TÀI LIỆU CHƯA TỪNG CÔNG
BỐ
CỦA
CHÍNH QUYỀN SÀI GÒN: ĐỘI QUÂN TAN RÃ
Hải Thành
Trong dịp nhìn lại ngày 30/4/1975 sau 40 năm chấm dứt chiến tranh tại Việt Nam, một số tác giả cho
rằng một trong những nguyên nhân chính khiến miền Nam thất bại là do vai trò khống
chế của lực lượng Công giáo Việt Nam trong sinh hoạt quốc gia. Do đó, lực lượng
tôn giáo nầy phải chịu trách nhiệm về tình trạng tan rã rồi tháo chạy trong 55
ngày của quân dân miền Nam. Hai trong nhiều bài viết tiêu biểu cho luận điểm
nầy là: “Chế độ
Thiệu: Chế độ Diệm không Diệm” của Hoành Linh Đỗ Mậu và “Ai
giúp Cọng sản đánh đổ Việt Nam Cọng hòa” của Lê Xuân Nhuận.
Hai liệu dưới đây chứng thực luận điểm nói trên. Hai bài viết mô tả trận chiến tại tỉnh Phước Long vào ngày tàn của cuộc chiến vào mùa Xuân năm
1975. Trong đó, một vài chi tiết đã cho ta thấy có hai vị Linh Mục và quan hệ của
họ với giới lãnh đạo của chính quyền miền Nam như thế nào …
Phước Long thất thủ
Tháng 12.1974,
Bộ Tư lệnh Miền phát lệnh cho toàn thể các lực lượng quân giải phóng miền Nam
VN tiến lên "kiên quyết trừng trị
bọn Mỹ - Thiệu ngoan cố và hiếu chiến, kiên quyết đập tan hệ thống đồn bốt
của địch, mở rộng vùng giải phóng, giành quyền làm chủ về tay nhân dân".
Địa bàn Phước
Long được quân giải phóng chọn làm chiến trường để kiểm nghiệm về cam kết tái
can thiệp vào VN bằng quân sự của Mỹ, cũng như phản ứng của chính quyền Sài
Gòn. Ngày 13.12.1974, quân giải phóng bắt đầu cuộc tiến công bằng việc đánh
chiếm, làm chủ quận lỵ và chi khu Đức Phong. Đến ngày 6.1.1975, đã hoàn toàn
giải phóng Phước Long với việc làm chủ tòa hành chính của tỉnh.
"Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu có lý khi xác
nhận rằng quân giải phóng đã tập trung nhiều sư đoàn tại vùng cao nguyên.
Nhưng điều này không giải thích được quyết định bất ngờ của ông nhằm giao cho
quân giải phóng quyền kiểm soát nhiều tỉnh mà không chiến đấu gì cả. Sự triệt
thoái khỏi Huế, mang rất nhiều ý nghĩa về chiến lược, chính trị và biểu
tượng. Việc xác nhận rằng áp lực của quân giải phóng đã trở nên quá mạnh
không đủ để giải thích tại sao một cuộc rút lui trở thành một sự tháo chạy…".
(Báo Le Monde ngày 21.3.1975, lưu
tại Phủ Đặc ủy Trung ương Tình báo của chính quyền Sài Gòn)
Đến thời điểm
Phước Long bị tấn công, chính quyền Sài Gòn vẫn chưa nghĩ rằng đó là cuộc
tiến công giải phóng hoàn toàn một tỉnh. Do đó báo cáo quân sự tháng 12.1974
vẫn ghi nhận những tin tức trên chiến trường chỉ ở mức độ sôi động. Đến ngày
27.12.1974, bức thư kêu cứu của linh
mục Trần Đức Sâm (Chánh xứ tỉnh lỵ Phước Long) gửi linh mục Cao Văn Luận - và
được chuyển đến Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu - cho thấy tình hình đã hết
sức hỗn loạn:
"... quân đội, cả sĩ quan chỉ nghĩ đến chuyện
một chạy hai chết, ông Tỉnh (Tỉnh trưởng Phước Long - BT) không dám nói thật với thượng cấp nên
giấu không cho đồng bào đi, chúng con
can thiệp cũng có cấp giấy đi máy bay nhưng dặn không cho ai lên máy
bay,... một số công chức, nhà giàu họ hối lộ với phi công gunship thì thoát
thân được với giá hai ba chục ngàn một người. Thế thì con nhà nghèo sao đi
được. Sau khi thấy CIA ở Biên Hòa gọi
nhân viên ở Phước Long về, chúng con biết là họ được bỏ Phước Long...
Thật là bi thảm, chết đến nơi... Hiện nay, nhìn vào tình hình Việt cộng, nhìn
vào tinh thần lính, nhìn vào sự tăng viện nhỏ giọt của quân đoàn không ai có
thể tin là Phước Long có thể cầm cự nổi nếu bị đánh. Tất cả vợ con từ đại tá
cho đến các ty sở đã đi từ một vài ngày đầu nổ súng... Số lính ít ỏi quân
đoàn vừa cho lên Phước Long là lính Sư đoàn 5, bạc nhược và thua ở Snoul, mệt
mỏi nơi chiến trường An Điền, nên chả làm được gì. Ông Tỉnh nay đang bị dân
oán, công chức, quân nhân ghét, làm sao có thể giữ nổi mảnh đất còn lại trước
sức mạnh dồi dào về vũ khí lẫn tinh thần của Việt cộng...".
Ngày 7.1.1975,
sau khi Phước Long thất thủ, chính quyền Sài Gòn vẫn không có kế hoạch hay
hành động nào đáp trả. Nguyễn Văn Thiệu chỉ kêu gọi dân chúng "bình
tĩnh" và cho rằng: "Việc Việt
cộng tấn chiếm Phước Long phải được xem là một việc nhất thời thôi".
Mãi đến ngày 10.1, sau khi không nhận được tín hiệu nào từ phía Mỹ, tổng
thống chính quyền Sài Gòn mới đăng đàn diễn thuyết, khẳng định "Chúng ta
sẽ trở lại Phước Long" và động viên các lực lượng: "Chúng ta hãy cùng nhau tay nắm tay, siết
chặt hàng ngũ, vững bước tiến lên trong niềm tin mãnh liệt vào thắng lợi cuối
cùng của chánh nghĩa quốc gia dân tộc".
Thế nhưng, ngược
với những tuyên bố, chính quyền Sài Gòn không hề có một hành động phản kích
nào.
Tháo chạy
Việc giải phóng
Phước Long đã mở ra thời cơ lớn cho quân giải phóng tiến hành cuộc Tổng tiến
công mùa xuân 1975. Ngày 10.3, chiến dịch Tây Nguyên mở màn và sau 33 giờ
tiến công, quân giải phóng đã làm chủ thị xã Buôn Ma Thuột. Ngày 20.3, quân
đội Sài Gòn rút khỏi hầu hết các tỉnh Tây Nguyên, duyên hải miền Trung và
quân giải phóng tấn công vào Huế.
Bào chữa cho
quyết định bỏ Tây Nguyên, tổng thống chính quyền Sài Gòn cho đó là cuộc rút
lui chiến thuật. Trong bài phát biểu ngày 20.3.1975, ông Thiệu cho rằng:
"Riêng tại cao nguyên, nơi mà
chúng ta phải chiến đấu trong thế 1 chống lại 4, quân lực VN cộng hòa buộc
phải tái phối trí trong giai đoạn này. Vì vậy quân lực ta đã không cố thủ hai
thị xã Kontum và Pleiku". Thế nhưng, tường trình ngày 10.4 của trung tá Lò Văn Bảo - Tỉnh trưởng
kiêm Tiểu khu trưởng Phú Bổn - cho thấy quyết định của Nguyễn Văn Thiệu đã
tạo ra một cuộc tháo chạy hỗn loạn theo phản ứng dây chuyền:
"...chính đoàn quân Pleiku, Kontum di chuyển ồ
ạt ngang Phú Bổn cộng với hàng trăm ngàn dân chúng và gia đình binh sĩ thuộc
hai nơi trên di chuyển trong sự rối loạn, mất trật tự đã làm cho một phần lớn
binh sĩ địa phương quân, nghĩa quân thuộc Tiểu khu Phú Bổn hoang mang và đưa
đến sự rã ngũ của các đơn vị, vì họ nghĩ rằng lực lượng chính quy hùng mạnh
như thế nào, đàn anh của họ là biệt động quân, chủ lực quân dũng mãnh ra sao
mà phải di tản thì họ làm sao đủ sức để chống trả với Cộng sản...".
Tinh thần của
binh sĩ Sài Gòn suy sụp nghiêm trọng dẫn tới đào ngũ ồ ạt, như Lò Văn Bảo
viết:
"Trên đường rút lui, tôi đã chứng kiến một cảnh thương tâm là một viên
nghĩa quân đã dùng súng sát hại cả vợ con và sau đó tự sát theo. Số 100 nghĩa
quân trên đường rút lui qua ngày hôm sau cũng chỉ còn lại khoảng 30 người, 1
tiểu đoàn địa phương quân thuộc Chi khu Sơn Hòa rút lui cũng chỉ còn lại quân
số ước chừng 100 người. Nguyên do cũng vì tinh thần quá dao động cộng thêm
gánh nặng gia đình với bầy con thơ dại và họ hàng thân thuộc, làm sao có thể
đi được với lệnh rút lui quá cấp bách và đoạn đường đầy gian nguy...".
Hải Thành
Nguồn tài liệu: Báo Mới ( www.baomoi.com )
Linh mục Cao Văn Luận
|
LÁ THƯ
TUYỆT MỆNH CỦA LINH MỤC TRẦN ĐỨC SÂM
Giao Hưởng
Trong các tài liệu
thâu giữ từ dinh Độc Lập và Phủ Đặc ủy trung ương tình báo của chính quyền Sài
Gòn có lá thư tuyệt mệnh của linh mục Trần Đức Sâm viết từ mặt trận Phước Long
(hồ sơ số 568 - Font ĐIICH)...
Thư viết đúng dịp lễ Giáng sinh -
gửi linh mục Cao Văn Luận:
Phước Long ngày 25.12.1974
Kính trình cha Chính,
Tuyệt
vọng rồi cha Chính ơi ! Sáng ngày 19.12 (1974), con đã gọi điện kêu cứu cha Chính
là vì thấy Đức Phong, cầu 37, Bù Na, cầu 111, Bố Đức, đã mất hết, còn quanh
Tỉnh một hai cây số có Việt Cộng xuất hiện (...) Chiều 19, con thúc Hội đồng Tỉnh nhóm họp và mời đại tá tỉnh trưởng đến để cùng
xét lại tình hình. Suốt hơn hai
tiếng đồng hồ con đã tay đôi đấu khẩu với đại tá, con đã nói thẳng cho ông
biết tình cảnh đồng bào, tinh thần của lính, sĩ quan qua những sự kiện cụ thể.
(...) Bố Đức vừa là quân lỵ mới, vừa là trung tâm tỵ nạn - sau khi giải tỏa
được 3 ngày, sang Chúa nhật 22 lại bị đánh và 4 giờ chiều thì bị tràn ngập, bỏ
chạy tán loạn. Xứ Phước (?) sang thứ hai cũng mất luôn. Thế là Phước Long chỉ
còn chút quân lỵ Phước Bình và tỉnh lỵ Phước Long mà thôi. Hiện nay Việt Cộng
đặt đại liên và hỏa tiễn phòng không nhiều nơi, nhất là dọc từ Bố Đức về Phước
Bình. Mỗi lần máy bay lên là nó bắn. Lúc 11 giờ một chiếc C 130 lên tiếp tế vừa
décoller thì bị hỏa tiễn (bắn) cháy, lao đầu xuống tan tành.
Thấy thiết giáp T54, súng phòng không, xe molotova
chạy cả đoàn, đồng bào, quân đội, và sĩ quan đều chỉ nghĩ đến chuyện một chạy
hai chết ! Ông Tỉnh (tỉnh trưởng) không dám nói thật với thượng cấp nên tìm
cách che giấu, không cho đồng bào đi, chúng con can thiệp cũng có cấp giấy đi máy
bay nhưng dặn không cho ai lên máy bay. Đồng bào kéo nhau đến bãi đáp chờ
cả tuần mà không đi được. Một số công chức, nhà giàu, họ hối lộ với phi công gunship thì thoát thân
được với giá hai ba chục ngàn một người. Thế thì con nhà nghèo sao
đi được.
Sau
khi thấy CIA ở Biên Hòa gọi nhân viên ở Phước Long về, chúng con biết là họ
được (lệnh) bỏ Phước Long và con đã xin giấy cho thầy giảng (...) chạy ,
nhưng chờ chực 3 ngày mà chưa đi được. Còn
con chưa giải quyết được, vì giáo dân chưa đi nên cầu cứu - từ sáng Chúa nhật
tất cả giáo dân Bố Đức, Phước...(?), chạy luôn về tỉnh hết. Thật là bi thảm, chết đến nơi, phen này họ
cần sự hiện diện của chúng con, nên chúng con đã cam kết với đồng bào là nếu
đồng bào không đi được thì chúng con sống chết như họ
.
Nghe
ngóng đài BBC, Manila, thì chắc chắn là Phước Long sẽ mất... Hiện nay nhìn vào
tình hình Việt Cộng, nhìn vào tinh thần lính, nhìn vào sự tăng viện nhỏ giọt
của quân đoàn, không ai có thể tin là Phước Long cầm cự nổi nếu bị đánh. Tất cả vợ con từ đại tá đến các ty sở đã đi
từ một vài ngày đầu nổ súng. Như vậy không cho dân chạy, định giao luôn cho
Cộng sản sao ! Chúng con biết lúc này chính phủ không có khả năng
nuôi dân tỵ nạn nên không dám tổ chức di tản như năm 1972 (mùa hè đỏ lửa),
nhưng ít nữa (hãy) cho dân chạy và họ tự kiếm chỗ ăn ở. Số lính ít ỏi quân đoàn
vừa cho lên Phước Long là lính sư đoàn 5, bạc nhược và thua ở Snoul, mệt mỏi
nơi chiến trường An Điền, nên chả làm được gì.
Ông
Tỉnh nay đang bị dân oán, công chức, quân nhân ghét, làm sao có thể giữ nổi
mảnh đất còn lại trước sức mạnh dồi dào về vũ khí lẫn tinh thần của Việt Cộng. Tuyệt vọng, con đã dọn mình chết, đã làm
testament và chờ chết - chờ lọt vào tay Việt Cộng và chỉ hy vọng 1%
chạy thoát và sống sót khi Việt Cộng tấn công. Đến đây chắc cha Chính biết tinh
thần con bị căng thẳng đến độ nào rồi.
Nhưng thưa cha Chính, đức tin đã trấn an con, nay con đã chấp nhận và sẵn
sàng….
Xin
cha Chính thương.
Con
(Trần Đức Sâm)
Đến nay, bức thư trên là tài liệu
góp phần thông tin chính xác về mặt trận Phước Long ngày ấy và phản ánh phần
nào một số nội dung chính trị xã hội liên quan.
Nhận thư ngày 27.12.1974, linh mục Cao Văn Luận đã gửi bản sao lá thư
đến tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, kèm
theo mấy dòng sau (ghép chung hồ sơ số 568 - font ĐIICH: Đệ nhị Cộng hòa -
Trung tâm lưu trữ quốc gia II - TP. HCM):
Sài Gòn ngày 27.12.1974
Kính
thưa Tổng thống, tôi xin phép đệ trình tổng thống bản sao bức thư của cha Trần
Đức Sâm, chánh xứ tỉnh lỵ Phước Long mà tôi vừa nhận được chiều nay do thầy
giảng của cha Sâm mang về, để tổng thống biết rõ hơn tình hình bi đát của Phước
Long. Nếu còn có thể, xin tổng thống cho
lệnh di tản dân chúng theo nguyên vọng của họ.
Trân trọng kính chào tổng thống (ký tên) - Cao Văn Luận.
Cao Văn Luận thụ phong linh mục
khoảng 1938-1939, học Trường sinh ngữ Đông Phương Paris 1942-1945, dạy Triết
tại trường Quốc Học - Huế từ 1949. Ông đứng ra vận động thành lập Viện Đại học
Huế và là Viện trưởng đầu tiên của Viện Đại học Huế từ 7.1957 cho đến ngày bị
chế độ Ngô Đình Diệm cách chức vì lý do đã để phong trào sinh viên Huế đấu
tranh chống đàn áp Phật giáo.
Sau ngày nhà Ngô sụp đổ, linh mục Cao Văn Luận
tiếp tục làm Viện trưởng Đại học Huế và từ chức vào tháng 9.1964. Từ đó ông
giảng dạy tại Đại học Sư phạm Sài Gòn cho tới năm 1975. Ông mất tại Chicago
(Mỹ) năm 1986, thọ 76 tuổi. Lá thư tuyệt mệnh của linh mục Trần Đức Sâm gửi ông
đã được ông chuyển ngay đến Nguyễn Văn Thiệu như đã nói trên.
Nhưng Thiệu đã không đáp ứng. Và
rồi, như cách diễn đạt của các đài phương Tây, toàn bộ tỉnh Phước Long đã “hoàn
toàn do Cộng sản kiểm soát kể từ ngày 6.1.1975” - trở
thành ngòi pháo làm bùng nổ dây chuyền các mặt trận tiếp đó, dẫn đến sự kiện
30.4 vào bốn tháng sau. Còn lúc ấy - ngay khi tiếng súng vừa dứt - Hà Nội luôn
chờ đợi câu trả lời về hiệu quả của đòn “trinh sát chiến lược” giáng
vào Phước Long do một điệp viên ngoại hạng từ Sài Gòn gởi ra: Phạm Xuân Ẩn…
Giao
Hưởng
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét