| 
             
Đạo Phật là đạo giác
            ngộ. Giác ngộ là thấy tánh. Muốn thấy tánh thì tu thiền, như đức
            Thích Ca Mâu Ni do thiền dưới gốc cây Bồ Đề mà giác ngộ thành Phật.
            Cho nên, mục đích tối hậu của thiền Phật Giáo là thành Phật, là
            giác ngộ chân tánh. Vì vậy, Thiền Tông chỉ nói đến “kiến tánh thành Phật,” không
            nói gì khác. 
Nhưng không phải ai cũng
            có đủ căn cơ để tu thiền mà kiến tánh thành Phật ngay trong sát na hiện
            tiền, hay chí nữa cũng là trong đời này. Cho nên, trong Thiền Tông
            cũng có đốn ngộ và tiệm tu, cũng có Nam Năng và Bắc Tú. Thậm chí
            thâm tín Phật Pháp như Vua Lương Võ Đế thì có mấy ai, vậy mà trước
            câu nói trực chỉ của Tổ Sư Đạt Ma “Xây chùa, tạo tượng đều không có công đức,” cũng không
            thể tự mình mở lối lên Thiếu Thất! Vì lẽ đó, để độ người hữu duyên
            theo căn cơ sai biệt, thiền cũng khai mở nhiều cửa phương tiện từ
            sơ cơ tiệm thứ điều tức, điều thân, điều tâm, đến hốt nhiên đại ngộ
            ngay nơi chiếc lá rơi. 
Ngày nay thiền trở thành
            liệu pháp trị bệnh thân tâm một cách hữu hiệu được phổ biến khắp
            mọi nơi trên thế giới, từ bệnh viện y khoa, công ty thương mại đến
            trường học và quân đội. Có thể nói chưa bao giờ thiền được đại
            chúng hóa như bây giờ. Tuy nhiên, theo quy luật xã hội, cái gì được
            đại chúng hóa thì không tránh khỏi trở thành sản phẩm xã hội, mà đã
            là sản phẩm xã hội thì khó giữ được phẩm chất tinh ròng và nguyên
            vị của nó. Đó chính là trong cái được có cái mất! May thay, còn có
            những người ngày đêm âm thầm gìn giữ tinh yếu của thiền như các
            thiền sư chân truyền trong các thiền viện thâm nghiêm, hay như cuốn
            “Thiền Tập” của Cư Sĩ Nguyên Giác. 
  
 
            
“Thiền Tập” và tác giả (2012) 
Một trong những đặc điểm
            của cuốn “Thiền Tập” của Cư Sĩ Nguyên Giác là tác phẩm này chứa
            đựng một bản đồ toàn diện về pháp môn thiền từ bước đầu căn bản chỉ
            dạy cách ngồi thiền, cách điều tức, điều thân và điều tâm, đến
            những phương thức thiền tập diệu dụng cao siêu của cả ba truyền
            thống Phật Giáo: Tây Tạng, Nam Truyền, và Bắc Truyền. Đó là đặc
            điểm bởi vì có rất ít hay đúng hơn rất hiếm sách viết về tu thiền
            bằng tiếng Việt mà có đầy đủ pháp môn từ sơ cơ đến thượng thừa như
            vậy. 
Điểm đặc biệt khác nữa
            là người biên dịch “Thiền Tập” là Cư Sĩ Nguyên Giác không phải chỉ
            là một học giả trên lý thuyết mà chính là một hành giả thiền trên
            bốn mươi năm và được truyền thụ trực tiếp từ những bậc thiền sư đạo
            cao đức trọng trong chốn thiền môn như Thiền Sư Tịch Chiếu, Viện
            Chủ Chùa Tây Tạng ở Bình Dương, Việt Nam. Cư Sĩ Nguyên Giác cũng là
            tác giả của cuốn “Vài Chú Giải Về Thiền Đốn Ngộ,” được xuất bản
            trên hai mươi năm trước tại Hoa Kỳ, và hàng chục tác phẩm nghiên
            cứu và dịch thuật khác về Phật Giáo. 
Trong “Thiền Tập” của Cư
            Sĩ Nguyên Giác đề cập đến ba truyền thống thiền của Phật Giáo Tây
            Tạng, Nam Tông và Bắc Tông, với những pháp môn tinh yếu và phổ
            truyền nhất của mỗi hệ thống. Trong đó, với Phật Giáo Tây Tạng thì
            có pháp môn Đại Thủ Ấn, Đại Toàn Thiện; với Phật Giáo Nam Truyền
            thì có pháp môn Thiền Minh Sát; với Phật Giáo Bắc Truyền thì có
            pháp môn Thiền Mặc Chiếu, Thiền Công Án. 
Đôi khi người mới tu thiền nghĩ rằng phép thở là
            bước đầu vào thiền nên không có công dụng mầu nhiệm gì lắm. Nhưng
            không, trong “Thiền Tập” cho chúng ta thấy về diệu dụng bất khả tư
            nghì của phép thở như sau: 
“Mặc dù thiền tập hơi thở chỉ là bước đầu thiền tập, nó có
            thể rất là mãnh liệt. Chúng ta có thể thấy từ pháp tu này là chúng
            ta có thể đạt được an tĩnh nội tâm và sự an lạc chỉ bằng cách kiểm
            soát tâm, mà không dựa vào bất kỳ điều kiện bên ngoài nào. Khi dòng
            niệm lắng xuống, và tâm chúng ta tịch tĩnh, một niềm hạnh phúc sâu
            thẳm và sự an lạc tự nhiên khởi lên. Cảm thọ về sự an lạc và sự
            sung mãn giúp chúng ta đối phó với sự bận rộn và khó khăn của đời
            sống thường nhật.” 
Khai thị về pháp đốn
            ngộ, “Thiền Tập” trích dẫn lời dạy của Thiền Sư Hám Sơn chỉ thẳng
            cội rễ của mọi pháp chỉ là “ảo giác và vô tự tánh,” tất cả đều
            “phóng hiện từ chân tâm,” như sau: 
“Để thiền tập, ngươi trước tiên phải dẹp bỏ hết mọi kiến
            thức và hiểu biết, và chỉ nhất tâm đưa tòan lực của ngươi đặt lên
            một niệm. Tin vững chắc vào [chân] tâm của ngươi rằng, nguyên thủy
            nó thanh tịnh và sáng rõ, không một chút trì trệ nào hết – nó thì
            sáng và hoàn thiện, và bao trùm khắp Pháp giới. Trong tự tánh, thì
            không hề có thân, không hề có tâm, không hề có thế giới, mà cũng
            không hề có vọng niệm nào, không hề có bất kỳ thọ tưởng nào. Ngay
            trong khoảnh khắc này, chính ngay một niệm này tự nó đã là vô sinh.
            Tất cả mọi pháp đang hiển lộ trước ngươi bây giờ thực ra là ảo giác
            và vô tự tánh – tất cả vạn pháp đó đều là phản chiếu phóng hiện từ
            chân tâm của ngươi.” 
Phần cuối của “Thiền
            Tập” Cư Sĩ Nguyên Giác giới thiệu và trích dịch bài Kinh “Bahiya
            Sutta” trong Tiểu Bộ Kinh kể chuyện Đức Phật dạy bài pháp khẩn cấp
            cho Người Áo Vỏ Cây chứng A La Hán ngay tức thì khi nghe Phật dạy
            và đã viên tịch không lâu sau đó. Bài pháp này cho thấy người nghe
            pháp Phật có thể đốn ngộ thánh quả tức thì ngay trong lời dạy của
            vị đạo sư. Xin trích lại đoạn Kinh mà Đức Phật dạy cho ngài Bahiya
            để độc giả tường lãm: 
“Thế này, Bahiya, ông nên tu tập thế này: Trong cái được
            thấy sẽ chỉ là cái được thấy; trong cái được nghe sẽ chỉ là cái
            được nghe; trong cái được thọ tưởng sẽ chỉ là cái được thọ tưởng;
            trong cái được thức tri sẽ chỉ là cái được thức tri.’ Cứ thế mà tu
            tập đi, Bahiya. 
“Khi
            với ông, này Bahiya, trong cái được thấy chỉ là cái được thấy…
            [nhẫn tới]… trong cái được thức tri chỉ là cái được thức tri, thì
            rồi Bahiya, ông sẽ không là ‘với đó.’ Này Bahiya, khi ông không là
            ‘với đó,’ thì rồi Bahiya, ông sẽ không là ‘trong đó.’ Này Bahiya,
            khi ông không ‘trong đó,’ thì rồi Bahiya, ông sẽ không ở nơi này,
            cũng không ở nơi kia, cũng không ở chặng giữa. Thế này, chỉ thế
            này, là đoạn tận khổ đau.” 
  
Cư Sĩ Nguyên Giác viết trong “Thiền Tập” về sự
            chứng đắc qủa vị A La Hán tức thì của Người Áo Vỏ Cây: 
“Nhưng, làm cách nào ngài Bahiya -- một người đời thường, chưa
            từng quy y hay thọ giới gì cả… mà lúc tìm nghe pháp thì vẫn còn
            mang phong thái ngọai đạo, với kiểu lấy vỏ cây làm áo, và được gọi
            tên bằng Bahiya Áo Vỏ Cây -- sau khi nghe bài pháp yếu vài câu lại
            có thể “hốt nhiên đốn ngộ” và xóa sạch ác nghiệp muôn đời ngàn kiếp
            để vừa khi bị bò húc chết là nhập Niết Bàn vô dư ngay? Có nghĩa là,
            ngay khi tâm vừa đốn nhập được, thì vô lượng nghiệp tội sẽ không
            còn ràng buộc được nữa? Như vậy, khỏang cách giữa một người đời
            thường cho tới ngôi vị Thánh Quả A La Hán thực ra chỉ cách nhau vài
            sát na tâm? Thực ra, ngài Bahiya đã tu từ vô lượng kiếp rồi, đã là
            một tỳ kheo từ thời Phật Ca Diếp. Không có gì là tự nhiên cả, và
            ngài Bahiya sau này được Đức Phật nói là trường hợp chứng đạo mau
            nhất, xuất sắc nhất.” 
Có được khoảnh khắc “hốt
            nhiên đốn ngộ” thì phải tu từ vô lượng kiếp cho nên, thiền là phải
            tập, phải tu tinh tấn mỗi sát na, mỗi giờ, mỗi ngày trong đời sống.
            “Thiền Tập” là cuốn sách rất bổ ích cho mọi người, mọi căn cơ. Xin
            hãy vào các trang mạng trên để đọc “Thiền Tập” của Cư Sĩ Nguyên
            Giác và học cách thực tập thiền. 
Xin cảm niệm công đức của tác giả và trân trọng
            giới thiệu đến bạn đọc. 
  
 | 
           
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét