẳng phải là những mỹ từ với nội dung triết lý, chính trị và luật học được ghi trong Hiến Pháp) như sau đây:
Triết lý chính trị của ông (Ngô Đình Nhu) muốn đưa ra, đã được tóm tắt trong đoạn mở đầu và phần căn bản của Hiến pháp 26-10-1956, lại được nhấn mạnh... đã thành khẩu hiệu chính thức. Tuy nhiên, những ý tưởng này chỉ thể hiện ra hai thiên đầu của hiến pháp 1956.
Còn ở phần cơ cấu chính quyền, nghĩa là khi chuyển sang phần ứng dụng, và nếu xét về luật công pháp thì rất khó thấy tương quan gì giữa lý thuyết Nhân Vị và các guồng máy quốc gia. Bởi thế, năm 1956 tôi không hoài nghi, tuy một số người hài lòng và cho là lần đầu tiên chúng ta mới kiến tạo được trên một căn bản triết lý chính trị vững vàng. Trái lại, tôi đã ghi nhận áp lực rất mạnh mẽ của thực tế, của nhân vật và thời cuộc trong việc xây đắp móng nền của chế độ.”

■ Giáo sư Thạc sĩ Luật Vũ Văn Mẫu (1914-1998), nguyên Bộ trưởng Ngoại giao của chính phủ Ngô Đình Diệm. Từ chức năm 1963 để phản đối chính sách kỳ thị Phật giáo của anh em gia đình họ Ngô.
 
Sau nầy, ông cũng đã tố cáo ý đồ thiên vị Thiên Chúa giáo của bản Hiến pháp 1956 như sau trong tác phẩm “Sáu Tháng Pháp Nạn” [in Ronéo trong nước năm 1984. Giao Điểm in lại, 2003, California ]:
 Điều 17 của Hiến pháp Việt Nam 1956 đã được giáo sư Bửu Hội chiếu dẫn trước tổ chức Liên Hiệp Quốc để chứng minh rằng tại Việt Nam không có sự kỳ thi tôn giáo. Điều 17 này qui định như sau: “Mọi người dân đều có tự do tín ngưỡng, tự do hành giáo và tự do truyền giáo, miễn là xử dụng quyền ấy không trái với luân lý và thuần phong mỹ tục.” Hiến pháp 26/10/1956 như vậy đã minh thị công nhận nguyên tắc tự do tín ngưỡng và bình đẵng giữa các tôn giáo.
Tuy nhiên trong phần “Mở đầu” của Hiến pháp, đã có một đoạn phản chiếu của một sự thiên vị Thiên Chúa giáo khá rõ rệt như sau:
“Ý thức rằng nước ta ở trên con đường giao thông và di dân quốc tế, dân tộc ta sẵn sàng tiếp nhận các trào lưu tư tưỡng tiến bộ để hoàn thành sứ mệnh trước Đấng Tạo Hóa và trước nhân loại là xây dựng một nền văn minh nhân bản và phát triễn con người toàn diện....”
Trong đoạn văn trích dẫn này, phần mở đầu của Hiến pháp 1956 đã đề cập đến sứ mạng trước Đấng Tạo Hóa, tức là trước Đức Chúa trời trong Thiên Chúa giáo, mà không đề cập tới các tôn giáo khác.
Đoạn văn này đã đượm sắc thái thiên vị Thiên Chúa giáo. Vô tình hay cố ý, đoạn văn này đã tạo cho Thiên Chúa giáo một địa vị ưu đãi đặc biệt tại Việt Nam vì Hiến pháp 1956 nói rõ là nhằm mục đích hoàn thành sứ mạng trước Chúa tức là Đấng Tạo hóa đã tạo dựng ra trời đất và vạn vật theo như Thánh kinh của Thiên Chúa giáo đã chép. 

■ Giáo sư Nguyễn Văn Bông (1929-1971), Thạc sĩ Công Pháp Đại học Sorbonne (Paris), Viện trưởng Viện Quốc gia Hành chánh (Sài Gòn).

Trong đoạn kết của Giáo trình năm thứ nhất Cử nhân Luật về môn “Luật Hiến pháp và Chính trị học” của Đại học Luật khoa Sài Gòn, 1966, ông đã viết rằng:
Thật vậy, ngay ở điều khoản thứ ba, chúng ta nhận thấy “Tổng thống Lãnh đạo Quốc gia”. Tổng thống bổ nhiệm và cách chức các sứ thần cùng công chức cao cấp không cần ý kiến của Quốc hội. Trái với nguyên tắc phân nhiệm mà điều 3 ghi rõ là “nguyên tắc phân nhiệm giữa hành pháp và lập pháp phải rõ rệt”. Hiến pháp 1956 dành cho Tổng thống quyền ký sắc luật giữa hai khóa họp Quốc hội, quyền ký sắc lệnh tuyên bố tình trạng khẩn cấp, báo động hoặc giới nghiêm.
Một sự tập trung quá mức quyền hành cùng sự thủ tiêu đối lập và sự hiện diện của một chính đảng duy nhất đã đưa chế độ Ngô Đình Diệm lần lần đi đến một chế độ quyền hành cá nhân áp dụng những phương tiện chuyên chế mà tiếng súng ngày 1-11-1963 đã đưa vào dĩ vãng.  
Hiến pháp là văn bản công khai và là nền tảng quy chiếu luật pháp của quốc gia mà ngay từ những ngày đầu của chế độ Ngô Đình Diệm, những người đẻ ra nó còn đưa vào đó một nội dung phi dân chủ  phản dân quyền độc tài trắng trợn như thế thì trên thực tế, một thực tế đã được bưng bít và che đậy bằng màng lưới công an mật vụ dày đặc, người dân còn chịu thống khổ ngần nào, giá trị và vị thế con người còn có nghĩa gì trước mặt kẻ cầm quyền!

■ Thiếu tướng Đỗ Mậu (1918-2002), Ủy viên Chính trị của Hội đồng Quân nhân Cách mạng (1964) – Tác giả cuốn Hồi ký chính trị Việt Nam Máu Lữa Quê Hương Tôi (Quê Hương, 1986 và Văn Nghệ, 1993).
Trong Chương 8 (1993), ông phân tích:
“Muốn xem một hiến pháp là dân chủ hay độc tài, ta chỉ cần nghiên cứu hai quan niệm: một là quyền lực quốc gia qua hình thái tổ chức cơ cấu quốc gia thuộc về ai, và hai là quyền hành của công dân được công nhận và quy định như thế nào?
Hiến pháp Đệ Nhất Cộng Hòa, trong thiên “Điều khoản Căn bản”, điều 2, viết rằng “Chủ quyền thuộc về toàn dân” nhưng đoạn 3, điều 3 thì lại xác định “Tổng thống lãnh đạo quốc dân (Điều 89 của Hiến Pháp trong mục tu chính còn quy định rằng không được xâm phạm hay tu sửa điều 3 này) nghĩa là tách rời hai ý niệm “chủ quyền” và “quyền lực” ra khỏi nhau. Làm sao nhân dân có thể làm chủ được quốc gia khi Tổng thống - chứ không phải họ - lãnh đạo quốc dân dù “quốc dân ủy nhiệm vụ hành pháp cho Tổng thống dân cử và nhiệm vụ lập pháp cho quốc hội cũng do dân cử” (điều 3, đoạn 1). Mà “ủy” theo bản dịch Pháp văn chính thức (Công báo Việt Nam Cọng Hòa (số 48 ngày 26-10-56). Phụ lục trang 2669) lại có nghĩa là “phong” (investir) tức là trao toàn quyền. Một cách thực tế, cứ 5 năm, người dân cầm lá phiếu để “phong” một ông Tổng thống để cai trị mình rồi trở về không còn tham dự gì vào quyền lực quốc gia nữa.
Như ta sẽ thấy rõ trong bản Hiến pháp ở các mục sau cũng như trên thực tế của 9 năm cai trị, Tổng thống Diệm tập trung trong tay những quyền hành hợp hiến to lớn mà Quốc hội chỉ là một bộ phận phụ thuộc được dùng để luật hóa các quyết định chính trị của hành pháp mà thôi. Cũng do đó, nguyên tắc Phân quyền cơ bản được đề ra trong Hiến pháp chỉ còn là chiêu bài xảo trá để đánh bóng cho chế độ.
Chủ quyền thuôc về toàn dân  Tổng thống lãnh đạo quốc dân nghe không khác gì Đảng lãnh đạo, nhân dân làm chủ... của Hiến pháp Cộng Sản hiện nay tại quê nhà. Điểm khác biệt duy nhất là Cộng Sản tập trung quyền lực vào một chính trị bộ nhiều người còn Hiến pháp 1956 thì tập trung quyền lực vào một Tổng thống Diệm.
Nguyên tắc chủ quyền đã bị chà đạp như thế, đến quan niệm toàn dân thì lại càng mơ hồ hơn nữa. Bản dịch tiếng Pháp đăng trên công báo là “Chủ quyền thuộc về toàn thể quốc dân” và chữ quốc dân này còn được dùng nhiều lần trong Hiến pháp.
Quốc dân, theo lý thuyết dân chủ Tây phương mà hiến pháp 1956 áp dụng, là một tập thể trừu tượng không những bao gồm thế hệ hiện tại mà còn cả các thế hệ đã qua và sau này nữa, nó là một “pháp nhân tách rời khỏi những cá nhân hợp thành quốc gia” (Theo Vedel, G. Etudes des Constitutions, tr. 130 (“La nation est une personne juridique distincte des individus qui les composent”), và luật có thể ấn định những điều kiện để hành xử chức năng “quốc dân” đó như điều 18 đã quy định rằng “quyền bầu cử và ứng cử phải theo thể thức và điều kiện luật định” hoặc “quyền bầu cử và ứng cử phải theo thể thức và điều kiện luật định” hoặc điều 50 xác định rằng phải hội “đủ các điều kiện khác dự liệu trong luật tuyển cử”.
Vì quốc dân (national Vietnamien) không phải là nhân dân (peuple Vietnamien) nên ngay cả cái chủ quyền mà người dân miền Nam được nắm giữ một cách trừu tượng ở phần đầu của Hiến pháp thật ra cũng chỉ là một thứ chủ quyền lý thuyết trên giấy tờ.
Như vậy, 2 nguyên lý căn bản nhất làm cơ sở chỉ đạo cho Hiến pháp 1956 là Chủ quyền của ai  Ai lãnh đạo đã nói lên rất rõ ý đồ của ông Ngô Đình Nhu muốn tập trung quyền lực vào một cá nhân Tổng thống để có thể cai trị một cách độc tài, phản dân chủ. Cho nên ta không lấy làm ngạc nhiên khi thấy quyền Hành pháp của Tổng thống chẳng những đã lấn át quyền của Quốc hội mà có khi còn bao gồm cả nội dung Lập pháp nữa.
Tổng thống bổ nhiệm và cách chức tất cả các công chức dân và quân sự (điều 37); bổ nhiệm các sứ thần (điều 35), là tổng tư lệnh tối cao của quân đội (điều 37); có quyền ân xá, ân giảm, hoán cải hình phạt, huyền án (điều 37); ký kết, phê chuẩn các hiệp định quốc tế, thay mặt quốc gia trong việc giao thiệp với ngoại quốc (điều 35), tuyên chiến và ký kết hòa ước với sự thỏa thuận của chỉ một nửa túc số quốc hội (điều 36); tuyên bố tình trạng khẩn cấp báo động, giới nghiêm (điều 44); tổ chức trưng cầu dân ý (điều 40). Và vì các vị thẩm phán tối cao đều do Tổng thống bổ nhiệm (và vì được xem như một công chức nên có thể bị cách chức) nên trên thực tế Tổng thống chẳng những đã trực tiếp nắm gần hết mọi cơ cấu của Hành pháp từ cấp Bộ trưởng, Tướng lãnh cho đến nhân viên hốt rác, anh binh nhì mà còn có khả năng khuynh loát và điều động Tư pháp nữa.
Quyền Lập pháp tuy nói là thuộc về Quốc hội (điều 55) nhưng trên thực tế Tổng thống cũng có quyền làm luật; nhưng trong khi quyền làm luật của Tổng thống thì bất khả xâm phạm ngược lại, quyền làm luật của Quốc Hội có thể bị Tổng thống khống chế. Thật vậy, ngoài cái quyền đương nhiên được chuyển dự thảo ra Quốc hội (để hầu hết) được phê chuẩn nhanh chóng (điều 56), hiến pháp 1956 còn cho phép Tổng thống, vì lý do khẩn cấp, có quyền ban hành sắc luật giữa hai khóa họp Quốc hội (điều 41), hoặc trong “tình trạng khẩn cấp, chiến tranh, nổi loạn, khủng hoảng kinh tế hoặc tài chính”, Tổng thống có thể được Quốc hội ủy quyền ra sắc luật thường xuyên (điều 41). Điều khôi hài là chỉ có Tổng thống mới được nhận định và tuyên bố trong trường hợp nào thì tình trạng trở thành khẩn cấp (điều 44).
Vì ngân sách là sức mạnh huyết mạch của chế độ nên ông Ngô Đình Nhu đã duy trì cho được điều 43 của Hiến pháp để đề phòng đối lập có thể làm tê liệt chính quyền. Điều 43 viết rằng “trong trường hợp ngân sách không được Quốc hội chung quyết trong thời hạn ấn định ở điều 60 thì Tổng thống có quyền ký sắc luật ngân sách cho tài khóa sau” và “nếu về sau Quốc hội có bác bỏ hoặc sửa đổi những điều khoản của sắc luật ngân sách thì Quốc hội phải giải quyết các hậu quả gây nên do việc bác bỏ hoặc sửa đổi”. Thật chưa có một hiến pháp nào có lối văn vừa cảnh cáo vừa đe dọa quốc dân như điều 43 này!
Cũng trong hiến pháp này, về thể thức biểu quyết của Quốc hội, “một dự án hoặc dự thảo luật được Quốc hội chấp thuận chỉ có giá trị nếu hội đủ túc số 1/3 tổng số dân biểu” (điều 69). Quy định “đa số phục tùng thiểu số” phản dân chủ này chỉ có thể giải thích bằng ý đồ chính trị đen tối của ông Nhu muốn đề phòng trường hợp tổng số dân biểu gia nô của mình bị trở thành thiểu số trong Quốc hội. Nhưng trong khi Quốc hội “dễ dãi” với Tổng thống như thế thì ngược lại khi Tổng thống phủ quyết một đạo luật của lập pháp, Quốc hội phải hội đủ túc số 3/4 khó khăn mới được tái thông qua. Mà 3/4 này phải “minh danh đầu phiếu” (điều 58) để Tổng thống điểm mặt xem ai đã dám chống lại quyền phủ quyết của mình!
Ngoài ra Tổng thống có quyền đình chỉ việc áp dụng một hoặc nhiều đạo luật trong những vùng mà Tổng thống tuyên bố tình trạng khẩn cấp (điều 44). Một viện Bảo hiến có được quy định để nghiên cứu và quyết định xem các điều khoản có bất hợp hiến không, nhưng viện này gồm 9 người thì vị chủ tịch và 4 thẩm phán hay luật gia đã do Tổng thống bổ nhiệm rồi (điều 86). Cuối cùng, Tổng thống có quyền đề nghị sửa đổi hiến pháp (điều 90) và Uỷ ban sửa đổi hiến pháp phải “tham khảo ý kiến” không những của Viện Bảo hiến (bù nhìn) rồi mà còn của cả Tổng thống nữa (điều 91).
Tóm lại, theo Hiến pháp 1956 này, cái Hiến pháp đã làm bình phong dân chủ cho chế độ Ngô Đình Diệm suốt 7 năm, thì Tổng thống có đầy đủ quyền lực để triệt tiêu hoặc làm tê liệt các đạo luật nào mà mình không vừa ý cũng như để ban hành và thi hành các đạo luật nào có lợi cho mình.
Nếu Tổng thống đã khống chế quốc hội như vậy, thì ngược lại Quốc hội có quyền gì đối với Tổng thống không ? Tổng thống không bắt buộc phải điều trần trước Quốc hội, không chịu trách nhiệm trước Quốc hội và không thể bị Quốc hội bất tín nhiệm để lật đổ. Tổng thống tiếp xúc với Quốc hội “bằng thông điệp” và nếu muốn “có thể dự các phiên họp của Quốc hội”, cũng như chỉ “khi thấy cần, Tổng thống thông báo cho Quốc hội biết tình hình Quốc gia” (điều 39).
Qua những điều kể trên, ta thấy rõ rằng khi thiết kế ra Hiến pháp này, quả thật ông Nhu đã muốn cho anh mình trở thành một thứ Đế vương phong kiến với những hình thức và ngôn ngữ có vẻ dân chủ tự do... Chính ông Ngô Đình Diệm cũng đã công khai bày tỏ sự tán đồng nội dung của bản Hiến pháp này trong bài phỏng vấn của nhật báo Pháp Le Figaro ngày 23 và 24 tháng 3 năm 1959: “Cần phải nhớ lại quá khứ của chúng tôi. Chế độ chính trị ở Việt Nam thời nào cũng vậy, đã thành lập trên nguyên tắc điều khiển việc nước không phải do những đại biểu của quốc dân mà do những ông vua có những tể tướng sáng suốt phụ tá... Chúng tôi phải lập lại ở Việt Nam hệ thống luân lý như ngày xưa (Bản dịch của nhật báo Tự Do ngày 4-4-59)”

■  Nguyễn Quang Duy – Tác giả bài nầy là một người Việt sống ở Úc, thuộc thế hệ trẻ 1 ½, là thành viên hải ngoại của khối Công giáo 8406. Bài viết của ông Nguyễn Quang Duy được đăng trên BBC-Việt ngữ ngày 25/10/2016. Trong phần về Hiến Pháp 1956, ông chủ yếu khen ngợi nội dung của văn kiện nầy đã tạo ra những tiền để luật pháp cho công cuộc phát triển quốc gia trong nhiều lãnh vực (lao động, kinh tế, …). Có điều có lẽ vì tác giả còn nhỏ tuổi, không sống trong thời kỳ 1955-1963, nên không biết có một lổ hổng rất lớn giữa ngôn từ trong Hiến pháp và Thực tế đời sống. Ví dụ như tác giả không biết đến đối lập chính trị bị đàn áp khốc liệt (mà cao điểm là cái chết của Nhất Linh), tư pháp bị coi thường (với 2 nhà biệt giam P42 của ông Nhu và Chín Hầm của ông Cẩn không nằm trong hệ thống Tư pháp), Lập pháp chỉ là bù nhìn (với một Quốc hội toàn nghị gật), … Tuy khập khiểng khen ngợi “Hiến Pháp 1956” như thế, song tác giả cũng phải công nhận về cơ bản, Hiến Pháp 1956 có những “mâu thuẩn căn bản”, “tước quyền người dân”, “suy tôn” lãnh tụ, “quyền dân chủ bị giới hạn”…
 
Chúng tôi xin trích đăng một đoạn trong bài viết của tác giả (phần viết về Hiến Pháp 1956):
Giá trị tinh thần lập hiến Việt Nam Cộng Hòa
Chiếu điều 95 và 96 của bản Hiến pháp 1956, Quốc hội Lập hiến tự động trở thành Quốc hội Lập pháp và Quốc trưởng Ngô Đình Diệm trở thành Tổng thống đầu tiên của Việt Nam Cộng Hòa.
Lẽ ra hai điều này không nên có vì đã mâu thuẫn với Điều 2 là điều căn bản nhất của thể chế Cộng Hòa: "Chủ quyền thuộc về toàn dân".
Nói cách khác Quốc hội Lập hiến đã tước quyền người dân bầu chọn một Quốc hội Lập pháp và vị tổng thống đầu tiên của nước Việt Nam Cộng Hòa.
Điều 3 "Tổng thống lãnh đạo Quốc dân" mang xu hướng suy tôn chức danh Tổng thống. Điều 89 "không thể sửa đổi hoặc hủy bỏ các Điều 1, 2, 3, 4, và điều này (89) của Hiến pháp," nghĩa là Điều 3 được đặt ngang hàng và được bảo vệ tuyệt đối như Điều 2 "Chủ quyền thuộc về toàn dân".
Nói cách khác, quyền lực tuyệt đối đã được Hiến pháp trao cho Tổng thống, do đó quyền dân chủ đã bị giới hạn trong Hiến pháp Đệ Nhất Cộng Hòa.
Trong khi miền Nam đang bị cộng sản đe dọa, lẽ ra vai trò của các đảng chính trị và của địa phương phải được đặt lên hàng đầu thì Hiến pháp 1956 lại chỉ tập trung vào trung ương mà không hề đề cập đến địa phương, thành phố, tỉnh, xã, thị xã… cũng không đề cập đến vai trò các đảng chính trị.
Thiên thứ 9 quy định việc sửa đổi Hiến pháp với nhiều bước chặt chẽ. Chương này chỉ thuận lợi cho những chính trị gia đã tham gia guồng máy công quyền, nhưng lại giới hạn cơ hội của dân và của thành phần cấp tiến muốn thay đổi đất nước thông qua việc sửa đổi Hiến Pháp.”
--0--
Qua sáu đánh giá nói trên của những nhân vật có thẩm quyền vể chủ đế nầy, ta có thể khẳng định rằng “Hiến Pháp 1956” mở đầu nền Đệ Nhất Cọng Hòa, ngay cả về mặt lý thuyết, đã không phải là một văn kiện tốt lành gì! Những bất cập, khiếm khuyết, giới hạn, nhất là những điều khoản cố tình cho phép việc tập trung quá nhiều quyền lực vào Tổng thống chỉ chứng tỏ rằng Hiến Pháp đó không phù hợp cho việc xây dựng một thể chế dân chủ.

Lịch sử thay đổi với vận tốc chóng mặt, bỏ rơi những quy luật mới hôm qua tưởng là bất biến, dù người ta vẫn cứ muốn nói đến các “quy luật lịch sử”. Thời đại chuyển mình với càng lúc càng nhiều thách thức mới và cơ hội chưa từng xãy ra. Trí thức Việt Nam không thể, và không cần, đi thụt lùi về những giai đoạn tồi tệ của Dân tộc như thời gian 9 năm của chế độ Ngô Đình Diệm, với hy vọng đào bới trong mớ rác đó được một nội dung tư tưởng gì khả dụng cho tình hình nước ta trong tương lai. Hãy đứng vững trên hai đôi chân của chính mình và nhìn về phía trước.

Kevin Trần

11-2016 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét