XIN MÃI MÃI LÀ NGƯỜI VIỆT NAM
Trần
Tiên Long
Thường thì bất cứ vấn đề nào cũng có hai mặt: mặt trái và mặt
phải; mặt nổi và mặt chìm; chiêu bài và thực chất; hoặc điểm và diện.
Bài viết “Chúng Tôi Không Phải Là Việt Kiều” (click đây) của Tiến sĩ Nguyễn Đình Thắng (NĐT) chỉ dựa trên một mặt nổi của
vấn đề nhưng đã bỏ qua mặt chìm. Mặt nổi đó là một khía cạnh pháp lý về quyền
lợi của người có quốc tịch, thường được tô vẽ hoa hòe, nhưng chỉ là chiêu bài,
không phải là thực chất. Nó chỉ là diện, là bề ngoài, không phải là điểm quan
trọng để dựa vào đó mà phán đoán. Tốt hơn, chúng ta cần phải nhìn vấn đề từ cả
hai mặt trước khi quyết định cách hành xử sao cho hợp với lý lẽ.
Bài viết này có mục đích trình bày một mặt khác, mặt thực của
vấn đề. Và vấn đề đặt ra ở đây là việc khẳng định về thân phận, về cái giống
người của chúng ta, những người đã vì hoàn cảnh phải xa lìa đất tổ để tiếp tục
mưu sinh cho cuộc sống. Vậy chúng ta có còn là người Việt-Nam nữa không sau khi
đã gia nhập một quốc tịch khác? Đối với tôi, như cái tựa của bài viết đã khẳng
định rồi, rằng tôi xin mãi mãi được là người VN vì tôi phán đoán dựa trên thực
chất chứ không trên cái nhãn hiệu bề ngoài.
Sau đây, tôi xin lần lượt biện minh qua các tiểu mục sau:
·
Nếu đã là thực chất
thì không dễ gì thay đổi
·
Di hại của việc đồng
hóa chế độ với quốc gia và dân tộc
·
Nếu tôi không còn là
người Việt Nam
·
Kết luận
1.
Nếu
đã là thực chất thì không dễ gì thay đổi
Là người Việt-Nam từ khi mới chào đời, và vì hoàn cảnh chính trị
của đất nước, tôi đã vượt biên ngay giữa tháng 5 năm 1975 và được tị nạn tại
Pháp. Khi rời VN vừa bước vào tuổi 21, tôi không nghĩ rằng lần ra đi này là
đoạn tuyệt với mọi quá khứ. Ở Pháp một năm, tôi qua Mỹ theo diện đoàn tụ gia
đình. Trong những năm cuối cùng của thập niên 70, khi đang còn mài đủng quần
tại University Of New Orleans, LA, anh chị em sinh viên VN chúng tôi thường chỉ
quấn quít bên nhau, ít chịu hội nhập ngay với xã hội mới. Mỗi lần gặp gỡ,
tụ họp, chúng tôi thường ngóng cổ hỏi thăm tin tức về VN. Ở vào thời điểm đó,
bang giao giữa Hoa Kỳ và VN chưa có nên tin tức chỉ đến từ những người sang
sau. Chẳng có ai trong chúng tôi ý thức được rằng sẽ có ngày chúng tôi vĩnh viễn
trở thành công dân Mỹ. Khi ra trường Kỹ sư Cơ khí vào năm 1982, tôi vẫn không
tìm ngay được việc làm thích hợp. Những việc liên quan đến kỹ thuật cao thường
đòi hỏi phải có quốc tịch Hoa Kỳ. Ngày nay, khi đã có quốc tịch và làm việc cho
Bộ Quốc Phòng vài chục năm nay rồi, tôi vẫn nghĩ rằng tôi là người VN.
Thực vậy, nếu tôi là người Mỹ gốc Việt, thì đó chỉ là trên danh
nghĩa, trong giấy tờ; vì thực chất dòng máu VN vẫn luôn luôn luân lưu trong con
người tôi. Làm sao tôi có thể che giấu được thân phận da vàng mũi tẹt đối với
các đồng nghiệp xung quanh tôi? Nhớ những lần đầu tiên gặp họ, sau một vài câu
xã giao với cách phát âm còn nặng giọng VN, ai ai cũng đặt cho tôi cùng một câu
hỏi, “where are you from?”, ngụ ý
rằng họ không xem tôi là người Mỹ như họ. Tôi không phải ngại ngùng, e dè,
nhưng nói ngay với họ rằng tôi là người VN, và dĩ nhiên ai ai cũng hiểu tôi
phải có quốc tịch Hoa Kỳ.
Mỗi ngày tôi đi làm 8 tiếng, bao gồm hội họp, bàn thảo, làm việc
nghiên cứu, viết các bài tường trình đúc kết những kết quả của các cuộc điều
tra, hay viết emails, gọi điện thoại trao đổi về các vấn đề kỹ thuật… hoàn toàn
xử sự như một người Mỹ. Lúc đó, tôi là người Mỹ gốc Việt. Ngược lại, khi về
nhà, tôi chỉ nói tiếng Việt, đọc sách báo Việt, nghe nhạc Việt, ăn các món ăn
VN, giao tiếp với các người bạn VN. Vậy tôi là người VN trong suốt 16 tiếng
đồng hồ còn lại, cộng thêm 24 tiếng mỗi ngày cho cả hai ngày cuối tuần.
Nếu khi sinh ra đời tôi không có quyền tự do chọn lựa hình hài
của người dân nước nào thì tại sao tôi phải từ chối điều mà tôi đã không có
quyền lựa chọn? Có điều gì để phải xấu hổ đến mức độ công khai khước từ một
định mệnh đã an bài? Tờ giấy quốc tịch chỉ là sự chứng nhận cho tôi được hưởng
quyền lợi công dân của một đất nước, nhưng bù lại, tôi cũng phải có những bổn
phận và nghĩa vụ đối với đất nước đó. Vì hoàn cảnh mưu sinh của cuộc sống, tôi
đã chọn Mỹ. Nhưng cái nhãn hiệu bề ngoài hay thẻ quốc tịch trên giấy tờ không
thể thay đổi hình hài mẹ VN đã cưu mang tôi, bao gồm cả phần thể xác lẫn tinh
thần, những thực chất của con người VN. Và cái thực chất đó mới là điều quan
trọng hơn cái nhãn hiệu, giấy tờ.
Nhưng tại sao vẫn có những người muốn chối bỏ cội nguồn, chẳng
hạn như Tiến sĩ NĐT đã lên tiếng “Chúng Tôi Không Phải Là Việt Kiều”,
hoặc ông giám mục Công giáo nọ lại cho rằng“Thật là nhục nhã khi cầm tờ hộ
chiếu VN”, mặc dù ông giám mục vẫn hiện còn là công dân của nước VN? Có lẽ
họ muốn phản kháng để thiên hạ biết rằng họ không phải là công dân của một chế
độ hiện tại? Nhưng lý lẽ đó không vững, bởi vì chúng ta không thể đồng hóa một
chế độ với một quốc gia và dân tộc. Chế độ hay chủ nghĩa chỉ là giai đoạn, luôn
luôn biến đổi, nay còn mai mất; trong khi dân tộc và quốc gia thì mãi mãi
trường tồn. Tôi cũng vẫn luôn luôn là người VN cho dù đất nước VN đang được cai
trị bởi chế độ VNCH hay XHCNVN. Và tôi cũng dư biết rằng đất nước VN tôi là một
quốc gia rất nghèo, có lịch sử 1,000 năm nô lệ giặc Tàu, 100 năm nô lệ giặc
Tây, và còn “20 năm nội chiến từng ngày”.
Có phải chỉ vì nghèo khó mà tôi thực lòng cam tâm chối bỏ thân phận làm người
VN?
Danh từ “Việt kiều” được định nghĩa là người
Việt-Nam cư ngụ ở nước ngoài, cho dù họ có đổi quốc tịch hay không. Người Cộng
sản hay người Quốc gia thì trước tiên họ cũng vẫn là người VN. Chẳng ai
xem “Việt kiều” là người VNCH hay người XHCNVN đang sống ở
nước ngoài cả. Quốc tịch cho chúng ta quyền hạn pháp lý của một công dân, nhưng
không thay đổi hình hài, máu mũ, và cả cái nền văn hóa đã hấp thụ bao năm qua
từ khi mới chào đời, những bản chất đích thực bên trong của một nòi giống dân
tộc, những thứ không dễ gì có thể thay đổi một sớm một chiều.
Chẳng hạn, ở Mỹ, khi ra đường, chúng ta bắt gặp một người có vóc
dáng Tàu hay Ấn Độ, chúng ta vẫn thường gọi họ là người Tàu hay Ấn Độ, chẳng ai
gọi họ là người Mỹ gốc Tàu hay gốc Ấn Độ cả. Nếu có thì cũng chỉ có trên giấy
tờ, không phải trong thực tế của cuộc sống hằng ngày. Và, dĩ nhiên, họ cũng đối
xử với người VN chúng ta như vậy. Chúng ta thấy có nhiều phố Tàu (China Town),
nhưng tuyệt đối chúng ta chưa thấy phố Mỹ gốc Tàu bao giờ cả. Ở bầu thì tròn, ở
ống thì dài. Nếu mai này có phải di cư qua Pháp và vì hoàn cảnh cần phải thay
đổi quốc tịch thì tôi cũng là người Pháp gốc Việt, không phải là người Pháp gốc
Mỹ, cho dù hiện tại tôi đang là công dân Mỹ.
Còn đối với người VN ở quốc nội, dù chúng ta là những người Mỹ
hay người Pháp gốc Việt thì họ cũng cứ gọi chúng ta là Việt kiều, một danh từ đã có từ rất lâu đời, trước rất xa biến cố
30/4/1975, để chỉ tất cả những người VN đang sống ở ngoại quốc, bất kể tình
trạng pháp lý của họ như thế nào. Dù chúng ta đã có quốc tịch mới hay chỉ là
những thường trú nhân, chưa có thẻ quốc tịch, ăn ở nước ngoài hợp pháp hay
không hợp pháp, thì họ cũng vẫn gọi chúng ta là những Việt kiều, chẳng chạy đi
đâu được. Như vậy, dựa vào lỹ lẽ nào để có thể chối bỏ một sự thực đã có từ
ngàn đời như Tiến sĩ NĐT đang làm, rằng “Chúng Tôi Không Phải Là Việt
Kiều”?
Chúng ta hãnh diện mình là người Mỹ gốc Việt, từ chối thân phận
làm người VN, nhưng đã ở Mỹ gần 40 năm rồi mà vẫn còn rất nhiều người trong
chúng ta chưa nói được tiếng Mỹ để hội nhập vào xã hội Hoa Kỳ. Qua vụ bão
Katrina ở New Orleans, LA, tình trạng không nói được tiếng Mỹ này đã được phàn
nàn nhiều bởi các cơ quan chức năng chính quyền khi họ cố gắng giúp đỡ những
nạn nhân người Mỹ gốc Việt.
Tác giả Trần Bình, trong bài “Gửi Các Bạn Hải Ngoại” được ông tuyen do [tonguyenviet@yahoo.com] đưa vào diễn đàn ngày22/3/2014, viết:
Có một sự việc đáng buồn nhưng ít ai biết từ mấy chục năm qua, đến
gần đây mới lộ ra. Ở New Orleans, US, nếu không có cơn bão Katrina vừa rồi, thì
đâu có ai biết là rất nhiều người Việt định cư ở New Orleans không biết nói
tiếng Anh và không thể tiếp xúc với Cảnh Sát khi có việc cần. (đây là những
người qua đây từ 1975 đã có cơ nghiệp vững vàng, chứ không phải những người mới
qua).
Ở những nơi tập trung đông người Việt như California, Georgia,
Texas, và vùng Washington DC, mọi giao dịch đều dùng tiếng Việt, kết quả là
trình độ ngoại ngữ của người Việt rất kém.” (Hết trích).
Như vậy, chúng ta vẫn là người VN trong thực chất, không thể
chối cãi được, cho dù chúng ta có nhập tịch để là công dân của một quốc gia
khác trong giấy tờ.
2.
Di
hại của việc đồng hóa chế độ với quốc gia và dân tộc
Sự đồng hóa một chế độ với một quốc gia và dân tộc một cách lầm
lẫn như đã bàn ở trên sẽ đưa đến những cách thức hành xử nguy hại cho quyền lợi
của quốc gia và dân tộc, vô tình biến chúng ta thành những tội đồ của dân tộc
VN. Nhiều khi chúng ta nhân danh việc chống Cộng, tưởng là chúng ta đang chống
một chế độ, nhưng thực ra là chúng ta đang chống lại quyền lợi của quốc gia và
dân tộc VN chúng ta.
Khi toàn dân cả nước đang cố gắng làm sao cho dân giầu, nước
mạnh, bằng cách hội nhập vào cộng đồng quốc tế, và khi toàn thể các quốc gia
trên thế giới muốn bang giao, làm bạn, hợp tác, làm ăn với VN, kể cả tòa
“thánh” Vatican, thì người VN ở hải ngoại cứ lo loay hoay chống họ. Chúng ta
chống Mỹ bang giao với VN, chống VN gia nhập Liên Hiệp Quốc, chống VN được là
thành viên của Ủy Ban Nhân Quyền của Liên Hiệp Quốc, chống thế giới làm ăn với
VN, chống VN xuất cảng hàng hóa ra ngoại quốc, chống du lịch về VN, chống cả
việc làm từ thiện, giúp đỡ dân nghèo trong các vụ thiên tai, bão lụt ở VN…
nhưng kết quả của những thứ chống đó chỉ làm hại đến quyền lợi của quốc gia và
dân tộc, làm chính đất nước và anh em bà con ruột thịt của chúng ta muôn đời
nghèo đói vì bị cô lập, ở vào thế bế quan tỏa cảng như Bắc Hàn, chứ không thể
đoạt được quyền lực đang trong tay của một chế độ. Những kẻ đang làm nguy hại
đến quyền lợi của quốc gia và dân tộc đều là những tội đồ hay kẻ thù của quốc
gia và dân tộc, cho dù họ núp dưới chiêu bài Quốc gia hay Cộng sản.
Mà thực ra, chúng ta chống Cộng chỉ là trên danh nghĩa, chúng ta
chống nhau mới là bản chất đích thực của vấn đề. Cứ mỗi khi muốn chống ai trong
việc làm ăn hay tranh dành chức vụ thì việc đầu tiên chúng ta đội cho họ cái
nón cối Cộng sản, rồi sau đó tha hồ thoải mái tự do tố Cộng mà chẳng cần phải
chứng minh họ là Cộng sản. Bao nhiêu tội lỗi của Cộng sản từ trước tới nay được
vô tư đổ lên đầu các đối thủ, nhưng chẳng bao giờ chúng ta tự hỏi rằng họ đã
làm gì, ngoài sự khác biệt một ý kiến, một quan điểm, một nhận thức về cùng một
vấn đề. Có thể khẳng định mà không sợ nói quá đáng rằng có hơn 95% những ý kiến
được phát tán hằng ngày trong các diễn đàn công cộng của người Việt hải ngoại
là để chửi bới và mạt sát giữa những người Việt Quốc gia với nhau. Bây giờ thì
lại có bài của tác giả Trịnh Viết Bắc với nội dung tố ngược ở ngay tựa đề “Chính
“Việt Kiều” tỵ nạn cộng sản đã giúp đỡ cộng sản!”.
Cái nghị quyết 36 của Cộng sản tự nhiên trở thành một lý do để
chúng ta biện minh cho việc chống nhau, cứ làm như Cộng sản có thuộc tính toàn
năng của Thượng đế, luôn luôn núp sau những đối thủ đang chống phá chúng ta.
Ngay cả những tội lỗi, bê bối, đã có từ ngàn xưa, của các ông bà chuyên nghề
buôn thần bán thánh cũng được đổ lên đầu người Cộng sản. (Nguồn: Nghề Đi Tu - Cộng Sản
Không Phải Là Thần Thánh:http://sachhiem.net/index.php?content=showrecipe&id=5915 ). Tại sao chúng ta không thể can đảm mở
rộng mắt ra để nhìn thấy Lỗi Tại Chúng Ta Mọi
Đàng? Vì chúng ta cứ lo
chụp mũ, đổ tội cho Cộng sản để chạy quanh như vậy nên xung quanh chúng ta chỉ
còn toàn là Cộng sản. Nếu Cộng sản có thuộc tính toàn năng thần thánh như chúng
ta đang xưng tụng thì chúng ta lấy gì để thắng họ?
3.
Nếu
tôi không còn là người Việt Nam
Có một hệ lụy nghiêm trọng khác khi chúng ta từ chối mình là
người VN, đó là chúng ta cũng đương nhiên từ chối thân phận người Việt Quốc gia
của chúng ta, nếu còn muốn gọi là người Việt Quốc gia. Bởi vì “Chúng
Tôi Không Là Việt Kiều”, vậy còn lý do gì để tự nhận mình là người VN tranh
đấu cho quyền lợi của dân tộc và quốc gia VN? Và có mấy người VN tị nạn chính
trị từ năm 1975 tới mãi giờ này vẫn chưa vào quốc tịch để còn được gọi là người
VN? Nhưng khổ một điều, chỉ có chúng ta, những người VN còn nặng lòng với
quê hương và dân tộc, mới thực sự thương yêu đất nước và dân tộc VN.
Nếu chúng ta cứ tưởng mình thực sự là những người Mỹ thì tại sao
chúng ta không bắt chước hành xử như người Mỹ, họ đang xem dân tộc VN như những
người bạn, mặc dù trong quá khứ đã có một thời là những kẻ thù của nhau?
Khi Ngoại trưởng John Kerry đến thăm VN vào tháng 12 năm 2013,
ông đã tuyên bố rằng Hoa Kỳ sẽ tăng thêm viện trợ 32,5 triệu đô để giúp các
quốc gia Đông Nam Á bảo vệ chủ quyền biển, và để bảo đảm quyền tự do hàng hải.
Riêng Việt Nam sẽ nhận thêm 18 triệu, kể cả 5 tàu tuần tiểu cao tốc cho Hải
Quan Việt Nam. Với sự giúp đỡ từ phía Hàng Hải Hoa Kỳ này, số tiền viện trợ sẽ
lên đến hơn 156 triệu trong vòng hai năm cho vùng Đông Nam Á. (Nguồn: Kerry announces new US
maritime security aid to Vietnam amid China tensions, pushes reforms)
Như vậy, nếu tôi là người Mỹ làm việc cho bộ Quốc Phòng thì
đương nhiên tôi phải trung thành với chính sách ngoại giao của quốc gia đang
cưu mang tôi và gia đình
tôi. Và chính sách hiện nay của Hoa Kỳ là hợp tác song phương ở nhiều lãnh vực,
bao gồm kinh tế, chính trị, quân sự, xã hội, văn hóa, giáo dục, tôn giáo… cho
sự lợi ích của cả hai bên.
Tiến sĩ NĐT khẳng định rằng “Chúng tôi không là Việt
kiều. Chúng tôi là người Mỹ gốc Việt,…” Rồi ông giải thích thêm: “Cái
gốc Việt ấy cho phép chúng tôi lên tiếng về các vi phạm nhân quyền và một số
vấn đế khác nữa ở Việt Nam.” Nhưng thưa ông Tiến sĩ, bất cứ ai ở Mỹ, chẳng
cần phải có cái gốc gác VN như ông đang đòi hỏi, cũng đều có quyền “lên
tiếng về các vi phạm nhân quyền và một số vấn đế khác nữa ở Việt Nam”.
Chẳng có ai ở một đất nước có tự do ngôn luận như ở Mỹ có thể cấm đoán và bịt
miệng ông Tiến sĩ. Vậy chúng ta không nên phàn nàn hay xử sự dựa trên một điều
gì không bao giờ có thực. Một điều không thực thì chẳng có thể là lý do để ông
dùng biện minh có tính thuyết phục điều ông vừa khẳng định.
4.
Kết
luận
Thế giới càng ngày càng bé nhỏ, nhất là ở thời điểm có thông tin
điện tử và trao đổi toàn cầu. Nếu không thể loại trừ nhau thì chỉ còn có mỗi
một cách duy nhất là sống chung hòa bình với nhau. Không phải chỉ có chiến
tranh mới có thể làm thay đổi lịch sử. Lịch sử chứng minh cho chúng ta thấy
rằng đã có biết bao cuộc chiến tranh rồi, nhưng sau mỗi một cuộc chiến, chúng
ta lại tiếp tục chung sống với nhau. Ngày nay, chúng ta đang sống chung với
những kẻ đã gây ít nhất 7 cuộc thánh chiến, những kẻ đã xưng thú 7 núi tội ác
đối với đồng loại; chúng ta cũng đang làm bạn với những người Đức quốc một thời
hủy diệt toàn dân Do thái; chúng ta cũng đang làm bạn với các quốc gia Cộng sản
có một thời gia nhập Liên Bang Xô Viết gây biết bao tội ác cho nhân loại; và
chúng ta cũng đang làm bạn với các quốc gia thực dân Pháp và Nhật Bản một thời
đã xâm chiếm đất nước của chúng ta. Lấy oán trả oán, oan oan tương báo cứ chồng
chất, chẳng bao giờ chấm dứt.
Đối với tôi, có một cuộc chiến quan trọng và trường kỳ kể từ khi
có con người, đó là một cuộc chiến giữa
thiện và ác; giữa những điều sai lầm, mê tín dị đoan và các chân lý; giữa tinh
thần cực đoan cuồng tín giáo điều và lòng bao dung chấp nhận những quan điểm
đối nghịch; giữa độc tài và tự do; giữa tham nhũng, bất công và công lý,
v/v… mà vấn đề chủ nghĩa hay chế độ chỉ là một trong những biểu hiệu của cuộc
chiến. Đó là một cuộc chiến mà tôi nghĩ bất cứ người trí thức nào cũng không
thể từ chối dự phần. Chẳng cần phải khẳng định cương vị của một người dân nước
nào thì tôi cũng có thể tham gia trận chiến trong khả năng và hoàn cảnh giới
hạn của cá nhân tôi.
Nhưng có một điều tôi biết chắc chắn rằng chẳng bao giờ tôi muốn
là một “chiến sĩ” chỉ biết chống Cộng bằng cách trùm mền hô xung phong ở thời
điểm mà chủ nghĩa Cộng sản chỉ còn là một xác chết thuộc về lịch sử. Một thái
độ cực đoan tương tự như kiểu “it’s my
way or the highway” không phải là thái độ thích hợp mà tôi cần phải theo
đuổi.
Năm xưa, tướng quân Trần Bình Trọng khẳng định rằng, “thà
làm quỷ nước Nam còn hơn làm vương đất Bắc”. Quan niệm này chỉ trình bày
được cái mặt lý tưởng cực đoan nhưng bỏ qua cái mặt thực tế và thực dụng của
vấn đề. Ngày nay, tôi thà làm vương đất Bắc, bởi vì ở thời điểm chính trị, kính
tế hội nhập toàn cầu này, với quyền thế của một ông vua, tôi có thể giúp đỡ
quốc gia và dân tộc VN tôi dễ dàng hơn là từ vị thế của một thằng quỷ, cho dù
là thằng quỷ của nước Nam. Do vậy, tôi sẽ sẳn sàng nhập một quốc tịch mới để có
cơ hội phục vụ hiệu quả hơn, trong sự giới hạn của khả năng và hoàn cảnh, cho
dân tộc và quốc gia VN nói riêng, và cho cộng đồng nhân loại nói chung.
Dù sao chăng nữa, hình hài do mẹ VN cưu mang và dòng máu tiên
rồng trong con người tôi không thể thay đổi, nay còn mai mất. Vậy tôi xin mãi
mãi được là người VN, cho dù không còn trên danh nghĩa giấy tờ. Là người VN
trong thực chất, tôi chẳng phải là người của riêng chế độ nào, nhưng chỉ là con
dân của nước Việt, một quốc gia của tổ tiên dân tộc tôi. Chế độ hay chủ nghĩa
thì chỉ là giai đoạn, còn dân tộc và quốc gia thì mãi mãi trường tồn.
Trần Tiên Long
Havelock, NC
March 23, 2014
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét