AI GIÚP CỌNG SẢN
ĐÁNH ĐỔ VIỆT NAM CỌNG HÒA?
Lê Xuân Nhuận
TÓM-LƯỢC SỬ-LIỆU
BỨC-TỬ VIỆT-NAM CỘNG-HÒA
(trích từ hồi-ký Biến-Loạn Miền Trung, hình của Blogger Nam Giao )
BỨC-TỬ VIỆT-NAM CỘNG-HÒA
(trích từ hồi-ký Biến-Loạn Miền Trung, hình của Blogger Nam Giao )
Lời
Giới Thiệu - Từ lâu, tại hải
ngoại, khi truy tầm nguyên nhân khiến Việt Nam Cọng Hòa bị sụp đổ vào mùa Xuân
năm 1975, nhiều “nhà nghiên cứu” thường cố ý giản lược hóa vào chỉ một nguyên
nhân mà thôi.
Các vị cựu viên chức VNCH thì bảo vì “đồng minh tháo chạy”, các vị quân nhân
vất súng trốn chạy trong 55 ngày thì bảo vì “Việt Cọng có vũ khi Nga sô Trung cọng”, mấy ông tàn dư Cần Lao Công
giáo, vốn khống chế lãnh vực truyền thông nhằm chống phá Phật giáo để trả thù
cho ông Diệm, thì bảo vì “sư sải xuống
đường”, v.v…
Một hiện tượng lịch sử cực kỳ phức tạp như sự
sụp đổ của một chế độ, sự xóa bỏ một quốc gia không thể đến chỉ từ chỉ một nguyên
nhân mà thôi, dù nguyên nhân đó có quan trọng đến mức nào. Thế nhưng những thành phần hải ngoại kể trên thì
vẫn duy trì nhận thức phi khoa học và thái độ phản lịch sử loại nầy là vì họ chỉ
muốn che dấu mặc cảm thất trận.
Che dấu để vừa chạy tội cho mình, vừa đổ tội
cho người khác.
Thật vậy:
■ Sao đồng minh (Mỹ) không “phản bội” ba nước
tuyến đầu nóng bỏng là Tây Đức, Nam Hàn và Đài Loan mà lại phải “tháo chạy” chỉ
ở Nam Việt Nam? Có phải vì chính bản thân cả hai nền Cọng hòa ở miền Nam vừa không
xứng đáng để làm “đồng minh”, vừa độc tài tham nhũng, bất lực không hoàn thành
nỗi “hợp đồng” chống Cọng với Mỹ không?
■ Sao khi còn bộ máy chiến tranh gồm nữa triệu
quân Mỹ cọng với 115,000 quân nhân của 8 nước đồng minh hiện diện thì 4 vùng
chiến thuật vẫn còn an toàn, mà đến khi Đồng minh bắt đầu thực hiện “Việt Nam hóa” (nghĩa là, bấy giờ, mới trao
trách nhiệm chiến tranh cho VNCH) thì hai năm sau, 1,5 triệu tay súng VNCH lại cởi
áo tan hàng trong 55 ngày?
■ Sao trong khi vận mệnh miền Nam do hai ông
Tổng thống Công giáo với binh hùng tướng mạnh, độc quyền cai trị suốt 10 năm
tại miền Nam thì không chịu trách nhiệm, mà lại đổ tội cho cuộc đấu tranh đòi dân
sự hóa và dân chủ hóa của Phật tử tại miền Trung vốn đã tàn lụi từ năm 1967,
tám năm trước ngày miền Nam thất thủ? Tại sao lại vu khống cho một nhóm mấy ông
Sư “Phật giáo Ấn Quang” không phương
tiện, không thế quốc tế mà làm “mất” miền Nam được?
Bài viết dưới đây, trích từ tác phẩm “Biến Loạn Miền Trung”, của tác giả Lê
Xuân Nhuận, soi rọi một lực lượng chính trị - tôn giáo tại miền Nam Việt Nam đã
từng khống chế sinh hoạt chính trị của VNCH trong suốt hai thời Đệ Nhất và Đệ
Nhị Cọng hòa.
Lực lượng nầy là các chức sắc trong Giáo hội
Công giáo Việt Nam, vốn được định hướng bởi lập trường chính trị của vị chủ
chăn là Giáo hoàng Phaolồ VI tại Vatican, đã thao túng và gây hổn loạn chính
trường miền Nam, lên đến cao điểm từ sau Hòa đàm Paris (1973). Họ tạo ra những
cuộc khủng hoảng chính trị giữa lúc miền Nam cần ổn định nhất; tạo ra những vết
dao “đâm sau lưng chiến sĩ” giữa lúc
trên chiến trường, quân lực VNCH cần bàn tay yểm trợ nhất. Họ đã nối giáo cho
giặc, thậm chí có người còn là “giặc” (mà sau 1975 mới lộ diện ra cho chúng ta
biết).
Vì thế, lực lượng nầy đúng là một trong những
thành tố có trách nhiệm chính yếu trong biến cố sụp đổ của Việt Nam Cọng Hòa năm
1975. / NG
… Trong lúc đó, ngay tại Thủ-Đô, trong cơn dầu sôi lửa bỏng,
những tay điệp-viên chiến-lược của Cộng-Sản, từ lâu vẫn nấp dưới lớp áo
tu-hành, như các Linh-Mục Thanh Lãng, Phan Khắc Từ, Trương Bá Cần, Chân Tín,
Nguyễn Ngọc Lan, Trần Du, Nguyễn Quang Lãm, Trần Ngọc Nhuận, v.v… (cùng với
Trần Hữu Thanh trong “Phong Trào Chống
Tham-Nhũng”), cũng sách-động quần-chúng xuống đường hằng ngày để gây thêm
rối-loạn, hoang-mang trong quần-chúng, và tạo sức ép đối với Tổng-Thống Thiệu,
làm nản thêm lòng người Mỹ, và tạo thêm lợi-thế về mặt chính-trị cho Bắc-Việt
xâm-lăng. (trang 436)
Phong-Trào Chống Tham-Nhũng
Nói đến “Phong-Trào Chống Tham-Nhũng”, tưởng cần nhắc lại một số hoạt-động nổi
bật của giới Kitô-Giáo trong và ngoài Việt-Nam Cộng-Hòa.
Trong thời-gian diễn ra Hội-Nghị Paris từ 1968 đến 1973), Giáo-Hoàng Phaolô VI đã nhiều lần “nhân đạo” kêu gọi chấm dứt
chiến-tranh Việt-Nam
Tháng 12-1969, Giám-Mục Phạm
Ngọc Chi, Phó Chủ-Tịch Hội-Đồng
Giám-Mục Việt-Nam, qua Hoa-Kỳ, đã tuyên-bố với báo-chí Mỹ: “Miền Nam [Việt-Nam] đồng-tình với chính-sách
‘Việt-Nam-Hóa Chiến-Tranh’ của Tổng-Thống Nixon.”
Tháng 9-1972, Đại-Hội lần 2 của tổ-chức “Kitô-Hữu Quốc-Tế”
gồm hơn 20 nước họp tại Quebec (Canada), với đề-tài giải-phóng các
dân-tộc Việt, Lào và Campuchia, đã “tố-cáo
các cuộc xâm-lăng và ném bom vô-nhân-đạo của Mỹ, khẳng-định quyền tự-quyết,
tự-do được sống hòa-bình của nhân-dân Việt-Nam.”
Tức là việc Mỹ chuẩn-bị rút lui đã được Kitô-Giáo Việt-Nam,
giáo-dân mấy chục nước khác, và nhất là Giáo-Hoàng Phaolô VI tán-đồng, không
còn đánh nhau với Cộng-Sản nữa.
Ngày 20-9-1970, Linh-Mục Phan Khắc Từ,
Tuyên-Úy Thanh Lao Công Sài-Gòn, qua
Châu Âu, đã tuyên-bố tại Thành-Phố Firenze (Ý, nước có Tòa Thánh Vatican): “Kinh-nghiệm trước mắt cho chúng tôi xác tín rằng Giáo-Hội [Kitô]
tại Việt-Nam hôm nay là một công-cụ hữu-hiệu của người Mỹ.”
Tháng 3-1971, Linh-Mục Nguyễn Viết Khai
tuyên-bố: “Từ chính-quyền trung-ương xuống cho tận anh Trưởng Ấp, người Miền
Nam không được phép giải-quyết vấn-đề của mình mà không có người nước ngoài xen
vào.”
Tháng 11-1971, Linh-Mục Trương Bá Cần,
Tuyên-Úy Thanh Lao Công toàn-quốc,
tham-gia vụ đình-công tại Hãng Pin “Con Ó”, bị Cảnh-Sát bắt, đã viết: “Giáo Hội của tôi không biết chọn, nhất là chọn để chống lại những
kẻ đang nắm quyền-hành trong xã-hội này… Giáo Hội của tôi cũng đã biết lựa
chọn, nhưng không biết lựa chọn người nghèo khổ...”
Tức là giới Kitô-Giáo Việt-Nam đồng-ý với lời cáo-buộc và
chiêu-bài của đối-phương.
Nhưng, sau Hiệp-Định Paris 27-1-1973 [chấm dứt chiến-tranh Việt-Nam], thì
Bắc-Việt gia-tăng nỗ-lực và quyết-tâm tiến-chiếm Miền Nam.
Ngày 19-9-1973, Tổng-Giám-Mục Sài-Gòn Nguyễn
Văn Bình đọc diễn-văn khai-mạc “Năm Thánh”: “Chúng tôi hy vọng rằng những
cuộc giết chóc và hận thù sẽ thực-sự chấm dứt trên mảnh đất này và đồng thời có
được quan hệ hai chiều giữa Bắc và Nam, trong lúc đất nước tạm thời còn phân
chia.”
Ngày 10-1-1974, sau cuộc Hội-Nghị toàn-thể hàng giáo-phẩm, các Giám-Mục Miền
Nam đã công-bố một bản tuyên-ngôn “tha thiết kêu gọi hai chính phủ
Bắc và Nam cùng đồng loạt, vì tình thương dân tộc, mà ngưng mọi hoạt động gây
chiến và mọi chiến dịch bôi nhọ và thù ghét lẫn nhau.”
Tức là giới Kitô-Giáo Việt-Nam [Cộng-Hòa] không đề-cập đến việc Bắc-Việt
vi-phạm Hiệp-Ước, mà chỉ muốn Miền Nam bắt tay làm hòa với Miền Bắc―đối-nghịch
lập-trường “4 Không” của Tổng-Thống Nguyễn Văn Thiệu.
Giáo-Hội Kitô-Giáo Việt-Nam ở Sài-Gòn ra “Thư
Chung” phát-động cuộc tranh-đấu “chống tham nhũng”, chống Tổng-Thống Nguyễn
Văn Thiệu. Họ đòi Thiệu phải từ-chức, vận-động trưng-cầu dân-ý buộc Thiệu phải
ra đi.
Lời kêu gọi đó đã dấy lên liền một “Phong-Trào” gọi là
“Chống Tham-Nhũng”.
* *
*
“Phong-Trào Chống Tham-Nhũng” do Linh-Mục Trần Hữu Thanh cầm đầu, các LM Đinh Bình Định và Nguyễn Học Hiệu cùng Bác-Sĩ Nguyễn
Thị Thanh phụ-lực, qua một bản “Tuyên Ngôn” được sự bảo-trợ của 301
linh-mục khác, kể cả “Tuyên-Úy Công Giáo”,
ra mắt tại Giáo-Xứ Tân Việt, Sài-Gòn, từ năm 1973, là một tập-hợp tương-đối
lớn, có nhiều tín-đồ nhất, và tại nhiều địa-phương nhất―so với Nhóm các
linh-mục cộng-sản nằm vùng và thân-Cộng tại Sài-Gòn.
“Phong-Trào” được sự tham-gia của các nhân-vật ngoài Kitô-Giáo, như
Thượng-Nghị-Sĩ Hoàng Xuân Tửu và Dân-Biểu Nguyễn Văn Kim cùng nhiều DB
thuộc Đảng Đại-Việt của Hà Thúc Ký và phía Dương Văn Minh; DB Đặng Văn Tiếp
phía Nguyễn Cao Kỳ; DB Nguyễn Văn Cử chống Diệm và phía Việt-Nam Quốc-Dân-Đảng;
DB Vũ Công Minh phía Hòa-Hảo; DB Đỗ Sinh Tứ phía quân-đội; Bác-Sĩ Nguyễn Tuấn
Anh; Luật-Sư Đặng Thị Tám; Nhân-Sĩ Nguyễn Trân; v.v…
Linh-Mục Thanh được báo-chí ngoại-quốc tặng cho danh-hiệu “Hiệp Sĩ của Người Nghèo”.
Sau đó, “Phong-Trào” công-bố các bản “Cáo
Trạng” trong các cuộc biểu-tình, xuống đường rầm-rộ dữ-dội và liên-tục của
các tín-đồ do các linh-mục lãnh-đạo có khi có hàng chục ngàn người tham-dự tại
Huế, Đà-Nẵng, Quy-Nhơn, Nha-Trang, Cam-Ranh, Sài-Gòn, Mỹ-Tho, Cần-Thơ, v.v…
Cuối năm 1974, nhất là đầu năm 1975, những cuộc biểu-tình chống-chính-phủ của
nhóm Linh-Mục Trần Hữu Thanh, có sự tham-gia của một số chính-khách, lãnh-tụ đảng-phái,
cộng với việc Hội-Đồng Giám-Mục Việt-Nam phổ-biến “Thư Chung”, kêu-gọi các Nhà
Thờ toàn-quốc “chống tham nhũng”, thúc-đẩy giáo-dân xuống đường rầm-rộ,
liên-tục… đã khiến cho các binh-sĩ ngoài tiền-tuyến chán-nản, mất tinh-thần, và
ảnh-hưởng tai-hại đến sự sống-còn của đất-nước.
Bên cạnh “Phong-Trào” của LM Trần Hữu Thanh, còn có các Nhóm tay sai Cộng-Sãn
và thân-Cộng, là các LM Trương Bá Cần,
Thanh Lãng, Huỳnh Công Minh, Vương Đình
Bích, Hồ Thành Biên, Nguyễn Thành Trinh; Nhóm “Đối Diện” của 11 linh-mục phản-chiến Nguyễn Ngọc Lan, Chân Tín, Phan Khắc Từ, Nguyễn Hữu Khai, v.v… trong mấy tháng
cuối-cùng, đã lợi-dụng các buổi thuyết-giảng tại các Nhà Thờ để công-khai
tuyên-truyền cho “người anh em bên kia”.
(Điển-hình là Phan
Khắc Từ, từ năm 1969 đã đi dự đại-hội Thanh Lao Công Thế-Giới có xu-hướng
thân-Cộng được Mạc-Tư-Khoa đỡ đầu, tại Liban. Ở Pháp thì đến hội-ý với Nguyễn
Thị Bình, Trưởng Phái-Đoàn thương-thuyết của “Mặt Trận Giải Phóng”; tham-gia
đình-công; biểu-tình đòi công-bằng cho giới lao-động; cùng sinh-viên và
công-nhân đòi hòa-bình cho Việt-Nam. Sau này về nước thì dính vào Mặt Trận
Nhân-Dân Tranh-Thủ Hòa-Bình, Phong Trào Học-Sinh Sinh-Viên Đòi Quyền Sống,
Phong- Trào Chống Tăng Học-Phí, Chống Độc-Diễn; đóng vai “linh-mục hốt rác” gây
sự chú ý của dư-luận; dùng Nhà-Thờ Vườn
Xoài làm nơi chế-tạo bom xăng cho phong-trào đốt xe Mỹ trên đường phố; cùng
công-nhân đình-công để gây trở-ngại cho các cuộc hành-quân; tiếp tay CS dựng
lên Ủy-Ban Bảo-Vệ Quyền-Lợi Lao-Động Miền Nam; rồi lại giả-danh từ-thiện
hoạt-động trong tổ-chức trá-hình của CS là Mặt Trận Nhân Dân Cứu Đói…)
Chủ-Tịch Thượng-Nghị-Viện Trần Văn Lắm lên án Tổng-Thống Thiệu “lạm quyền, tham nhũng”.
Một số lãnh-tụ đảng-phái và tôn-giáo, như Phan Bá Cầm (Hòa-Hảo), Trần Quang Vinh
(Cao-Đài), Hà Thế Ruyệt (Duy-Dân), Thượng-Tọa Pháp-Tri và các Ông Ngô-Văn-Ký,
Nguyễn Văn Lục, Xuân Tùng (Việt-Nam Quốc-Dân-Đảng) thành-lập “Trận Tuyến Nhân
Dân Cách Mạng”, kêu-gọi TT Nguyễn Văn Thiệu từ-chức và các phe liên-hệ “chấm dứt chiến-tranh, giải-quyết vấn-đề Miền
Nam bằng phương-thức hòa-bình”.
Nhóm “Sóng Thần” thì tổ-chức “Ngày Ký-Giả
đi Ăn Mày” rồi tiếp theo là “Ngày
Công-Lý và Báo-Chí Thọ-Nạn” vào tháng 10-1974.
Các Tuyên-Úy Công-Giáo thì tổ-chức Đại-Hội tại Thủ-Đô. Họ rao giảng với giáo-dân
quân-nhân rằng “cộng-sản cũng là con-cái
của Chúa”, rằng “Công-Giáo và CS có
thể sống chung hoà-bình”…
Bản “Cáo Trạng số 1” được ghi là ký tại Huế vào ngày 8-9-1974, khi được tung ra
tại Nhà Thờ Tân-Sa-Châu, Sài-Gòn, có báo bảo là “làm lung-lay ghế Tổng-Thống Thiệu.”
Các báo Time, Newsweek; các đài BBC, VOA đều loan tin. Hậu-quả là Quốc-Hội
Mỹ quá chán-ngán Chiến-Tranh Việt-Nam và mệt-mỏi vì đã yểm-trợ một đồng-minh có
quá nhiều khuyết-điểm và thối-nát. Tức là giới Kitô-Giáo Việt-Nam đã tiếp tay cho Hoa-Kỳ chấm dứt viện-trợ và
phủi tay đối với Việt-Nam Cộng-Hòa.
Việc Mỹ cắt-giảm quân-viện đã làm tê-liệt hẳn khả-năng chiến-đấu của Quân-Lực
VNCH, và từ đó làm suy-nhược tinh-thần kháng-cự, yếu-tố quan-trọng nhất trong
bất-kỳ cuộc chiến-tranh nào.
Các chức sắc Công giáo đã làm loạn ở miền Nam,
tạo bất ổn chính trị
và khoảng trống an ninh, do đó đã trực tiếp đóng góp vào sự sụp đổ
của Việt Nam Cọng Hòa vào mùa Xuân năm 1975.
và khoảng trống an ninh, do đó đã trực tiếp đóng góp vào sự sụp đổ
của Việt Nam Cọng Hòa vào mùa Xuân năm 1975.
Hình từ trái qua và
trên xuống: Phaolồ Nguyễn Văn Bình, Hoàng Quỳnh,
Giuse Trần Hữu Thanh,Gioan Baotixita Huỳnh Công Minh,
Phêrô Phan Khắc Từ, Phêrô Maria Phạm Ngọc Chi,
Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận,Thanh Lãng, Stêphanô Chân Tín,
Giuse Trần Hữu Thanh,Gioan Baotixita Huỳnh Công Minh,
Phêrô Phan Khắc Từ, Phêrô Maria Phạm Ngọc Chi,
Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận,Thanh Lãng, Stêphanô Chân Tín,
Giuse Maria Đinh Bình Định, Nguyễn Ngọc
Lan, Phêrô Trương Bá Cần.
Và không có trong hình: Nguyễn Viết Khai, Nguyễn Học Hiệu,
Vương Đình Bích, Hồ Thành Biên, Nguyễn Thành Trinh, Lê Văn Ấn,
Trần Viết Thọ, Nguyễn Quang Lãm, Hoàng Kim, Nguyễn Thiện Toàn,
Nguyễn Văn Hòa, Nguyễn Văn Huệ, Nguyễn Nghị…
Vương Đình Bích, Hồ Thành Biên, Nguyễn Thành Trinh, Lê Văn Ấn,
Trần Viết Thọ, Nguyễn Quang Lãm, Hoàng Kim, Nguyễn Thiện Toàn,
Nguyễn Văn Hòa, Nguyễn Văn Huệ, Nguyễn Nghị…
*
* *
Về phần Tổng-Thống Nguyễn Văn Thiệu thì ông đích-thân đi
trực-tiếp cầu-cứu tại chính-quốc Hoa-Kỳ, nhưng đã không được nghênh-đón
long-trọng tại Thủ-Đô Hoa Thịnh Đốn. Năm 1968, Johnson (chủ-chiến, Dân-Chủ) chỉ
tiếp Thiệu tại thành-phố đảo Honolunu, và chỉ để thảo-luận sách-lược hòa-đàm
với Cộng-Sản. Năm 1969, Nixon (chủ-hòa, Cộng-Hòa) cũng chỉ tiếp Thiệu tại Đảo
Midway, và cũng chỉ để thỏa-thuận về chính-sách Việt-Nam-Hóa và lịch-trình rút
quân của Mỹ.
Thiệu lại đích-thân đi trực-tiếp cầu-cứu với Giáo-Hội Kitô
La-Mã, là một trung-tâm quyền-lực chính-trị khác của thế-giới. Tuy nhiên,
Giáo-Hoàng Paul VI, trong cuộc viếng-thăm lục-địa Á-Châu lần đầu-tiên, đã không ghé đến Việt-Nam là quốc-gia đang
bị Cộng-Sản đe-dọa, nhất là Việt-Nam có tỷ-số giáo-dân đông thứ nhì tại
lục-địa này. Thiệu đến Tòa Thánh, nhưng không được Giáo-Hoàng tiếp-kiến―dù
Thiệu là một Tổng-Thống, một con chiên ―vì lập-trường
của Vatican về vấn-đề Chiến-Tranh Việt-Nam là chỉ bênh-vực Hà-Nội, chỉ muốn
chấm dứt chiến-tranh dù Miền Nam có rơi vào chế-độ Cộng-Sản sắt máu. Đã
thế, Giáo-Hoàng còn chỉ-trích Thiệu, lại còn tiếp-kiến cặp Nguyễn Thị Bình và Xuân Thủy, trưởng phái-đoàn
Cộng-Sản tại Hòa-Hội Paris.
Từ năm 1968, Giáo Hoàng Phaolồ Đệ-Lục đã lập ra “Ngày Quốc-Tế Hòa-Bình”, cổ-vũ
Hòa-Bình bằng thương-thuyết tại Việt-Nam. Vatican xác-định lập-trường là chấm
dứt chiến-tranh, quan-hệ tốt với Miền Bắc và Chính-Phủ Lâm-Thời Miền Nam. Chính Giáo-Hoàng trao-đổi công-điện
trực-tiếp với Hồ Chí Minh.
Vào tháng 6-1971, đang lúc tên gián-điệp cộng-sản Vũ Ngọc Nhạ (kẻ được Linh-Mục Hoàng
Quỳnh che-chở) bị Việt-Nam Cộng-Hòa cầm tù ở Côn-Đảo, mà Tòa Thánh và
Giáo-Hoàng Phaolô VI lại tặng Bằng Khen và Huy Chương “Vì Hòa Bình” cho y.
Tức là Giáo-Hoàng
Paul VI đã biến Vatican và nhiều Giáo-Hội địa-phương thành một guồng máy
chính-trị, ngoại-giao, tình-báo khổng-lồ để giúp Hà-Nội tiến chiếm Miền Nam.
Lảnh đạo Đế quốc Công giáo La Mã 15 năm, từ
1963 đến 1978,
Giáo hoàng Phaolồ VI (1897-1978) đã tác động
lên chính sách đối ngoại
của bốn Tổng thống Mỹ (Kennedy, Johnson, Nixon
và Ford) sao cho quyền lợi
của Vatican được bảo đảm, nhiều khi bất chấp những
tác hại trên các quốc gia khác.
Thế mà Tổng-Thống Nguyễn Văn Thiệu cũng vẫn chưa thấy là
Hoa-Kỳ sắp bỏ rơi Việt-Nam, không thay-đổi đường-lối chính-trị, vẫn cứ sử-dụng
giải-pháp quân-sự, và không tin là Hà-Nội có đủ sức tấn-công đại-quy-mô.
Ông sửa-đổi Hiến-Pháp để làm Tổng-Thống thêm một nhiệm-kỳ năm năm nữa, khiến
Đại-Tướng Thủ-Tướng Trần Thiện Khiêm phải ra mặt chống-đối, làm tình-hình chính-trị
trong nước càng rối-ren thêm.
Ðầu tháng 2-1975, “Phong-Trào Chống Tham-Nhũng” phổ-biến tiếp bản “Cáo-Trạng số 2” tố-cáo TT Thiệu nhiều
tội và hô-hào lật đổ bằng vũ-lực, khiến ông phải dùng biện-pháp mạnh, cho bắt
giam nhiều chính-khách, trí-thức, lãnh-tụ đảng-phái, như các Thượng-Nghị-Sĩ
Thái Lăng Nghiêm, Phạm Nam Sách, Nguyễn Văn Chức; các ông Hà Minh Lý, Trần Thúc
Linh, và một số ký-giả trong đó có những nhân-vật nổi tiếng chống-Cộng như Mặc
Thu, Lê Trần, Vũ Bằng, Đinh Từ Thức, Trương Cam Vĩnh, Ngô Đình Vận…
Để đối-phó với “Phong-Trào”, Thiệu vận-dụng nhiều đồng-đạo
ủng-hộ mình.
Có sáu linh-mục, trong đó có cả Linh-Mục Hoàng
Quỳnh, sáu đêm liền, thay phiên nhau lên đài truyền-hình bênh-vực và
ca-ngợi Thiệu; ngoài ra, còn có các Nghị-Quyết, Quyết-Định, Đề-Nghị, có chữ ký
của 70 Dân-Biểu ủng-hộ Thiệu.
Có cả Giám-Mục Lê Văn Ấn, đặc-trách
Tuyên-Úy, Giám-Mục Nguyễn Văn Thuận,
Linh-Mục Cao Văn Luận, đứng ra cãi
giùm cho Thiệu.
Tình-hình gay-cấn đó, do “Phong Trào Chống Tham-Nhũng” gây nên, đã tạo ra thế
“nội công, ngoại kích”, quả là đã phá rối hậu-phương, làm lung-lạc tinh-thần
binh-sĩ nơi tiền-tuyến, làm lợi cho Cộng-Sản, trong khi đó thì Bắc-Việt xua
quân tấn-công Miền Nam…
Kết-Luận
Có người cho rằng “Phật-Tử Tranh-Đấu”, tức [số người hậu-thuẫn cho] Phái
Ấn-Quang của Phật-Giáo Việt-Nam (về sau là Giáo-Hội Phật-Giáo Việt-Nam
Thống-Nhất) đã liên-tục chống-đối Chính-Quyền Việt-Nam Cộng-Hòa, khiến cho Nền
Đệ-Nhất Cộng-Hòa sụp-đổ, rồi Nền Đệ-Nhị Cộng-Hòa cũng suy-tàn theo.
Nhưng, theo như tôi đã lược-dẫn trên, thì:
“Phật-Tử Tranh-Đấu” đã chấm dứt
hoạt-động từ ngày thành-lập Nền Đệ-Nhị Cộng-Hòa, cuối năm 1967. Mãi đến lâu
sau Hiệp-Định Paris 1973 mới tái-xuất-hiện trong “Lực-Lượng Hòa-Hợp Hòa-Giải
Dân-Tộc”.
Cả phía “Lực-Lượng Hòa-Hợp Hòa-Giải
Dân-Tộc” bên giới Phật-Tử, lẫn phía “Phong-Trào
Chống Tham-Nhũng” bên giới Giáo-Dân, đều tranh-đấu chống Thiệu để có được
một Tổng-Thống trong-sạch.
Tuy nhiên, các điểm khác nhau là:
● “Lực-Lượng Hòa-Hợp Hòa-Giải Dân-Tộc” chỉ họp tại Chùa, sinh-hoạt ôn-hòa,
bất-bạo-động, không đòi lật Thiệu, chỉ chờ đến ngày bầu-cử Tổng-Thống vào cuối
năm 1975 sẽ sử-dụng lá phiếu hợp-Hiến và hợp-Pháp của mình. Trong khi đó thì
“Phong-Trào Chống Tham Nhũng” rầm-rộ xuống đường, biểu-tình tuần-hành, đòi
Thiệu từ-chức, và hô-hào dùng bạo-lực để lật đổ Thiệu tức-thời.
● “Phật-Tử Tranh-Đấu” mít-tinh ôn-hòa, không xáo-trộn trật-tự công-cộng,
tiến-hành trong vòng luật-pháp cho phép, và theo truyền-thống sinh-hoạt dân-chủ
tại các nước Tự-Do. Trong khi đó thì
“Giáo Dân Tranh Đấu” triệt-hạ uy-tín và hiệu-năng quyền-lực của một
Tổng-Tư-Lệnh Quân-Đội đang đứng trước họng súng của quân thù, lại còn đòi dùng
vũ-lực để lật đổ một Tổng-Thống dân-cử, tức là xóa bỏ Hiến-Pháp, tức là trở
thành nội-phản/nội-thù của Quốc/Dân.
● Phía “Giáo-Dân Tranh Đấu” thì đòi trừng-phạt một cá-nhân tham-nhũng―mà
tổng-số vật-sản bị lạm-chiếm so ra không đáng bao lăm đối với tài-nguyên
quốc-gia, lại vẫn còn đó, rồi sẽ lấy lại, chưa mất đi đâu―trong lúc Phía
“Phật-Tử Tranh Đấu” thì đặt “nợ nước trước thù nhà”, mọi người chung sức đồng
lòng chống giặc trước đã, trước hết là để trì níu lại cái Cơ-Đồ Dân-Chủ đang
trong cơ nguy bị vĩnh-viễn cướp mất đi.
Phần tôi, tôi đối-lập với chính-sách quân-phiệt của Tổng-Thống Nguyễn Văn
Thiệu―cũng như với chế-độ độc-tôn của Tổng-Thống Ngô Đình Diệm trước kia―nhưng
tôi đã chọn trước tiên là làm tròn bổn-phận của một công-dân đối với Chính-Thể
Cộng-Hòa.
Riêng về “Phong Trào Chống Tham Nhũng”, có ít nhất là ba vấn-đề quan-trọng hàng
đầu mà phía “Giáo Dân Tranh Đấu” (“trả thù cho [cố Tổng-Thống Ngô Đình Diệm]”,
theo lời trối-trăn của Diệm “Tôi chết thì
trả thù cho tôi”) cố ý không đề-cập đến:
I. Việc hạ bệ Tổng-Thống Nguyễn Văn
Thiệu:
a/ Họ muốn đảo-chánh quân-sự, nhưng không thuyết-phục được
ai, nên không thành-công.
b/ Họ quyết hạ Thiệu, nhưng không tìm ra được một “ứng-viên” nào của “phe ta”
xứng-đáng để lên thay Thiệu. Chỉ nhắm trước mắt mà không nhìn thấy xa
hơn―tình-hình hậu-Thiệu―thì tức chỉ là “không lấy thì khuấy cho hôi” mà thôi.
II. Lý-do hạ Thiệu:
1) Thiệu là thủ-phạm, đã tấn-công Dinh Gia-Long, đưa đến cái chết của Diệm.
2) Nhưng, cái tội lớn nhất của Thiệu, là đã có Đảng Dân-Chủ,
lan trong quần-chúng, len trong chính-quyền, luồn trong quân-ngũ, mà lại chỉ lo
gia-tăng phe-cánh cho cá-nhân mình, chứ không chịu dùng nó [như một Đảng
Cần-Lao tái-sinh] để “mở-mang nước Chúa”.
III. Mục-đích đích-thực của “Phong-Trào
Chống Tham-Nhũng”:
Danh-xưng thực-thụ của Nhóm này (cái đuôi mà họ cố giấu) là: “Phong trào nhân dân chống tham nhũng để cứu
nước và kiến tạo hòa bình”. Toàn
câu đã được ghi rõ phía dưới “Cáo Trạng số 1”, làm tại Huế, ngày 8 tháng 9 năm
1974.
Trong các hoạt-động sôi-động trước mọi người, họ cố tình
nhấn mạnh mấy chữ “chống tham nhũng” mà lơ đi cái đuôi là mấy chữ “kiến tạo hòa
bình”.
Thử hỏi: trong tình-thế dầu sôi lửa bỏng lúc bấy giờ, có ai còn có cách
nào “kiến-tạo hòa-bình” khác hơn là tuân giữ “đức vâng lời”, tuân lệnh
Giáo-Hoàng PhaoLô VI và ngoại-bang Vatican, bỏ súng, bắt tay với cộng-sản, rước
địch vào nhà?
* *
*
Sau Hiệp-Định Paris năm 1971, chậm nhất là kể từ sau “Mùa Hè
Đỏ Lửa” năm 1972, các vụ “Bàn Thờ Phật Xuống Đường” cũng như “Tổng-Công-Kích
Tết Mậu-Thân” đã là chuyện cũ, đã lùi vào dĩ-vãng rồi.
Các ván cờ đó đã được các bên tham-dự xóa hết rồi.
Hệ-quả có chăng là sau vụ “Bàn Thờ Phật Xuống Đường” năm 1966 thì Nhóm “Phật-Tử
Tranh-Đấu” đã không còn “tranh-đấu” nữa; và sau vụ VC “Tổng-Công-Kích Tết
Mậu-Thân” năm 1968 và Mùa Hè Đỏ Lửa năm 1972 thì tinh-thần chống-Cộng của Dân
và Quân Miền Nam đã lên cao hơn.
Cho nên Biến-Động Miền Trung là chuyện đã xưa rồi.
Mới nhất, gian-xảo nhất, và nham-hiểm nhất, là chuyện Biến-Loạn Miền Trung.
Trên bàn cờ thời-sự Miền Nam Việt-Nam, vào giai-đoạn cuối-cùng của lịch-sử
Việt-Nam Cộng-Hòa, chỉ còn có một ván cờ mới―chung-kết và chung-quyết:
Đối-thủ chính bên phía đối-lập với
Chính-Quyền là các Nhóm “Giáo-Dân Tranh Đấu”, do đại-khối hơn 300 linh-mục
trong “Phong Trào Chống Tham Nhũng” và cả đám linh-mục nằm vùng và thân-Cộng,
“lãnh-đạo tinh-thần” Kitô-Giáo Việt-Nam, đứng ra thao-túng tình-hình. Ở trên đầu và sau lưng họ là Tòa Thánh La-Mã
với đích-thân Giáo-Hoàng Phaolô VI cùng với hàng chục quốc-gia chư-hầu của
Vương-Quốc Vatican.
(Nhưng quốc-gia Việt-Nam của Kitô-Giáo đâu được làm một
chư-hầu. Chư-hầu là một nước nhỏ/yếu, tùng-phục một nước lớn/mạnh, để được
tồn-tại, nghĩa là vẫn còn là một nước. Đằng này, chỉ một Dòng Chúa Cứu-Thế là
một giáo-đoàn/chi-phái của Giáo-Hội Kitô, mà đã tự xem là một Quốc-Gia, và
thu-tóm cả nước Việt-Nam làm thành một Tỉnh nội-thuộc của Nước họ rồi:
Nguồn:<http://www.cuuthe.com/dong/dongmain.html> Tỉnh
Dòng Chúa Cứu Thế Việt Nam.)
Thế đánh cạn-tàu ráo-máng của nội-thù đã
chiếu bí Tổng-Thống Nguyễn Văn Thiệu, trực-tiếp mở đường cho ngoại-địch hạ gục
đối-thủ trong nước cờ kết-thúc giữa Bắc-Việt Xâm-Lược với Việt-Nam Cộng-Hòa.
Vận Nước suy-đồi, mỗi người dù nhiều dù ít đều có một phần trách-nhiệm
(thất-phu hữu-trách).
Chỉ có những kẻ đầy thiên-kiến, mù lương-tri, có ác-ý, và
không tôn-trọng Sự Thật, mới đổ hết lỗi cho một riêng ai.
Ngày nay, mang thân-phận thất-quốc, lưu-vong, chỉ trừ những
kẻ đã ở hẳn bên phía cộng-sản Việt-Nam rồi, còn thì không có “Phật-Tử Tranh-Đấu”
nào mà không luyến-tiếc Việt-Nam Cộng-Hòa.
Trong lúc đó, có một số “Giáo-Dân Tranh-Đấu”, đến tận ngày hôm nay―đã gần 40
năm qua―mà vẫn còn tự-hào, hãnh-diện về những âm-mưu, toan-tính, nỗ-lực, và
hành-động của cái-gọi-là “Phong-Trào Chống Tham Nhũng”, vì mình không những chỉ
chống-phá cá-nhân Tổng-Thống Nguyễn Văn Thiệu mà đã đạp đổ cả cơ-chế
Hiến-Pháp―với Lập-Pháp, Hành-Pháp, Tư-Pháp ở trong Chính-Quyền―và các Khối, các
Nhóm trong Dân-Nhân―với các Chính-Đảng và các Giáo-Hội sống dưới Chính-Thể
Việt-Nam Cộng-Hòa―nói chung là Việt-Nam Cộng-Hòa.
Tóm lại, nếu vì một lý-do nào đó mà phải gán riêng cho đích-danh một số người
nào đó là “thủ-phạm chính” quấy-rối an-ninh trật-tự công-cộng nhất, lũng-đoạn
tình-hình chính-trị quốc-gia nhất, gây cho tinh-thần dân-chúng hoang-mang
nhất, khiến cho ý-chí chống-Cộng của chiến-sĩ giao-động nhất, vào mấy năm
cuối-cùng của Chiến-Tranh Việt-Nam―tức là đâm một nhát dao chí-tử vào Việt-Nam
Cộng-Hòa khi đang hấp-hối―thì số người đó rõ-ràng, không thể chối-cãi được, phải
là thành-phần cực-đoan trong Nhóm
“Giáo-Dân Tranh-Đấu”―các linh-mục cộng-sản nằm vùng, tay sai và thân-Cộng, cùng
với Ban Lãnh-Đạo của “Phong-Trào Chống Tham-Nhũng”―dù là một bộ-phận nhỏ―của
giới tín-đồ Kitô-Giáo Miền Nam Việt-Nam. (các trang 472-84)
LÊ XUÂN NHUẬN
Đọc để biết lịch sử của dân tộc
Trả lờiXóaĐọc bài này xong, tôi dễ ỉa hơn hẳn
Trả lờiXóa