HỒ CHÍ MINH : NHỮNG VIỄN CẢNH MỚI
NHÌN TỪ HỒ SƠ CỦA QUỐC TẾ CỌNG SẢN
Sophie Quinn-Judge
Nguyễn Kha dịch
Nguyễn Kha dịch
Cuối năm 2000, tác phẩm Ho Chi Minh - A
Life của William J. Duiker, do nhà xuất bản Theia ở New York phát
hành, đã là một đóng góp to lớn cho những nhà nghiên cứu về Việt Nam nói chung
và về nhân vật Hồ Chí Minh nói riêng. Đây là một công trình nghiên cứu rất công
phu, vừa tổng hợp có phê phán những nghiên cứu của rất nhiều tác giả trước đó,
vừa khám phá và đối chiếu với những thông tin mới nhất đã được giải mật cho đến
năm 2000.
Nhưng có lẽ giá trị nổi bật nhất của
tác phẩm nầy là mức độ khả tín rất cao của các tài liệu và phương
pháp luận sâu sắc của tác giả. Có nhiều lý do giải thích hai phẩm
chất sử học nầy, nhưng chủ yếu là vì bốn đặc điểm sau đây:
- Trước
hết là môi trường hoạt động nghề nghiệp của tác giả: Ông là nhân viên
ngoại giao của chính phủ Mỹ tại Nam Việt Nam và Đài Loan trong thời kỳ
chiến tranh Việt Nam, là giáo sư Sử Đông-Á nhiều năm tại đại học Penn
State, và hiện nay là chuyên viên tư vấn cho chính phủ Mỹ và các định chế
nghiên cứu về Việt Nam và Trung Quốc hiện đại.
- Thứ hai là lãnh vực nghiên cứu
chuyên đề của chính bản thân tác giả: Ông không nghiên cứu rộng và nhiều
lãnh vực mà chỉ chú tâm vào chuyên đề Việt Nam. Trong 13 tác phẩm giá trị
mà ông đã hoàn tất và được xuất bản thì có đến 9 tác phẩm đã lấy phong
trào Cọng sản Việt Nam (và các phó sản chính trị của nó) làm đối tượng
nghiên cứu.
- Thứ
ba là khả năng và cơ hội tiếp cận các nguồn tài liệu rất hiếm và quý trong
quá trình nghiên cứu của ông: Chỉ riêng cho tác phầm Ho Chi Minh –
A Life, ngoài 807 footnotes chứa đầy những nguồn tài liệu vừa chính
thống công cọng vừa tư liệu cá nhân, trong phần Preface, ông cho biết để
viết tác phẩm nầy, ông đã đi 8 nước (Nga, Trung quốc, Anh, Hồng Kông, Úc,
Nhật, Pháp và Việt Nam, trước và sau 1975), tra cứu tài liệu của 29 định
chế nghiên cứu (Đại học, Viện bảo tàng, Viện nghiên cứu, Thư viện, Trung
tâm Lưu trữ tài liệu, Viện Sử học) và trao đổi thảo luận với 67 chuyên
viên về Hồ Chí Minh thuộc 10 quốc tịch khác nhau.
- Cuối
cùng là, khi đọc hết tác phẩm, ta thấy được ở ông thiên chức rất đặc biệt
của một người làm nghiên cứu kiểu mẫu và chân chính của ngành Sử học:
Khách quan, khoa học, lương thiện, và kiên trì. Ông tìm đến nơi đến chốn,
đối chiếu cùng một dữ kiên với nhiều nguồn tài liệu khác nhau, chuyện gì
không chắc, không biết thì ông nói rõ ra như thế, và hầu như không phê
phán mà chỉ để sự thực lịch sử nói lên ý nghĩa của chính sự kiện. Ông trân
trọng người đọc và tin tưởng ở trình độ của người đọc tác phẩm của ông.
Đọc xong Ho Chi Minh – A Life, tôi
lại càng buồn cho đa số các nhà gọi là “nghiên cứu Sử” Việt Nam, nhất là những
người gọi là “nghiên cứu và lý luận”ở nước ngoài, và quyết định từ nay sẽ đọc
sách và báo của người Việt trong và ngoài nước với tất cả sự dè dặt và thận
trọng. Vì sách của các tác giả Việt Nam, khi viết về ông Hồ
Chí Minh, thì thường lạc dẫn, chủ quan, phiến diện, cục bộ, có dụng ý tuyên
truyền, không chuyên nghiệp, ít trung thực và nhất là thiếu lương thiện trí
thức.
Trong Ho Chi Minh – A Life, tác giả
William Duiker có nhắc đến công trình và có sử dụng tài liệu của Sophie Quinn-Judge, người Mỹ đầu tiên
được phép tra cứu tại Trung tâm Bảo tồn và Nghiên cứu Tài liệu thuộc Viện
Mác-Lê của Đảng Cọng sản Nga tại Moscow sau khi chế độ Nga Sô Viết sụp đổ. Về
lại Mỹ, bà viết một bài ghi nhận ngắn tựa đề là "Hồ Chí Minh: New
Perspectives From The Comintern Files”, đăng trên The Vietnam Forum
14, Yale University Council on South East Asia Studies, mà chúng tôi chuyển
dịch dưới đây để thông tin giới hạn cho bạn bè ngành Sử có
quan tâm đến chủ đề nầy. Sau đó, bà Quinn-Judge sử dụng các tài liệu thu thập được
và triển khai thành tác phẩm Ho Chi Minh,
The Missing Years (C Hurst & Co. Publishers Ltd, London 2003).
Những đoạn nhấn mạnh là của người dịch để lưu ý người đọc đến một trong những nghi vấn lịch sử: Khi mới qua Nga lần đầu
tiên (30-6-1923) để chính thức tiếp cận với chủ nghĩa Mác-Lê và Phong trào Quốc
tế Cọng sản, thì ông Hồ Chí Minh vẫn giử lập
trường quốc gia dân tộc và khuynh
hướng chính trị thực tiễn của một người yêu nước trên đường tìm một đồng
minh, một công cụ hữu hiệu nhất sẵn sàng giúp ông chống ngoại xâm giải phóng
dân tộc, hay ông đã thực sự muốn làm một người Cọng sản ngay khi còn bôn ba trong
môi trường xã hội tả khuynh (kể cả trở thành đảng viên đãng Cọng sản Pháp) của
giới trí thức và thợ thuyền tại Paris ?
Sophie Quinn-Judge thấp thoáng cho ta biết một
phần nhỏ. nhưng Ho Chi Minh – A Life của William Duiker thì
cho người đọc biết rõ hơn nhiều ! - NGUYỄN KHA
Vào khoảng thời gian cuối cùng trong sáu năm
tôi ở tại Mạc Tư Khoa, tức là vào mùa Đông năm 1992, tôi bắt đầu nghiên cứu về những năm mà ông Hồ Chí
Minh (HCM) sống với Tổ chức Quốc tế Cọng sản (QTCS). Viện Mác-Lê cũ, nơi lưu
trữ hồ sơ của tổ chức nầy, là văn khố đảng Cọng sản đầu tiên tại Nga sô cũ mở
cửa cho các học giả vào nghiên cứu. Viện đó bây giờ được gọi là “Trung tâm
Bảo tồn và Nghiên cứu Tài liệu về Lịch sử Hiện đại Nga” và được điều hành
theo cung cách văn khố quốc tế, khác hẵn với những văn khố về các tài liệu
chính trị bí mật của Ủy ban Trung ương Đảng, hoặc của cơ quan mật vụ
KGB. Hồ sơ Việt Nam tại đó là một tập sưu tầm lộn xộn những phúc trình và công
văn Đi và Đến, có phúc trình không đề tên ai cả, có những lá thư riêng, và có
cả những mẩu báo chí mà QTCS thu thập. Các tài liệu nầy được viết bằng nhiều
thứ tiếng khác nhau, chủ yếu là tiếng Nga, tiếng Pháp và tiếng Anh, vài tài
liệu được dịch ra Anh, Pháp, Nga và Đức ngữ.
Quan hệ của ông HCM với QTCS, đặc biệt những hoạt động của ông tại
Mạc
Tư Khoa từ năm 1934 đến 1938,
đã là đối tượng của nhiều nghiên cứu suy đoán. Đảng Cọng sản Việt Nam (CSVN) đã
luôn luôn xem nhẹ những bất đồng ý thức hệ hoặc bất đồng cá nhân giữa các đảng
viên; lịch sử đảng đã nói rất ít về thời kỳ nầy của ông HCM, khi đề cập đến
cuộc đời hoạt động của ông. Dù rõ ràng những hồ sơ mà tôi đọc được thì rời rạc,
nhưng tôi cũng đã tìm được khá đủ (tài liệu) để tự thuyết phục về nhu cầu phải
xét lại cuộc đời và di sản chính trị của ông. Những phúc trình, thư từ và các mẫu
ghi chép mà tôi đọc được đã làm sáng lên hai khía cạnh chính của đời ông HCM.
Thứ nhất là triết lý chính trị, thái độ của ông trong cuộc tranh luận về chủ
nghĩa đã phân cách QTCS và đảng CS Việt Nam trong nhiều năm.
Và thứ hai là những quan hệ cá nhân của ông.
Về quan điểm chính trị của ông Hồ, tài liệu của Mạc
Tư Khoa xác nhận những gì mà
các học giả đã suy diễn: Rằng ông Hồ đã bị đảng cho thất sủng vào năm
1931 và 1932 (Hồ fell out of
political favor within his party in 1931-32). Điều mà các học giả không ngờ
tới là mức độ trầm trọng của những lời
cáo buộc ông Hồ.
Nội dung những cáo buộc có tính chính trị nầy là ông đã
không hiểu được vai trò vĩ đại của giai cấp công nhân (he did not understand the paramount role of
the working class). Và vào năm 1934, các lời buộc tội về sai lầm chính trị
đó lại nặng nề thêm với lời tố cáo rằng ông đã hoạt động với “một tên phản
bội mà ai cũng biết” tại Quảng Đông trong quá trình tổ chức Thanh Niên Cách
Mạng Đồng Chí Hội, hay còn được gọi tắt là nhóm “Thanh Niên”. Theo lá
thư gửi từ Phòng Hải Ngoại tại Hồng Kông cho Mạc Tư Khoa vào năm 1935, thì
chính ông HCM phải chịu trách nhiệm về đợt bắt giữ đã gần như làm tiêu tan cấp
lảnh đạo của đảng vào năm 1931 [1]. Không rõ là sau khi
ông Hồ xuất hiện trở lại, những lời cáo buộc trên có được biện minh như là vì
các động cơ chính trị không. Một sự thay đổi về chính sách của QTCS vào năm
1935 đã không phục hồi được ông Hồ; ông ở lại Mạc Tư Khoa, không hoạt động chính trị cho đến khi ông được
gửi về Trung Quốc (TQ) vào cuối năm 1938 như một lá thư khác đã đề cập đến.
Về đời sống riêng tư của ông Hồ, tôi kiếm được bằng chứng là đã có
lần ông cưới một nữ đồng chí cách mạng
tên là Nguyễn thị Minh Khai, người đã hoạt động gần gũi với ông tại Hồng
Kông trong những năm 1930 và 1931, và cũng đã ở Mạc Tư Khoa cùng với ông từ cuối năm 1934 đến đầu năm 1937.
Ngay cả cho đến nay, giới lãnh đạo Việt Nam vẫn thấy cần thiết phải bác bỏ sự
kiện ông Hồ có những quan hệ lãng mạng lâu dài, hay đã có con. Điều khẳng định
nầy hình như xuất phát từ quyết định muốn biến ông Hồ thành một vị thánh của
dân tộc, được mô tả như người hoàn toàn cống hiến đời mình cho đất
nước và đứng trên những ràng buộc cá nhân. Chuyện thật về quan hệ của ông Hồ
với bà Minh Khai, dù sao cũng đã làm tỏ hiện thêm nhiều điều, ngoài (tình cảm)
yếu đuối rất con người; vì chuyện nầy còn cho chúng ta biết thêm một chút nữa
về những liên minh chính trị của ông Hồ.
Nguyễn Thị Minh Khai (1910-1941)
Source: Wikipedia
Mục đích của bài viết nầy là thảo luận về những tài liệu của QTCS,
và đề nghị xem chúng có thể ăn khớp với những gì đã biết, để làm sáng tỏ các
điểm còn khó hiểu trong cuộc đời của ông Hồ. Những hồ sơ nầy, ít nhất là tài
liệu mà bây giờ chúng ta đang có, chỉ là một điểm khởi đầu mới trong cuộc tìm
tòi về con người đứng đàng sau nhiều huyền thoại. Điều tôi sẽ viết ở phần kết
luận là đề nghị một số câu hỏi mà các tài liệu nầy đã đặt ra về cuộc đời hoạt
động của ông Hồ, sau khi ông rời Mạc Tư Khoa vào cuối năm 1938.
Những lá thư của ông Hồ trong thập niên 20s, từ khi rời Paris đến Mạc
Tư Khoa, thường ký tên Quốc
hoặc Nguyễn ái Kvak [2]. Những lá thư nầy chứng tỏ ông là người sinh
động một cách rất trí thức, có lý luận, và bướng bỉnh. Ông Hồ viết cho
một đồng chí không rõ tên ở QTCS vào ngày 5-2-1924, yêu cầu được phỏng vấn để
thảo luận về vấn đề thuộc địa. Vào thời điểm đó, ông Hồ không làm việc ở văn
phòng của QTCS vì, ông viết rằng, mũi và các ngón tay của ông đã bị tê cóng khi
dự đám tang của Lê Nin vào tháng Giêng năm đó. Ngày 15-3, ông Hồ viết thư khác
cho đồng chí Zinoviev, phàn nàn chuyện không nhận được phúc đáp về yêu cầu xin
được phỏng vấn.
Một lá thư thứ ba gửi ngày 20-5 cho Bí thư của Phòng Đông Phương
lúc bấy giờ là đồng chí Petrov, trình bày những đề nghị của ông Hồ về một Liên
đoàn Cọng sản Đông Dương. Ông Hồ viết rằng ông đã suy nghĩ về
vấn đề nầy lâu lắm rồi, và thấy có nhiệm vụ chia sẻ với mọi người.
Quan tâm của ông Hồ là những người đấu tranh Á châu phải thoát ra khỏi sự cô
lập, vốn là nhược điểm của họ. Ông viết: thật là ích lợi biết mấy nếu
một người An Nam biết được những anh em Ấn Độ đã tổ chức chống đế
quốc Anh như thế nào, hay công nhân Nhật đã đoàn kết để chống lại sự bóc lột
của tư bản như thế nào, hoặc người Ai Cập đã hy sinh để đòi hỏi tự do như thế
nào. Ông viết tiếp: “Các dân tộc Đông Phương thường nhiều tình
cảm, và một kinh nghiệm sống thì giá trị với họ hơn là một trăm bài tuyên
truyền”.
Vào thời điểm nầy, hình như QTCS không coi trọng ông Hồ
lắm (he does not seems to have
been treated with great esteem by the Comintern). Ông lại viết
cho đồng chí Petrov để giải thích vì sao ông không trả tiền phòng cho khách sạn
Lux, là nơi mà những người hoạt động cho QTCS đang lưu ngụ. Trong ba tháng Mười
hai, Giêng và Hai, ông chia phòng với bốn năm người. Ban ngày thì ồn ào liên
tục, còn ban đêm thì bị rận cắn. Ông nói rằng “Đó là vì sao tôi đã không muốn trả 5 rubles tiền phòng, như một
dấu hiệu phản động”; Vào tháng ba, ông được chuyển qua
một phòng riêng với giá mà ông vẫn cho là “kinh tởm”
Khi ông Hồ được gửi gấp về Quảng Đông để theo phái bộ cố vấn của
Mikhail Borodin, hình như nhiệm vụ của ông đã chỉ được xác định một cách
mơ hồ (his mission seems to have been
vaguely defined). Đến Quảng Đông vào tháng 11-1924, ông Hồ lại viết thư xin
làm việc cho Krestintern (Phong trào Nông dân Quốc tế) tại Mạc
Tư Khoa, vì ông vốn ở trong Chủ
tịch đoàn của Phong trào nầy [3]. Ông yêu cầu họ đừng
cho ai biết ông đã rời Mạc Tư Khoa vì ông hiện đang là một cư dân “bất hợp pháp” tại TrungQuốc.
Những kinh nghiệm của ông ở đây đã là những bài học làm cách mạng đầu tiên và
có lẽ đã để lại những dấu ấn sâu sắc trong cuộc đời hoạt động
của ông sau nầy.
Cuộc liên hiệp với Quốc Dân Đảng Trung quốc (QDĐ) kéo theo cuộc
đàn áp đẩm máu ở Công xã Quảng Đông vào tháng 12 -1927, đã là một biến cố đặc
trưng cho những người Cọng sản Á châu và cho các nhân viên của QTCS đang cố vấn
cho ông Tưởng Giới Thạch.
Sau sự phản bội rõ ràng của ông Tưởng Giới Thạch vào giữa năm
1927, Stalin đã sửa sai và thực hiện một đường lối gần giống với nhóm Trốt-Kít,
vốn từng chỉ trích Stalin đã hợp tác với giai cấp tư sản Trung Quốc [4] . Trong nhận thức, đối với những lời chỉ trích khuynh tả,
thật dễ dàng thấy Stalin quả thật là khùng khi đầu tư vào sự hợp tác với phe tư
sản quốc gia. Những luâ䮠điểm dùng trong lời ai điếu cuộc liên minh nầy đã cứ trở lại ám
ảnh đảng CS Việt Nam và ông HCM.
Ông Hồ ít xuất hiện trong những năm đó. Sau nầy, một người đàn bà
Nga sống cùng nhà đã nhớ lại rằng ông Hồ cứ đi đi về về mà không nói cho ai
biết đang làm gì, rằng ông ta là “người cô độc” trong căn nhà của ông
Borodin [5] .
Chúng ta biết rằng trong hai năm sống ở Quảng Đông, ông Hồ đã mở
lớp huấn luyện cho các thanh niên Việt Nam xa xứ để đào tạo những cán bộ cách
mạng toàn thời đầu tiên. Từ năm 1925 đến tháng 4-1927, đã có mười khóa huấn
luyện để đào tạo vào khoảng 200 đến 300 cán bộ [6]. Ông Jacques Doriot, nguyên chủ tịch của Phân bộ Thuộc địa đảng
Cọng sản Pháp, hình như là người đầu tiên giới thiệu tổ chức Việt Nam Thanh
niên Đồng chí Hội tân lập nầy cho QTCS. Trong một lần công tác tại Trung Quốc
vào năm 1927, vào ngày 4-3, ông Doriot gửi một lá thư cho hai đồng chí Petrov
và Vasiliev ở Phòng Viễn Đông tại Mạc Tư Khoa. Sau một vài nhận định tổng quát về tình hình Đông Dương, ông
Doriot nhắc đến nguồn gốc của tổ chức “Jeunesse Révolutionnaire” ở Đông
Dương, mà thành phần nòng cốt được các đồng chí ở Quảng Đông gửi
về. Ông Doriot kể ra một nhóm ở Nam kỳ, hai ở Trung kỳ, sáu ở Bắc kỳ,
và bốn ở Xiêm [7].
Những biên bản của buổi họp về “Vấn đề Đông Dương” vào ngày 3-3
tại Quảng Đông trình bày một ngân sách ký tên “Lee (Nguyễn ái Kvak)”: ông Hồ
đòi hỏi một số tiền 20,000 Hoa tệ để huấn luyện 100 cán bộ tuyên truyền và tổ
chức, và 20,000 Mỹ kim nữa để yểm trợ cho 10 cán bộ toàn thời hoạt động một năm
trong nước. Ông Doriot và một người tên “Voline” cũng chứng ký trên
những biên bản nầy [8].
Nội dung huấn luyện cho cán bộ tại Quảng Đông đã trở thành một
cuốn cẩm nang chính trị có tên là “Đường Kách Mệnh”. Vào thời điểm mới
xuất hiện đó, cuốn sách mỏng nầy đã trở thành thánh kinh cho những người cách
mạng Việt Nam. Nhưng vào những năm đầu của thập niên 30s thì một cán bộ
Việt Nam được đào tạo tại MTK lại mô tả nó là sơ đẳng một cách đáng tuyệt vọng (it would be described by one Moscow-trained
Vietnamese activist as hopelessly primitive). Trong một Memo dài viết tay
bằng tiếng Pháp, một cán bộ nầy là ông Hà Huy Tập (còn có tên là Sinitchkin,
hay là Joseph Marat), giải thích rằng cuốn cẩm nang đã định nghĩa cuộc Cách
mạng Việt Nam như một cuộc cách mạng chống đế quốc, nhưng lại không xác
định rõ ràng giai cấp nào lãnh đạo cuộc cách mạng đó (but failed to define which class should
direct it) [9] .
Dường Kách Mệnh, ấn bản 1927
Về mặt lý thuyết, ông Hồ không phi chính thống vào lúc đó, ngược
lại, còn đi đúng với đường lối của QTCS, vốn chẳng thay đổi mấy kể từ Đại hội
II vào năm 1920 [10] . Một lá thư của ông Doriot gửi cho Đông Dương Thanh niên
Cách mạng Hội vào ngày 4-3-1927 cũng nhấn mạnh đến tinh thần liên minh, mà
(tinh thần nầy) chỉ thay đổi nhanh từ cuối năm 1927 mà thôi : “quý Đảng phải luôn luôn nhớ rằng những lực
lượng chủ yếu của cuộc đấu tranh tại Đông Dương là giai cấp công nhân, nông
dân, và tiểu tư sản ở thành thị”. Sau đó, ông còn viết tiếp: “nhưng đừng quên rằng dưới ách thống trị của
đế quốc, ngoại trừ một thiểu số lợi dụng, chính toàn dân (công nhân, nông dân,
phú thương, trí thức) đều quan tâm đến cuộc đấu tranh chống đế quốc. Đừng từ bỏ
một nỗ lực nào nhằm lôi kéo và tổ chức họ từng ngày cho cuộc đấu tranh. Đừng từ
chối một sự hợp tác nào. Ngược lại, hãy làm tất cả để động viên họ” [11] .
Trong thời gian ở Quảng Đông, ông Hồ đã đóng vai liên lạc giữa
phong trào nông dân của Quốc Dân Đảng và Phong trào Nông dân Quốc tế
(Krestintern) ở Mạc
Tư Khoa. Trong lá thư đề ngày
12-11-1924, ông Hồ đã yêu cầu Krestintern gửi tất cả tài liệu mà họ có như báo
chí, tuyên ngôn, v.v... Ông viết: “Tôi sẽ phụ trách việc các đồng chí ở đây phổ biến các tài liệu nầy” [12].
Vào năm 1925, ông Hồ giúp phổ biến Bản Câu Hỏi 11-điểm đến tất cả
các tổ chức nông dân của tỉnh Quảng Đông. Có lẽ kết quả của Bản Câu Hỏi nầy là
một báo cáo đánh máy mà Krestintern nhận được vào ngày 2 tháng 3 năm đó. Bản
báo cáo liệt kê sáu nguyên nhân có tính nguyên tắc của “Thảm trạng Nông dân
Trung Quốc”, gồm có tình trạng đông dân cư, tình trạng sơ khai của nền nông
nghiệp, kỹ nghệ không đủ phát triển để thu nhận lượng nhân công thặng dư, sự
xâm lăng của các nguồn tư bản ngoại quốc, lụt lội và các thiên tai khác, và
lòng tham của giới địa chủ. Báo cáo của ông Hồ còn có thêm phần chiết tính
chi-thu hàng năm của một tá điền bị lỗ 6.50 Mỹ kim.
Ông Hồ viết rằng nông dân phải được tổ chức mới thắng được các
“lực lượng áp bức” nầy với sự động viên của công nhân kỹ nghệ và chính quyền
vùng Nam Trung Quốc. Quy chế của những Hội Nông dân nầy loại trừ những địa chủ
có trên 100 mẫu đất, những kẻ phạm tội bóc lột nông dân, các lãnh tụ tôn giáo,
những kẻ có quan hệ với đế quốc, những người nghiện thuốc phiện và mê cờ bạc.
Để chống lại những tổ chức “phát xít” của giới địa chủ, nông dân phải tổ chức
các toán võ trang của họ. Ông Hồ cũng nói rằng sinh viên và nghiệp đoàn phải
giúp đỡ nông dân.
Kinh nghiệm sớm sủa nầy hình như đã cung cấp một mô thức Liên hiệp
cho ông Hồ vào thập niên 40s, khi ông khuôn nắn Việt Minh thành một phong trào
quần chúng. Cho đến hết cuộc đời hoạt động, ông Hồ là người đi vận động
những thỏa hiệp chính trị và đi xây dựng các liên minh, hơn là một người đi cổ
súy cho ý thức hệ (he
remained a practitioner of political compromise and coalition building, rather
than a proponent of ideology). Hình như ông Hồ chưa bao giờ phủ nhận loại
mặt trận tả khuynh rộng rãi đã đưa những người Trung Hoa quốc gia đến thành
công đầu tiên trong hai năm 1925 và 1926. Cụ thể, ông Hồ và các đảng viên của
đảng CS Việt Nam đã tiếp tục sử dụng vùng đất phía Nam Trung Quốc như một nơi
trú ẩn, đã duy trì quan hệ với những nhân vật đở đầu cho họ, vốn thuộc cánh tả
của Quốc Dân Đảng, suốt thập niên 30s và những năm đầu thập niên 40s [13] . Điều nầy làm cho ông Hồ bị xem như một nhà cải
cách tiểu tư sản dân tộc dưới mắt những người Cọng sản vô sản (This would mark him as a petty-bourgeois
national reformer in the eyes of the proletarian communists), vốn sẽ đóng
vai chủ động sau Đại Hội VI của QTCS vào năm 1928.
Hoạt động của những cố vấn Cọng sản nước ngoài cho Liên minh với
Quốc Dân Đảng đã không khởi sắc sau đó. Từ khi được ông Tưởng Giới Thạch cho
trở về Mạc
Tư Khoa, ông Borodin trở thành
một chức sắc trong giới báo chí, và cuối cùng đã biến mất trong một nhà tù của
Stalin. Jacques Doriot thì bị đuổi ra khỏi đảng CS Pháp vào năm
1934, và sau đó trở thành một kẻ ủng hộ cho đảng Quốc xã Đức. Còn ông Hồ, theo
tài liệu của đảng CS Việt Nam, thì rời Trung Quốc trước cả Borodin, và hình như
gặp một vài khó khăn trong việc được bổ nhiệm công tác mới. Ông bị bỏ
rơi lang thang tại Berlin trước khi được trở lại Á châu. Theo một nguồn tài
liệu [14] , sở dĩ ông bị như vậy vì đã chỉ
trích quyết định của QTCS (because
he criticized the Comintern decision) phát động cuộc nổi dậy tại Quảng
Đông.
Hồ sơ của Krestintern ghi rõ ông Hồ ở Berlin vào tháng 12-1927,
đợi trở về Việt Nam trong vòng hai hay ba tuần. Đầu tháng 12, ông Hồ tham dự
hội nghị của Liên đoàn chống Đế quốc tại Brussels, cùng với ông Nerhu, bà Tôn
Dật Tiên, bà Tống Chung Linh. Dù hình như Krestintern ít khi trả lời, ông Hồ
cũng đã viết thư yêu cầu Phong trào nầy cung cấp 500 Mỹ kim lộ phí tại vì ông
đã hết tiền. Ông thêm rằng “ Dù có tiền hay không, hãy gửi cho tôi một kế hoạch
tổ chức để tôi có thể hoạt động một cách hữu ích” [15]. Theo niên biểu mà Viện Nghiên cứu Chủ nghĩa Mác-Lê và Tư
Tưởng Hồ Chí Minh (Hà Nội) phổ biến, thì Phó Bí thư Dombal của
Krestintern đã từ chối cả tiền lẫn kế hoạch tổ chức trong một lá thư viết vào
tháng Giêng năm 1928. Điều nầy không có gì đáng ngạc nhiên vì Stalin đang trong
tiến trình chấp thuận một cách tiếp cận mới với vấn đề Nông dân, và Phân bộ Á
châu của Krestintern thì đang chìm dần trong sự bất động. Rất khó mà nói rằng
liệu có phải ông Hồ đã ngây thơ không biết những chuyển đổi tại Mạc
Tư Khoa, hay tại vì ông quá
muốn rời Berlin nên gì cũng làm miễn là có lộ phí di chuyển.
Lợi dụng thời gian chờ đợi ở Berlin, ông Hồ viết hồi ký về Phong
trào Nông dân tại Quảng Đông. Ông viết cho Krestintern rằng người anh hùng của
ông là đồng chí Ping Pai, một cựu U빠viên Nông nghiệp của Công xã Quảng Đông. Ông Hồ
cho biết rằng tập bản thảo dày 120 trang nầy hoàn toàn không đề cập đến chính
trị hay những con số thống kê, mà chỉ minh họa đời sống thường nhật.
Krestintern trả lời rằng họ không có thời giờ để tái biên tập một bản thảo như
vậy, và đề nghị ông cứ gửi về cho họ định giá. Hình như hồi ký nầy, sau đó,
không bao giờ được xuất bản.
Bản niên biểu mới được cập nhật của Hà Nội gồm một lá thư đề ngày
12-4-1928 của ông Hồ gửi cho Phòng Đông Phương của QTCS khi ông còn ở
Berlin. Rõ ràng ông Hồ đã hết kiên nhẫn (He was clearly getting impatient) khi ông viết “Tôi không thể hoạt động tại Pháp, còn ở Đức
thì vô ích, trong lúc Đông Dương lại đang cần tôi. Chính vì vậy mà trước đây
tôi đã yêu cầu để được trở lại đó”. Ông Hồ còn nói rằng ngay cả không có
tiền ông cũng tìm cách để trở về “tại vì từ một năm nay, tôi cứ lang thang từ
nước nầy sang nước khác, trong khi ở Đông Dương thì có khối việc cần làm” [16]. Cuối cùng, theo bản niên biểu trên, ông Hồ được Ban Chấp hành
QTCS chính thức chấp thuận cho trở về Đông Dương “theo nguyện vọng của
ông” [17] . Đảng CS Pháp sẽ trả lộ phí cho chuyến đi
và một khoản lương cho ba tháng công tác đầu tiên.
Lúc ông Hồ quay về Đông Nam Á vào năm 1928, ông lại bắt đầu đi vào
chu kỳ lang thang mới một cách bí mật. Trước khi ông Hồ trở lại Mạc
Tư Khoa lần nữa vào năm 1934,
ông tìm cách hoàn tất công tác mà ông đã bắt đầu tại Quảng Đông, bằng cách
thành lập một đảng Cọng sản hoàn bị cho Việt Nam. Có lẽ ông đã cưới người đồng
chí trẻ tuổi Nguyễn thị Minh Khai vào thời gian nầy (Tôi sẽ đề cập đến mối quan
hệ nầy ở dưới). Nhưng vào năm 1931, là năm chấm dứt một giai đoạn hưng phấn của
cánh Tả khuynh tại Việt Nam, ông Hồ không còn gặp may nữa.
Thái Lan trở thành một căn cứ địa cho phong trào cọng sản còn non
yếu của Việt Nam, và ông Hồ đã xuất hiện tại đấy vào tháng Tám năm 1928, có lẽ
sau một chuyến hải hành dài. Ông không có vẽ nôn nóng muốn đi tham
dự Đại hội Quốc tế Cọng sản lần thứ VI (He does not seems to have been urged to attend the Sixth Comintern
Congress) sẽ chấm dứt vào tháng Chín, khi có lệnh buộc “tình huynh đệ cọng
sản quốc tế” phải cắt đứt liên lạc với các đảng Dân chủ Xã hội và Tư sản Xã
hội, và phải tự “vô sản hóa” bằng cách kết nạp thêm nhiều đảng viên mới thuộc
giai cấp công nhân (Có lẽ phái đoàn Việt Nam được đại diện bởi Trần Phú, Lê Hồng
Phong và Phùng Chí Kiên, vốn đang theo học tại Mạc Tư Khoa lúc bấy giờ).
Nguồn tài liệu tốt nhất mà chúng ta có về khoảng thời gian ông Hồ
ở Thái Lan thì vụn vặt, nhưng nó cũng đủ khả tín để ta có thể lấp đầy những
khoảng trống từ lúc ông rời Berlin đến lúc ông xuất hiện ở Hồng Kông vào cuối
năm 1929. Nguồn tài liệu đó là Hồi ký của người bỏ đảng Hoàng văn Hoan, được
xuất bản tại Bắc Kinh vào năm 1991 [18] . Sau khi tốt
nghiệp khóa huấn luyện của nhóm Thanh Niên ở Quảng Đông, ông
Hoan được gửi đến Đông-Bắc Thái Lan để công tác với cộng đồng người Việt sống
tại đấy. Họ chủ yếu là những người làm tiểu công nghiệp, buôn bán và nhà nông
đến từ miền Trung Việt Nam. Vùng đất tù hãm nầy vốn đã là một nơi chốn an toàn
cho những người Việt nam chống Thực dân. Một vài dư đảng Cần Vương của nhà cách
mạng Nghệ An tên là Phan Đình Phùng vẫn còn sống tại Nakhon Phanom và Phichit
trong thập niên 20s.
Những cán bộ tổ chức của nhóm Thanh Niên bắt đầu
bằng một ngôi trường nhỏ trong một làng ở ngoại ô tỉnh Udon, để huấn luyện các
người hoạt động cách mạng. Hầu hết những người theo học đều ở miền Trung đến,
nhưng cũng có vài người được tuyển chọn ngay tại địa phương. Mười tám học viên
và các huấn luyện viên sống và làm việc chung trong hai căn nhà tranh đơn giản,
nuôi gà và heo, và đổi khoai lấy gạo trong phiên chợ làng. Ông Hoan viết rằng
ông Hồ thường tham dự vào đời sống của trường, và sau đó đã giúp xây dựng thêm
ngôi trường thứ nhì. Ông Hồ cũng để thì giờ để dịch những tác phẩm căn bản của
lý thuyết Cọng sản như Tuyên Ngôn Cọng sản, và Chủ nghĩa
Cọng sản Nhập môn của Bukharin và Preobrazhensky. Ông Hồ thảo luận
những vấn đề chính trị và địa phương với thành viên của Hội những người Việt
Nam Yêu nước Thân Ái, và giúp họ cho ra đời một tạp chí.
Theo mô tả của ông Hoan, những di dân đó đã đối xử với ông Hồ như một vị Tiên
Chỉ hay như một vị sư Phật giáo : họ thường đến gặp ông để vấn kế về những vấn
đề khó khăn trong gia đình.
Hình ảnh nầy của ông Hồ Chí Minh, hình ảnh của một nhà giáo sống
đơn giản giữa những người dân quê, và rất quyến rũ đối với chúng ta, lại có
vẽ không đồng điệu với những đặc trưng cọng sản lúc bấy giờ (was apparently out of sync with the
communist ethos at the time). Trong lúc ông Hồ đang truyền bá giáo lý giải
phóng dân tộc, thì những cán bộ mà ông huấn luyện tại Quảng Đông lại kéo nhau
về Việt Nam để tìm đồng minh giữa tập thể vô sản non trẻ của nền thuộc địa. Vào
những năm 1928 và 1929, họ tìm được mảnh đất màu mỡ cho thông điệp của họ giữa
những công nhân hầm mỏ ở miền Bắc, các nhà máy tại Vinh ở miền Trung, và tại
các đồn điền cao su ở miền Nam. Những cán bộ tổ chức trẻ tuổi nầy cũng tự mình
vô sản hóa : Ngô Gia Tự đi Sài Gòn làm cu-li để đốc thúc đồng chí đi tổ chức
trong các hãng cao su [19] . Trường Chinh tổ chức tại các mõ than. Hà
Huy Tập thiết lập tổ Cọng sản trong một đồn điền mía gần Sài Gòn [20] .
Tại Đại hội Đại biểu Toàn quốc của nhóm Thanh Niên tại Hồng Kông
vào tháng 5 năm 1929, thành phần đại biểu cực tả, mà Ngô Gia Tự là một, ly khai
khỏi các đồng chí của họ để thành lập một đảng Cọng sản hoàn toàn, hầu “dẫn
đường giai cấp vô sản” và để “tiêu diệt giai cấp đặc quyền đặc lợi cũng như
những kẻ cổ súy các cuộc cách mạng giả hiệu” [21] .Ban lãnh đạo chi bộ Hồng Kông của nhóm Thanh Niên, vốn vừa
quan hệ mật thiết vừa do ông Hồ tuyển chọn, cho rằng lực lượng vô sản tại Đông
Dương hãy còn quá yếu và chưa biết gì về chủ thuyết Cọng sản để hình thành một
đảng Bôn-sê-vít chân chính. Một cán bộ nòng cốt khác tại hội nghị là
ông Phạm văn Đồng, đại biểu cho miền Nam Việt Nam, bỏ phiếu thuận với khuynh
hướng của ban lãnh đạo Hồng Kông, và trở thành một trong những đồng minh gần
gủi nhất với ông Hồ cho đến khi người đở đầu nầy chết.
Vào cuối năm 1929, ông Hồ dời về Hồng Kông và trở thành đại diện
cho Phòng Phương Nam của QTCS [22] . Vào khoảng thời gian
nầy, QTCS có vẽ như đang bành trướng những công tác nội thành bí mật tại Thượng
Hải, để từ đó phối hợp các công tác ở Viễn Đông. Sở trường về ngôn ngữ của ông
Hồ đã biến ông thành một sợi giây liên lạc hữu ích giữa người Aⵠvà người Á. Ông
có thể giao thiệp dễ dàng bằng tiếng Pháp (dù khi viết, nhiều khi ông không
chia động từ), bằng tiếng Anh bập bẹ nhưng hiểu được, bằng tiếng Nga tàm tạm,
và bằng tiếng Quan Hỏa hay tiếng Quảng Đông. Địa vị nầy đã làm cho ông có nhiệm
vụ liên lạc với các chi bộ đảng ở Mã Lai và Singapore, cũng như ở Thái Lan và
Việt Nam. (Vì chính quyền Pháp đã kêu án tử hình ông năm 1929 nên ông không thể
liều về Việt Nam được).
Hồ sơ của QTCS lại bắt được dấu vết của ông Hồ một lần
nữa tại Hồng Kông, với rất nhiều gián đoạn bực mình giữa những lá thư. Tôi
không tìm được tài liệu gì cho biết bằng cách nào ông Hồ đã mời được các đảng
viên của những đảng Cọng sản đối nghịch, được thành lập từ sau đổ vỡ của Đại
hội Toàn quốc năm 1929, lại về gặp nhau ở Hồng Kông; hoặc bằng cách nào ông Hồ
đã thống nhất được họ trong một đảng CSVN với một chương trình hành động vừa
ngắn vừa có tính thỏa hiệp. Theo giải thích chính thức về lịch sử Đảng thì ông
Hồ đã hoàn thành công tác nầy trong một bầu không khí dịu ngọt và hòa hợp [23] . Nhưng không khí hòa hợp đó, nếu thật có, cũng không kéo dài
được lâu.
Chúng ta biết rằng chương trình hành động đó đã bị ông Trần Phú,
tân Tổng Bí thư Đảng, và vừa mới ở Mạc Tư Khoa đến, thay đổi nhiều trong phiên họp khoáng đại toàn đảng vào
tháng Mười. Tuy nhiên, một lá thư do Phòng Viễn Đông tại Mạc Tư Khoa ký ngày 13 tháng 11 năm 1930 đã cung cấp cho ta
những chỉ trích đầu tiên của Mạc Tư Khoa đến các đảng CS địa phương. (Không rõ lá thư nầy là để trả lời
cho phúc trình về phiên họp khoáng đại nói trên, hay cho một bản báo cáo riêng
của ông Hồ. Có lẽ cho bản báo cáo riêng thì đúng hơn vì trong một lá thư sau đó
của ông Trần Phú, ông nầy đã phàn nàn).
Lá thư của Mạc Tư Khoa bắt đầu như sau: “Các đồng
chí thân mến. Trước hết, chúng tôi đề nghị rằng tài liệu của phiên họp khoáng
đại vừa qua không nên gọi là “chương trình hành động của đảng”, mà trong hiện
tại, nên phổ biến như Dự thảo Nghị quyết của phiên họp, để đảng viên thảo luận
hầu chuẩn bị cho một Đại hội Đảng sắp tới. Chúng tôi cho rằng thời gian chưa
thật sự chín mùi cho đảng CS Đông Dương thông qua một chương trình có tính toàn
đảng ... ngay cả các đảng lâu đời và kinh nghiệm hơn trong QTCS cũng chưa có
một chương trình toàn đảng”.
Lá thư viết tiếp: “Mục đích
của cuộc cách mạng Đông Dương trong giai đoạn nầy là phá hủy sự thống trị của
chế độ đế quốc và phong kiến, và thiết lập những chính quyền sô-viết của công
nhân và nông dân. Quyền lực mới của chính quyền sô-viết nầy chính là quyền lực
và công cụ duy nhất để hoàn thành cuộc đấu tranh chống đế quốc và giải phóng
dân tộc cho toàn cỏi Đông Dương ...”
“Ghi chú : Theo ý chúng tôi,
điểm yếu nhất trong tài liệu của các đồng chí là vấn đề chính quyền sô-viết của
công nhân và nông dân, vốn là khẩu hiệu chính yếu về chính trị và khích động
cũng như về tổ chức, trong thời điểm nầy, thì lại bị bỏ quên hoàn toàn (Chúng
tôi được thông báo rằng có một hai địa phương, nông dân đã tự động nỗi dậy
thành lập chính quyền sô-viết)” [24]
Lá thư nầy quạt bùng thêm ngọn lữa của phong trào Sô-viết
Nghệ-Tĩnh, vốn đã bắt đầu từ mùa Hè năm 1930. (Cho đến mùa Xuân năm 1931 thì
phong trào càng trở nên bạo động và đứng bên bờ của một cuộc chiến tranh giai
cấp). Hình như ông Hồ đã không đóng vai trò quan trọng trong những
biến chuyển tại Hồng Kông, mà chính vị Bí thư cực tả của Đảng bộ miền Trung là
Nguyễn Phong Sắc, mới có những ảnh hưởng mạnh nhất trên những biến cố. Một lá
thư của Trung ương Đảng tại Sài Gòn, đề ngày 17-4-1931, đã thật sự chứng tỏ
rằng phong trào Nghệ-Tĩnh được phát động trong sự bất đồng liên tục giữa nội bộ
đảng. Lá thư nầy có lẽ do ông Trần Phú viết, vì ông ta là U빠viên Trung ương duy nhất
còn tại đào như sau nầy ông Hồ đã báo cáo lại [25]
Ông Trần Phú đã công kích triệt để chương trình hành dộng của ông
Hồ. Ông Phú chỉ trích ông Hồ đã cho tổ chức phiên họp thống nhất vào năm 1930
trước khi nhận được những chỉ thị chính thức của QTCS. Ông Phú cũng phàn nàn
rằng chương trình do ông Hồ chỉ đạo đó đi ngược lại với đường lối Cọng
sản (the programme adopted under
Hồ’s guidance contradicted the communist line). Chương trình nầy kêu gọi sự
hợp tác của thành phần tư sản dân tộc, không xác định được một chánh sách về
giai cấp cho thành phần lãnh đạo nghiệp đoàn, và cổ vỏ sự thành lập các nghiệp
đoàn nông dân vốn chỉ là các hội cách mạng trong làng mà thôi.
Lá thư viết rằng “Kết quả của hội nghị thống nhất nầy giống như
thời kỳ hợp tác giữa Quốc Dân Đảng và đảng CS Trung Quốc, chỉ chủ yếu phản ánh
một chính sách hữu khuynh trong đảng CS Trung Quốc từ năm 1925 đến 1927”. Và
tiếp tục rằng “Chúng tôi lưu ý các đồng chí đến tình huống nầy, không phải với
mục đích chỉ trích đồng chí Quốc, mà chỉ để nhắc nhở các đồng chí về việc đảng
CS Đông Dương thống nhất đã ra đời như thế nào, và chỉ để chứng tỏ nó đã sai
lầm cho đảng của chúng tôi ngay cả cho đến nay”, Ông Trần Phú chấm dứt lá thư
bằng cách yêu cầu QTCS hãy đuổi ông Hồ ra khỏi các khâu thông tin vì
ông ta có thói quen chỉ truyền đi ý kiến riêng của ông ta thay vì chỉ thị của Mạc Tư Khoa (to cut Hồ out of the
communications loop, because he had a habit of transmitting his own opinions
instead of Moscow’s instructions) [26]
Ông Hồ Chí Minh có vẽ đã nghĩ rằng ông có quyền bày tỏ ý kiến
riêng của ông. Hầu như chắc chắn là ông đã viết một lá thư khuyến dụ không ký
tên, đề ngày 12-5-1931, cho các đồng chí tại Việt Nam. Lá thư viết bằng tiếng
Anh, có lẽ để đánh lạc hướng các theo dỏi. Cách đánh máy, lối bố cục và loại
tiếng Anh lệch lạc tuôn tràn như thế, rất giống với một lá thư khác ký tên
“Victor” do ông Hồ viết gửi cho QTCS cũng vào gần khoảng thời gian đó.
“Hởi các đồng chí ở Đông Dương, các đồng chí có thi hành đường lối
(Cọng sản) đầy đủ không ? Chúng ta phải công nhận là không đầy đủ. Dù trong
những lá thư trước đây, các đồng chí có viết là hoàn toàn đồng ý với hai văn
kiện mới đây của QTCS, chúng ta cần khẳng định rằng trên thực tế, các đồng chí
đã đi lệch ra khỏi đường lối. Trong một lá thư, các đồng chí cho chúng tôi biết
rằng đã đòi hỏi công an phải thả các đồng chí bị bắt, nếu không, sẽ dùng võ lực
để giải cứu. Trong một trường hợp khác, một đồng chí sắp bị bắt đã bắn vào
công an. Chúng tôi nghỉ rằng những điều trên không dính líu gì đến chủ nghĩa
CS, chỉ có hại mà thôi, và không giúp gì cả cho phong trào của chúng ta.
Những hành động như thế mà không có một hỗ trợ của quần chúng, sẽ không bao giờ
mang lại cho chúng ta ...(không rõ)..., ngược lại, chỉ gây tổn hại dù tất cả
tính anh hùng chủ quan của nó” [27]
Ông Hồ cũng biểu lộ tính độc lập cố hữu đến như ương ngạnh (his old stubborn independence)
trong lá thư đề ngày 28-8-1931, gửi cho Mạc Tư Khoa, để chỉ trích chính sách vô sản của QTCS. Than phiền về tiêu
chuẩn chọn sinh viên đi huấn luyện tại Mạc Tư Khoa, ông viết (bằng tiếng Pháp) : “Trình độ của học viên Đông Dương
thì mù chử. Đó cũng là tình trạng của những đảng viên gốc công nhân và nông
dân. Điều đó có nghĩa là dù can đảm và sẳn sàng hy sinh, trình độ tư tưởng và
chính trị của họ vẫn rất thấp ... kết quả của tình trạng thiếu học vấn nầy là
trong công việc hàng ngày , những đồng chí công nhân và nông dân nầy vẫn phải
lệ thuộc hoàn toàn vào các đồng chí trí thức” [28]
Sự gia tăng bất đồng giữa ông Hồ và Trung ương Đảng bị hoãn lại vì
những cuộc bắt bớ vào năm 1931. Mùa thu năm đó, ông Trần Phú chết trong nhà
lao, toàn bộ cấp lãnh đạo của đảng bị tống giam tại Việt Nam, và nhiều cán bộ
đầy triển vọng cũng như chính ông Hồ đều bị bắt tại Trung Quốc.
Ông Hồ bị bắt khi một nhân viên người Pháp của QTCS là Joseph
Ducroux bị câu lưu tại Singapore với một cuốn sổ địa chỉ, sau khi nhân viên nầy
đã xuôi ngược khá nhiều tại Đông Dương để tìm cách giải quyết cuộc tranh chấp
nội bộ đảng. Sở Cảnh sát Anh quy cho Ducroux đã vi phạm “thủ tục lộ liễu trong
khi gặp các đảng viên đia phương, và gửi và nhận tin mật mã từ các địa chỉ ở
Thượng hải, Brussels và Paris ...” nên bị chú ý theo dỏi [29]
Nhưng cuộc tổng càn quét tổ chức đảng tại Việt nam lại xảy ra
trước khi Ducroux bị câu lưu, nên tài liệu huyễn hóa của đảng thì cho là có mật
báo viên trà trộn trong hàng ngũ những người cách mạng Việt nam. Daniel Hemery
phát hiện được ông Ngô Đức Trì, một ủy viên trung ương đảng bị bắt năm 1931, là
người đã khai báo trong một lần bị lấy khẩu cung [30] . Trớ trêu thay, trong lá thư đề ngày 28 tháng 4 nói trên,
ông Hồ lại mô tả ông Ngô Đức Trì, bí danh Leman hay Lemine, như “một trong
những bí thư có khả năng nhất của Trung ương đảng”. Đó là một giai đoạn thật sự
chao đảo của QTCS : Cuốn sổ địa chỉ của Ducroux đã giúp Cảnh sát Anh bắt cán bộ
cao nhất của QTCS tại Thượng Hải là Paul Ruegg, bí danh Hilaire Noulens. Lẽ dĩ
nhiên, QTCS rất muốn tìm ra thủ phạm của vụ nầy.
Ông Hồ trốn được, hay được thả, nhờ sự giúp đở của một luật sư
người Anh khuynh tả. Rồi ông đi Mạc Tư Khoa trong năm 1934. Nhưng ông không trở lại Mạc Tư Khoa như một vị anh hùng. Đầu năm 1935, không những
ông bị chỉ trích vì thái độ tiểu tư sản, mà còn vì như một cán bộ cách mạng cẩu
thả, đã làm việc với một tên phản bội mà ai cũng biết tại Quảng Đông và Hồng
Kông. Tên phản bội đó là Lâm Đức Thụ (Nguyễn Công Viên), vốn đã một thời là
lãnh tụ của tổ chức Thanh Niên và đã bị nghi ngờ trao hình ảnh
của các đoàn viên Thanh Niên cho mật thám Pháp. (hình như ông
Thụ đã không bị nghi ngờ gì cả trong tháng 5-1929, khi ông chủ tọa Đại hội đầu
tiên của nhóm Thanh Niên).
Lời kết tội ông Hồ nổi lên trong một lá thư đề ngày 20-4-1935 của
ông Hà Huy Tập, vị bí thư mới của “Phòng Hải ngoại” Đông Dương (với nét chử nhỏ
nhắn của một ông thầy giáo, ông được biết có tính chi ly nhưng bợ đỡ. Ông Tập
chỉ trình bày những gì người khác đã nói). Ông ta viết : “Trước và sau đại hội,
vài đồng chí đã nhắc đến đồng chí Quốc trong các buổi nói chuyện. Họ đòi ông
phải chịu trách nhiệm về vụ bắt giử hơn 100 đồng chí của Thanh Niên Hội ... tại
vì a) ông Quốc biết Lâm Đức Thụ là một kẻ khích động mà vẫn tiếp tục làm việc
với hắn, b) ông Quốc đã sai lầm khi bắt mỗi học viên phải nộp hai tấm hình,
khai tên và địa chỉ thật, tên cha mẹ, ông bà và cố tổ, cũng như địa chỉ của từ
hai đến mười người bạn, c) trong nước, bên Xiêm, và trong nhà tù, các học viên
tiếp tục nói về trách nhiệm của ông Quốc, trách nhiệm mà không bao giờ ông có
thể chối bỏ được ...”
Nhưng có lẽ lời cáo buộc ông Hồ nặng nề nhất là lời cáo buộc cuối
cùng trong lá thư của Hà Huy Tập. Ông Tập viết rằng : “vì chính sách của đảng
càng ngày càng được đảng viên và nhân dân thấy rõ, nên nhiều người lại càng chỉ
trích nặng nề chính sách trước kia của đồng chí Quốc. Chính Tổng Bí thư Đảng CS
Xiêm, một đồng chí trước kia là học trò kiên cường của ông Quốc, là một trong
những người đã nói rằng trước năm 1930, ông Quốc không phải
là một người Cọng sản !!” (that
before 1930, Quốc was not a communist) [31]
Văn kiện duy nhất của QTCS xác nhận ông Hồ đang khốn đốn là một lá
thư không đề ngày của một người đàn bà phụ trách về Việt Nam sự vụ vào lúc đó
tên Vera Vasilieva, gửi cho Văn phòng Hải ngoại. Bà Vasilieva viết rằng : “Về
phần ông Quốc, chúng tôi nghĩ rằng trong hai năm sắp tới, ông phải học tập rốt
ráo, và không thể làm được việc gì cả. Sau khi học tập tốt, chúng ta sẽ có
những kế hoạch đặc biệt để dùng ông ta”.[32]
Có lẽ vụ ông Hồ được ra khỏi tù ở Hồng Kông một cách dễ dàng, đã
làm tăng sự nghi ngờ về ông vào giai đoạn mà MTK đang đặc biệt sợ hải một cách
hão huyền. Một mật báo viên người Nga đã nói với tôi rằng theo ông thì ông
Hồ đã bị ra tòa sau khi về lại Mạc
Tư Khoa (Hồ was put on trial after his return to
Moscow). Không có một tài liệu (có thể đang bị chôn vùi trong hồ sơ của
KGB) nào chứng tỏ có một phiên tòa cả, nhưng điều nầy thì không có
gì là bất thường trong những năm 1934-35. Tài liệu ghi lại sự thiết lập một bộ
ba chủ tọa làm cho câu chuyện trở nên đáng tin : Đảng viên Trung Quốc Kang
Sheng, người trở thành kẻ thừa hành của Mao vài lần trong cuộc đời hoạt động
của y; Dmitri Manuilsky (Orgvald), một nhân viên người Nga tầm thường sống sót
được sau cuộc thanh trừng của Stalin; và bà Vera Vasilieva, một công chức ngây
thơ của QTCS, thường bảo vệ cho bạn bè khi họ bị tấn công về mặt chính trị.[33]
Câu chuyện kể rằng Kang Sheng muốn phạt thật nặng, Manuilsky thì
dung hòa, còn bà Vasilieva cho rằng hành động của ông Hồ chỉ là sơ suất vì còn
thiếu kinh nghiệm. Nhiều người Trung Quốc ở Mạc Tư Khoa tin rằng Kang Sheng làm việc cho NKVD. Trong
những năm sống tại thủ đô của Chủ nghĩa Xã hội, Kang Sheng đã tự mình thanh
trừng nhiều “phần tử có lập trường sai trái” của đảng CS Trung Quốc tại đấy
(Điều nầy có liên hệ đến việc ông Hồ đã từng là đảng viên đảng CS Trung Quốc
trong chuyến đầu tiên ông đến công tác ở Quảng Đông).[34]
Một bằng chứng khác để làm cho sự kiện đó đáng tin hơn là trong
những năm 1934-35, đảng CS Trung Quốc đã đóng một vai trò áp đảo hơn khi cố vấn
cho phía Việt Nam. Trung ương Đảng CSTQ (mà đại diện tại Mạc Tư Khoa là Wang Ming và Kang Sheng), đã viết một lá thư
chỉ trích phía Việt Nam và được QTCS phổ biến vào tháng 4-1934. Tài liệu nầy
tấn công gay gắt những kẻ cải cách dân tộc “dù chúng có nấp đàng sau những khẩu
hiệu tả khuynh” [35] . Bà Vasilieva đã viết thư vào tháng
3-1935 cho phía Việt Nam biết rằng lá thư nầy trình bày “những công tác cơ bản
mà các đồng chí phải đặc biệt chú tâm hiện nay” [36] .
Ông HCM từ đó trở thành một học viên thầm lặng tại Học viện Lenin
dành cho cấp lãnh đạo CS, và chỉ được biết đến dưới bí danh “Lin” hay “Linov”.
Sau đó ông được cử làm giảng viên tại Đại học Thợ Thuyền Đông phương. Mặc dù
tại Đại hội 1935, QTCS rời bỏ chính sách “proletkult” (văn hóa vô sản) của đại
hội 1928, và chấp nhận một chính sách mới cổ súy cho những mặt trận dân tộc
giữa các đảng CS và những lực lượng khuynh tả khác, hình như ông Hồ cũng không
lấy lại được tầm vóc cũ trong đảng vào nhiều năm sau đó. Lá thư của ông gửi cho
QTCS ngày 6-6-1938 đã làm rõ điều nầy:
“Đồng chí thân mến. Hôm nay là ngày kỷ niệm năm thứ bảy, ngày tôi
bị bắt ở Hồng Kông. Đây cũng là ngày bắt đầu năm thứ tám của sự tê liệt hoạt
dộng của tôi. Nhân dịp nầy, tôi viết thư nầy để yêu cầu đồng chí thay đổi tình
trạng đau đớn nầy”.
“Gửi tôi đi đâu, hay giữ tôi ở đây cũng được. Muốn tôi làm gì mà
đồng chí nghĩ là hữu ích thì được. Điều tôi yêu cầu là đừng để tôi sống mà
không hoạt động quá lâu, và sống cách biệt ngoài đảng” [37] .
Vấn đề cuộc sống tình cảm cá nhân của ông HCM thì lại gắn liền với
những bí ẩn chính trị của những năm của thập niên 30s. Bằng chứng về chuyện ông
Hồ cưới bà Nguyễn thị Minh Khai thì hình như đã rõ, nhưng lại không giải thích
được nhiều khía cạnh khác của mối quan hệ nầy. Theo tiểu sử chính thức của bà
Minh Khai thì bà nguyên là một đảng viên của đảng Tân Việt ở miền Trung Việt
Nam, và được mời gia nhập đảng CSVN thống nhất ngay sau khi đảng nầy thành
lập [38] . Bà vốn đã là một đảng viên kỳ cựu và
sống sót sau trận càn quét hầu hết cấp lãnh đạo của đảng Tân Việt vào năm 1929.
Vào năm 1930, bà được cử đi công tác tại cảng Hải Phòng và sau đó được gửi đi
Hồng Kông để phụ tá cho ông Hồ.
Một tiểu sử bán hư cấu xuất bản tại Hà Nội lại nhấn mạnh đến sự
kiện bà đã được ông Hồ tự tay huấn luyện về chủ nghĩa CS trong khi bà đang sống
tại bộ chỉ huy của đảng [39] . Đồng chí Lý Thụy, mà các đồng chí Việt
Nam khác lúc bấy giờ đều biết, thường đến văn phòng bộ chỉ huy lúc sáu giờ
sáng. Lúc nào không bận lắm, ông Hồ thường để ra một tiếng đồng hồ để thảo luận
chính trị với hai nữ học viên trẻ tuổi, bà Minh Khai và một phụ nữ trẻ từ Thái
Lan đến.
Trước cuối năm, ông Hồ giao nhiệm vụ cho bà Minh Khai làm liên lạc
giữa ông và đảng CS Trung Quốc. Loại công tác nầy hiển nhiên là rất bí mật, và
ta có thể phỏng đoán rằng ông Hồ đã chỉ chọn những đồng chí trẻ tuổi nhưng
trung thành riêng với ông. Liền sau đó, hình như ông Hồ bắt đầu có những tình
cảm lãng mạng. Một lá thư đề tháng Giêng năm 1931 của Phòng Viễn Đông ở Mạc
Tư Khoa yêu cầu ông Hồ báo
trước hai tháng ngày làm đám cưới [40] . Nếu quả thật bà
Minh Khai là người vợ sắp cưới của ông Hồ, như tôi sẽ chứng minh trong tài liệu
trích dẫn dưới đây, thì không rõ họ có kịp chính thức hóa mối quan hệ trước lúc
bà Minh Khai bị bắt vào ngày 29 tháng Tư năm đó không.
Cả hai đều bị tù vào khoảng một năm. Bà Minh Khai vờ khai là một
cán bộ (người) Quảng Đông để tránh khỏi bị trục xuất về lại Đông Dương; còn ông
Hồ thì nhờ sự giúp đỡ của một luật sư giỏi mà ông quen biết qua những liên hệ
với QTCS, nên cũng không bị trục xuất [41] . Sau đó, cả hai
đều mất liên lạc với đảng CS Đông Dương và đảng CS Trung Quốc. Họ có gặp lại
nhau trước khi riêng rẽ đi Mạc Tư Khoa không ? Điều nầy có xác nhận tin đồn về chuyện ông Hồ sống với
một người đàn bà Trung Quốc trong những năm tháng bôn ba không ?
Dầu sao, sau khi nhờ một số cựu đồng chí Thái giúp bắt liên lạc lại
được với đảng, bà Minh Khai cũng đã đến được Mạc Tư Khoa vào cuối năm 1934 với tên của chồng là “Lin”.
Khi điền đơn, ở mục tình trạng gia cảnh, bà đã viết tên “Lin” gần với chử “có
chồng” [42] . Một lá thư của Phòng Hải ngoại tại Hồng
Kông cũng xác nhận tình trạng gia cảnh nầy. Lá thư xác nhận rằng đại biểu được
chọn để tham dự Hội nghị Khoáng đại QTCS lần thứ VII gồm có : Litvinov (Lê Hồng
Phong), Quốc, Kao-Bằng, vợ Quốc, và hai cán bộ từ Nam kỳ và Lào [43] . Vì bà Minh Khai là đại biểu phái nữ duy nhất
của Việt Nam tham dự đại hội, hẵn bà là người được nói đến như “vợ Quốc”. (Một
lá thư viết vào tháng Ba năm 1931 trong hồ sơ nói trên cũng liệt kê Litvinov là
đảng viên cao cấp nhất của Ủyban Trung ương Đảng, còn ông Nguyễn ái Quốc
thì thứ Mười ba, như một ủy viên dự khuyết).
Những người viết tiểu sử chính thức của bà Minh Khai viết rằng
trước khi, hay trên đường, đi dự hội nghị QTCS, bà Minh Khai và ông Lê Hồng
Phong đã bắt đầu yêu nhau. (Có nhiều bản khác nhau về thật sự họ đã cưới nhau ở
đâu, Hồng Kông hay Mạc Tư Khoa). Như vậy, có phải ông Hồ đã vừa bị mất vợ vừa mất địa vị lãnh
đạo đảng vào tay ông Lê Hồng Phong không ? Nếu như vậy thì sự thất sủng chính
trị nầy của ông quả thật bội phần nhục nhã.
Chỉ có một vài chứng liệu nhỏ giúp chúng ta ở đây. Trước hết,
trong hồ sơ cá nhân của bà Minh Khai tại Mạc Tư Khoa, có một mẩu phiếu đi dự Hội nghị QTCS mà chử “được quyền bầu cử”
bị xóa đi và thế bằng chử “tư vấn” [44] . Nếu bà Minh Khai
là vợ của vị lãnh đạo đảng (tức Lê Hồng Phong), thì bà có chịu thay đổi tư cách
(tham dự) như thế không ? Tuy nhiên, để cho quân bằng với sự có vẽ hạ chức nầy,
hồ sơ lưu ký cho ta thấy bà đã đọc một bài diễn văn về Phụ nữ tại Đông Dương
trong Đai hội, và một bức ảnh chụp bà Minh Khai ngồi ở ghế danh dự kế bên bà
Krupskaya, vợ của Lenin. Nhân chứng sống duy nhất về các biến cố nầy mà tôi đã
gặp được ở Mạc
Tư Khoa là con gái của bà Vera
Vasilieva. Cô nầy chỉ vào khoảng mười tuổi vào thời điểm Đại hội VII. Cô nhớ
lại rằng ông Hồ thì ngủ trên ghế dài trong căn hộ của gia đình cô ở một chung
cư vào năm 1934; cô cũng nhớ sau đó thì ông Hồ thường đến chung với một phụ nữ
Việt Nam xinh đẹp tên là Phan Lan (bí danh của bà Minh Khai tại Mạc
Tư Khoa), và đôi khi đến với
một người đàn ông khác.
Theo hồ sơ cá nhân, bà Minh Khai ở lại Mạc Tư Khoa để học cho đến tháng Hai năm 1937. Qua ngả
Pháp, bà trở về Việt Nam, và công tác cho đảng ủy tại Sài Gòn vào năm 1938.
Tiểu sử của bà cho biết vào thời điểm đó bà tái đoàn tụ với ông Lê Hồng Phong,
đang điều hành hoạt động của đảng từ Chợ Lớn. Nhưng cái chết tữ đạo của họ đã
gần kề. Ông Lê Hồng Phong bị bắt vào giữa năm 1938, được thả rồi bị
bắt lại vào năm 1939. Cuối cùng, ông chết vào năm 1942. Còn bà Minh Khai thì
vẫn hoạt động cho đến khi bị bắt vào tháng Bảy năm 1940. Bà bị Pháp xử bắn vào
tháng Tám năm 1941 cùng với vài cán bộ lãnh đạo khác [45] .
Chúng ta không được biết về nhiệm vụ mà QTCS định giao phó cho ông
HCM sau khi học xong tại MTK, vì hồ sơ hiện có về Đông Dương chấm dứt vào năm
1938. Theo ngày đóng dấu trên hồ sơ cá nhân thì ông Hồ rời Mạc
Tư Khoa đi Trung Quốc vào
khoảng gần cuối năm. Lúc đó, (tầm quan trọng của) chiến lược cách mạng toàn cầu
của Mạc
Tư Khoa bị tình hình đe dọa của
(Đệ nhị) thế chiến lấn vượt lên. Là một chuyên viên lão luyện về hoạt động bí
mật, có lẽ ông Hồ đã được gửi về lại Nam Trung Quốc để giúp liên minh kháng
Nhật với Quốc Dân Đảng. Đã có lúc ông làm thiếu tá truyền tin cho Đệ Bát Lộ
quân. Không chắc chắn là ông Hồ đã được Mạc
Tư Khoa ủy quyền kiểm soát
phong trào dành độc lập tại Việt Nam (It is not at all
certain that Hồ had Moscow’s mandate to take control of the independence
movement in Việt Nam).
Lúc ông Hồ trở về Quảng Tây và thiết lập được những khu giải phóng
đầu tiên trong vùng đất gồ ghề của dân tộc thiểu số dọc biên giới Việt Nam,
những chuyển biến lại lần nữa thuận lợi cho ông. QTCS sắp bị giải thể; dù sao,
ông cũng không còn thì giờ để đợi chỉ thị của Mạc Tư Khoa. Hầu hết các đối thủ của ông trong đảng đều
hoặc chết hoặc bị tù. Như lúc ở Hồng Kông, ông Hồ phải nắm lấy tình thế trong
tay và xây dựng một liên minh dân tộc để đấu tranh dành độc lập. Người phụ tá
đắc lực nhất của ông không còn là những chiến hữu già nua của đảng mà là một
giáo sư trẻ tuổi xuất sắc, ông Võ Nguyên Giáp, người đã lấy em gái bà Minh
Khai. Nếu ông Hồ vẫn còn vợ, thì hai người đã là anh em cột chèo rồi.
Sự chuyển đổi vận hội của ông Hồ lên đến cao điểm vào tháng Tám
năm 1945, khi lực lượng Việt Minh của ông nắm quyền lúc Nhật đầu hàng. Ông
tuyên xưng là Chủ tịch của nước Việt Nam Dân chủ Cọng hòa vào ngày 2 tháng 9.
Trước hết ông nhiệt tình vận động sự hỗ trợ của người Mỹ, sau đó là người Pháp,
hãy công nhận địa vị mới của nước ông. Ông nói với vị đại diện của OSS là ông
Archimedes Patti rằng ông không còn nghĩa vụ gì với người Nga nữa (he had no more obligations to the Russians).
Ông nói rằng ông đã trả nợ cho họ bằng nhiều năm hoạt động cho đảng [46] . Vào năm 1945, rõ ràng đối với ông Hồ, Nga sô không
có phương tiện mà cũng chẳng còn động cơ để giúp ông (it would have been clear to Hồ that the USSR
had neither the means nor the motive to help out). QTCS bị giải thể vào năm
1943, trong lúc người Nga đang dự đoán đảng CS sẽ tiến mạnh tại
Pháp, và họ chẳng muốn dính bùn ở Đông Dương.
Cả Mỹ lẫn Pháp đều từ chối lời kêu gọi của ông Hồ, và cuộc chiến
tranh Đông Dương bùng lên cho đến năm 1954. Đến đó, thì chiến thắng của CS
Trung Quốc đã lại lần nữa đặt ông Hồ dưới sự bảo trợ ý thức hệ của kẻ thù
truyền kiếp của Việt Nam. Cố vấn Trung Quốc và những người Việt Nam đối tác của
họ nhanh chóng bắt đầu đặt một nhịp điệu mới cho đời sống chính trị ở Bắc Việt
Nam [47].
KẾT LUẬN
Những hồ sơ của QTCS giúp ta vẽ ra được một tình huống chính trị
mờ ảo của ông HCM trong thập niên 30s. Nhưng những hồ sơ đó cũng đặt cho người
viết tiểu sử ông Hồ những vấn nạn to lớn. Một trong những vấn nạn chính là ông
Hồ đã tái lập quyền hành đến được mức độ nào trong đảng CS ở thập niên 40s ? Có
phải ông đóng một vai trò quan trọng hơn là chỉ biểu tượng cho sự đoàn kết và
cha già dân tộc sau khi đảng Lao Động tái xuất hiện vào năm 1951, dưới sự lãnh
đạo của ông Trường Chinh ? Liệu ông có đồng ý với bài viết ở báo Nhân Dân ngày 25-3-1951 gọi Chủ tịch HCM
là “linh hồn của cuộc cách mạng Việt Nam và cuộc kháng chiến Việt
Nam” trong khi mô tả ông Trường Chinh là “người xây dựng và chỉ huy”
hai công cuộc nầy ? [48] . Khi ông Võ Nguyên Giáp viết báo cáo lên
án những lạm dụng quá trớn (không phải chỉ bạo động mà còn có tính kỳ thị giai
cấp) của chính sách Cải cách Ruộng đất vào năm 1956, thì có phải ông Giáp đã
nhân danh ông Hồ không ? Ông Hồ có dung dưỡng vụ bắt giử các cán bộ đấu tranh
trong vụ “Trăm Hoa Đua Nở” vào năm 1958 không ? Ông Hồ đã nhận định như thế nào
về những cải cách ý thức hệ của Khrushchev bắt đầu ở Đại hội QTCS thứ XX ? Nói
tóm lại, câu hỏi rốt ráo là trong thập niên 50s, ông HCM có còn giữ lại gì được
nữa không những đặc tính thích tranh luận, bướng bỉnh của một HCM vào những năm
1920s, một HCM đặt thực tế chính trị lên trên các giáo điều ý thức hệ ?
CƯỚC CHÚ :
[1]
Chi tiết của lời buộc tội nầy được viết trong một lá thư của Hà Huy Tập từ
Phòng Hải Ngoại ở Hồng Kông gửi cho Phòng Viễn Đông của QTCS tại MTK. Lá thư sẽ
được trích đầy đủ hơn ở những phần sau của bài này. Lá thư thuộc bộ
collection (fond) 495, series (opis) 154, file (delo) 586. (Từ đây trở đi, Tôi
sẽ cước chú hồ sơ của QTCS tại MTK theo ba mã số nầy. Ví dụ : MTK 495,154,586).
[2]
Tôi chịu ơn William Duiker đã gửi cho tôi phóng ảnh của những lá
thư rất củ (của ông Hồ viết) từ Mạc Tư Khoa, vì tôi không tìm được những lá thư nầy khi tôi còn ở đó. (Ông
Duiker đã được Viện Nghiên cứu Mác-Lê và Tư tưởng HCM gửi cho nên đã không có
mã số văn khố).
[3]
Thư của bộ lưu trữ Krestintern (PTNDQT : Phong trào Nông dân Quốc tế)
[4]
Để biết thêm về một quan điểm khúc chiết và đầy đủ của những ngưởi Trotskyist
về các biến cố nầy, xin đọc The Tragedy of the Chinese Revolution của Harold
Issacs, Stanford University Press, 1938 và 1951.
[5]
V.V. Vishnyakova-Akimova, bài viết “In Borodin’s House”, trong Hồ Chí Minh, Selected
Reminiscences, Political Literature Press, Mạc Tư Khoa, 1990: 282.
[6]
Thanh Đạm, Khóa Huấn luyện Chính trị lần thứ nhì tại Quảng Châu (Trung Quốc),
Nghiên Cứu Lịch Sử, Hà Nội, số 6, XI-XII, 1992.
[7]
Mạc
Tư Khoa,495,154,555
[8]
Ibid.
[9]
Mạc
Tư Khoa, 495,201,45.
[10]
Từ năm 1920 trở đi, chính sách cho các nước châu Á của QTCS xác định một cuộc
cách mạng gồm hai giai đoạn: trước hết là “cuộc cách mạng dân tộc dân chủ” để
dành độc lập từ thực dân, sau đó mới đến cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa. Tuy
nhiên, sự nhấn mạnh trên chính sách hợp tác với các thành phần “tư sản yêu
nước” trong giai đoạn thứ nhất có vẽ tùy thuộc vào từng cá nhân một, và ngay cả
đến năm 1920, cũng không được các thành phần cực tả như cán bộ cọng sản AᮠM.N.
Roy chấp nhận. Xem thêm Allen S. Whitting, Soviet Policies in China, 1917-1924,
Stanford University Press, 1953: 51.
[11]
Mạc
Tư Khoa, 495, 154, 555
[12]
Mạc
Tư Khoa, 535, 1, 42
[13]
Xem Hoàng văn Hoan, Giọt Nước Trong Biển Cả, Nhà Xuất bản Tin Việt Nam,
Beijing, 1991: 102-109, về chuyện ông Hồ Học Lãm giúp đở cho các cán bộ Cọng
sản tha hương. Cũng xin xem Huỳnh Kim Khánh, Vietnamese Communism 1925-1945,
Cornell University Press, 1982: 119 về liên hệ của nhóm Thanh Niên với Quốc Dân
Đảng Trung Hoa.
[14]
Nguồn tài liệu nầy là của đảng viên đảng CS Đức Erich Wollenberg, bí danh
Walter, do Pierre Rousset trích dẫn trong Le Parti Communist Vietnamien,
Francois Maspero, Paris, 1975: 37. Điều lạ lùng là bài viết “Công tác quân sự
của Đảng trong giới Nông dân” mà Wollenberg nói là do ông Hồ viết về giai cấp
nông dân tại Trung quốc, trong thời gian ông ở Berlin, lại không được in lại
trong bất kỳ một tuyển tập nào do ông Hồ viết cả. Có thể bài viết nầy do một
tác giả Việt Nam khác, dính líu nhiều đến quân sự như Lê Hồng Phong, viết chăng
?
[15]
Mạc
Tư Khoa 535, 1, 42
[16]
Lá thư vào tháng Giêng năm 1928 của ông Dombel đã không được in lại toàn phần,
mà chỉ được tóm tắt trong Hồ Chí Minh, Biên Niên Tiểu Sử, Tập 1, Nhà Xuất bản
Thông Tin Lý Luận, Hà Nội, 1992: 293.
[17]
Ibid.: 296
[18]
Ibid.:299
[19]
Hoàng văn Hoan, op. cit.: 55-64
[20]
Xem Trần Tử Bình, The Red Earth: A Memoir of Life on a Colonial Rubber
Plantation, do John Spragens Jr. dịch, Ohio University Monographs trong
International Studies, Athens, Ohio, 1985.
[21]
Mạc
Tư Khoa, 495, 201, 45
[22]
Huỳnh Kim Khánh, op. cit.: 119
[23]
Điều nầy được xác nhận trong phúc trình về “Vụ Noulens” ghi trong hồ sơ của Sở
Cảnh sát Thành phố Thượng Hải, và hiện nay có thể tìm thấy ở National Archives,
Washington DC, hồ sơ số D 2527/45. Trong hồ sơ nầy, ông Hồ được nhận ra dưới
các bí danh “Nguyễn Ái Quốc”, “K”, “Victor”, “T.V. Wang”, “Lê Swee”,
và “Sung Man Sho”. Ông được ghi nhận là “người viết nhiều lá thư cho
Phòng Viễn Đông ỏ Hồng Kông, có vẽ như là với tư cách của một chi bộ (Phòng
Phương Nam) của Phòng Viễn Đông đặc trách liên lạc với Đông Dương và Mã lai”
(trang 32). Ngoài ra, phúc trình còn ghi rằng “một đống thư hổn độn
và viết rất lạ lùng của người nầy gửi cho Phòng Viễn Đông đã bị tịch thu trong
văn khố vụ Noulens, và đã cho ta biết những bí ẩn chính về tình hình của CS
trong các nước nầy ...” (trang 35).
[24]
William Duiker nhắc đến chuyện nầy trong The Communist Road to Power in
Vietnam, Westview Press, 1981. Tác giả là Nguyễn Nghĩa, viết trong tập san
Nghiên Cứu Lịch Sử, Hà Nội, 1964.
[25]
Mạc
Tư Khoa, 495, 154, 561.
[26]
Mạc
Tư Khoa, 495, 154, 462. Trong một lá thư ký tên
“Victor”, ông Hồ viết “Bí thư Leequeen bị bắt vào ngày 19 hay 20 tháng Tư. Lúc
đầu, báo chí nghĩ rằng ông ta tên là Quốc. Và từ khi bản tái xét của cảnh sát
được công bố, 7 trên 101 người đã bị bắt. Như vậy chỉ còn có một người thợ trẻ
cho Ban Bí thư”
[27]
Mạc
Tư Khoa, 495, 154, 462.
[28]
Mạc
Tư Khoa, 495, 154, 569.
[29]
Mạc
Tư Khoa, 495, 154, 462.
[30]
Hồ sơ D 2527/6 của Sở Cảnh sát Thành phố Thượng Hải. Theo một báo cáo của Sở
Mật Thám Pháp tại Hà Nội thì (từ sau khi bị bắt) ông Ducroux đã gặp hai ủy viên
của Ủyban Trung ương Đảng tại Sài Gòn vào ngày 23, 24, và 25 tháng
Ba. Ông Lefranc, với tư cách là “Giám sát viên” của Đệ Tam Quốc tế đã
cho họ một số khuyến cáo. Ông khuyên họ nên thiết lập tức khắc một
đường dây liên lạc giữa Sài Gòn và Singapore. Ông cũng cho họ biết
rằng Nguyễn Ái Quốc đã yêu cầu xin chuyển về Thượng Hải, làm việc cho
Phòng Viễn Đông. (trang
30).
[31] Daniel Hemery, Révolutionnaires
Vietnamiens et Pouvoir Colonial en Indochine, Francois Maspero, Paris, 1975: 59
và 170. Huỳnh Kim Khánh cũng chỉ rõ rằng Mật thám Pháp có một “tên lấy tin tín
cẩn” trong nhóm Thanh Niên từ năm 1929: Dương Hạc Đính. Xem Khánh, op cit.: 118.
[32]
Mạc
Tư Khoa, 495, 154, 586.
[33]
Mạc
Tư Khoa, 495, 154, 585.
[34]
Hai người con của bà Vera Vasilieva là Neiya Zorkaya và Peter Zorki,đã cho biết
trong lần tôi phỏng vấn tại Mạc Tư Khoa
rằng mẹ của họ thật sự “lưỡng nhân cách” (dual personality). Bà vẫn là một
người CS trung kiên cho đến lúc chết vào năm 1959, nhưng bà lại ghét giai cấp
đặc quyền (apparatchiks) trong đảng và sẳn sàng che chở cho vợ con các đồng chí
bị bắt. Theo bản lý lịch của QTCS, bà đã từng bào chữa cho chính chồng bà là
Mark Zorkii, chống lại lời buộc tội rằng ông ấy quá gắn bó với một cán bộ QTCS
đã bị sa thải là Madiyar, rằng chính bà mới là người làm việc chung với Madiyar
tại Phòng Viễn Đông (MTK, 495, 65a, 956).
[35]
Mạc
Tư Khoa, 495, 201, 1.
[36]
Những phần trích dẫn trong lá thư nầy đã được công bố bởi Pierre Rousset, op.
cit.: 68-70. Toàn bộ lá thư đã được đăng tải trong tạp chí “Communist
International”, số ra ngày 5-8-1934.
[37]
Mạc
Tư Khoa, 495, 154, 585.
[38]
Ông William Duiker đã trao laiho tôi một phóng ảnh của lá thư nầy.
[39]
Những Người Cọng Sản, Nhà Xuất bản Thanh Niên, Thành phố Hồ Chí Minh, 1976:
219. Bản Kê khai Lý lịch mà bà Nguyễn thị Minh Khai viết cho QTCS năm 1934 xác
nhận điều nầy (Mạc
Tư Khoa, 495, 201, 35).
[40]
Nguyệt Tú, Chị Minh Khai, Nhà Xuất bản Phụ Nữ, Hà Nội, 1976
[41]
Mạc
Tư Khoa, 495, 154, 569.
[42]
Bà Minh Khai thuật lại trong Bản Kê khai Lý lịch của QTCS rằng bà đã bị tù một
năm (Mạc
Tư Khoa, 495, 201,35).
[43]
Ibid.
[44]
Mạc
Tư Khoa, 495, 154, 688.
[45]
Mạc
Tư Khoa, 495, 201, 45.
[46]
Những Người Cọng Sản: 228.
[47]
Archimedes Patti, Why Vietnam ?, University of California Press, Berkeley,
1980: 373-4.
[48] Georges Boudarel, Cent Fleurs Écloses
dans la Nuit du Vietnam, Communisme et Dissidence 1954-1956, Éditions
Jacques Bertoin, 1991: 13-15.
Tác giả gửi trực tiếp
cho namgiao.blog / 3-2014
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét