BANG GIAO VIỆT-MỸ 1995-2015
Đào Văn Bình
Từ năm 1991 cho tới ngày hôm nay, liên hệ song
phương Việt-Mỹ được đánh dấu bởi những sự kiện như sau:
-Tháng 4, 1991: Tổng Thống George Bush đề nghị
với Việt Nam “lộ trình” (Road Map) từng bước bình thường hóa quan hệ.
-Tháng 12, 1991: Washington dỡ bỏ lệnh cấm việc
đi lại có tổ chức từ Hoa Kỳ tới Việt Nam. Quốc Hội Hoa Kỳ ủy quyền cho Cơ quan
Thông Tin Hoa Kỳ (USIA) bắt đầu trao đổi các chương trình với Việt Nam.
-Ngày 3/3/1993: Tổng thống Clinton dỡ bỏ lệnh cấm
vận thương mại đối với Việt Nam.
-Ngày 28 tháng 1, 1995: Hoa Kỳ và Việt Nam
chính thức ký hiệp định giải quyết các vấn đề về bồi thường và thiết lập Văn
Phòng Liên Lạc tại thủ đô của mỗi nước.
-Ngày 11/7/1995: Tổng thống Mỹ Bill Clinton và
Thủ tướng Việt Nam Võ Văn Kiệt tuyên bố bình thường hóa quan hệ ngoại giao giữa
hai quốc gia.
-Ngày 6/8/1995: Ngoại Trưởng Warren Christopher
thăm Hà Nội và chính thức mở tòa đại sứ tại Việt Nam. Việt Nam cũng mở tòa đại
sứ tại Washington D.C.
-Ngày 7/10/1995- Cựu Bộ trưởng Quốc phòng Robert
S. McNamara thăm Việt Nam.
-Ngày10/ 4/1997: Ô. Pete Peterson, cựu
chiến binh trong chiến tranh Việt Nam, đồng thời là cựu tù binh chiến tranh
(POW), làm đại sứ đầu tiên của Mỹ tại Việt Nam sau 1975.
-Ngày 24/6/1997: Vị ngoại trưởng thứ hai
của Mỹ là Bà Madeline Albright thăm Việt Nam.
-Tháng 8/1997: Chính phủ Hoa Kỳ thông qua quy
chế đặc biệt cho phép Cơ Quan Phát Triển Quốc Tế Hoa Kỳ (USAID) hỗ trợ Việt Nam
cải thiện hoạt động thương mại thông qua chương trình hỗ trợ kỹ thuật về luật
thương mại và chính sách thương mại.
- Ngày 11 tháng 3/1998: Tổng Thống Bill Clinton
ban hành quy chế tạm miễn áp dụng đạo luật sửa đổi bổ sung Jackson - Vanik đối
với Việt Nam, mở đường cho hoạt động của nhiều công ty Mỹ tới đầu tư và làm ăn
buôn bán tại Việt Nam.
-Ngày 13/ 3/2000: Bộ Trưởng Quốc Phòng đầu
tiên của Mỹ William Cohen thăm Việt Nam kể từ khi chiến tranh kết thúc.
-Ngày 16/11/2000: Tổng Thống Bill Clinton
thăm Việt Nam trong bốn ngày.
-Ngày 19/11/2000 : Dưới sự chứng kiến của của Tổng
Thống Clinton, Phụ Tá Giám Đốc USAID đặc trách Châu Á và Cận Đông Robert C.
Randolph cắt băng khánh thành văn phòng USAID tại Hà Nội.
-Ngày 24/ 7/2001: Ngoại Trưởng Mỹ Colin Powell
thăm Việt Nam trong ba ngày đồng thới tham dự Diễn Đàn Khu Vực ASEAN tại Hà
Nội. Đây là vị ngoại trưởng thứ ba của Mỹ thăm Việt Nam.
- Ngày 10 /11/2003: Bộ Trưởng Quốc Phòng Việt
Nam Phạm Văn Trà thăm Hoa Kỳ để thảo luận về hợp tác thúc đẩy an ninh khu vực.
- Ngày 19 /11/2003 – Chiến hạm USS Vandegrift
của Hải Quân Hoa Kỳ ghé cảng Sài Gòn và trở thành chiến hạm đầu tiên của Mỹ
thăm Việt Nam kể từ khi chiến tranh kết thúc.
-Ngày15/ 9/2004 – Việt Nam bị xếp vào danh sách
các quốc gia cần quan tâm đặc biệt (Country of Particular Concern) theo
Đạo Tuật Tự Do Tôn Giáo của Hoa Kỳ.
-Ngày 19-24 tháng 6/2005: Thủ tướng Việt Nam
Phan Văn Khải hội kiến Tổng Thống George W. Bush tại Thủ Đô Hoa Thịnh Đốn.
-Ngày 21/ 4/2006: Chủ Tịch Hạ Viện Hoa Kỳ Dennis
Hastert thăm Việt Nam.
-Ngày 14/5/2006: Hoa Kỳ và Việt Nam đạt được sự
thỏa thuận trên nguyên tắc về việc Việt Nam gia nhập WTO.
-Ngày 04/6/2006 – Bộ Trưởng Quốc Phòng Donald
Rumsfeld thăm Việt Nam để bàn về các phương thức mở rộng hợp tác quốc phòng.
Đây là vị bộ trưởng quốc phòng thứ hai của Mỹ thăm Việt Nam.
-Ngày 07/1/2006: – Tổ Chức Thương Mại Thế Giới
(WTO) chính thức mời Việt Nam trở thành hội viên của tổ chức này.
- Ngày 11/1/2007: Việt Nam trở thành thành viên
thứ 150 của WTO.
-Ngày 22/1/2007: Đô Đốc Gary Roughead - Tư Lệnh
Hạm Đội Thái Bình Dương của Hoa Kỳ thăm Việt Nam.
-Ngày 08/4/2007: Trong chuyến viếng thămViệt Nam
ba ngày, Ô. Bill Gates - Chủ Tịch Microsoft và phu nhân Melinda gặp gỡ Thủ
Tướng Nguyễn Tấn Dũng của Việt Nam để thảo luận về vấn đề cải thiện sức khỏe
của trẻ em.
-Ngày 18/ 6/2007: ChủTtịch nước Nguyễn Minh Triết
của Việt Nam thăm Hoa Kỳ. hội kiến với Tổng thống George W. Bush để thảo luận
về hợp tác kinh tế và thương mại.
-Ngày 3/ 4/2008: Đại sứ Hoa Kỳ Micheal W.
Michalak cắt băng khánh thành Trung Tâm Hoa Kỳ đầu tiên tại Hà Nội, được coi
như văn phòng “một cửa”, nơi cung cấp tất cả các thông tin cập nhật về mọi lĩnh
vực liên quan đến nước Mỹ.
-Ngày 23-26 tháng 6/2008: Thủ tướng Nguyễn Tấn
Dũng của Việt Nam thăm Hoa Kỳ theo lời mời của Tổng Thống George W. Bush.
-Ngày 6/ 4/2009: Thượng Nghị Sĩ John McCain đến
Hà Nội và có các cuộc hội đàm với Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng và Chủ Tịch Quốc
Hội Nguyễn Phú Trọng của Việt Nam.
(Kết thúc tài liệu của Tòa Đại Sứ Hoa Kỳ tại Hà
Nội)
-Ngày 10/7/2012: Ngoại Trưởng Hoa Kỳ Hillary
Clinton thăm Việt Nam. Đây là vị ngoại trưởng thứ tư của Hoa Kỳ thăm Việt
Nam.
-Ngày 25/7/2013: Việt Nam và Hoa Kỳ tuyên bố hợp
tác toàn diện.(Comprehensive Partnership)
-Ngày 03/06/2013 Bộ Trưởng Quốc Phòng Hoa Kỳ
Leon Panetta thăm Việt Nam. Đây là vị bộ trưởng quốc phòng thứ ba của Hoa Kỳ
thăm Việt Nam.
-Ngày 18/12/2013: Ngoại Trưởng John Kerry thăm
Việt Nam. Đây là vị ngoại trưởng thứ năm của Hoa Kỳ thăm Việt Nam.
-Ngày 13/8/2014: Tướng Martin Dempsey- Tham Mưu
Trưởng Liên Quân Hoa Kỳ thăm Việt Nam.
-Ngày 2/10/2014: Mỹ tuyên bố tháo gỡ một phần
lệnh cấm bán vũ khí sát thương cho Việt Nam, nhưng chưa thấy một thỏa hiệp mua
bán vũ khí nào dủ Tướng Nguyễn Chí Vịnh đã thăm Hoa Kỳ và các đại công ty sản
xuất vũ khi Mỹ đã tới thăm Việt Nam.
-Ngày 6/2/2015 Mỹ tuyên bố giao 5 tàu tuần duyên
cho Việt Nam.
-Tháng 4, 2015: Hai bên có thể đang thương thảo
về vấn đề tập trận chung trên biển với chuyến thăm của Bộ Trưởng Hải Quân Hoa
Kỳ Ray Mabus ngày 9/4/2015.
Chuyện gì sẽ tiếp diễn?
* * *
Bốn mươi năm đã qua, từ cựu thù tới dò dẫm, từng
bước Hoa Kỳ đã trở lại Việt Nam trong tư thế của một người “Hợp Tác Toàn Diện”.
Hình ảnh chiến tranh 1945-1975 (1) nay chỉ còn có giá trị lịch sử, kỷ niệm và
rút tỉa kinh nghiệm. Do tình hình thế giới thay đối, từ cựu thù trở thành đồng
minh là chuyện rất thường tình như Mỹ với Nhật chẳng hạn. Không một ai có thể
cứ sống mãi với dĩ vãng nhất là một quốc gia. Chuyện Hoa Kỳ bình thường hóa
ngoại giao với Cuba cho thấy Hoa Kỳ không thể cứ giữ mãi lập trường thù nghịch
với một đảo quốc nhỏ bé, không có khả năng “đụng tới sợi lông chân” Hoa Kỳ và
trước sự phản đối của toàn thế giới.
Ngay từ đầu năm 1990, dưới sức ép của dư
luận, các nhà nghiên cứu chiến lược lúc bấy giờ cho rằng nếu Mỹ không vào Việt
Nam thì sẽ là “trâu chậm uống nước đục”. Việc Hoa Lục xây dựng xong các căn cứ
quân sự khổng lồ ở Đảo Hải Nam năm 1990 khiến Hoa Kỳ giật mình, hối hả lên kết
hoạch trở lại Đông Nam Á mà Hoa Kỳ đã “tháo chạy” mặc cho Trung Quốc tung hoành
từ năm 1974 (năm mất Quần Đảo Hoàng Sa) nhất là dưới thời Tổng Thống Bill
Clinton.
Lúc bấy giờ ở Mỹ, người ta ca ngợi tài ba
của Ô. Đặng Tiêu Bình và sự thành công của nước Trung Hoa như một phép lạ và là
niềm hân hoan của Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ với kim nghạch ngoại thương giữa hai nước
lên tới 550 tỉ Mỹ Kim mỗi năm. Rồi đây khi Trung Hoa gia nhập cộng đồng thế
giới và “tư bản hóa” thì …thiên hạ thái bình. Nhưng có ngờ đâu Minh Ước Thượng
Hải 1972 ký kết giữa Mao Trạch Đông và cặp bài trùng Nixon/Kissinger rồi được
triển khai mạnh mẽ dưới thời Ô. Bush Cha và Ô. Bill Clinton - nay trở
thành thảm họa cho Hoa Kỳ.
Trước sức trỗi dậy kinh khủng của Hoa Lục, nếu
muốn kiềm chế thì Mỹ phải trở lại Đông Nam Á vì con đường tiến ra Thái Bình
Dương của Hoa Lục phải qua cửa ngõ Đông Nam Á- mà Việt Nam là “cửa ải” đầu
tiên. Nhưng Mỹ trở lại Đông Nam Á bằng cách nào đây?
Trở lại Đông Nam Á mà không có Việt Nam thì cũng
như không bởi vì Việt Nam là trọng điểm chiến lược. Trở lại Việt Nam không
những quân bình được ảnh hưởng của Hoa Lục mà còn cả của Nga. Dĩ nhiên Mỹ không
thể trở lại Việt Nam theo kiểu cho thùy quân lục chiến đổ bộ vào Đà Nẵng như
dưới thời Tổng Thống Johnson.
Lúc bấy giờ vì Việt Nam còn e ngại và do dự cho
nên Hoa Kỳ cần kiên nhẫn. Về điểm này chúng ta phải công nhận Hoa Kỳ rất khéo
léo. Giống như một cậu thanh niên muốn làm quen với một cô gái thì cũng phải
dẫn cô ấy đi ăn nhà hàng, tặng quà liên miên rồi hai bên khi đã “tâm đầu ý hợp”
rồi mới tính chuyện. Chứ xớn xác chưa có gì cả mà đã “nhào vô” thì chắc chắn
thất bại.
Do ưu thế gần như tuyệt đối về mặt kinh tế lẫn
tài chính, nhìn vào thời biểu của mối bang giao, chúng ta thấy từng bước Hoa Kỳ
đã tháo gỡ lệnh cấm vận, hủy bỏ bớt những ngăn cấm về luật lệ, giúp Việt Nam
giao dịch với thị trường Mỹ, hội nhập vào cộng đồng thế giới, rồi vào WTO và sẽ
vào TPP do Hoa Kỳ lãnh đạo…điều mà Việt Nam rất cần cho kế hoạch “Đổi Mới” để
sinh tồn. Rồi từ những hợp tác về giáo dục, kinh tế, tài chính, ngoại thương,
năng lượng, đầu tư, hai bên đã công khai tiến tới hợp tác quốc phỏng thông qua
hiệp định “Hợp Tác Toàn Diện”.
Tuy nhiên Hoa Kỳ và cả thế giới đều thấy mối
bang giao Việt-Mỹ vô cùng phức tạp vì những nhân tố sau đây:
-Hoa Kỳ và Trung Quốc đang là “Hợp Tác Chiến
Lược” gắn bó về kinh tế gần như “vợ chồng” cho nên Hoa Kỳ chỉ “tái cân bằng lực
lượng” chứ chưa muốn hoặc chưa dám đụng độ về quân sự với Hoa Lục ở Biển Đông.
Do đó mọi chuyển động ngoại giao Việt-Mỹ, cả hai đều phải thăm dò phản ứng của
Trung Quốc. Trong thâm tâm cả Việt lẫn Mỹ đều không muốn tiến xa tới mức độ
“chọc giận” Hoa Lục. Chẳng hạn, Hoa Kỳ không thể có căn cứ quân sự tại Việt Nam
bởi một hành động như thế cũng là hình thức tuyên chiến với Hoa Lục. Cho nên,
theo tôi, trong tinh thế hiện tại “Hợp Tác Toàn Diện” thì cũng giống hệt như
“Hợp Tác Chiến Lược” nhưng nghe có vẻ hòa bình, nhẹ nhàng và không gây lo sợ
hoặc chọc giận Trung Quốc.
-Vì Việt Nam có chung biên giới với Trung Quốc
và cùng chung ý thức hệ chính trị, cho nên nếu có bang giao với Hoa Kỳ thì chỉ
giới hạn ở mức độ “tự vệ” chứ Việt Nam không thể liên kết với Mỹ để trở thành
mũi nhọn tấn công Trung Quốc hoặc mối nguy về an ninh cho Trung Quốc. Cho nên
đứng về mặt lý luận, căn cứ trên thực tiễn mà nói: Nếu Hoa Kỳ đóng quân tại 8
căn cứ nhìn ra Biển Đông của Phi Luật Tân thì trận thư hùng giữa Trung Quốc và
Mỹ sẽ nổ ra tại Phi Luật Tân chứ không phải ở Việt Nam. Hiện tại, dù hợp tác
với Mỹ hay với Nga, Việt Nam chưa phải là mối đe dọa về an ninh cho Trung Quốc.
Việt Nam không phải là “mũi nhọn của Mỹ” để thọc vào cạnh sườn Trung Quốc,
giống như Ukraina là mũi nhọn của NATO đâm vào yết hầu Nga.
-Vì Việt Nam có liên hệ truyền thống với Nga và
nhờ Nga mà Việt Nam có đầy đủ vũ khí để tự vệ cho nên Việt Nam - trong mối bang
giao với Mỹ phải tính toán như thế nào để không tổn thương tới quan hệ với Nga
và quan hệ Việt-Nga cũng không làm tổn thương tới quan hệ Việt-Mỹ. Đây là
chuyện khó khăn và vô cùng nhức đầu, vô cùng tế nhị chứ không phải chuyện chơi.
Chẳng hạn vừa rồi Mỹ đã chính thức phản đối Việt Nam đã cho phép các máy bay
của Nga được xử dụng Cảng Cam Ranh để nhận dầu rồi tiếp dầu cho những máy bay
ném bom chiến lược tầm xa của Nga xuất hiện gần không phận Guam của Mỹ.
Sách lược ngoại giao của Việt Nam vô cùng khó
khăn vì ba siêu cường Nga-Mỹ-Trung Quốc thù nghịch với nhau, đang cùng tranh
giành ảnh hưởng ở Việt Nam. Chiến lược ngoại giao để giữ yên đất nước mà không
làm buồn lòng các đại cường - có thể là phức tạp nhất thế giới hiện nay. Chính
vì thế mà Tướng Dempsey- Tham Mưu Trưởng Liên Quân Hoa Kỳ trong chuyến thăm
viếng Việt Nam, khi phóng viên New York Times hỏi về vị trí của Việt Nam trên
trường quốc tế, đã trả lời như sau: “ Tôi không thể không đồng ý về tầm quan
trọng và vị thế đặc biệt của Việt Nam đối với khu vực và toàn cầu trong tương
lai. Theo tôi, Việt Nam sẽ đóng một vai trò địa chính trị cực kỳ quan trọng
trong khu vực và trên thế giới trong những năm tới. ”
Trong lịch sử 4000 năm, chưa bao giờ Việt Nam
trải qua một thời kỳ khó khăn đến như vậy. Tuynhiên theo nhận định lạc quan của
cựu Đại Sứ Pete Peterson (VOA) thì, “Giữa lúc đôi bên năm nay (2015) kỷ
niệm hai thập niên bình thường hóa quan hệ, vị sứ giả có công hàn gắn bang giao
hai nước cựu thù cũng dự đoán rằng trong 20 năm kế tiếp, chắc chắc Việt-Mỹ sẽ
trở thành đồng minh mạnh mẽ ở Đông Nam Á.”
Và Ô. Pete Peterson cũng phải công nhận rằng,
“Hoa Kỳ không (ngấm) ngầm muốn thay đổi ý thức hệ trong lòng Việt Nam, một
trong những yếu tố được xem là thách thức lớn nhất cho quan hệ song phương kể
từ khi chiến tranh kết thúc năm 1975 tới nay.”
Ô. Pete Peterson nhận định đúng. Nếu phía Việt
Nam phác giác ra Hoa Kỳ lợi dụng mối bang giao để tìm cách lật đổ họ thì mối
quan hệ đổ vỡ ngay lập tức. Mà Việt Nam sẵn sàng làm như vậy vì ở vào thời điểm
này dù có cắt đứt quan hệ ngoại giao với Hoa Kỳ họ vẫn không chết. Nhật Bản, Âu
Châu, Ấn Độ và nhất là Nga vì quyền lợi của mỗi nước cũng sẽ tiếp tục trợ giúp
Việt Nam và khi đó Hoa Kỳ trở nên cô lập. Dĩ nhiên cả Hoa Kỳ và Việt Nam đều
không muốn tình thế đó xảy ra vì chẳng có lợi gì cho hai bên trong khi hiểm họa
Trung Quốc sờ sờ ra đó.
Hoa Kỳ nổi tiếng và dạy dỗ cả nhân loại về tình
thần “thực tiễn” tức “quyền lợi là trên hết” trong khi họ lại luôn luôn đề cao
“lý tưởng”. Mà hễ đã lý tưởng thì không thể thực tiễn…cho nên Hoa Kỳ chơi trò
chơi “Hai Mặt” (Double Standard) - tức chỗ nào cần “lý tưởng” thì nói “lý
tưởng”, chỗ nào “vì quyền lợi” thì quẳng “lý tưởng” đi. Cho nên “đi” với Hoa Kỳ
rất khó. Khi nào vì quyền lợi thì - sống chết Hoa Kỳ cũng nhào vô. Khi nào
không còn quyền lợi thì Hoa Kỳ giở “lý tưởng” ra để sinh sự. Cho nên ngoại giao
với Hoa Kỳ phải “biết” như cái “biết” của Lão Tử, nếu không sẽ “chết không kịp
ngáp”.
Kinh nghiệm thực tế, ít nhất 40 năm qua, sau
Chiến Tranh Việt Nam đã dạy cả thế giới một bải học là nếu đi với Mỹ thì phải
đi với một đại cường khác để cân bằng ảnh hưởng của Mỹ. Nếu chỉ ôm một trụ Mỹ,
khi Mỹ bỏ hoặc o ép, không chết thì cũng mất hết chủ quyền. Các quốc gia Đông
Nam Á như Nam Dương, Mã Lai, Thái Lan, Miến Điện và Việt Nam đã học được bài
học này cho nên họ theo chính sách ngoại giao đa phương để không bị lệ thuộc
vào bất cứ siêu cường nào.
Hiện nay, qua chuyến công du Hoa Kỳ của Thủ
Tướng Abe, chúng ta thấy Nhật Bản tim chỗ dựa mạnh mẽ hơn nữa vào Mỹ để đối đầu
với Trung Quốc. Trước mắt đó là một bảo đảm an ninh, nhưng chắc chắn chính sách
đối ngoại lớn của Nhật Bản sẽ bị Hoa Kỳ kiềm chế, chẳng hạn Nhật Bản không thể
có mối giao hảo với Nga- hiện đương là kẻ thù của Mỹ- hoặc bất cứ quốc gia nào
mà Mỹ coi như thù nghịch.
Khi bạn bị một người nào đó sai bảo, “Mày không
được chơi với người này. Mày không được chơi với người kia.” thì người đó là
cha mẹ của bạn hoặc là “boss hay chef” của bạn rồi.
Đào Văn Bình
(California ngày 20/5/2015 )
Cước chú:
(1) Thực ra Mỹ đã can dự vào “Chiến Tranh Việt Nam” từ năm
1946 khi hỗ trợ cho Thực Dân Pháp tái chiếm Đông Dương. Cho tới khi Pháp thất
bại hoàn toàn thì Mỹ đã viện trợ trên 1 tỷ USD mỗi năm (tương đương khoảng 5.8
tỷ USD theo thời giá năm 2004) tức 78% của toàn bộ chi phí chiến tranh của Pháp
ở Đông Dương. Các cố vấn Mỹ có thể thanh tra các doanh trại, căn cứ quân sự của
Pháp mà không cần báo trước. (Tài liệu Wikipedia & Vietnam: A History & Các phim tài liệu của Mỹ)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét