ĐI TÌM BÀ NHU, GẶP ÔNG ĐẠI ÚY
Trần Giao Thủy
© 2014 DCVOnline
[Ngày] 2/11/1963, ngày thứ hai của cuộc đảo chánh, ngày phe
đảo chánh giết Tổng thống Ngô Đình Diệm và em ông, ông Ngô Đình Nhu. Khi đó bà
Trần (Thị) Lệ Xuân, và cô Ngô Đình Lệ Thủy – vợ và con của ông Nhu – đang ở
khách sạn Beverly Wilshire ở Los Angeles, California trong chuyến đi ‟giải độc
dư luận các nước Âu Mỹ” từ đầu tháng 9 (1).
VIETNAM
– SEPTEMBER 11: Bà Nhu (C) trả lời báo chí
tại
phi cảng Tân Sơn Nhất trước khi sang châu Âu.
Nguồn
ảnh: Larry Burrows/Time & Life Pictures/Getty Images. The LIFE Picture
Collection
Vào thời điểm đó, người viết chưa có một khái niệm rõ rệt về
chính trường cũng như các nhân vật chính trị miền Nam Việt Nam dù có nghe nói
đến họ. Trong số đó, bà Trần Lệ Xuân (từ đây sẽ là ‟bà Nhu”) là một nhân vật
được đề cập đến khá nhiều, được nhiều người ưa, nhưng cũng lắm kẻ ghét – kể cả
những người chưa khi nào tiếp xúc với bà.
Bà Nhu qua đời ngày 24 tháng Tư, 2011 tại Rome.
■ Hồi ký của bà Nhu
Vì nguồn và tài liệu cũng quan điểm của người trong cuộc vẫn
là những phần tử quan trọng giúp cho người đời sau tìm hiểu lịch sử. Nhưng
những ai muốn tìm hiểu quan điểm của những nhân vật chính trong lịch sử cận đại
ở miền Nam Việt Nam, trong khoảng 1955–1963, đều gặp một trở ngại không nhỏ là
không có hồi ký của những nhân vật chính trong cuộc: ba anh em Ngô-Đình (Tổng
thống Diệm, ông Nhu và ông Cẩn đều đã bị giết chết); bà Nhu sống cuộc sống lưu
vong ẩn dật từ 1963, trừ một cuộc phỏng vấn (52 phút) trong chương trình Vietnam: A Television History năm 1982; Nếu có,
‟Hồi ký của bà Nhu”, sẽ là một tài liệu nói lên quan điểm của một nhận vật có
ảnh hưởng không ít trong giai đoạn lịch sử đó.
Đã hơn một nửa thế kỷ trôi qua, những gì người viết biết về
bà Nhu đều từ những bài viết, những bản tin, bài báo hình ảnh và video. Về
những bài viết bằng tiếng Việt, có lẽ Trương Phú Thứ là tác giả duy nhất có
tiếp xúc, gặp gỡ bà Nhu sau năm 1963. Phần còn lại, là những cuốn sách, bản
tin, bài báo, phỏng vấn của báo giới và tác giả Mỹ.
Trong bài Chuyện trò với Bà Ngô Đình Nhu(2)
viết sau lần gặp bà tại Pháp (2002), tác giả có đề cập đến ‟cuốn sách của bà”
(Nhu) viết bằng tiếng Pháp, tự dịch sang tiếng Anh và tiếng Ý, và sẽ được phát
hành – cả bản tiếng Việt (do người khác phụ trách dịch thuật) – cùng lúc tại
nhiều nơi trên thế giới.
Đến 2007, tác giả Trương Phú Thứ viết rõ hơn trong bài ‟Đây là sự thật”(3):
‟Rất nhiều người mong đợi cuốn sách này. Sự thật là bà Nhu
có viết một cuốn sách khá dầy. Bà viết bằng tiếng Pháp và tự dịch sang tiếng
Anh và Ý. Một vị linh mục cao tuổi người Việt ở Paris được bà Nhu nhờ dịch sang
tiếng Việt nhưng vị linh mục này đã qua đời khi vừa bắt tay vào công tác dịch
thuật. Do vậy đến nay bản tiếng Việt vẫn chưa hoàn tất. Điều cần nói tới là
cuốn sách mà nhiều người đang mong đợi không phải là một cuốn hồi ký.”
Tuy nhiên ở một bài viết khác, Có Hay Không ‟Hồi ký” Của Bà Ngô Đình Nhu?(4), năm
2011, ông Trương Phú Thứ khẳng định, ‟Bà Nhu có viết ‘hồi ký’ không? Câu trả
lời chắc chắn và rõ ràng nhất là KHÔNG, hoàn toàn không có cái gọi là “hồi ký
Bà Nhu” như nhiều lời đồn đại và cũng là trông chờ của nhiều người.”
Sau khi bà Nhu qua đời, ông Trương Phú Thứ, trong cuộc trao
đổi với báo Người Việt(5) năm 2011, cho biết,
“Nếu bà còn sống, chúng tôi dự định sẽ xuất bản sách vào
khoảng tháng 9, tháng 10 năm nay. Nhưng giờ bà đã mất, thời gian ra mắt quyển hồi ký có thể phải trễ hơn.”
Nhưng thay vì sẽ xuất bản bằng 4 thứ tiếng là Anh, Pháp, Ý
và Việt, như đã nói trước đó, ông Trương Phú Thứ cho biết bản tiếng Việt do
chính ông và ông Nguyễn Kim Quý chuyển dịch, và“Hồi ký của bà Nhu sắp tới sẽ
chỉ xuất bản bằng tiếng Việt.”
Cho đến nay, đầu năm 2014, cuốn “Hồi ký của bà Nhu” bằng
tiếng Việt vẫn chưa phát hành.
Tuy nhiên, vào đầu tháng 11, 2013, nhà xuất bản L’Harmattan
đã công bố buổi ra mắt cuốn sách ‟Việt Nam Cộng Hòa và gia đình
Ngô Đình viết theo Hồi ký di cảo của bà Ngô Đình Nhu”tổ chức vào lúc
4 giờ chiều ngày 2 tháng 11, 2013 tại tại Giáo sứ Việt Nam (số 38 đường des
épinettes, Quận 17, Paris). Cuốn sách viết bằng tiếng Pháp do hai con của bà
Nhu, ông Ngô Đình Quỳnh và bà Ngô Đình Lệ Quyên (†2012), cùng Jacqueline
Willemetz hiệu đính.(6)
Trong buổi ra mắt sách, trả lời phóng viên Tường An đài RFA,
ông Ngô Đình Quỳnh nói,
‟Cuốn sách được xuất bản hôm nay có một phần hồi ức của Mẹ
tôi được ghi chép từ năm 1963. Đồng thời chúng tôi có ý muốn soi sáng một phần
của lịch sử hãy còn mù mờ. Một số sai lầm về hình ảnh hai anh em họ Ngô mà cả
bên Tây Phương lẫn đảng Cộng sản Việt Nam đã lưu truyền. Từ quyển sách này
chúng tôi muốn đem lại cái nhìn đúng đắn hơn, đồng thời có phần đóng góp của Mẹ
tôi với nhãn quan có phần huyền bí của Bà. Thế thôi!”(7)
Nguồn:
L’Harmattan, 2013
Như thế, đến nay, quan điểm của hậu duệ dòng họ Ngô-Đình đã
được công bố qua cuốn sách nêu trên. Tuy nhiên, để biết bà Nhu nghĩ và viết
những gì về chính trường Việt Nam thời Đệ nhất Cộng hòa, e rằng vẫn là điều
không dễ tìm thấy trong cuốn La République du Viêt-Nam et
les Ngô-Ðình suivi des mémoires posthumes de Madame Ngô-Ðình Nhu vì,
theo ông Ngô Đình Quỳnh, phần hồi ức của
bà Nhu viết từ 1963 ‟có phần huyền bí”.
Trong buổi ra mắt sách và tưởng niệm cố Tổng thống Ngô Đình
Diệm và ông Ngô Đình Nhu ở Paris, người ta không
thấy có mặt ông Ngô Đình Trác. Dường như ông Trác, từ lâu rồi, đã quyết
định không tham gia vào các vấn đề và/hay với người có liên quan đến quá khứ
của Việt Nam. Như thấy trên bìa cuốn La République du Viêt-Nam et
les Ngô-Ðình Suivi des mémoires posthumes de Madame Ngô-Ðình Nhu chỉ
có tên ông Quỳnh, bà Lệ Quyên và bà Willemetz, một người bạn của gia đình.
Chính trị tự nó đã không dễ hiểu vì những tròng tréo phức
tạp nhưng vẫn có thể truy tìm và hiểu được. Hồi ức ‟có phần huyền bí” ắt không
nằm trong khả năng đọc và hiểu của nhiều người. Và như thế, đa số người
đọc La République du Viêt-Nam et les Ngô-Ðình suivi des mémoires
posthumes de Madame Ngô-Ðình Nhu, có lẽ chỉ có thể biết được quan điểm của ông Quỳnh và bà Lệ-Quyên
về cha và bác của họ trong thời đệ nhất Cộng hòa.
■ 1963
Trở về quá khứ; tháng 8, 1963 bà Nhu, một Phật tử trở thành
Ki-tô hữu khi lập gia đình, viết cho tờ New York Times:
[“I would clap hands at seeing
another monk barbeque show, for one cannot be responsible for the madness of
others.”](8)
‟Tôi
sẽ vỗ tay coi một màn nướng sư khác, vì không ai phải chịu trách nhiệm về sự
điên rồ của những người khác.”
[‟What have the Buddhist leaders
done cooperatively? The only thing they have done… They have barbecued one of
their monks whom they have intoxicated, whom they have abused the confidence.
Even that barbecuing what done not with self–sufficient means because they used
imported gasoline.”]
‟Giới
lãnh đạo Phật giáo đã làm gì để hợp tác? Điều duy nhất họ đã làm… Họ đã nướng
môt ông sư của họ, người mà họ đã đầu độc, người mà họ đã làm mất sự tự tin.
Ngay đến cuộc nướng sư đó cũng không thực hiện với phương tiện tự túc vì họ đã
sử dụng xăng dầu nhập cảng.”
Trong cuộc nói chuyện ngày 11/10/1963 tại Fordham
University, một đại học tư với truyền thống Dòng Tên ở New York, bà Nhu cho
biết không gì hữu hiệu hơn những ngôn từ nhạo báng bà đã dùng như ‟nướng sư”,
‟vỗ tay” để chận đứng những sự kích động phạm pháp [xúi người tự thiêu] và bà
đã thành công trong trách nhiệm, cứu được mạng người bằng những lời nhạo báng
đó.(9)
Bà
Nhu và Lệ Thủy tại Fordham University.
Nguồn:
A Television History, ABCNews
Ngày 1 tháng 11, khi cuộc đảo chánh đang diễn ra ở Sài Gòn,
đoạn video của đài truyền hình ABC(10) ghi lại phần bà Nhu trả lời báo giới ở
khách sạn Beverly Wilshire như sau:
[‟You know… it is not the first
time (laugh) it is not the first time. So I prefer to wait and see.”
‟You believe the events described are true?”
‟You believe the events described are true?”
‟Oh, I believe that all the devils of the hell are against us.
But I believe that we shall triump, we wil triumph finally.”
‟Will you seek political asylum in this country if the coup is
successful?”
‟Never.”
‟Why?”
‟No, because I can not stay in the country of people who have stabbed me, my government in time of war.”
‟Never.”
‟Why?”
‟No, because I can not stay in the country of people who have stabbed me, my government in time of war.”
‟Madame Nhu do you have…”
Ms. Le Thuy spoke inaudibly, reporter was
interrupted by Madame Nhu,
‟No, I do not think that it will succeed. You can be sure that I
am sure that it will never succeed.”
‟You hear from my husband? I know, I know only that he expected this coup.”
‟OK, we will have to break it up now.”]
‟You hear from my husband? I know, I know only that he expected this coup.”
‟OK, we will have to break it up now.”]
–
Các ông biết mà… đây không phải là lần đầu. Vì thế tôi sẽ đợi xem sao.
– Bà tin rằng vụ việc đang xảy ra là thật chứ?
– Bà tin rằng vụ việc đang xảy ra là thật chứ?
–
Ồ, tôi tin rằng tất cả đám quỷ sứ ở địa ngục chống lại chúng tôi; nhưng tôi tin
rằng chúng tôi sẽ toàn thắng, cuối cùng chúng tôi sẽ thắng.
–
Bà sẽ xin tị nạn chính trị tại đây không nếu cuộc đảo chánh thành công?
– Không bao giờ.
– Không bao giờ.
–
Tại sao?
–
Không là vì tôi không thể ở lại một đất nước đã đâm sau lưng tôi, và chính phủ
của tôi. – Bà Nhu, bà có…
Lệ Thủy nói với bà Nhu (nghe không rõ) và bà ngắt lời ký
giả,
–
Không, tôi không tin là cuộc đảo chánh sẽ thành công. Các ông có thể chắc rằng
tôi tin chắc là nó sẽ không thành công. Ông nghe tin của chồng tôi? Tôi biết,
tôi chỉ biết rằng ông ấy chờ đợi cuộc đảo chánh này…
Ngày 3 tháng 11, 1963, cũng tại khách sạn Beverly Wilshire,
bà Nhu họp báo và đọc một tuyên bố viết sẵn. Bà nói với báo chí rằng người Mỹ
phải chịu trách nhiệm về cuộc đảo chính,‟Những ai có Mỹ là đồng minh
không cần có kẻ thù”; bà phủ nhận tin chồng bà và Tổng thống Ngô
Đình Diệm đã tự sát vì đó không phải là lựa chọn của Ki-tô hữu.(11)
Ngày 17/11/1963 bà Nhu và Ngô Đình Lệ Thủy rời Los Angeles
đi Rome để gặp lại Ngô Đình Trác, Ngô Đình Quỳnh, và Ngô Đình Lệ Quyên, bắt đầu
cuộc sống lưu vong.(12)
Từ ngày đó đến khi qua đời bà Nhu chỉ hai lần lên tiếng với
báo giới và công chúng Hoa Kỳ. Lần thứ nhất là cuộc phỏng vấn (52 phút) trong
chương trình Vietnam: A Television History năm
1982.
Lần thứ hai, vào năm 1986 sau khi ông bà Trần Văn Chương bị
con trai, Trần Văn Khiêm – em bà Nhu, giết chết ở ngoại ô Washington, D.C.
Trong vụ giết người này, bà Nhu đồng ý với ông Khiêm, tin rằng có một thế lực
(do con rể và bà [Ngô Đình] Lệ Chi Oggeri chủ mưu) muốn bịt miệng ông Khiêm. Bà
Nhu tin rằng cha mẹ của bà chết vì cái chết tự nhiên, ‟Đây là chuyện gia đình” là tuyên bố sau cùng của
bà Nhu với báo chí.(13)
Trong cuộc phỏng vấn (14) năm 1982 bà Nhu lập luận rằng
chính quyền Diệm là chính phủ hợp pháp duy nhất ở Nam Việt Nam, do đó, Hoa Kỳ
phải trả giá mà họ đã phản bội, đã ‟chặt đầu”, chính phủ Ngô Đình Diệm. Bà Nhu
bàn về cuộc khủng hoảng Phật giáo năm 1963 do cộng sản giật dây và kết quả của
Hiệp định Paris. Bà nói về Tổng thống Diệm và ông Ngô Đình Nhu cũng như hỗn
danh ‟Dragon Lady” và vai trò của bà trong chính phủ Ngô Đình Diệm.
‟Vai
trò của tôi, thật quá khó để xác định. Có thể nói, tôi như một con mèo con bị
Chúa nắm cổ ném vào một đấu trường với những con sư tử; nhưng tôi tin rằng vì
tôi đã được sinh ra dưới sao Sư tử [Leo, 22 tháng 8 –TGT], và tôi tin rằng tôi
có thể sống chung với chúng….”
Về việc bà đã vui sướng khi các tu sĩ tự thiêu, bà Nhu nói,
‟Với
những người điên vì sự vinh quang, vinh quang sai lạc, họ chấp nhận bị đánh
thuốc mê và để bị đốt cháy đến chết vì những quyền mà chưa bao giờ bị bất cứ ai
xâm phạm và [tôi] phải làm gì để ngăn chặn họ chấp nhận bị sát hại vì các cuộc
biểu tình. Việc duy nhất tôi có thể làm lúc đó là nhạo báng họ… vì luôn luôn có
những người điên vì sự vinh quang sai lạc… Tôi phải làm ngược lại.”
Về cái chết của Tổng thống Diệm và ông Ngô Đình Nhu:
‟Tôi
không muốn lên án ai cả… Trách nhiệm thuộc về chính phủ Kennedy… Cuộc ‟chặt
đầu” Việt Nam không thể xảy ra nếu không có phép của Tổng thống [Mỹ]. Dường
như, trách nhiệm hoàn toàn thuộc về Tổng thống Kennedy, nhưng thực tế – Tôi
không biết. Sự thật – Tôi không biết. Tôi muốn biết.”
Cuối cùng, bà Nhu kể lại nỗ lực của ông Ngô Đình Nhu trong
việc tiếp xúc với Bắc Việt,
‟Vì
cộng sản không làm gì được; thay vì leo thang chiến tranh họ đã gởi người đến
nói chuyện với chồng tôi; rồi họ lật lọng nói là chồng tôi đi nói chuyện với
họ. Đó là nói láo. Không đúng chút nào. Họ là người đi bước đầu.”(14a)
Và sự kiêu ngạo của Hoa Kỳ trong việc can thiệp vào nội bộ
Việt Nam đã đưa đến kết quả ngày 1/11/1963.
Trong khoảng từ 1963 đến nay cũng có nhiều bài và hai cuốn
sách tiếng Việt viết về bà Nhu; một là cuốn tiểu thuyết ‟Đệ nhất phu nhân” của Hoàng Trọng Miên đăng báo
(1965, 1988) dưới hình thức truyện dài; hai là Trần Lệ
Xuân. Giấc mộng chính trường của Phan Thứ Lang, NXB Công An
Nhân Dân (1998, 2005). Đến đây chấm dứt phần nói về hai cuốn sách tiếng Việt
viết về bà Nhu.
■ Lời khen tiếng chê
Như đã biết, bà Nhu là một nhân vật gây nhiều tranh cãi,
được nhiều người ưa, nhưng cũng lắm kẻ ghét – kể cả những người chưa khi nào
tiếp xúc với bà. Sau đây là vài nhận định khen/chê.
[‟According to the New York Times
of August 22, she has taken the lead in legislating morality by outlawing
adultery, polygamy and concubinage, but she has not been very kind to her own
parents. According to the Times, she has described her mother as ‟a fanatic”
and her father as a coward.”(15)]
‟Theo tờ Nữu Ước Thời báo hôm 22 tháng Tám, bà Nhu đã mở
đường làm luật về đạo đức, đặt ra ngoài vòng luật pháp việc ngoại tình, tục đa
thê, nhưng bà ấy cũng không tử tế gì lắm đối với chính cha mẹ mình. Theo tờ
Thời báo thì bà Nhu mô tả mẹ mình là ‟một kẻ cuồng tín” và gọi cha của bà là
‟một kẻ hèn nhát”.
[Linh
mục John B. Sherrin, C.S.P., Christian
Strong Woman? Catholic Northwest Progress, September 6, 1963, trang
4]
[“That goddamn bitch. She’s
responsible for the death of that kind man. You know, it’s so totally
unnecessary to have that kind man die because that bitch stuck her nose in and
boiled up the whole situation down there.”(15)]
‟Con khốn chết tiệt đó. Nó phải chịu trách nhiệm cho cái
chết của con người hiền lành đó. Anh biết đấy, hoàn toàn không cần thiết để
người hiền lành đó phải chết vì cái con chết tiệt ấy lúc nào cũng dí mũi vào
làm toàn bộ tình hình ở đó sôi bỏng.”
Sau
cuộc đảo chánh khiến Tổng thống Diệm chết, Paul B. Fay Jr., bạn thân của John
F. Kennedy thuật lại tâm trạng của TT Mỹ lúc đó. [Paul B. Fay, Jr., Oral History Interview – JFK #3, 11/11/1970, trang
199–200]
[‟She was the beautiful but
diabolic sex dictatress.”]
“Bà
ấy đẹp tuyệt vời nhưng là người độc tài, đầy duc tính ma quỷ.”
David
Halberstam.
[‟The most dangerous enemy a man
can have.”]
“Kẻ
thù nguy hiểm nhất mà đàn ông có thể có.”
Malcolm
Browne.
“Có
thế nói là hơn bất cứ ai, bà Nhu phải góp phần chịu trách nhiệm to lớn về sự
sụp đổ của Đệ Nhất Cộng Hòa, và thể chế ‘gia đình trị’ mà Hoa Kỳ với tư cách là
một quốc gia dân chủ, luôn luôn tỏ ra chống đối.”
[Nguyễn
Đình Tuyến, “Những Biến Cố Lớn Trong 30 Năm Chiến Tranh
tại Việt Nam (1945–1975)”, Đại Học Đông Nam, Houston, 1995]
“Tuy
tôi là bà con với bà, nhưng không bao giờ tôi nói ra, bà con với bà đối với tôi
là một cái nhục…”
[Hanh
H. Nguyen, Brushing the World Famous: The Story of my
life, iUniverse, Inc. (2005)] Tác giả là cựu Tổng Giám Đốc Ngân Hàng
Quốc Gia Việt Nam và Cố Vấn Kinh Tế Tài Chánh cho Tổng Thống Ngô Đình Diệm
(Nguồn: Lê Xuân Nhuận, Ông bà Ngô Đình Nhu dưới mắt người đời)
‟Vì
chính tôi cũng chẳng thể nào quên được câu nói phạm thượng và xấc xược của bà
khi Hoà thượng Quảng Đức tự thiêu. Nhưng đã trót quý mến ai rồi thì khó mà nghĩ
khác được… Bà thì vừa xinh, vừa trẻ đẹp, giữ gìn gia phong nề nếp… Đấy là cử
chỉ của những gia đình có lễ giáo nghiêm ngặt. Tôi không nói thêm cho bà cũng
không nói bớt cho. Nghe sao thì nói lại… Cung cách ấy, cử chỉ như thế, giáo dục
nghiêm ngặt, lễ giáo như thế… Làm sao tôi có thể nghĩ xấu cho người phụ nữ này
được?”
[Nguyễn
Văn Lục, Nhớ về ông bà Ngô Đình Nhu, DCVOnline,
11&12/10/2007]
‟Ấy
ai như con chuồn chuồn, Khi vui thì đậu, khi buồn thì bay? Đẹp người mà nết lại
hay. Nhìn ai, ta nhớ những ngày vàng son. Thương ai biển cạn, non mòn, Có về
đâu nữa Sài Gòn ngàn năm!”
[Hoàng
Hải Thủy, Có về đâu nữa Sài Gòn ngàn năm, Jan
15, 2009]
‟Bà
là một phụ nữ khôn ngoan, một mẫu người tính tình cương trực, lịch lãm, dám nói
dám làm, rất nhạy bén với thời cuộc… Tôi rất ngưỡng mộ bà Nhu dùng hai chữ
“Nướng Sư” trong trường hợp Thượng Toạ Thích Quảng Đức… Bà Ngô Đình Nhu quả là
một phụ nữ đoan trang, tiết hạnh, giàu cương nghị.”
[Nguyễn
Kim Lộc, Bà Trần Lệ Xuân – Một thời sóng gió vẻ vang và nửa đời thầm lặng
trong vinh diệu, viết sau khi bà Nhu qua đời]
■ Đi tìm bà Nhu
Đến 2005, một người Mỹ đã tìm gặp, phỏng vấn và chuyện trò
với bà Nhu. Đây cũng là lần đầu tiên từ 1986 bà Nhu tiếp xúc với người phương
Tây. Kết quả của là cuốn Finding the Dragon Lady: The
Mystery of Vietnam’s Madame Nhu của Monique Brinson Demery do
nhà xuất bản PublicAffairs phát hành ngày 24 tháng 9, năm 2013.
Monique Brinson Demery, tác giả cuốn ‟Đi tìm bà Nhu”, đến Việt Nam lần đầu tiên trong chương
trình du học của Hobart và William Smith College; bà cũng đã theo học tại
chương trình Việt ngữ cao cấp mùa hè tại Hà Nội; năm 2003 bà tốt nghiệp Thạc sĩ
Khoa Nghiên cứu Đông Á tại Harvard University. Với mục đích tìm hiểu về một
nhân vật mà các tài liệu nghiên cứu sử học hiện có về cuộc đảo chánh đã hoàn
toàn bỏ quên, Demery đã quyết định đi tìm bà Nhu, người đã ảnh hưởng trực tiếp
lịch sử Việt Nam ở một khúc rẽ ngoặt, dù bà đã không có liên lạc với thế giới
bên ngoài từ gần hai mươi năm sau vụ án Trần Văn Khiêm ở Washington, D.C.
24
rue de Sufferen (Avenue de Suffren?), nhìn hướng chính Bắc là tháp Eiffel cách
400m.
Nguồn:
Google.com/map.
Bắt đầu là cuộc tìm kiếm bà Nhu tại Paris năm 2005 ở phố de
Sufferen rồi kế đó là những cuộc trao đổi bằng điện thoại – gần như hầu hết do
bà Nhu chủ động, và email. Suốt gần năm năm liên lạc, phỏng vấn, nghe chuyện
của bà Nhu, tác giả Demery chưa một lần gặp mặt Đệ nhất phu nhân thời đệ nhất
Cộng hòa dù đã có lần đã đưa cả con nhỏ sang Paris, vì bà Nhu không đến như đã
hẹn.
Finding
the Dragon Lady. Nguồn: PublicAffairs
Cuốn Finding the Dragon Lady: The
Mystery of Vietnam’s Madame Nhu khoảng 280 trang, gồm 16
Chương, với phần chú giải và mục lục. Bìa sách trình bày bằng hoa văn châu Á
trên nền giấy như bị ố nước. Chủ đề là tấm ảnh bà Nhu trong chiếc áo dài cổ
thuyền, bó sát người, tay áo 3/4 (trois–quarts), trên cổ là sợi dây chuyền thánh
giá, tay cầm súng lục, nheo mắt trong thế ngắm bia. Đây là tấm ảnh bà Nhu chụp
trong dịp thanh tra đoàn Thanh nữ Cộng hòa mà bà là thủ lãnh.
Với lối một viết đơn giản, thu hút, Demery đã, một mạch, dẫn
người đọc đi tìm, gặp, biết bà Nhu từ những trang đầu lúc làm thám tử ở Paris
đến những trang cuối của cuốn sách nói về một cuốn nhật ký – không phải là cuốn hồi ký mà bà Nhu đã gởi sau gần
năm năm chờ đợi và vừa được nhà xuất bản L’Harmattan phát hành vào đầu tháng
11, 2013.
Mười sáu chương sách: 1.
Paris, 2005, 2. Những nắm mồ bị bỏ quên, 3. Một gia đình quyền quý, 4. Chân
dung một cô chiêu. 5. Cuộc gọi viễn liên, 6. Ôm con chạy loạn, 7. Ẩn dật ở cao
nguyên, 8. Người đàn ông kỳ diệu của Việt Nam, 9. Đệ nhất phu nhân trong Dinh
Độc Lập, 10. Những tấm da hổ, 11. Trai trẻ và Lão làng 12. Những nhà sư tự
thiêu, 13. Quá đẹp để làm ngơ, 14. Cửa đóng, 15. Đảo chánh, và 16. Đời lưu
vong.
Giữa cuốn sách là 11 tấm hình trắng đen in trên giấy trắng,
dầy hơn những trang sách giấy vàng nhạt; bắt đầu là tấm ảnh cô Trần Lệ Xuân
trong khăn áo ngày vu quy, khoảng 1943, sau cùng là tấm ảnh những thiếu niên
Việt Nam chân đất, hay mang dép đang dẫm lên đầu đã gẫy của bức tượng bà Trưng
ở Sài Gòn, năm 1963. Xen giữa là những tấm ảnh của những người trong gia đình
và những hình ảnh bà nhu gặp báo giới và người Mỹ cũng như tấm hình ký giả
Malcolm Browne ngồi trước ảnh Thượng tọa Thích Quảng Đức tự thiêu.
Chương 1 nói về cuộc tìm kiếm bà Nhu ở Pháp và Chương 2,
Demery thuật lại một bi kịch của gia đình bà Nhu: vụ ông Trần Văn Khiêm, sáu
mươi tuổi, em bà, giết cha mẹ – ông cựu Đại sứ VNCH, Trần Văn Chương, 88 tuổi,
và bà cựu Quan sát viên thường trực của VNCH tại Liên Hiệp Quốc, (Thân) Trần
Thị Nam Trân, 76 tuổi – vào mùa hè năm 1986 tại Washington, D.C. Đây là lần
cuối cùng bà Nhu lên tiếng với báo chí Mỹ. Chương 6, tác giả thuật lại những
cuộc điện thoại viễn liên với bà Nhu.
Mười ba chương còn lại, tác giả thuật lại đời bà Nhu, một
phần theo lời kể, bắt đầu với gốc gác gia đình, đời sống tiểu thư ở Hà Nội,
cuộc sống khi mới lập gia đình trong thời loạn, đến khi trở thành một nhân vật
chính trị nhiều ảnh hưởng, nhiều tranh cãi, trong suốt thời đệ nhất Cộng hòa;
sau cùng là cuộc đảo chánh năm 1963 đưa bà Nhu vào đời sống lưu vong, ẩn dật.
Cuốn Finding the Dragon Lady: The
Mystery of Vietnam’s Madame Nhu thành hình không chỉ đơn thuần
dựa trên lời kể qua điện thoại hay email hoặc hồi ký của bà Nhu gởi; tác giả đã
tham khảo và sử dụng rất nhiều thông tin rút ra từ báo chí, tài liệu của bộ
Ngoại giao, CIA và các cơ quan khác thuộc chính phủ Mỹ, thư khố Mỹ, của Trung
tâm Lưu trữ Quốc gia của Pháp, từ các nhân chứng sống đã làm việc với dòng họ
Ngô-Đình, cũng như các công trình nghiên cứu của các tác giả khác có từ thập
niên 60 đến sách mới xuất bản năm 2013.
Sau gần hai năm liên lạc, và bao lời hứa hẹn về cuốn hồi ký
vài trăm trang, bà Nhu đã viết từ 1963, Demery phải qua một thử thách khác
trước khi thấy được một đoạn 83 từ, tóm lược cuốn hồi ký của bà Nhu. Để có được
đoạn tóm lược cuốn hồi ký, tác giả Demery đã đi tìm và gởi cho bà Nhu tấm hình
chụp phòng ngủ của Đệ nhất phu nhân trong Dinh Độc Lập chụp với vợ Phó Tổng
thống Johnson và Jean Ann Smith em gái của Tổng thống Kennedy. Bà Nhu đặc biệt
muốn có tấm ảnh đó vì những tấm da hổ dưới sàn trong phòng là một phần hình ảnh
của ông Ngô Đình Nhu, một người săn bắn giỏi, để lại.
Nếu tác giả Finding the Dragon Lady phải
đợi gần hai năm, thì người đọc cũng chỉ biết đoạn tóm lược cuốn hồi ký của bà
Nhu sau khi đọc hết 11 chương sách. Có lẽ không khác với Demery, độc giả của
Demery cũng chưng hửng vì đoạn tóm lược cuốn hồi ký gồm những cụm từ như ‟Hội Thánh phải được bảo vệ”, ‟Việt Nam bị đóng đinh như đấng Ki-tô của các quốc gia”, ‟bí ẩn của Fatima”, và ‟Sự khải huyền”.
Dường như đó không phải là tóm lược hồi ký của một nhân vật chính trị một thời
đầy quyền lực.
Khi Demery hỏi cuốn hồi ký đời bà đâu thì được bà Nhu trả
lời, ‟Sắp có. Tôi chỉ muốn biết rằng tôi có thể tin vào cô.” Đó
là kết quả của một quan hệ gần hai năm.
■ ‟Viên sỏi trắng”
Viên
sỏi trắng. Nguồn: ofildesoi.ca
Mãi đến mùa hè năm 2010, sau gần năm năm liên lạc, hy vọng
và chờ đợi, tác giả Demery nhận được hai tập hồi ký của bà Nhu qua email.
Lại một lần nữa, Demery bối rối. Tựa tập hồi ký của bà Nhu
là‟Viên sỏi trắng” (Le Caillou Blanc). Nếu dựa vào
từ nguyên học tiếng Pháp, có lẽ bà Nhu cho rằng cuốn hồi ký là ghi lại những
ngày tháng, những sự kiện, những tư duy trong sáng, hạnh phúc, may mắn. Một
nghĩa khác của ‟viên sỏi trắng” là người vô tội, đã được minh oan, trắng án như
phán quyết của phiên tòa thời cổ đại khi đưa cho phạm nhân một viên sỏi trắng.
Nhưng nếu dựa vào đoạn tóm lược hồi ký dẫn trên, người đọc
có lẽ sẽ hiểu chính xác hơn ‟Viên sỏi trắng” của bà Nhu theo nghĩa của Khải
huyền 2.17(16)
‟Ai có tai, hãy nghe lời Đức Thánh Linh phán cùng các Hội thánh:
Kẻ nào thắng, ta sẽ ban cho ma-na đang giấu kín; và ta sẽ cho nó hòn sỏi trắng,
trên đó có viết một tên mới, ngoài kẻ nhận lấy không ai biết đến.”
Đó là viên sỏi trắng trên có khắc tên mới của người được
Giê-su ban cho, như giấy phép đi nhận di sản của họ ở thiên đường.
Cùng 16 chương sách, tác giả có 182 chú thích (trang
231–244); hai chương không có chú giải là Chương 1. Paris, 2005, và Chương 5. Cuộc
gọi viễn liên. Trong 182 chú giải đó Demery có 10 chú thích cho biết 10
đoạn trong sách lấy từ cuốn ‟Le Caillou Blanc”; Chương 3. Một gia đình quyền
quý [5], Chương 7. Tản cư về núi [2], Chương 8. Người đàn ông kỳ diệu của Việt
Nam [2], và Chương 12. Những nhà sư tự thiêu [1]
Đọc vài trăm trang hồi ký với những tiểu tựa in đậm, trong
ngoặc, liên hệ đến thánh kinh Demery cho rằng bà Nhu đã viết lại đời mình như
một bản liệt kê vĩ đại, theo thứ tự thời gian. Tuy nhiên, đây là một bản liệt
kê viết bằng mật mã.
Với đa số, có lẽ đây là một trở ngại rất lớn để hiểu câu
chuyện đời của bà Nhu vì giải mã những suy nghĩ về tâm linh, triết lý, thánh
linh huyền bí không phải là một khả năng phổ quát của người đọc sách.
Sàng lọc ‟Viên sỏi trắng” để
viết được 10 đoạn trong Finding the Dragon Lady đã
có thể xem là một kỳ tích rồi.
Cuốn Finding the Dragon Lady có
nhiều thông tin, một số có thể xem như thuộc về lịch sử, một số khác chỉ liên
hệ đến đời thường.
● Chương 2 và Chương 3 – Về thời thơ ấu của bà Nhu cho người đọc biết bà Nam Trân
sinh con gái đầu lòng, Lệ Chi, khi 12 tuổi, 10 năm sau ngày cưới; bà Nhu sinh
sau bà Trần Lệ Chi gần hai năm, và hai năm sau ông Trần Văn Khiêm chào đời. Như
thế, trên mặt giấy tờ, bà Thân Thị Nam Trân lấy chồng năm 2 tuổi, và lúc ấy ông
Trần Văn Chương 14 tuổi.
● Chương 4 – Thời
thiếu nữ của bà Nhu. Về mặt học vấn, chị em bà Lệ Xuân đã được dạy ở nhà khi
nhỏ; khi 5 tuổi Lệ Xuân và Lệ Chi, được gởi vào Saigon học nội trú. Về lại Hà
Nội, cô Lệ Xuân học nói, viết và suy nghĩ ở trường trung học Albert Sarraut,
thấm nhuần văn hóa như một thiếu nữ Pháp da vàng. Không như nhiều tác giả Việt
Nam đã cho cô Lệ Xuân đỗ Tú tài II chương trình Pháp, Demery không đề cập đến
học trình của bà Nhu ở Lyceé Albert Sarraut như Karnow, ‟Lệ Xuân đã bỏ học trường Albert Sarraut, trường trung học Pháp danh giá
ở Hà Nội, ở đấy Lệ Xuân chỉ là một học sinh loại xoàng…” thông thạo tiếng
Pháp nhưng không biết viết tiếng Việt.(17)
Cũng ở Chương 4, tác giả cũng nhắc lại những tình tiết ly kỳ
trong cuộc sống lứa đôi của ông bà luật sư Trần Văn Chương qua tài liệu của sở
mật thám Pháp. Những chi tiết đó rất không thuận với ‟thanh danh” trên bản cáo
phó của cựu Đại sứ Trần Văn Chương mấy chục năm về sau. Về bà Nam Trân, theo
tài liệu của Pháp, mật thám ghi sổ số tình nhân của bà mệnh phụ; người tình nổi
tiếng nhất là một viên chức ngoại giao Nhật tên Yokoyama Masayuki, ngoài ra,
theo lời đồn, còn phải kể đến một thanh niên trẻ tên Ngô Đình Nhu.
Quan hệ giữa gia đình luật sư Trần Văn Chương, hay đúng hơn
là giữa bà Nam Trân với Yokoyama Masayuki được cho là lý do khiến Trần Văn
Chương có tên trong danh sách 11 thành viên được đề cử vào nội các do Trần
Trọng Kim trình lên Bảo Đại (17 tháng 4, 1945) và được Yokoyama cùng có mặt
khen ngợi.(18)
Tháng Năm, 1943, lấy ông Nhu, lớn hơn mình 14 tuổi, làm
chồng là một cuộc hôn nhân thực dụng chứ không phải là kết quả của một mối tình
lãng mạn, bà Nhu cho ký giả Charles Mohr của Tạp chí Time biết. Tình yêu lãng mạn chỉ có ở trong sách chứ không có thật,
bà Nhu tin như vậy. Khi lập gia đình bà Nhu được làm lễ rửa tội ở Nhà Thờ Lớn
tại Hà Nội và có tên thánh là Lucy
theo Saint Lucia, vị thánh của người khiếm thị. Nhiều tác giả Việt Nam thường
ghi tên thánh của bà Nhu là ‟Maria”.
● Chương 6 –
Sau hôn lễ năm 1943 ở Hà Nội bà Nhu theo chồng về Huế ở trong căn nhà thuê lại
của em gái ông Nhu, bà Cả Lễ (Ngô Đình Thị Hoàng). Cuối năm 1946, bà Nhu đã trở
thành một bà mẹ trẻ ở tuổi 22 dù chồng bà thường xuyên không có mặt ở nhà. Với
con nhỏ, mẹ chồng, em chồng và một cô cháu gái, cô con dâu mới phải ngậm miệng
trước sự xắp xếp cuộc sống mới ở Huế như thế; hơn 60 năm sau, kể chuyện dĩ
vãng, bà Nhu cho mình đã quá ngờ nghệch gần như ngu ngốc khi chấp nhận ở lại
giữ căn nhà của bà Cả Lễ thay vì theo linh mục dòng Tên cuối phố đi tìm chỗ
trốn Việt Minh những người vào tháng 8, 1945 đã bắt giam cha con người anh cả
của chồng bà, Ngô Đình Khôi, và sau đó xử bắn vì là thành phần tư sản phản
động.
Sự mô tả những bộ đội Việt Minh dân miền Trung năm 1946 phản
ảnh rõ rệt thái độ của một người trưởng giả miền Bắc; với bà Nhu những bộ đội
đó không khác người ở lỗ, hôi hám, giọng nói như tiếng gầm gừ của loài man rợ.
Quito, con béc-giê đã một lần cứu chủ khỏi tay quân Tưởng Giới Thạch năm trước
bị nhốt ở một phòng khác không làm gì được khi Việt Minh vào nhà bà Nhu phá vỡ
cái đại dương cầm trước khi bắt cả nhà phải theo họ rời thành phố.
Đoàn người gồng gánh đi qua những con đường bùn đất lầy lội,
đến cuối cánh đồng, cách một đoạn đường, trước mặt là một cái cầu, bỗng đâu một
tiếng nổ xé trời cùng tiếng hô ‟nằm xuống”. Lính cũng như dân đều bò xuống ven
đường tránh sỏi đá bay mù. Lần đầu tiên đối diện với chiến tranh, cuộc chiến đã
kéo dài vài năm từ ngày bà là cô dâu đến khi làm người mẹ trẻ; trong thực tế
chiến tranh đó bà Nhu nuối tiếc đời sống xa hoa ở Huế.
Người mẹ trẻ đứng giữa đường, dưới cơn mưa, hất vạt áo che
con, quyết định bước đi giữa lòng trận mạc, qua cầu.
Kể lại câu chuyện ôm con đi qua cầu giữa lòng trận mạc, có
lẽ, bà Nhu đã gây ấn tượng sâu sắc với nhiều người không phải sống trong chiến
tranh chứ không riêng gì với tác giả cuốn Finding the Dragon Lady.
Kể lại lúc bị Việt Minh bắt giữ cũng là lúc bà Nhu hé lộ cho
người đọc biết tình cảm của gia đình chồng đối với mình khi thấy thái độ và ứng
xử của anh Bảy Việt Minh và bà qua việc nhắc lại lời bà Khả dạy ông Nhu, ‟Lấy vợ phải coi gia thế cũng như mua heo
phải biết nái xề” và nhận xét của ông Cẩn, ‟Mẹ nào con nấy; chị ấy sẽ chẳng khác gì mẹ chị ấy đâu.”
Bà Nhu gián tiếp xác định báo cáo của mật thám Pháp và nhận
định của tướng Georges Aymé?
● Chương 7 – Gia
đình bà Nhu đoàn tụ ở Đà Lạt từ 1947-1954. Bảy năm ở Đà Lạt, tạm trú ở một
villa nhỏ mượn của một bác sĩ, bạn ông Trần Văn Chương, số 10 đường Roses/Hoa
Hồng/Ngô Đình Khôi nay là đường Huỳnh Thúc Kháng, là ‟thời gian hạnh phúc nhất”
của bà Nhu dù chồng bà vẫn thường không có mặt ở nhà. Thời gian này Ngô Đình
Trác (1949) và Ngô Đình Quỳnh (1952) ra đời trong lúc ông Nhu đang gây mầm xây
dựng đảng Cần Lao-Nhân Vị, cơ sở chính trị hậu thuẫn cho chính quyền Ngô Đình
Diệm về sau. Bà Nhu cảm thấy hạnh phúc nhất vì sinh được hai con trai hay vì
những cuộc vui đêm, những cuộc đi câu, picnic, ngoạn cảnh với người bà con có
tiếng, cựu hoàng Bảo Đại.
Một đoạn ở chương 7 mô tả một ‟biệt thự nhỏ” của bà Nhu, ở
số 2 đường Yết Kiêu nhìn xuống một thung lũng tuyệt vời của Đà Lạt. Ngôi ‟biệt
thự nhỏ” gồm 3 căn nhà, một cho gia đình bà Nhu, một dự định dành cho ông bà
Trần Văn Chương, và một dành cho khách, xoay quanh sân ở giữa, có hồ bơi nước
nóng, có vườn hoa Nhật Bản, với hồ sen. Lâm
Ngọc, ngôi nhà riêng của gia đình bà Nhu có tháp canh ngay lối vào, với năm
lò sưởi, sẽ trang trí bằng da và đầu thú, thành tích săn bắn của ông Nhu. Nhà
bếp với trang bị bằng thép không rỉ và dự định có cả lò hồng ngoại. Bà Nhu
không nghĩ rằng nôi ‟biệt thự nhỏ” bà đang xây là hoang phí trong khi nhà của
dân quê thời đó vẫn còn chuồng xí ngoài trời trên ao cá tra. Theo lời một trong
50 người làm vườn, ông Phạm Văn Mỹ, thì bà Nhu là một ‟mệnh
phụ khó tánh” thích của đắt tiền, hay thay đổi, hò hét với gia
nhân nhưng lại sợ sâu bọ. Xây dựng ngôi biệt thự đó mất năm năm trời – sửa cửa
chính 8 lần với 10 lần thay sổ góc mới hài lòng – nhưng bà Nhu chưa một ngày ở
đó vì khi ngôi biệt thự hoàn tất thì quyền lực của bà cũng tiêu tan.
● Chương 8 –
Theo lời chồng, bà Nhu đưa các con về sống ở Sài Gòn để thuận tiện giúp Thủ
tướng Diệm củng cố quyền lực. Gia đình bà Nhu tạm trú trong 5 căn phòng thuê,
trong đó hai phòng dùng làm nơi in báo Xã
hội của ông Nhu. Những năm tháng đầu sống vô vị ở Sài Gòn có lẽ là khoảng
thời gian bà Nhu cảm thấy chán chường nhất. Vẫn không thay đổi, bà Nhu không
biết hành tung của chồng mình.
1954-55 là thời gian bà Nhu bắt đầu có bạn thân người Mỹ. Họ
đều là nhân viên CIA. Sau khi dẹp tan Bình Xuyên (tháng 4 đến tháng 9/1955) và
truất phế Bảo Đại (23/10/1955), ông Diệm trở thành quốc trưởng, Tổng thống đầu
tiên của Việt Nam Cộng hòa.
Về Thủ tướng Ngô Đình Diệm, trong ‟Le Caillou Blanc”, bà Nhu cũng viết lại câu chuyện ông
Diệm bị cộng sản bắt năm 1946 và Hồ Chí Minh, sau khi không thuyết phục được,
đã để ông tự do ra đi. Đây là giai thoại đã được nhắc lại nhiều lần nhưng tài
liệu có thể dùng để xác định sự thật lịch sử có lẽ vẫn còn nằm trong văn khố
kín của đảng Cộng sản Việt Nam vì những chứng nhân của sự kiện ấy như Lê Giản,
Vũ Đình Huỳnh đã ra người thiên cổ.(17a). Cũng ở chương này, trích đoạn từ
‟Viên sỏi trắng”, bà Nhu nhắc lại công trạng của mình trong việc tổ chức cho
dân di cư biểu tình ngày 21 tháng 9, 1954 ủng hộ Thủ tướng Diệm, hất cẳng tướng
Nguyễn Văn Hinh, con của cựu Thủ tướng Nguyễn Văn Tâm (6/1952 – 12/1953), ra
khỏi Sài Gòn. Đây là bước đầu của bà Nhu vào chính trường miền Nam, đóng vai
một chính khách tinh tế, và không biết sợ; Diễn tuồng, tinh tế và không biết sợ
không phải là sở trường của hai anh em ông Diệm và Nhu. Sau chiến công tháng 9,
1954, Pháp than phiền với Mỹ, Mỹ nói lại với Thủ tướng Diệm và bỗng dưng bà Nhu
được gởi đi Hồng Kông ‟an trí” sáu tháng, để ông Nhu ổn định tình hình. Với bà
Nhu, đây lại là dấu hiệu cho thấy tiềm năng và ảnh hưởng chính trị của mình.
● Chương 9 – Tháng 4, 1955 ông Nhu dọn nhà và đưa
ba người con vào sống trong Dinh Độc Lập khi bà Nhu vẫn đang ‟an trí” ở một nhà
dòng và học tiếng Anh ở Hong Kong. Trở lại Việt Nam, có lẽ đó là lần đầu tiên
sau khi lập gia đình, bà Nhu hy vọng sẽ được thường xuyên ‟thấy” chồng. Sự thực
không phải như thế trong những năm gia đình bà sống ở Dinh Độc Lập.
Những năm đầu chính phủ Ngô Đình Diệm đã gặt hái rất
nhiều thành quả lớn. Từ việc ổn định đời sống cho gần 1 triệu người di cư miền
Bắc, nâng cao mức sản xuất gạo, cao su, điện, cải cách điền địa, xây dựng hạ
tầng cơ sở, lập đại học, xây xí nghiệp sản xuất, v.v. qua chương trình viện trợ
của chính phủ Mỹ. Cuốn ‟Misalliance, Ngo Dinh Diem, the United States, and the Fate of
South Vietnam” của
Edward Miller là một nghiên cứu, phân tách rất chi tiết giai đoạn này trong
lịch sử Việt Nam cận đại.
[Ngày] 4/3/1956 bà Nhu đắc cử cùng 122 dân biểu khác
vào quốc hội lập hiến. Thành phần nhân sự quan trọng của chính quyền Ngô Đình
Diệm đã là nguyên nhân thành hình cụm từ ‟gia
đình trị”; Ông Trần Văn Chương là bộ trưởng kinh tế và tài chánh trước khi
nhậm chức Đại sứ tại Mỹ; mẹ bà Nhu, bà Nam Trân, được cử làm Đại diện thường
trực tại Liên Hiệp Quốc; anh rể bà Nhu, chồng bà Lệ Chi, luật sư Nguyễn Hữu
Châu, một thời gian ngắn là cố vấn tín cẩn của Tổng thống Diệm; ông Trần Văn
Khiêm học hành dang dở, đang lang thang sống đời lãng tử với vợ người Đức ở ven
biển Algeria được bà Nhu gọi về làm phát ngôn nhân của Dinh Độc Lập; chú bà
Nhu, ông Trần Văn Đỗ trở thành Ngoại trưởng VNCH [thực ra bác sĩ Trần Văn Đỗ đã
bị loại từ 1955 vì chính quyền cho rằng ông ủng hộ Bình Xuyên]; và không thể
quên ông Ngô Đình Nhu, không có chức vị chính thức ngoài danh xưng ‟ông cố vấn”
của anh mình. Đó là chưa nói đến những than phiền của quần chúng về sự phân
biệt đối xử vì tôn giáo của chính` quyền Ngô Đình Diệm. Bà Nhu nói, ‟Nếu chúng tôi mở toang cửa sổ,
không những chỉ có ánh sáng mà còn bọn xấu cũng bay vào theo.”
Theo một cận vệ của Tổng thống thì ông Diệm không chỉ
trích bà Nhu vì không muốn ông Nhu bị phiền. Tổng thống Diệm coi bà Nhu như ‟một phụ nữ đẹp nhưng to mồm”;
tính khoa trương của bà Nhu trái ngược với phong cách điềm tĩnh của Tổng thống
Diệm. Và cũng theo viên cận vệ này thì bà Nhu ‟luôn luôn muốn quá nhiều và quá sớm”. Mặt khác, ông
Nhu cũng dù không bằng miệng nhưng đã không bằng lòng khi bà Nhu phô trương
nhan sắc, duyên dáng, và khả năng (nói) tiếng Anh với chính khách, phần lớn là
người Mỹ.
Dù có muốn bà Nhu đã không thể là một người phụ nữ của
quần chúng được. Vì quần chúng phụ nữ Việt Nam thời đó đa số là những người đàn
bà đầu tắt, mặt tối, chân lấm tay bùn, là những sống sót sau nạn đói, và chiến
tranh. Tuyệt đại đa số phụ nữ Việt Nam không nói tiếng Pháp ở nhà hay có tài xế
đánh xe Mercedes đưa đi phố. Nhưng để chứng tỏ mình là người bảo vệ quyền phụ
nữ, bà dân biểu đã làm luật gia đình áp dụng từ sau tháng 6, 1958 cấm đàn ông
đa thê, hay có hầu thiếp, đàn bà có quyền có tài sản… Nhưng luật gia đình, bảo
vệ quyền phụ nữ, còn cấm ngoại tình, cấm cả việc li dị trừ trường hợp đặc biệt được
phép của Tổng thống. Đây là luật của thần quyền hay của thế quyền? Và như thế
là bảo vệ quyền bình đẳng của phụ nữ? Sắc luật này có hiệu quả thế nào khi áp
dụng vào thực tế?
Tiếng đồn thời đó cho rằng luật cấm li dị nhằm bịt
miệng ông Nguyễn Hữu Châu không thể nói xấu chế độ và li dị bà Trần Lệ Chi
được. Thực ra cả hai vợ chồng ông Châu đều muốn li dị. Bà Lệ Chi muốn thoát
khỏi một cuộc hôn nhân không hạnh phúc để sống với người yêu, một thợ săn voi
bắn hổ chuyên nghiệp người Pháp tên là Etienne Oggeri. Kết quả, luật sư Châu
đang là một cố vấn được tín cẩn của Tổng thống Diệm bị mất hết danh tiếng và
ảnh hưởng, trở thành một công chức tầm thường. Sau khi luật gia đình ban hành,
bà Lệ Chi cắt cổ tay đến Dinh Độc Lập để phản đối; bà Nhu cho lính bắt chị mình
nhốt ở bệnh viện.
Bà Nhu xác nhận đã làm thế để bảo vệ bà Lệ Chi và bảo
vệ danh giá gia đình. Theo Lệ Chi thì bà đã viết điện từ nhà thương nhờ một y
tá cảm thông đánh đi cầu cứu. Bà Nam Trân từ Mỹ về Sài Gòn cứu con gái lớn ra
khỏi bệnh viện nhà giam.
Luật sư Nguyễn Hữu Châu bỗng dưng được chuyển đi
Paris. Trong hồi ký viết sau này, Oggeri nói bà Nhu đã cho người tiêm vi-rút
dịch tả vào người ông. Sau một thời gian ngắn trong tù, Oggeri đã bị đuổi về
Pháp. Từ đó ông sang Mỹ tìm người yêu. Etienne và Lệ Chi lập gia đình và nay,
có lẽ tóc đã bạc màu, hai người vẫn sống đời hạnh phúc ở Fayetteville, North
Carolina.
[Năm] 1959, sau 16 năm lập gia đình, từ một tiểu thư
danh gia thế phiệt, bà Nhu là mẹ của bốn người con, là một mệnh phụ đầy danh
vọng và quyền lực. Đó có phải là một cuộc đời hạnh phúc? Theo một cuốn nhật ký
của bà Nhu thì không.
Cuộc đảo chính ngày 11 tháng 11 năm 1960 tình cờ là
một cơ hội khác để bà Nhu xác định khả năng chính trị của mình. Sau cuộc đảo
chính hụt, trong các cuộc phỏng vấn, bà Nhu cho rằng ông Diệm ứng xử như trẻ
con khiến bà muốn tát Tổng thống Diệm. Ba năm sau tờ St. Louis Post Dispatch
đưa tin bà Nhu thực sự đã tát tai ông Diệm. Và ngay cả Tổng thống Diệm, khi trả
lời báo chí cũng đã xác định cuộc đảo chánh thất bại là ‟nhờ bà Nhu” (‟C’est grâce à madame.”)
● Chương 10 – Sau cuộc đảo chánh hụt năm 1960,
Tổng thống Diệm ra lệnh miệng cho các tư lệnh quân đội không được mở các cuộc
hành quân có thể gây thương vong lớn cho phía VNCH vì ông nghĩ lính nhảy dù
muốn đảo chánh vì không chấp nhận thương vong lớn ở chiến trường. Tổng thống
Diệm không thể thấy hay không muốn thấy nguyên
nhân của cuộc đảo chánh là chính sách gia đình trị và sự thiên vị Ki-tô giáo.
Cố vấn Mỹ ở Việt Nam cũng biết lệnh miệng của Tổng thống Diệm nhưng điều đó
không ngăn họ gởi báo cáo thổi phồng về con số thương vong của cộng quân. Cùng
lúc, Việt cộng nằm vùng gia tăng khủng bố ở miền Nam.
[Năm] 1961, bà Nhu tự tin hơn bao giờ. Ba năm trước,
bà cho thành lập Phong trào Phụ nữ Liên
đới (1958) mục đích để phụ nữ Việt Nam tham gia vào các công tác xây dựng
xã hội chứ không chỉ là người nội trợ trong nhà. Ngoài ra bà Nhu còn là thủ
lãnh của Đoàn thanh nữ Cộng hòa một
tổ chức bán quân sự mà cô Lệ Thủy là một đoàn viên.
Theo chính phủ thì Phong trào Phụ nữ Liên đới có trên
1 triệu đoàn viên(19) nhưng dường như ở ngoài Sài Gòn, phụ nữ Việt Nam không
biết đến phong trào của những bà mệnh phụ tham gia để giữ ghế cho chồng trong
quân đội hay chính phủ.
Tiệp tục sự nghiệp làm luật “bảo vệ thuần phong mỹ tục
và năng lực của dân chúng…”, bà Nhu cho ra đời “Luật Bảo vệ
luân lý”. Đó là Luật số 12/62 ngày 22/2/1962. Luật 12/62 có nhiều điểm tích
cực như cấm người dưới 18 tuổi không được uống rượu (trên 12 độ cồn), cấm đồng
bóng, phù phép (cầm hành nghề gây mê tín dị đoan), cấm mua bán dâm. Tuy nhiên
cũng có những mục khác của sắc luật bị dân chúng chỉ trích: cấm khiêu vũ, cấm
thi hoa hậu, cấm tuyên tuyền khuyến khích ngừa thai và phá thai.(20)
[Ngày] 27 tháng 2, 1962 hai phi công Nguyễn Văn Cử và
Phạm Phú Quốc lái máy bay khu trục Skyraider oanh tạc cánh phải Dinh Độc Lập,
nơi gia đình bà Nhu trú ngụ. Lệ Thủy, 16 tuổi bình tĩnh cứu hai em nhỏ, Lệ
Quyên và Quỳnh. Bà Nhu rơi hai tầng lầu xuống đất, bị 3 vết phỏng nặng và 1 vết
cắt sâu ở cánh tay. Bà vú người Hoa trông nom Lệ Quyên và hai người khác tử
thương. Bà Nhu mất gần hết của cải vật chất, kể cả những tấm da hổ trong phòng
ngủ, trừ vài cái áo ở tiệm may.
● Chương 11 – Demery viết về quan điểm của những
ký giả Mỹ, đã từng viết về cuộc chiến Việt Nam cũng như chính phủ Ngô Đình
Diệm: David Halbertstam, Malcolm Browne, Stanley Karnow, những người bạn Mỹ như
Clare Booth Luce, Marguerite Higgins, Ann và Gene Gregory – hai vợ chồng phụ
trách xuất bản tờ Times of Vietnam,
tờ báo tiếng Anh được bà Nhu yêu chuộng nhất.
Đặc biệt, vào năm 2007, khi được Demery cho hay tin
David Halberstam, người ký giả trẻ của tờ Thời báo New York hồi nào đã chỉ
trích bà Nhu nặng nề, tử nạn giao thông, bà Nhu nói,‟Anh ấy
thông minh, một trong những người hiếm có dám nói sự thật.” Khác với nguồn tin 44 năm trước cho
rằng bà Nhu đã nói về người ký giả của tờ New York Times, ‟Halberstam đáng đem đi nướng,
và tôi sẽ hân hoan đưa xăng và diêm quẹt.”
● Chương 12 – Nhất định phần đúng về mình, bà Nhu
đã đem nhiều rắc rối cho chính phủ Ngô Đình Diệm. Biến động Phật giáo miền
Trung bắt đầu với việc giám mục Ngô Đình Thục nhận tiền ‟đóng góp” xây thánh
địa La Vang của các viên chức chính phủ, từ Phó tổng thống trở xuống; chưa đủ,
giám mục Thục còn chuyền tiền, bất động sản, ruộng đất, v.v. từ công quỹ quốc
gia sang cho giáo hội, làm mờ ranh giới giữa giáo hội và chính quyền. Giám mục Ngô Đình Thục tham nhũng cho giáo
hội.
[Ngày] 7 tháng 5, về Huế sau khi thăm viếng La Vang,
giám mục Thục ra lệnh hạ cờ ngũ sắc của Phật tử đón mừng Phật Đản lần thứ 5257.
Ở Sài Gòn ông Nhu phản ứng, ‟Tại sao anh tôi nhất định ra một cái lệnh ngu như thế về những lá
cờ. Có ai quan tâm về những lá cờ họ treo đâu.” Sau đó là biểu tình phản đối, vụ nổ ở
đài phát thanh Huế làm thiệt mạng 2 trẻ em, 7 người lớn và 14 người khác bị
thương. Áp dụng chiến thuật đã thành công với Bình Xuyên năm 1955, đã thành
công với lính nhảy dù năm 1960, chính phủ Ngô Đình Diệm gán cho Việt Cộng đã
gây ra vụ nổ chết người ở đài phát thanh Huế, nhất định không thỏa hiệp và tiếp
tục làm áp lực với phe Phật giáo đấu tranh.
[Ngày] 11 tháng 6, 1963, Thượng tọa Thích Quảng Đức tự
thiêu ỏ Sài Gòn; tấm hình Malcolm Browne chụp đăng trang nhất trên báo chí Hoa
Kỳ và thế giới. Tiếp theo là những thách đố, nhạo báng của bà Nhu – nướng sư, vỗ tay – nổi tiếng không thua gì bức ảnh của
Malcolm Browne. Rồi, thiết quân luật và cảnh sát dã chiến, lực lượng đặc biết
tấn công chùa, bắt sư sãi, từ Sài Gòn ra Huế, ngày 21 tháng 8, 1963. Bà Nhu so
sánh vụ tấn công đè bẹp ‟sư cộng sản” như vụ chiến thắng Bình Xuyên tám năm
trước đó và bà ‟quên” rằng những ‟sư cộng sản” bị bắt là những người không có
vũ khí trong tay. Bà Nhu tuyên bố, ‟đây là ngày sung sướng nhất đời tôi.” Lại thêm một chiến công cho dòng họ
Ngô Đình.
Đúng sinh nhật thứ 39, bà Nhu nhận được một điện tín
từ Washington, D.C., ông bà Trần Văn Chương yêu cầu bà đưa bốn người con ra
nước ngoài; đồng thời bà Nam Trân đích thân nhắn riêng với tân Đại sứ Mỹ, Henry
Cabot Lodge, sắp lên đường sang Việt Nam rằng
‟Trừ khi họ rời Việt Nam, không có quyền lực nào
trên thế giới có thể chận cuộc ám sát Tổng thống Diệm, Nhu em ông ấy, và bà
Nhu, con gái của tôi.”
Bức điện thứ hai cùng ngày sinh nhật bà Nhu, ông Đại
sứ VNCH tại Mỹ và bà Đại diện thường trực của VNCH tại LHQ đồng loạt từ chức.
Ngầm đồng ý với yêu cầu của chính phủ Mỹ bịt miệng bà
Nhu, Tổng thống Diệm đã cho bà Nhu đi dự phiên họp của Liên minh Liên Nghị viện
tại Belgrade vào trung tuần tháng 9, 1963.
● Chương 13 – Đầu tháng 10, 1963 bà Nhu và Lệ Thủy
đến Mỹ – không phải là khách mời của chính phủ Hoa Kỳ. Xuất hiện ở đại học,
trên đài truyền hình và báo giới từ Đông sang Tây, cuộc Mỹ du của bà Nhu chỉ
được công nhận chính thức bằng nhận định của một Thượng nghị sĩ đảng Dân chủ ở
Ohio, Stephen Young nói, bà Nhu ‟quá kiêu ngạo và tự phóng đại tầm quan trọng của mình quá mức,” và nên được gởi trả về Việt Nam.
Trước khi rời Sài Gòn và cả lúc ở Paris – tháng 8,
9/1963 – bà Nhu đã biên thư hỏi Phó Tổng thống Johnson xem bà sẽ có thể được
chào đón ở Mỹ hay không. Johnson hỏi ý và được Kennedy hiệu đính lá thư, yêu
cầu bà Nhu nghĩ ‟một cách hết sức khách quan nếu có thể, rằng bà đến đây có ích
hay bất lợi.” Johnson
ký lá thư đã hiệu đính và gởi đi. Bà Nhu trả lời,‟Tôi từ chối ngồi yên làm đồng
lõa trong một vụ giết người dễ sợ.”
Đại học Columbia, Princeton, Harvard, tạp chí Time,
Thời báo New York cùng biết bao đài truyền hình tranh nhau để gặp được bà, cùng
lúc chính phủ Mỹ cố gắng xua bà đi cho thấy bà Nhu là một nhân vật chính trị
đáng quan tâm. Và vài tuần trước đó, ở Rome, bà Nhu nói lính Mỹ ở Việt Nam cư
xử như ‟những
thằng lính đánh thuê”.
● Chương 14 – Trung tuần tháng 10, bà Nhu đến
Washington D.C., dự tính sẽ ở lại miền Đông Hoa kỳ thêm 1 tuần nữa trước khi đi
Chicago; toàn bộ chính phủ Mỹ cũng như nội các Kennedy vẫn không có bất kỳ một
nhận xét nào.
Cùng lúc đó, cựu Đại sứ Trần Văn Chương trả lời phỏng
vấn với đài truyền hình CBS cho biết Tổng thống Diệm, xếp của ông 9 năm qua, thực sự chỉ là hình nộm; thực quyền nằm
trong tay ông Ngô Đình Nhu, con rể của ông. Bà Nhu có thể nhiễm bệnh ‟cuồng
vì quyền lực” như chồng nhưng ‟chỉ là cái bóng”. Ông cựu Đại sứ cố gắng làm
giảm ảnh hưởng của bà Nhu, nhưng đã thất bại. Ông xác định nỗi ngờ của người Mỹ
rằng vợ chồng bà Nhu quả thực có nhiều quyền lực hơn Tổng thống Diệm.
Trả lời một ký giả Ý về nhận xét của bố vợ mình, ông
Nhu để rơi mặt nạ, trả lời cho cả hai vợ chồng, ông Nhu nói, nếu ông Chương cố
trở lại Saigon,‟Tôi sẽ cho chặt đầu ông ấy. Tôi sẽ treo đầu ông ta lủng lẳng
giữa quảng trường. Vợ tôi sẽ buộc cái nút dây treo vì bà ấy hãnh diện là người
Việt Nam và bà ấy là một người yêu nước.”
Cùng Lệ Thủy đến nhà ông bà Trần Văn Chương, bà Nhu để
cô con gái lên gõ cửa nhà ông bà ngoại; bà chống nạnh đứng chờ. Cửa không mở;
Hết kiên nhẫn, bà Nhu đến gõ cửa nhà cha mẹ; cửa vẫn đóng, không có tiếng trả
lời. Bà Nhu cũng biết khoảng hai mươi ký giả đã đi theo và đang đứng đợi xung
quanh. Căm phẫn vì bị coi như không có trước đám đông, bà Nhu đi vòng ra phía
vườn sau, phóng lên vài bực thang, nhìn qua của sổ. Bà Nhu nói như phân trần
với đám đông, ‟Tôi không hiểu. Tôi đã gọi và nói chuyện với một người ở đây cách
đây không lâu.”
Không nhìn mặt là một chuyện. Khi bà Nhu còn ở châu
Âu, bà Chương đã mời một phụ tá tín cẩn của Kennedy đến nói chuyện tại nhà. Bà
Chương nói thẳng với phụ tá của Tổrng thống Mỹ: nói với Kennedy loại gia đình nhà Ngô ngay đi. Ông Diệm thì bất lực; ông Nhu là tên man rợ; phần con gái, bà
Chương đã yêu cầu cộng đồng người Việt ở New York và Washington lấy xe cán bà
Nhu đi; nếu không được thì ít nhất cũng phải ném cá chua, trứng thối. Bà Chương
thề với viên phụ tá của Kennedy, nếu Nhà Trắng không làm gì hết để bịt miệng bà
Nhu thì chính bà, bà Chương, sẽ thừa khả năng tổ chức ‟cái gì đó để chống lại con
quái vật này.” Câu
chuyện giữa hai người được đưa vào hồ sơ ‟kín” và người cất tại liệu đã ghi
trên tập hồ sơ, ‟tình yêu của mẹ”.
● Chương 15 – Demery viết về cuộc đảo chánh
1/11/1963. Cũng ở chương này tác giả cho biết đã nhận được tập hồi ký ‟Le Caillou Blanc” của bà Nhu sau gần 5 năm trông đợi,
cùng một số hình ảnh. Bà Nhu nói,
‟Tôi hoàn toàn tin cô với tập hồi ký này. Cô hoàn
toàn chịu trách nhiệm. Nhưng không được hiệu đính. Không được thay đổi. Chúng
phải được ấn hành như đã viết; Tập I trước, tập II sau. Và, tôi nóng lòng thấy
tập sách in, càng sớm càng tốt. Tôi không còn nhiều thời gian.”
Tác giả Demery tin chắc đây không phải là tập hồi ký
bà Nhu định bán cho báo Saturday Evening Post sau cuộc đảo chánh năm 1963; nó cũng
không phải là tập hồi ký bà Nhu quá bận viết hồi những năm 60, 70 bỏ qua những
cuộc phỏng vấn giá gần 1000 đô-la một lần. Demery cũng không tin là hai tập hồi
ký này có bản viết trên giấy và dường như tập bản thảo điện tử này mới soạn
trong những tháng sau này.
Tướng Nguyễn Khánh là người đưa Trác, Quỳnh và Lệ
Quyên, ba người con nhỏ của ông bà Nhu về Sài Gòn bằng máy bay riêng sau khi
tìm được họ đang trốn trong rùng ở Đà Lạt. Fred Flott, tùy viên ngoại giao tòa
Đại sứ Mỹ, đại diện chính phủ Mỹ phụ trách đưa con bà Nhu qua Rome bằng máy bay
quân sự C-54 sang Thái rồi từ đó bằng máy bay của Pan Am. Fred Flott cũng là
người đã bỏ túi vài cái gạt tàn thuốc lá ở Dinh Gia Long ‟làm kỷ niệm”.
● Chương 16 – Đời lưu vong. Trong những ngày cuối
cùng ở khách sạn Beverly Wilshire trước khi bà Nhu rời Mỹ, ông Trần Văn Chương
đã leo cầu thang lên lầu tám gặp con gái của ông. Cha con ông Chương đoàn tụ
trong phòng riêng. Với báo chí, sau đó, ông cựu Đại sứ tuyên bố ‟không cần phải hòa giải”; trước bi kịch
gia đình hai người đã dẹp qua những bất đồng từ trước. Bà Nhu kể cho Clare
Booth Luce một kịch bản khác. Bà Nhu nói ông Chương tìm đến gặp bà vì ông muốn
trở về Việt Nam tham gia chính phủ mới; nhưng dĩ nhiên ông không thể nào làm
như thế nếu không có sự đồng ý của bà Nhu. Ông Chương khó có thể bắt tay với
phe đảo chánh ngay sau khi họ vừa giết chết con rể của ông, nếu không có sự
giải thích hay giúp đỡ nào đó từ phía bà Nhu.
Bà Nhu đã không tha thứ cho ông Chương như ông yêu
cầu. Bà Nhu không tha thứ vì ông bỏ chế độ hồi tháng 8; bà Nhu không tha thứ
cho ông vì ông đóng cửa không tiếp bà và Lệ Thủy ở nhà. Và bà Nhu cũng không
khi nào tha thứ cho cha mẹ đã cho bà một tuổi thơ như một đứa con gái thứ hai
vô hình. Và cũng có thể bà Nhu đã biết cha mẹ của bà là kẻ phản phúc đối với
chế độ, nhưng có lẽ bà không rõ chi tiết. Wesley Fishel, Trưởng nhóm Cố vấn
Việt Nam tại đại học Michigan, trở thành bạn thân của Tổng thống Diệm ngay từ
những năm 55-56. Năm 1960, Fishel đã viết cho Tổng thống Diệm về ‟tham vọng
chính trị” của ông Trần Văn Chương. Fishel nói với Tổng thống Diệm là ông
Chương ‟gần như
đã phá hủy toàn bộ tổ chức thân hữu của ông (Tổng thống Diệm) tại Hoa Kỳ” từ khi ông đến làm Đại sứ Việt Nam tại
Washington, D.C. Đến nay, không ai hiểu hay có câu trả lời lý do nào Tổng thống
Diệm vẫn giữ ông Chương trong chính phủ cho đến khi ông từ chức.
Một trục trặc nhỏ bà Nhu không giải quyết được trước
khi rời Los Angeles đi Rome gặp lại những người con nhỏ là tiền. Một nguồn thân
cận với bà Nhu cho The New York Times
biết bà Nhu đem theo 5.000 đô-la cho chuyến Mỹ du trong 3 tuần. Trong thời gian
suy nghĩ phải làm gì sau cuộc đảo chánh, bà Nhu vẫn không ngưng mang nợ nhưng
không còn một chính phủ ở Sài Gòn để thanh toán những món nợ đó cho bà. Một số
người Mỹ đã cho bà tạm trú ở tư gia sau khi ra khỏi khách sạn. Những người bạn
thuộc đảng Cộng hòa, Clare Booth Luce, Richard Nixon cũng không thể giúp bà Nhu
mãi. Bà còn nợ một nửa chi phí, 1.000 đô-la, của bà tại khách sạn Beverly
Wilshire. Nhưng Bradley O’Leary ở chương 9 trong cuốn Triangle of Death: The Shocking
Truth About the Role of South Vietnam and the French Mafia in the Assassination
of JFK nói bà để lại
món nợ khổng lồ ở khách sạn Beverly Wilshire (‟leaving a collosal unpaid bill at the Beverly Wilshire Hotel”).
Báo Daily Herald ngày 9 tháng 12 và báo Hillsdale Daily News ngày 27/12/1963
đều đăng lời của Douglas H. Boone, Giám đốc khách sạn Sheraton-Blackstone ở
Chicago, than mất 200 đô-la với bà Nhu, ‟Chúng tôi may mắn. Nhiều khách sạn khác bị nặng hơn rất nhiều.”
Cuộc chiến Việt Nam leo thang và sau cùng đã chấm dứt.
Kết quả là Việt Nam đã thống nhất vê mặt địa lý và đã phải trả một giá kinh
hoàng: 2 triệu người dân hai miền đã thiệt mạng, hơn 1 triệu người lính cộng
sản hai miền tử thương cùng 250.000 binh sĩ VNCH. Hơn 58.200 tên người lính Mỹ
bỏ mạng hay mất tích ở chiến trường Việt Nam khắc đậm trên bức tường tưởng niệm
ở Washington, D.C.
Người đàn ông thứ ba của dòng họ Ngô-Đình bị phe đảo chánh
giết sau đó là ông Ngô Đình Cẩn. Mỹ giao ông Cẩn cho phe đảo chánh giam ông
trước khi đem xử, rồi bắn.
Sau khi bà Nhu vội vã cho thuê rẻ căn apartment ở
Paris, giám mục Ngô Đình Thục đã thu xếp cho bà ở lại trên một mảnh đất của
Giáo hội Rome trước ông khi đi nhận nhiệm vụ mới ở miền Nam nước Pháp. Năm 1981,
giám mục Ngô Đình Thục bị giáo hội rút phép thông công. Năm 1984, ông Ngô Đình
Thục chết trong nghèo khó tại một tu viện ở Carthage, Missouri.
[Ngày] 12 tháng Tư, 1967, con gái yêu của bà Nhu, Lệ Thủy,
mới 22 tuổi, tử nạn giao thông ở ngoại ô Longjumeau, Pháp. Lệ Thủy chết không
làm trọn lời thề đã viết trong nhật ký: giết những người đã hại nước Việt Nam
và đã giết cha cô. Đến khi qua đời, bà Nhu vẫn không tin là con bà tử nạn giao
thông. Ba người con còn lại, học hành, thành đạt, trưởng thành, sống đời bình
thường như những công dân của châu Âu. Bà Lệ Quyên tử nạn giao thông trên đường
đi làm vào ngày 16 tháng 4, 2012.
Bà Nhu qua đời vào Lễ Phục sinh năm 2011, không phải
một lần nữa đau lòng vì mất con, người con gái sau cùng.
■ Gặp
ông Đại úy
[Năm] 1959, sau 16 năm lập gia đình, từ một tiểu thư
danh gia thế phiệt bà Nhu đã là mẹ của bốn người con, và cũng là một mệnh phụ
đầy danh vọng và quyền lực. Đó có phải là một cuộc đời hạnh phúc? Theo một cuốn
nhật ký của bà Nhu thì không.
Đây không phải là cuốn hồi ký ‟Le Caillou Blanc” mà là một quyển nhật ký viết từ năm
1959 đến năm 1963. Một cuốn sách ghi lại các sự kiện, những suy nghĩ mỗi ngày,
ngay sau đó. Một cuốn sách không có hiệu đính hay sửa đổi của người thứ hai.
Đúng vậy; bà Nhu có viết nhật ký trong 5 năm sau cùng
ở Dinh Độc Lập, trung tâm quyền lực của chính phủ Ngô Đình Diệm. Đây có lẽ là
cuốn nhật ký bà Nhu không muốn ai biết đến. Trong thời gian làm việc với tác
giả Demery bà Nhu không khi nào đề cập đến quyển nhật ký 59-63 đó. Tuy nhiên,
khi còn sống, bà Nhu đã nhờ người quen ở Mỹ tìm xem có biết cuốn nhật ký của bà
hiện ở đâu hoặc ai đang giữ nó. Thế cuốn nhật ký bà Nhu hiện ở đâu? Và ai hay
cơ quan nào đang giữ nó?
Cuốn nhật ký 59-63 hiện đang ở trên đất Mỹ.
Người giữ quyển nhật ký 59-63, qua Google, đã tìm được
và liên lạc với tác giả Demery. Tác giả cuốn Finding the Dragon Lady ngờ rằng một người Mỹ trẻ tuổi đang
giữ nhật ký bà Nhu là chuyện xa vời. Gặp nhau ở New York, người giữ nhật ký
59-63 không muốn nói hay không thể nói rõ với tác giả Demery tại sao ông có
được có cuốn nhật ký trong tay. Là người có người thân trong quân lực và cảnh
sát VNCH, ông nói với Demery, ‟Tôi lớn
lên, rồi tôi có quyển sách đó.”
Demery được cho xem qua cuốn nhật ký bà Nhu ở một tiệm
cà phê Starbuck. Cuốn sách khổ 12 cm x18 cm, bìa đã cũ, có vết ố, dán keo dính
ở gáy; những trang trong đầy nét chữ nghiêng bên phải, viết bằng bút mực nâu,
mực xanh, có khi bằng bút xáp màu đỏ.
Trước khi vào sơ lược nội dung cuốn nhật ký, mời bạn
đọc gặp người giữ cuốn nhật ký 59-63.
Nếu người giữ quyển nhật ký 59-63 đã tìm gặp tác giả
Demery qua Google thì người viết đã gặp ông trên Facebook và sau đó trao đổi
với nhau qua điện thoại và Skype. Người đó là ai?
Đó là Đại úy (nghỉ hưu) James Van Thach. Đại úy James là con của Trung tá John W. Peterkin
(nghỉ hưu), một cựu sĩ quan Hoa Kỳ đã phục vụ trong Thế chiến thứ II, chiến
tranh Đại Hàn, cố vấn ở chiến trường Việt Nam và bà Thạch Thị Ngọc, nữ lực sĩ
giữ kỷ lục nhảy cao của Việt Nam từ 1966-1968. Đại úy James sinh năm 1976 lớn
lên ở Bellerose, Queens, New York, tốt nghiệp Cử nhân khoa Sử tại St. John’s
University (1998) và Juris Doctor tại Touro College Jacob D. Fuchsberg Law
Center (2002).
Thay vì làm luật gia cho quân đội hay mở văn phòng tư
vấn dân sự, ông đã xung phong ra trận dưới màu áo của một sĩ quan bộ binh. Đại
úy James đã phục vụ ở chiến trường Iraq 24 tháng. Tại đây, ông bị trọng thương
hai lần, và đã giải ngũ vào năm 2009 mang theo những chấn thương tinh thần và
thể chất. Năm 2008, chính phủ Iraq trao tặng ông cấp bậc Chuẩn Tướng Tham mưu
Danh dự. Đầu năm 2013, Đại úy James đã tình nguyện sang Afghanistan để nói
chuyện với các binh sĩ tại đây về kinh nghiệm chiến trường và các nỗ lực hàn
gắn chấn thương tâm lý.(21)
Trao đổi với James, người ta có thể thấy ngay sự say
mê cháy bỏng tìm hiểu lịch sử Việt Nam của ông. Một người tuổi chưa đến 40,
sinh trưởng tại Hoa Kỳ, không thạo tiếng Việt nhưng ông có kiến thức và ý thức
sâu sắc về lịch sử cận đại cũng như tình hình xã hội, kinh tế, chính trị của
Việt Nam hiện nay.
Trả lời câu hỏi từ đâu ông có cuốn nhật ký 59-63,
James nói, như đã nói với tác giả Demery, ông có bà con phục vụ dưới chính thể
Việt Nam Cộng hòa, trong quân đội và cảnh sát. Vì là thế hệ kế thừa của gia
đình nên ông được trao lại cuốn nhật ký này.
Nếu tra cứu tài liệu liên quan đến giai đoạn lịch sử
Việt Nam ở những thập niên 50-60 người ta có thể biết rằng chính phủ VNCH đã
tịch thu tài sản của toàn gia đình Quốc trưởng Bảo Đại và của những người liên
hệ với ông bằng đạo luật số 17/57 và 16-2-1957 và sắc lệnh số 122-TC ngày
27-02-1958.(22)
Sau cuộc đảo chánh 1/11/1963, cũng thế, Hội đồng Quân
nhân Cách mạng cũng có Ủy Ban Tịch Thu Tài Sản Gia Đình Họ Ngô.(23)
Hơn nữa, sau cuộc chỉnh lý 30/1/1964, chính phủ của
Tướng Nguyễn Khánh đã tổ chức triển lãm ‟tội ác nhà Ngô”. Trong cuộc triển lãm
được ký giả David Horowitz đài NBC tường thuật trong chương trình phát hình
ngày 28 tháng 3, 1964 người ta thấy một tấm bảng lớn ghi ‟Sự thật về ngày 11.11.1960.
Tài liệu tối mật trích nhật ký của bà Ngô Đình Nhu nhũ danh Trần Lệ Xuân” bên dưới là ảnh chụp nhật ký của Bà
Nhu được phóng lớn trưng bày bên cạnh các sơ đồ tham nhũng của chính phủ Ngô
Đình Diệm.(24)
Trong ‟Tuyên bố của Bà Ngô Đình Nhu nhân dịp kỷ niệm Đệ nhị Chu niên
Chương trình Ấp Chiến lược và Đệ nhị Chu niên Chính sách Chiêu hồi” ngày 17 tháng 4, 1964, ở cuối trang 3
và đầu trang 4, bà Nhu xác định bà cũng đã biết về cuộc triển lãm trưng bày một
vài đoạn trong‟cái gọi là ‘nhật ký riêng tư’ được xem là của tôi” viết về ngày 11/11/1960. Bà Nhu phản
đối những người tổ chức triển lãm vì họ đã không được phép của bà, tác giả giữ
tác quyền (‟…they have never obtained my author’s
rights which South Vietnam has recognized in the signing of the international
copyright agreement.”)(25)
Từ tháng 11, 1963 đến khi cuốn nhật ký của bà Nhu đến
tay Đại úy James, không ai biết nó đã từng được bảo quản thế nào, ở đâu, từng
do ai cất giữ trong suốt gian đoạn hỗn loạn 1963-1967, rồi suốt những năm của
đệ nhị Cộng hòa đến ngày 30 tháng 4, 1975.
Trả lời câu hỏi ông có dự định thế nào với cuốn nhật
ký 59-63, Đại úy James cho biết trong thời gian qua có một số người quan tâm đã
liên lạc với ông về vấn đề này.
● Trước nhất là gia đình bà Nhu; ông Olindo Borsoi,
chồng của bà Ngô Đình Lệ Quyên, đã liên lạc với Đại úy James để tìm hiểu về
cuốn nhật ký đó và muốn ông giao nó lại cho gia đình họ Ngô Đình để đưa vào một
viện bảo tàng (sắp thành lập) trưng bày cùng với tất cả hình ảnh, tư liệu, thư
từ như một khối di sản của dòng họ Ngô Đình để lại cho hậu thế.
● Thứ hai là một trong những văn khố nghiên cứu lớn
hàng đầu trên thế giới lưu trữ các ấn phẩm, tác phẩm hiếm về những sự kiện
chính trị, xã hội và kinh tế trong thời kỳ hiện đại.
● Thứ ba là một cơ quan truyền thông Việt ngữ. Cơ sở
này muốn đứng ra phát hành cuốn nhật ký 59-63 và muốn giữ quyền lựa chọn và
hiệu đính nội dung.
Cả hai đề nghị của gia đình bà Nhu và của cơ sở truyền
thông tiếng Việt vừa kể không thích hợp với quan điểm và dự tính của người đang
giữ cuốn nhật ký. Đại úy James mong muốn cuốn hồi ký được phát hành bằng nguyên bản tiếng Pháp, như bà Nhu đã viết, không
hiệu đính, chỉnh sửa cùng lúc với hai bản dịch chuyên nghiệp sang tiếng
Việt và tiếng Anh, sát với nội dung của nguyên bản.
James cho rằng cuốn nhật ký này là tài liệu mang tính
lịch sử của Việt Nam; nó thuộc về toàn dân Việt Nam và là một tài liệu quan
trọng cần được phổ biến khắp nơi, cho tất cả những ai quan tâm đến giai đoạn đó
trong lịch sử Việt Nam cận đại. Cuốn nhật ký không thể chỉ là hàng mẫu trưng
bày trong viện bảo tàng và nó cũng thể bị cắt xén, chỉnh sửa để xuất bản.
Đại úy James nói, ‟Đây là vấn đề cần thời gian; không thể vội vã.”
Trả lời câu hỏi tài chính có phải là một động cơ khiến
ông muốn xuất bản cuốn nhật ký 59-63, Đại úy James dứt khoát, ‟không phải thế”;
ông nói, ‟Cuốn nhật ký này ‘not for sale’. Nó vô giá.”Một dự
tính của ông sau khi phát hành cuốn nhật ký là dùng tiền thu được để giúp chỉnh
trang, làm cỏ cho Nghĩa trang Quân đội Biên Hòa cũ (26), nay gọi là nghĩa trang
Bình An. James nói đó là điều tối thiểu ông có thể làm, như một chiến sĩ Hoa
kỳ, thế hệ hậu duệ của VNCH, để bày tỏ lòng kính trọng và ngưỡng mộ với tất cả
tử sĩ đã hy sinh bảo vệ nước, nhà.
■ Đôi
điều về cuốn nhật ký của bà Nhu
Trong cuốn Finding the Dragon Lady, tác giả Demery chỉ trích đoạn
một phần rất nhỏ trong cuốn nhật ký dầy hơn 350 trang. Phần trích dịch đó chỉ
minh hoạ một phần nhỏ cuộc sống không hạnh phúc, ngay giữa lòng quyền lực, của
Đệ nhất phu nhân nền đệ nhất Cộng hòa.
Trong nhật ký bà Nhu ghi lại những một số sự việc rất
bình thường, từ sở thích cá nhân như xem xi nê Mỹ, đọc tiểu thuyết Nga, đi nghỉ
mát với các con ở bãi bể hay trên cao nguyên. Bà Nhu, có lẽ cũng như bao phụ nữ
khác, sợ già, sợ thời gian trôi nhanh… và trên những trang nhật ký, bà cũng ghi
lại cuộc đời đau khổ làm vợ ông Nhu.
Khi dọn về ở trong Dinh Độc Lập bà Nhu lần đầu tiên hy
vọng, từ khi có chồng, là đời sống gia đình sẽ hạnh phúc hơn, bà sẽ thấy ông
Nhu ở ‟nhà” thường hơn. Bà hy vọng mọi chuyện sẽ thuận chèo xuôi mái vì ông Nhu
đã dầy công giúp Tổng thống Diệm củng cố chế độ, và bà cũng xứng đáng với cái
ghế dân biểu quốc hội, và vai trò Đệ nhất phu nhân, giúp Thống tiếp đón quốc
khách. Bà sẽ được hỗ trợ về tinh thần cũng như được đền đáp tình yêu thể xác, ông
Nhu sẽ bỏ thuốc lá và dễ thương hơn đối với bà.
Khi những mong đợi đó không đến, những trận cãi vã
kịch liệt, những cánh cửa xập chặt là kết quả. Bà đã chán cảnh ngồi chờ hầu
chồng vì ông Nhu chẳng khi nào cần bà hầu hạ. Ban đầu bà Nhu không hiểu tại sao
thế. Bà vẫn trẻ, vẫn đẹp. Bà viết trong nhật ký, có lẽ, ông Nhu đã già quá rồi,
không còn thích chuyện gối chăn nữa. Bà tội nghiệp cho chồng, mất đi niềm hưng
phấn vì mớ tuổi đời; nhưng ở những trang nhật ký khác bà Nhu lại tội nghiệp cho
số phận của mình, phải sống với một ông già bất lực và phải tự tìm cách thỏa
mãn những ‟ham muốn trào dâng”. Đến 1959, bà Nhu mang thai người con út, ông
Nhu không hoàn toàn lạnh cảm với bà. Cũng thời gian đó, bà Nhu khám phá ông Nhu
chỉ bất lực với bà, nhưng với một người đàn bà khác thì không.
Trong nhật ký 59-63, bà Nhu ghi chi tiết chuyện hai vợ
chồng to tiếng khi tranh cãi về chuyện ông ngoại tình. Nhưng bà Nhu nổi điên
không hẳn vì sự ngoại tình của chồng mà vì ông Nhu ngoại tình với một người con
gái ‟thấp hèn”, ‟nhơ nhớp”. Bà kinh thường tình địch đến nỗi chỉ gọi thiếu nữ
đó là ‟con ấy” [nguyên văn ‟creature”] chứ không gọi bằng tên.
Ông Nhu biện hộ cho ông và người tình, ông nói đó là
một cô gái ngọt ngào, dễ thương, ‟chỉ nghèo chứ không nhơ nhớp”. Và hơn hết, cô gái ấy
không như bà Nhu; ông Nhu nói ‟em làm tôi sợ.” Chiến
tranh bùng nổ. Thỏa ước hòa bình chỉ đến vài ngày sau đó. Hai người đồng ý rằng
hôn nhân của họ sẽ tốt hơn nếu hai người ít sống gần nhau.
Bà Nhu nhiều đêm thao thức, cố ngăn dòng lệ, tự hỏi ai
là người đàn ông xa lạ đang ngủ cạnh mình; tình yêu trong xi nê, hay như truyện
trong sách không đến với bà. Bà từng nghĩ, với sắc đẹp của tuổi đang xuân, sự
bặt thiệp ngoài xã hội, và là mẹ của những đứa con bà có thể giữ được chồng.
Thế mà, với ông, bà vẫn là một kẻ vô hình trong Dinh Độc Lập.
Chắc chắn, là người quá mộ đạo, ông Nhu sẽ không li dị
bà. Và bà không thể bỏ ông Nhu. Không có ông Nhu thì bà sẽ là ai?
Ngay trang đầu tiên của cuốn nhật ký viết ngày 28
tháng giêng năm 1958, người đàn bà 34 tuổi, trẻ đẹp viết về cái chết. Độ trầm
cảm sâu thẳm đó hoàn toàn mâu thuẫn với ứng xử bề ngoài của một người đầy tự
tin. Vài ngày sau đó bà đi đến quyết định bỏ đi ‟những giấc mộng hồng và những
giấc mơ xanh”, bà chấp nhận rằng bà sẽ không thể nào là một cái gì đó hơn như
bà đang ở thời hiện tại. Về tình chồng vợ, bà Nhu viết, ‟Anh ấy không còn trẻ để làm
hơn thế nữa.” Nhưng
đôi khi ông Nhu trỗi dậy thì lại không đúng lúc hay không như bà mong đợi. Bà
chán nản với sự bất công: chồng bà có một thời son trẻ ong ướm huy hoàng, còn
bà mới 34 mà chỉ được hưởng của thừa, của sót lại của ông Nhu. Không khó để
đoán được bà Nhu chờ mong cái gì. Bà phải tìm những cách khác để ‟dập tắt ngọn lửa dục vọng của mình”.
Dù cố tình lẩn trách, cuốn nhật ký 59-63 đã cho thấy
rõ nhu cầu tình cảm của bà Nhu chỉ được thỏa mãn khi bà xác định được vị trí ở
chính trường. Bà từ từ bị bót ngạt và ngã quỵ vì cuộc hôn nhân không tình ái,
chung quanh chỉ còn những người không có tâm hồn và những khát khao như bà.
Bà Nhu viết cho chính mình, ‟Càng ngày mình càng yêu anh ấy
ít đi.”
Bà Nhu, dường như, cũng đã biết đến tình yêu một chốc
bằng vài cuộc tình lẻ. Trong những trang nhật ký đó bà Nhu viết về ba người đàn
ông, nhưng chỉ bằng tên tắt là L, K và H. Và bà cũng viết, ‟Hạnh phúc thay chưa gặp ai có
tất cả”. ‟Tất cả” trong ngữ cảnh này là sự chân thành, kính trọng,
và tình yêu tha thiết – những đức tính cần có để xứng với phẩm chất của bà.
Dường như H là người gần có ‟tất cả” vì tính năng động, và cung cách lạ thường
trong cuộc săn đuổi tình yêu của bà Nhu. Bà Nhu hỏi H, ‟Anh có thế này với tất cả đàn
bà không?” Câu trả lời
của H đã đưa bà lên mây xanh, ‟Em tưởng đàn bà ai cũng như em sao? Anh phải vượt biển mới tìm
được em đó.”
Ông H đã hiểu bà Nhu. H yêu Lệ Xuân vì Lệ Xuân là Lệ
Xuân: đẹp lộng lẫy, cao ngạo, ngang bướng, người đàn bà không chấp nhận vị trí
đã được những người đàn ông xung quanh khoanh vòng, đặt chỗ.
Nhưng, cuốn nhật ký 59-63 của bà Nhu không chỉ là
những trang giấy cũ ghi chép những cuộc tình thoáng chốc, những vụ cãi vã ghen
tuông, hay mức trầm cảm của một thiếu phụ đời thường. Trong cuốn nhật ký đó
ngoài những trang viết về gia đình, về chồng, về con, về chị, về em, bà Nhu còn
ghi lại rất nhiều sự kiện quan trọng về Tổng thống Ngô Đình Diệm và chính sách
của ông, về những nhận vật quan trọng ở trung tâm quyền lực thời đệ nhất Cộng
hòa, kể cả ông bà cựu Đại sứ Trần Văn Chương, hay những tướng tá và những người
khác, và các sự kiện chính trị quan trọng.
Chỉ một thí dụ, trang nhật ký ngày 12 tháng 11, năm
1960 bà Nhu ghi lại những gì xảy ra ngày 11/11/1963, Vương Văn Đông đã làm gì,
Nguyễn Khánh đã làm gì, Tổng thống Diệm ứng phó ra sao, và bà đã làm gì.
Hồi ký và nhật ký khác nhau được sử đụng khác nhau
trong các nghiên cứu lịch sử.
Nhật ký, trong nghiên cứu lịch sử, là một nguồn tại
liệu khó sánh kịp về phẩm cũng như lượng. Nhật ký đã cung cấp cho sử gia và mọi
người một cái nhìn sâu sắc về quá khứ. Nhiều nhân vật nổi tiếng trong lịch sử
đã dùng nhật ký để ghi lại những gì đang xảy ra với họ và với đất nước của họ
suốt dòng lịch sử. Nhiều cuốn nhật ký đã được công bố và có một số đã đi vào
lịch sử lịch sử và trở thành những tài liệu văn học trên thế giới. Thí dụ cuốn
nhật ký 1660-1669 của của Samuel Pepys trở thành nguồn sử liệu cho giới nghiên
cứu về đời sống ở London trong những năm 1960. Nó ghi lại nhiều sự kiện quan
trọng thời đó: bệnh dịch lớn ở London vào năm 1665, vụ hỏa hoạn ở London năm
1666. Cuốn nhật ký của Semuel Pepys đã cho sử gia thấy rõ những gì đã xảy ra ở
London trong thời đó.
Quan trọng không kém, cuốn nhật ký của bà Nhu viết từ
ngày 28 tháng giêng, 1959 đến ngày 7 tháng 6, 1963, khi xuất bản, sẽ trở thành
chứng từ, tài liệu lịch sử giúp cho giới nghiên cứu hiểu rõ, hiểu thêm về chính
phủ Ngô Đình Diệm, về các cuộc chính biến, về những nhân vật đã trực tiếp và
gián tiếp viết lên những trang sử Việt Nam thời đó, v.v. Hơn nữa, cuốn nhật ký
đó còn có thể là một tài liệu để giới phân tâm học, các chuyên gia tâm lý
nghiên cứu và phân tích một cách khoa học để vẽ lại chính xác hình ảnh của nhân
vật lịch sử đầy quyến rũ và mâu thuẫn.
Ngoài lời xác định của tác giả Demery, người đã liên
lạc, làm việc với và biết nét chữ của bà Nhu, rằng quyển nhật ký đó do bà Nhu
Viết, một chuyên viên lưu trữ tại Đại học Stanford đã được xem cuốn nhật ký nói
rằng chữ viết tay trong đó ‟tương tự hoặc giống như” chữ viết tay trên lá thư giữa bà Nhu
và các viên chức Hoa Kỳ trong cùng thời gian đó.(27)
Cuốn nhật ký 59-63 của bà Nhu, không còn nghi ngờ gì
nữa, nó phải được xuất bản, công bố cho tất cả mọi người quan tâm đến lịch sử
Việt Nam.
Trở lại cuốn Finding the Dragon Lady: The Mystery of Vietnam’s Madame Nhu,
qua những trang hồi ký gởi cho Demery, bà Nhu luôn luôn thần tượng hóa chính bà
và lịch sử của gia đình bà. Sai sót duy nhất, nếu có thể xem là thế, một lần bà
Nhu thì thầm qua điện thoại, ‟Có lẽ, tôi đã nên khiêm nhường hơn một chút về sự vĩ đại của gia
đình tôi.” Demery
cũng nhắc lại câu chuyện này trong chương trình ‟The Daily Show” với Jon
Stewart hôm 6/11/2013. Bạn đọc cũng có thể theo dõi tác giả Demery trao
đổi với ký giả Andrew Lam và khán giả trong chương trình BookTV (C-SPAN2).(28)
Tác phẩm của Demery là một công trình nghiên cứu đáng
chú ý không chỉ vì nó đã phác họa được cuộc đời của một nhân vật nhiều phức tạp
và bí ẩn đã góp phần viết nên lịch sử Việt Nam mà còn phải kể đến sự kiên nhẫn,
khéo léo của tác giả trong suốt thời gian nghiên cứu đã làm việc với một chính
khách lưu vong dù đã đi vào quên lãng nhưng vẫn còn cái cao ngạo đáng ghét của
một thời đầy quyền lực.
Là một độc giả, người viết cảm ơn tác giả Monique
Brinson Demery đã viết cuốn Finding the Dragon Lady: The Mystery of Vietnam’s Madame Nhu.
Sau cùng xin cảm ơn Đại úy James Van Thach đã thật
chân thành, sốt sắng và xuyên suốt trong các cuộc trao đổi với người
viết.
© 2014 DCVOnline
(1)
Nhân tham dự phiên họp Liên minh Liên Nghị viện tại Belgrade vào trung tuần
tháng 9, 1963
(2) Trương Phú Thứ, Chuyện trò với Bà Ngô Đình Nhu, đăng ở Văn Nghệ Tiền Phong; đăng lại trên Nguyệt San Dân Chúa, Số 332, tháng 10, 2004
(3) Trương Phú Thứ, Đây là sự thật, vantuyen.net, 2007/12/23
(4) Trương Phú Thứ, Có Hay Không ‟Hồi ký” Của Bà Ngô Đình Nhu? dankeu.com, 2011/01/24
(5) Ngọc Lan, Nói chuyện với ông Trương Phú Thứ, người sẽ xuất bản hồi ký của bà Ngô Ðình Nhu. Người Việt, Monday, April 25, 2011.
(6) Ngô–Ðình Quỳnh, Ngô–Ðình Lệ Quyên ( 2012), Jacqueline Willemetz, (Ed.), La République du Viêt–Nam et les Ngô–Ðình Suivi des mémoires posthumes de Madame Ngô–Ðình Nhu. L’Harmattan, 2013, Mémoires, Récit Historique Asie Vietnam
(7) Tường An, Paris tưởng niệm 50 năm cố Tổng thống Ngô Đình Diệm qua đời, RFA, 3/11/2013.
(8) ‟Letters to the Times: Mrs. Nhu Defends Stand”, The New York Times, 14 August 1963
(9) Madame Nhu at Fordham University: Bonze, Fordham/Student Comments re: Madame Nhu [Part 1 of 2], A Television History, ABCNews, 11/10/1963, Fordham University, New York, NY. http://openvault.wgbh.org/catalog/vietnam–1–of–2–madame–nhu–at–fordham–university–bonze–fordham–student–comments–re–madame–nhu–part–1–of–2
(10) Madame Nhu, LA During Coup, Vietnam: A Television History, ABC News Video Source. http://openvault.wgbh.org/catalog/vietnam–abc–9465–madame–nhu–la–during–coup
(11) Madame Nhu Press Conference, Vietnam: A Television History, CBS News, http://openvault.wgbh.org/catalog/vietnam–78–106–madame–nhu–press–conference
(12) Mme. Nhu Leaves The US, But May Be Back, British Pathé, 17/11/1963 http://www.britishpathe.com/video/madame–nhu–leaves–us–and–saigon–settles–down/query/pagodas
(13) Saundra Saperstein and Elsa Walsh, A Journey From Glory to the Grave: Prominent Vietnamese Family’s Saga Began in Palace, May End in Court in the Wake of a Double Death, The Washington Post|November 05, 1987|http://articles.latimes.com/1987–11–05/news/vw–18789_1_vietnamese–family
(14) Open Vault, Interview with Madame Ngo Dinh Nhu, 1982, Vietnam: A Television History, 02/11/1982, WGBH Media Library and Archive. (14a) Thực ra tin ông Nhu thương lượng với cộng sản Bắc Việt do chính ông Nhu rò rỉ.
(15) Paul B. Fay, Jr., Oral History Interview – JFK #3, 11/11/1970, trang 199–200
(16) ‟Ce celui qui a des oreilles entende ce que l’Esprit dit aux Églises: A celui qui vaincra je donnerai de la manne cachée, et je lui donnerai un caillou blanc; et sur ce caillou est écrit un nom nouveau, que personne ne connaît, si ce n’est celui qui le reçoit.” – Apocalypse 2.17 (version Annotée Neuchâtel). ‟He that hath an ear, let him hear what the Spirit saith unto the churches; To him that overcometh will I give to eat of the hidden manna, and will give him awhite stone, and in the stone a new name written, which no man knoweth saving he that receiveth it.” Apocalypse 2.17 (King James Version)
(17) ‟Le Xuan had dropped out of the Lyceé Albert Sarraut, the pretigious French high school in Hanoi, where she had been a mediocre.” Stanley Karnow, Vietnam: A History, Revised and Updated Ed., Penguin Book USA Inc., 1991, p.283.
(17a) Vũ Thư Hiên, Chuyện kể dưới hầm, Montréal, 2006
(2) Trương Phú Thứ, Chuyện trò với Bà Ngô Đình Nhu, đăng ở Văn Nghệ Tiền Phong; đăng lại trên Nguyệt San Dân Chúa, Số 332, tháng 10, 2004
(3) Trương Phú Thứ, Đây là sự thật, vantuyen.net, 2007/12/23
(4) Trương Phú Thứ, Có Hay Không ‟Hồi ký” Của Bà Ngô Đình Nhu? dankeu.com, 2011/01/24
(5) Ngọc Lan, Nói chuyện với ông Trương Phú Thứ, người sẽ xuất bản hồi ký của bà Ngô Ðình Nhu. Người Việt, Monday, April 25, 2011.
(6) Ngô–Ðình Quỳnh, Ngô–Ðình Lệ Quyên ( 2012), Jacqueline Willemetz, (Ed.), La République du Viêt–Nam et les Ngô–Ðình Suivi des mémoires posthumes de Madame Ngô–Ðình Nhu. L’Harmattan, 2013, Mémoires, Récit Historique Asie Vietnam
(7) Tường An, Paris tưởng niệm 50 năm cố Tổng thống Ngô Đình Diệm qua đời, RFA, 3/11/2013.
(8) ‟Letters to the Times: Mrs. Nhu Defends Stand”, The New York Times, 14 August 1963
(9) Madame Nhu at Fordham University: Bonze, Fordham/Student Comments re: Madame Nhu [Part 1 of 2], A Television History, ABCNews, 11/10/1963, Fordham University, New York, NY. http://openvault.wgbh.org/catalog/vietnam–1–of–2–madame–nhu–at–fordham–university–bonze–fordham–student–comments–re–madame–nhu–part–1–of–2
(10) Madame Nhu, LA During Coup, Vietnam: A Television History, ABC News Video Source. http://openvault.wgbh.org/catalog/vietnam–abc–9465–madame–nhu–la–during–coup
(11) Madame Nhu Press Conference, Vietnam: A Television History, CBS News, http://openvault.wgbh.org/catalog/vietnam–78–106–madame–nhu–press–conference
(12) Mme. Nhu Leaves The US, But May Be Back, British Pathé, 17/11/1963 http://www.britishpathe.com/video/madame–nhu–leaves–us–and–saigon–settles–down/query/pagodas
(13) Saundra Saperstein and Elsa Walsh, A Journey From Glory to the Grave: Prominent Vietnamese Family’s Saga Began in Palace, May End in Court in the Wake of a Double Death, The Washington Post|November 05, 1987|http://articles.latimes.com/1987–11–05/news/vw–18789_1_vietnamese–family
(14) Open Vault, Interview with Madame Ngo Dinh Nhu, 1982, Vietnam: A Television History, 02/11/1982, WGBH Media Library and Archive. (14a) Thực ra tin ông Nhu thương lượng với cộng sản Bắc Việt do chính ông Nhu rò rỉ.
(15) Paul B. Fay, Jr., Oral History Interview – JFK #3, 11/11/1970, trang 199–200
(16) ‟Ce celui qui a des oreilles entende ce que l’Esprit dit aux Églises: A celui qui vaincra je donnerai de la manne cachée, et je lui donnerai un caillou blanc; et sur ce caillou est écrit un nom nouveau, que personne ne connaît, si ce n’est celui qui le reçoit.” – Apocalypse 2.17 (version Annotée Neuchâtel). ‟He that hath an ear, let him hear what the Spirit saith unto the churches; To him that overcometh will I give to eat of the hidden manna, and will give him awhite stone, and in the stone a new name written, which no man knoweth saving he that receiveth it.” Apocalypse 2.17 (King James Version)
(17) ‟Le Xuan had dropped out of the Lyceé Albert Sarraut, the pretigious French high school in Hanoi, where she had been a mediocre.” Stanley Karnow, Vietnam: A History, Revised and Updated Ed., Penguin Book USA Inc., 1991, p.283.
(17a) Vũ Thư Hiên, Chuyện kể dưới hầm, Montréal, 2006
(18) David G. Marr, Vietnam 1945: The Quest for Power, 1995, University of
California Press, Ltd. London, England, pp116–8.
(19) Charles Mohr, The Queen Bee, Time, August 9, 1963, p. 24
(20) Trang Pháp Luật, Luật Bảo vệ Luân lý, 21/1/2014.
(21) – Captain James Van Thach as told to Jonathan Wei, The Many Sacrifices of Captain Van Thach New York Village Voice. May 8, 2013.
- Wounded U.S. Army Captain Goes to War Zone in Afghanistan, New York City, NY (PRWEB) March 18, 2013;
- Đinh Yên Thảo, Đại úy James Văn Thạch, Trẻ Dallas 729, 26/5/2011, trang 28-33.
- Đinh Yên Thảo, Khi người thương binh trở lại chiến trường, Trẻ Dallas 834, 30/5/2013, trang 34-36.
- CBS News, Captain James Van Thach Iraq War Veteran Forms Extra-Special bond with Canine Companion, 2012.
- FOX News, Captain James Van Thach & Colonel Woycik talk about Service Dogs from CCI , 2012.
(22) Huy Phương/ Người Việt, Hoàng tử Bảo Ân: Từ truất phế đến tịch biên gia sản, Người Việt, April 08, 2013.
(23) Phạm Bá Hoa, Đôi dòng ghi nhớ. Houston, TX: Ngày Nay, 1994), tr. 80-81.
(24) NBC News, South Vietnamese attend exhibit of evidence for Nhu family political trials. March 28, 1964. Bạn đọc muốn tìm hiểu thêm có thể trả lệ phí tham khảo 1 phút phim phóng sự này của đài NBC.
(25) Madame Ngo Dinh Nhu, Statement of Madame Ngo Dinh Nhu on the occasion of the second anniversary of the Strategic Hamlets Program and the second anniversary of the ‟Chieu Hoi” (Open Arms or Return of the Prodigal Children) Policy, 7 April, 1964. Samuel Tankersley Williams Papers, Box 21 Folder 14, Hoover Institution Archives, pp. 48-58
(26) South Vietnam National Military Cemetery (1994)
(27) Katie Baker, Searching for Madame Nhu, The Daily Beast, Sept. 24, 2013.
(28) Monique Brinson Demery, Finding the Dragon Lady: The Mystery of Vietnam’s Madame Nhu, BookTV (C-SPAN2)
(19) Charles Mohr, The Queen Bee, Time, August 9, 1963, p. 24
(20) Trang Pháp Luật, Luật Bảo vệ Luân lý, 21/1/2014.
(21) – Captain James Van Thach as told to Jonathan Wei, The Many Sacrifices of Captain Van Thach New York Village Voice. May 8, 2013.
- Wounded U.S. Army Captain Goes to War Zone in Afghanistan, New York City, NY (PRWEB) March 18, 2013;
- Đinh Yên Thảo, Đại úy James Văn Thạch, Trẻ Dallas 729, 26/5/2011, trang 28-33.
- Đinh Yên Thảo, Khi người thương binh trở lại chiến trường, Trẻ Dallas 834, 30/5/2013, trang 34-36.
- CBS News, Captain James Van Thach Iraq War Veteran Forms Extra-Special bond with Canine Companion, 2012.
- FOX News, Captain James Van Thach & Colonel Woycik talk about Service Dogs from CCI , 2012.
(22) Huy Phương/ Người Việt, Hoàng tử Bảo Ân: Từ truất phế đến tịch biên gia sản, Người Việt, April 08, 2013.
(23) Phạm Bá Hoa, Đôi dòng ghi nhớ. Houston, TX: Ngày Nay, 1994), tr. 80-81.
(24) NBC News, South Vietnamese attend exhibit of evidence for Nhu family political trials. March 28, 1964. Bạn đọc muốn tìm hiểu thêm có thể trả lệ phí tham khảo 1 phút phim phóng sự này của đài NBC.
(25) Madame Ngo Dinh Nhu, Statement of Madame Ngo Dinh Nhu on the occasion of the second anniversary of the Strategic Hamlets Program and the second anniversary of the ‟Chieu Hoi” (Open Arms or Return of the Prodigal Children) Policy, 7 April, 1964. Samuel Tankersley Williams Papers, Box 21 Folder 14, Hoover Institution Archives, pp. 48-58
(26) South Vietnam National Military Cemetery (1994)
(27) Katie Baker, Searching for Madame Nhu, The Daily Beast, Sept. 24, 2013.
(28) Monique Brinson Demery, Finding the Dragon Lady: The Mystery of Vietnam’s Madame Nhu, BookTV (C-SPAN2)
© 2014 DCVOnline
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét