Vài cảm nghĩ khi đọc:
"VIỆT NAM MÁU LỬA
QUÊ HƯƠNG TÔI"
của Hoành Linh Đỗ Mậu
Hoàng Ngọc Hiển
LGT - Hồi ký chính trị Việt
Nam Máu Lữa Quê Hương Tôi (VNMLQHT) của cựu tướng Đỗ Mậu, phát hành lần đầu vào năm 1986, đã là một hiện tượng văn
học chính trị làm chấn động giới nghiên cứu lịch sử hiện đại của người Việt tị
nạn lúc bấy giờ, và tạo ra một cuộc tranh luận chia đôi giới nghiên cứu
người Việt tại hải ngoại (Thạch Đăng, tạp chí Đất Việt, Canada). Tác
phẩm nhắm “bổ túc hồ sơ sụp đổ của Việt
Nam Cộng hòa”, lấy chế độ Ngô Đình Diệm (về mặt chính trị) và Giáo hội Công
giáo Việt Nam (về mặt lịch sử) để làm hai đối tượng phân tích và phê phán. Cuốn
sách dày 1,260 trang nầy “… đã có rất
nhiều, quá nhiều là khác, thảo luận và bút chiến về tác phẩm, và nhiều khi, về
từng chủ điểm mà tác phẩm này nêu lên. Cho đến thời điểm này, vẫn còn xuất hiện
trên báo chí hải ngoại những bài viết đề cập đến tác phẩm hoặc tác giả. Đặc
biệt đã có 13 cuốn sách của những người viết đứng từ những vị trí khác nhau,
nhìn từ những góc độ khác nhau, và mang những tâm chất khác nhau, nhưng tất cả
đều trực tiếp hay gián tiếp liên hệ đến tác phẩm hay tác giả.” (trích từ Lời Giới Thiệu Ấn bản thứ ba của Nhà Xuất bản Văn Nghệ, năm 1993).
Từ đó đến
nay, tác phẩm này đã được tái bản một lần (1987) và in lại tám lần, tổng cọng gần
20 nghìn ấn bản. Bản in trên giấy cuối cùng (1993) của Nhà Xuất bản Văn Nghệ là lần biên tập thứ ba và là
lần in lại thứ chín (Third Edition, Ninth Printing). Năm 2007, một nhóm thân hữu
của tác giả Hoành Linh Đỗ Mậu đã hoàn thành một ấn bản điện tử, phổ biến rộng rãi trong không gian Internet với
mục đích “… đóng góp phần mình vào việc
thực hiện tâm nguyện của tác giả đã được trang trải đầy ắp trong tác phẩm nầy.”
(trích từ Lời Giới Thiệu Ấn bản Điện tử 2007).
Hiện nay,
theo ghi nhận của chúng tôi thì đã có 14 “diễn đàn điện tử” trong và ngoài nước
phổ biến tác phẩm VNMLQHT. Để
đọc toàn bộ tác phẩm, bạn đọc có thể vào các trang web sau đây: Sách Hiếm (Hoa Kỳ), Giao Điểm (Hoa Kỳ), Truyện.com (Việt Nam) và Truyện.haohanca.com (Việt Nam).
Sau gần
20 năm thuộc loại best seller trong cộng
đồng hải ngoại, với thời gian, cuốn sách cũng đã lui vào sau hậu trường chử nghĩa,
chỉ còn giá trị tham chiếu cho những ai muốn tìm hiểu về nền Đệ Nhất Cộng Hòa mà
thôi.
Thế
là sau hàng trăm bài viết kéo
dài trong 20 năm, có lẽ bài cuối cùng
đề cập đến một cách quy mô tác phẩm VNMLQHT là một bài viết dài 6 trang chữ nhỏ, phổ
biến vào tháng 6/2006 có tựa đề “Vài Cảm Nghĩ Khi Đọc “Việt Nam Máu Lữa Quê
Hương Tôi” Của Hoành Linh Đỗ Mậu” của nhà văn Hoàng Ngọc Hiển.
Đây là một
bài “cảm nghĩ” đặc biệt vì được
đăng trên một tờ báo chuyên đánh phá Phật giáo để bào chữa tội của ông Diệm, do
một tác giả Công giáo chấp bút, nhưng lại để đề cao một số luận điểm của tác giả
Hoành Linh Đỗ Mậu và tác phẩm VNMLQHT. Thật vậy:
1- Bài nầy xuất
hiện trên bán nguyệt san Văn Nghệ Tiền
Phong (số 731, tháng 6/2006), một tạp chí từng bị ví von là “Tên lính xung kích của Cần Lao Công Giáo”,
chuyên đăng bài bênh vực chế độ Diệm. Năm 1978, khi Thượng tọa Thích Thiện Minh
bị chính quyền Cọng sản bức tử tại trại Hàm Tân, thế nhưng Văn Nghệ Tìền Phong lại chạy hàng
tít lớn ở ngoài bìa: “Thích Thiện Minh Đền Tội” chỉ vì Thượng
Tọa là một trong những nhà lãnh đạo phong trào đòi chính quyền Ngô Đình Diệm
phải thực thi quyền bình đẳng tôn giáo năm 1963. Và cũng chính báo nầy đã là
nơi phát động cuộc xuyên tạc lịch sử vĩ đại nhất tại nước ngoài để lên án Phật
giáo và Tướng lãnh VNCH làm “mất nước”, hầu trả thù cho ông Diệm như lời
dặn của chính ông ta, đồng thời để làm cái loa tuyên truyền cho cái gọi là “Phong
trào Phục hồi Tinh thần Ngô Đình Diệm” ở hải ngoại. Dĩ nhiên, đây cũng là tờ báo
làm diễn đàn để chống đối kịch liệt cuốn VNMLQHT của những cây viết “Cần Lao Công
giáo” như Linh mục Vũ Đình Hoạt, Linh mục Cao Văn Luận, Tú Gàn, Lâm Lễ Trinh, Tú Rua, Đinh Từ Thức,
Cao Thế Dung, Nguyễn Văn Chức, v.v…
Hình bìa và Trang Mục Lục của tạp chí
Văn Nghệ Tiền Phong số 731 (từ ngày 1 đến 15-06-2006) – Trang 36 của Mục Lục
ghi “36- Đọc sách: ‘VN máu lữa quê hương tôi’ H.N.Hiển”
2- Tác giả bài viết là một tín hữu Công giáo, bút hiệu là Hoàng Ngọc Hiển (tên thật là Giuse Trần
Ngọc Hiển) sinh năm 1942 và mất vào ngày 27-12-2014 tại Nam California. Trước
1975, ông là một giáo sư triết, văn chương và sử
địa. Năm 1967, bị động viên (Khóa 25 Thủ Đức). Rời quân trường, ông
chọn đại đội 399 tiểu khu Bình Long – đơn vị được xem là thiện chiến nhất
và “dữ” nhất của tiểu khu, có mặt tại những hiểm địa tử thần như
Lộc Ninh, An Lộc, Quốc lộ 13…. Về mặt văn chương, năm 1969, tạp chí Văn xuất
bản truyện dài “Quê Hương Lưu đày”
của ông. Sách bán hết sau hai tháng phát hành. Qua Mỹ, ông vẫn tiếp tục viết
với 5 tác phẩm được xuất bản hay tự xuất bản. Đó là chưa kể hai tập truyện còn
trong dạng bản thảo và một tác phẩm gồm 18 bài đọc sách chưa in. Sau 1975, ông
bị tù 14 năm 7 tháng và qua Mỹ vào cuối năm 1990.
Tác giả Hoàng Ngọc Hiển và
trang 36 của tạp chí Văn Nghệ Tiền Phong
số 731 với tựa đề bài viết: “Vài Cảm Nghĩ Khi Đọc“Việt Nam Máu Lữa Quê
Hương Tôi” Của Hoành Linh Đỗ Mậu”
3- Ai đã đọc thì đều biết Sử quan làm nền cho nội dung của
tác phẩm VNMLQHT là “Hễ đã phi dân tộc
thì thế nào cũng phản dân tộc” (Lời Mở Đầu của VNMLQHT), và cựu tướng Hoành
Linh Đỗ Mậu đã lấy hai đối tượng là Chế độ Ngô Đình Diệm và Lịch sử Giáo hội Công
giáo Việt Nam để qua đó, chứng minh Sử quan của mình là đúng đắn. Thế nhưng
trong toàn bộ bài viết, tác giả Hoàng Ngọc Hiển lại không đề cập gì đến hai đối
tượng đó cả. Ngược lại, nhà văn Hoàng Ngọc Hiển đã chọn một cách tiếp cận khác.
Độc đáo hơn và có tính thuyết phục hơn: Đó là phân tích cái Tâm
và cái Tầm của tác giả Đỗ Mậu để gián tiếp đánh giá tác phẩm.
Bài viết xuất
hiện muộn màng đến 20 năm sau khi VNMLQHT ra đời, nên tác giả có được sự chính chắn khi đọc tác phẩm, nhất là
có độ lùi thời gian để đối
chiếu với hiện thực lịch sử. Do đó mà bài viết thâm trầm, khách quan và quân bằng
hơn, đứng ngoài những cuộc bút chiến nãy lửa của hai phe thân-Diệm và chống-Diệm.
Từ đó, chính cái Tâm nguyện và
cái Tầm nhìn của cựu tướng Đỗ Mậu mà ông
chia sẽ gần như trọn vẹn, đã là niềm tâm đắc để tác giả Hoàng Ngọc Hiển “cảm nghỉ” về thân phận quê hương và về tương
lai Việt Nam.
Đồng cảm với những “cảm nghĩ” của hai tác giả Hoành
Linh Đỗ Mậu và Hoàng Ngọc Hiển, chúng tôi xin đánh máy và số hóa nguyên văn bài
viết để phổ biến như một chứng liệu đáng ghi nhớ – NamGiao (11/2016)
* *
*
Vài cảm nghĩ khi đọc:
"VIỆT NAM MÁU LỬA
QUÊ HƯƠNG TÔI"
của Hoành Linh Đỗ Mậu
[Trích từ Tuần báo Văn Nghệ Tiền Phong số 731 (6/2006),
từ trang 36 đến 38, và 76 đến 78]
"Việt Nam Máu Lửa Quê
Hương Tôi" của Hoành Linh Đỗ Mậu, ấn bàn thứ ba của NXB Văn Nghệ,
1993, là một ấn bản đẹp hơn hai lần trước kia. Đối với riêng tôi, một người đọc
sách, cuốn hồi ký chính trị này là một cuốn sách rất đẹp, về phương diện hình
thức, "là một tải liệu lịch sử quý
giá cho kho tàng văn học sử Việt Nam" như giáo sư Nguyễn Xuân Vinh đã
đánh giá. Tôi cũng rất đồng ý với Lãng Nhân Phùng Tất Đắc, đánh giá cuốn sách
là "sự phân tích các chứng liệu thật
rành mạch và sâu sắc dưới một nhãn quan sáng suốt và thấu đáo, một óc phê phán
công bằng và can đảm". Quả nhiên, tác phẩm là "một bản án lịch sử" như nhà luật
gia Nguyễn Văn Lượng, cựu Bộ Trưởng Tư Pháp Chính Phủ Ngô Đình Diệm, 1963, đã
nói. (Trích vài ý kiến của người đọc ... ở trang bìa sau của cuốn sách).
Tôi cho rằng tác phẩm này không phải là cuốn sách chỉ đọc một lần
mà thôi, mà nó là cuốn sách để đọc nhiều lần, đọc đi đọc lại, mỗi lần có thể
đọc một chương, dừng lại suy nghĩ ... sẽ có lúc xót xa cho dân tộc, có lúc phẫn
uất với cái ác, có lúc cay đắng...và từ đó có thể rút ra cho mình một bài học
lịch sử nào đó, nó sẽ rất hữu ích cho những ai muốn dấn thân vào lịch sử. Mới
đọc "Lời Mở đầu" của cuốn sách, tôi đã cảm nhận ngay cái tâm của tác giả:
"Tất
cả, từ những người có lòng nhất đến những người tài ba đảm lược nhất đều đã
thất bại, dù trong cuộc hành trình hùng tráng và bi thiết này, không biết bao
nhiêu người đã hy sinh gục ngã... Những nguyên nhân này được cố gắng trang trải
như một bài học lịch sử để từ đó và do đó , hy vọng những lớp người đang đi tới
sẽ tránh được những vết xe đổ đã nghiền nát bao nhiêu trang sử hiện đại của dân
tộc," (Sách đã dẫn, Lời mở đầu, không đánh số trang).
Chúng
tôi muốn ghi lại trong bài viết này một vài cảm nghĩ của chúng tôi thôi, với tư
cách của một người đọc sách. Cho nên, đây không phải là một bài phê bình, một
bài điểm sách với những tính chất cần có của một bài phê bình, một bài điểm
sách. Cuốn sách này dầy trên ngàn trang, nội dung phong phú, tài liệu phức
tạp... cũng là một lý do làm chúng tôi không dám có tham vọng viết phê bình,
điểm sách. Một lần nữa xin thưa trước, đây chỉ là vài cảm nghĩ có tính chất
riêng của một người đọc sách, không hơn không kém. Hơn nữa, người đọc sách là
chúng tôi đây, đối với tác giả Hoành Linh Đỗ Mậu, chỉ là một kẻ hậu sinh. Bởi
vì năm 1942, khi ông Đỗ Mậu là huấn luyện viên lớp hạ sĩ quan tại Huế, ông vừa
đúng 25 tuổi, thì tôi mới mở mắt chào đời. Đến năm tôi được 25 tuổi (1967) tôi
bước chân vào khoá 25 quân trường Thủ Đức, thì ông Đỗ Mậu đã là một nhân vật
lãnh đạo trong nền Đệ Nhị Cộng Hoà của Miền Nam rồi. Năm 1963, khi chế độ Ngô
Đình Diệm sụp đổ, tôi đang ngồi ở giảng đường trường Luật năm thứ nhất, chưa có
được suy nghĩ chính chắn về thời cuộc. Tôi hãy còn hời hợt lắm về tất cả những
vấn đề của đất nước, có lẽ kể cả lịch sử của dân tộc trong quá khứ bởi tôi chỉ
có một mớ bài học tổng quát từ sách vở, chưa thực hiện một cuộc nghiên cứu lịch
sử nào tới nơi tới chốn.
Tôi xin
thú thật rằng phải đến năm 1967, khi tôi cầm lệnh trình diện thụ huấn
khoá 25 Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức trong tay, tôi báo cho mẹ tôi biết, bà có vài
lời nói với tôi, rồi kể từ lúc ấy, tôi mới bắt đầu có những suy nghĩ cẩn thận
về Độc Lập, Chủ nghĩa Thực Dân, Cộng Sản, cuộc chiến đấu bảo vệ Miền Nam... Tôi vẫn còn nhớ, mẹ tôi đã nói với tôi rằng: "Phải,
đất nước có chiến tranh, mà chiến tranh có từ trước khi anh ra đời, anh đang
sống ở Miền Nam. Đó là lẽ tự nhiên, bởi giặc đến nhà đàn bà còn phải đánh mà.
Anh hãy vui vẻ lên đường làm tròn trách nhiệm của anh đối với đất nước."
(Mẹ tôi thường gọi tôi là anh, có lẽ
vì tôi là con trưởng). Tôi không ngờ mẹ tôi lại dậy tôi như thế. Hai mươi lăm
tuổi đầu rồi, mà chẳng hiểu biết tí gì về chính trị cả, có đáng xấu hổ không?!
Vừa ra trường, đến trình
diện Trung tá Lộ Công Danh, Tiểu khu Trưởng Tiểu khu Bình Long, tôi đụng ngay
trận Tổng Công Kích năm Mậu Thân 1968 của Việt Cộng. Tôi nghĩ định mệnh đã đưa
đẩy ném tôi vào những chuyển mình lớn lao của đất nước rồi - như bao nhiêu
người trai trẻ khác của thế hệ - mình đang bị đặt tính mạng trước cái chết. Liệu một cái chết về quê hương
của mình có một ý nghĩa nào không? Đó là câu hỏi đầu tiên tôi đặt ra cho tôi và
cố gắng để đi tìm câu trả lời. Nhưng tôi đã không trả lời nổi. Tôi biết tôi mù
tịt về chính trị nên không trả lời nổi. Tôi chỉ còn biết nhắm mắt cầm súng
chiến đấu, còn ngoài ra không biết gì hết.
Đó là thực tế trước mắt. Tôi nghĩ bao nhiêu người trai như tôi
cũng đang phải cầm súng chiến đấu như tôi thôi. Tôi đi từ Trung Đội Trưởng tới
Đại Đội phó, rồi Xử Lý Thường Vụ Đại Đội Trưởng, rồi được thuyên chuyển về làm
Sĩ Quan Tham Mưu Phòng 3 Tiểu khu Bình Long. Than ơi, càng tìm hiểu, tôi càng
cảm nhận dấu hiệu thất bại của quân lực Việt Nam Cộng Hoà, nhất là sau khi Hoa
Kỳ có chủ trương Việt Nam hoá chiến tranh. Sư đoàn 1 Không kỵ của Mỹ ở Bình
Long rút dần, trao lại vùng hoạt động cho Tiểu khu. Thế là phạm vi trách nhiệm
của Tiểu khu cứ mở rộng dần ra, súng đạn giảm đi, các phương tiện khác cũng hạn
chế... Tôi đã cảm nhận Miền Nam sụp đổ là điều khó tránh, nhưng tôi không trả
lời được "nguyên nhân lớn nhất, thực nhất" dẫn tới thất
bại là gì?! Cho tới nay, 2005, 30 năm sau ngày Miền Nam sụp đổ, tôi đọc và suy
gẫm cuốn "Việt Nam Máu Lửa Quê Hương Tôi" của Hoành Linh Đỗ Mậu, tôi
cảm nhận được câu hỏi đó. Cho nên đối với tôi, ông Đỗ Mậu là người đi
trước, là tiền bối, và tôi đã là kẻ hậu sinh đọc sách của ông. Tôi có những cảm
nghĩ gì đây? [Toàn bộ cuốn sách ở đây
(giaodiemonline) và ở đây
(sachhiem) cho độc
giả ngoài nước, hay ở đây
(xemtailieu) và ở đây
(tusach.mobi) cho độc
giả trong nước - NG]
I/ Từ hiểu biết
về Quảng Bình, tôi cảm nghĩ về quê hương Việt Nam:
Quảng
Bình là quê hương của ông Đỗ Mậu. Tác giả viết về đất Quảng Bình của ông:
"... Bình Trị Thiên là ba tỉnh nằm giữa hai ngọn đèo lớn đó của miền Trung,
vì quen nhọc nhằn chống lại thiên nhiên hà khắc, lại vốn làm cái đòn gánh chính
trị oằn vai vì sức nặng cách mạng của bốn tỉnh tiếp giáp nên cũng đã cưu mang
trong sức sống tất cả cái hào hùng và oan nghiệt của lịch sử. Tỉnh Quảng Bình,
tuy là một tỉnh nhỏ về cả hai phương diện dân số lẫn diện tích, nhưng nhờ vậy lại
chiếm địa vị của một vùng đất quê hương nổi tiếng địa linh nhân kiệt.
Từ đời Hùng
Vương, Quảng Bình đã là một trong mười lăm bộ của nước Văn Lang, có tên là Việt
Thường với Thủ đô là Phong Châu. Vì là tỉnh cực nam tiếp giáp với biên giới
Chiêm Thành nên suốt một thời gian dài trong quá trình dựng nước và mở nước, Quảng
Bình đã là chiến địa khốc liệt và dai dẳng, lắm phen thay ngôi đổi chủ giữa hai
dân tộc Chiêm - Việt, cho đến năm 1069, khi vua Lý Thánh Tông xuất quân đánh
Chiêm Thành bắt được vua Chế Củ và sát nhập ba châu Địa Lý, Ma Linh và Bố Chính
thì Quảng Bình (và phần đất phía Bắc tỉnh Quảng Trị) mới hoàn toàn thuộc về
lãnh thổ nước Việt Nam và thuộc về chủ quyền dân tộc Việt Nam cho đến bây giờ.
Tuy là một tỉnh nhỏ, dù bề dài 110 cây số, nhưng bề ngang chỗ hẹp nhất, chỉ vào
khoảng 45 cây số, quanh năm ách nước tai trời, lưng dựa vào Trường Sơn huyền
bí, mặt nhìn về biển Đông thét gào, đất cầy lên không sỏi thì đá, nhưng tạo hoá
lại đền bù cho Quảng Bình nhiều danh lam thắng cảnh để tô điểm cho thêm thanh kỳ,
mỹ tú mà nhiều tỉnh khác không có. Luỹ Thầy, Đèo Ngang, sông Linh Giang, động
Phong Nha ... không những là kỳ tích của thiên nhiên mà còn là những địa danh
ghi đậm những biến cố hào hùng trong lịch sử nước nhà", ( sđd,
trang 1,2)
Sau
khi viết về quê hương Quảng Bình, tác giả Đỗ Mậu viết:
"Trong khung cảnh đất nước lúc bấy giờ, và thể hiện rõ ràng trong đời sống
ở thôn quên cũng như thị thành, ở trong chính quyền cũng như ở ngoài quần
chúng, ba luồng ý thức đối nghịch nhau như nước với lửa, như đêm với ngày, chi
phối toàn bộ quốc gia Việt Nam là ý thức dân tộc nhân bản của nền Tam Giáo, ý
thức độc thần của Kitô Giáo và ý thức duy vật của chủ nghĩa Mác Lê" , (sđd,
trang 12) . Thế rồi: "... định mệnh
trớ trêu đưa đẩy dòng lịch sử của dân tộc đến một giai đoạn tranh chấp giữa ba
xu hướng từ tầng chính trị bước lên kích thước văn hoá trong suốt những năm dao
động của hai thập niên 50 và 60. Ba xu hướng này va chạm vào nhau và nổ bùng
thành những cơn lốc chính trị và được lãnh đạo bởi ba nhân vật cùng một quê
quán Quảng Bình. Đó là ông Võ Nguyên
Giáp quê làng An Xá, ông Ngô Đình Diệm quê làng Đại Phong và Thượng Toạ Thích Trí
Quang quê làng Diên Điền".(sđd, trang 14) Ba ông này “đã trở nên những nhân vật lẫy lừng làm chao
nghiêng lịch sử và làm sụt sùi dân tộc" (sđd, trang 15)
Tôi suy nghĩ gì đây? Rõ ràng cuộc phân đôi đất nước Việt Nam và
cuộc đối đầu Bắc Nam là cuộc tranh chấp ý thức hệ mà một bên là ý thức Mác Lê
duy vật, và một bên là ý thức Ki Tô Giáo độc thần. Ý thức hệ dân tộc nhân bản
của nền Tam Giáo đã bị thời cuộc đẩy lui vào bóng tối. Tôi cho rằng ý thức hệ
dân tộc nhân bản này là đặc tình căn bản của dân tộc Việt Nam đã hình thành và
plát triển từ ngày lập quốc . Nó đã thấm vào tâm hồn, vào da thịt người Việt
Nam. Nó đã chuyển thành hơi thở, thành sức sống của dân tộc Việt Nam, nó đã gắn
liền, dính chặt vào, không thể thiếu được nữa tựa như một sự kết hợp tuyệt diệu
giữa linh hồn, và thể xác. Nó vẫn sống, lúc nào nó cũng vẫn sống, khi mạnh mẽ,
khi tiềm tàng, tuỳ theo thời cuộc biến đối mà thôi. Sở dĩ vừa qua, nó bị đẩy
vào trong bóng tối, bởi vì hai ý thức hệ kia tựa như hai ngọn sóng thần từ Tây
phương tràn tới Đông phương. Vì chúng là sóng thần, quá mạnh mẽ...nên đã có một
sức mạnh ghê gớm, khủng khiếp tàn phá vùng đất này, tưởng như muốn quél sạch
hết tất cả, cuốn theo cơn sóng thần đó khi nó rút đi !!!
Trước sức mạnh ấy, dĩ nhiên ý thức dân tộc nhân bản của nền Tam
Giáo phải bị đẩy lui vào bóng đêm tăm tối. Nhưng nó không thể chết, không bao
giờ chết được, nó vẫn sống trong âm thầm, nhưng mãnh liệt. Ý thức ấy sẽ hồi
phục như một lẽ đương nhiên. Tựa như một người bệnh, sau khi những gì không
thuộc về con người bị đẩy ra khỏi, người bệnh đó sẽ mạnh mẽ trở lại. Ý thức Ki
Tô Giáo độc thần đã tắt dần, tàn lụi dần cùng với sự sụp đổ hoàn toàn của Miền
Nam Việt Nam vào năm 1975. Ý thức Mác Lê duy vật mà Hà Nội tiếp tục khoa trương
trong cố gắng phát triển, cuối cùng cũng bắt đầu tắt dần, tàn lụi vào cuối thập
niên 80, khi mà chủ nghĩa Cộng Sản, tại chính quốc Liên Xô và ở Đông Âu hoàn
toàn sụp đổ. Bước sang đầu thế kỷ 21, Hà Nội rơi vào tình trạng níu giữ ý thức
Mác Lê với nỗi lo sợ ý thức này tan vỡ hoàn toàn. Từ đầu năm 2005, những phong
trào tìm về tư tưởng Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh ... Phải chăng đó là những
dấu hiệu của ý thức nhân bản dân tộc bắt đầu thoát ra khỏi bóng tối? Đây
là giao điểm. Đây là dấu hiệu thay đổi, càng trở nên rõ rệt , ý thức nhân bản
sống dậy thay thế ý thức Mác Lê duy vật. Buổi bình minh của dân tộc Việt
nam đã có dấu hiệu, ắt buổi bình minh ấy sẽ đến, chỉ chậm hay nhanh mà
thôi !!!
Trước đây, năm 1963, Thượng Toạ Thích Trí Quang đã có tham vọng
thực hiện một cuộc Tổng Hợp Đề Văn Hoá để hoà giải dân tộc, nhưng bất thành.
" ... Có ai ngờ một chú sa di đầu
tròn áo vuông lại trở nên linh hồn của một phong trào tôn giáo quần chúng lớn
"làm rung chuyển nước Mỹ" với tham vọng thực hiện cuộc Tổng Hợp Đề
Văn Hoá để hoà giải dân tộc ..." (sđd, trang 15). Tôi nghĩ chuyện
Thượng Toạ Thích Trí Quang bất thành trong cố gắng trên là lẽ đương nhiên, vì
lúc ấy, hai ý thức kia đang lớn mạnh, đang tiến, đang thịnh. Đọc "Việt Nam
Máu Lửa Quê Hương Tôi" của Đỗ Mậu, tôi càng nhận rõ ra điều đó.
Trở lại với Quảng Bình của tác giả, ông viết:
"Sống
giữa thời ly loạn, mà cha chú, bà con phần đông bị giặc Pháp cầm tù hay sát
hại, nhà nước thì mất chủ quyền, cha tôi, một nho sĩ nghèo nàn chỉ còn biết kéo
dài cuộc đời bất đắc chí. Tôi ra đời giữa khung cảnh đất nước đó, trong một gia
cảnh thanh bần, và giữa một làng quê bùn lầy nước đọng". (sđd, trang
23). Và ông viết: "Chính những ân
tình của xóm làng gia tộc đã dạy cho tôi về nhân nghĩa, về lòng độ lượng, và
bao dung. Cho nên những thực tại đó của đời, những kinh nghiệm sống thật đó của
bản thân, hơn tất cả những bài học ở trường, hơn những sách vở mà tôi đã nghiên
cứu, mới là hành trang quý giá và thân thương
nhất giúp tôi xông pha vào đời với một lương tâm trong suốt và với một
con tim tràn đầy nhiệt huyết" . (sđd, trang 25)
Tôi có cảm nghĩ rằng ông Đỗ Mậu đang nói về Quảng Bình của ông,
nhưng có rất nhiều tính chất là những tính chất chung của dân tộc Việt Nam
chúng ta. Chẳng hạn như những ân tình của xóm làng gia tộc đã dạy cho ông về
nhân nghĩa, độ lượng , bao dung, thì những đặc tính ấy đều là những đặc tính
chung của tất cả mọi gia tộc, mọi làng xóm Việt Nam trên khắp nước. Chẳng hạn
nữa, như nơi nào cũng sản sinh ra những anh tài, nhân kiệt, tuỳ theo từng thời
mà phát ra. Và khắp nước Việt Nam hầu như nơi nào cũng có những danh lam thắng
cảnh riêng của nơi ấy để tô điểm cho thêm thanh kỳ, mỹ tú, chứ không phải
"nhiều tỉnh khác không có"
(sđd, trang 2) như ông Đỗ Mậu đã viết. Dĩ nhiên, viết về vùng đất Quảng Bình
của ông, ông không thể tránh khỏi chủ quan, cũng là lẽ thường tình. Ông viết: "Tôi vẫn hoài niệm về làng Thổ Ngoạ tiêu điều
đó như là những năng lực tuyệt vời giúp tôi thoát lên trên mọi giông bão"
(sđd, trang 25)
Bây giờ hàng triệu người Việt Nam sống ở xứ người, lưu lạc khắp
bốn phương trời, vẫn hoài niệm về chốn làng quê nghèo nàn của mình ở trên giải
đất Việt Nam hình chữ S, có rặng Trường Sơn hùng vĩ, Cứu Long giang uốn khúc
như rồng, và biết bao núi non, sông dài thơ mộng ... nơi đó là những làng mạc,
đồng ruộng thanh bình thuở ngàn xưa, đã bị cơn sóng thần từ Tây phương tràn tới
gây đổ vỡ tan hoang ... Nhưng tinh thần dân tộc nhân bản, cụ thể là nhân nghĩa,
độ lượng, bao dung vẫn sống, sống âm thầm, sống trong đêm tối để chờ giờ phút
trồi lên trong một buổi bình minh nào đó sẽ đến, phải đến, tựa như một quy luật
tự nhiên, hễ cái gì có cực thịnh, ắt phải có cực suy, cái gì cực suy ắt sẽ từ
từ hồi sinh, phục dậy. Đó là luật phản phục. Tôi kẻ tha phương cầu thực, nhiều
lúc cảm thấy nhục nhã và cô đơn nơi xứ người, vẫn hoài niệm về quê hương
:"Ta về về ta tắm ao ta. Dầu trong dầu đục ao nhà vẫn hơn". Không có
ở đâu đẹp bằng quê hương của mình.
II/ Cảm nghĩ đến từ
những nhân vật đã làm cho thế giới khâm phục:
Trong sách ông Đỗ Mậu trình bầy về việc anh em ông Diệm lợi dụng
quyền hành trong tay, xử dụng những phương pháp vô luân và phi pháp để làm giầu
riêng. Ông Đỗ Mậu dẫn chứng từ "Bức thư ngỏ gởi ông Hứa Hoành" của
ông Trần Ngọc Lý đăng trên tờ Tia Sáng,
Houston, số 22 tháng 10 - 1987. Bức thư chỉ trích Tổng Thống Diệm đã dĩ công vi
tư, lấy tiền quốc gia giúp Giám Mục Ngô Đình Thục xây cất những cơ sở cho Giáo
Hội Thiên Chúa giáo tại Vĩnh Long. Tác giả cho biết ông Diệm có mỗi năm 98
triệu mật phí chính trị, ông còn nhận được một số lợi tức do hãng tôm Long Hải
cung cấp. Hãng tôm Long Hải này do
Nguyễn Văn Bửu, một người bà con của ông ở Phú Cam làm quản lý ...
Sau đó tác giả viết:
"Đáng
tiếc, và đáng trách vì ông Diệm đã không noi gương kim cổ, để bắt chước phong
thái những vị nguyên thủ đồng thời với ông ta, những nhân vật đã làm cho thế
giới khâm phục như Thủ Tướng MacMillan nước Anh, Thủ Tướng U Nu nước Miến Điện
chẳng hạn.
Thủ
Tướng MacMillan, người đệ tử trung kiên của "sư tử Churchill", sau
khi thôi làm Thủ Tướng về nhà sống cuộc đời thanh bạch. Ông di chuyển bằng xe
buýt, chen chúc giữa đám thường dân, cũng làm đuôi để đổi xe buýt nơi góc
đường, đầu phố. Còn Thủ Tướng U Nu vốn là một Phật tử thuần thành và tự biết
mình quá ôn hoà, không lãnh đạo được quốc gia trước hiểm hoạ Cộng Sản Miến cho
nên tháng 9 năm 1959 ông nhượng chức lại cho Tướng Nê Win để ông này có thể
thực hiện được một chánh sách chống Cộng hữu hiệu hơn. Thủ Tướng U Nu khi vào
dinh Độc Lập (Miến) chỉ mang theo một chiếc va li mây với mấy bộ quần áo cũ và
đôi giầy bố; khi ra về gia tài của ông cũng chỉ đôi giầy vải bố với chiếc va li
mây. Từ chức Thủ Tướng về nhà, ông lại
đeo đuổi việc tu hành, sớm hôm vui với câu kinh tiếng kệ. Thái độ nhà lãnh đạo như
thế chả trách Miến Điện, dù là một tiểu quốc cô lập giữa vùng rừng núi cao
nguyên, lại sát Trung Cộng, đã dám chống lại Mao Trạch Đông và chiến thắng Cộng
Sản Miến và vẫn giữ vững nền độc lập và trung lập từ sau đệ nhị thế chiến cho
đến ngày nay" (sđd, trang 442,
443)
Tác giả còn nhắc đến Lý Thừa Vãn chịu trách nhiệm trước đồng bào về
việc bà con tay chân của ông tham nhũng, rồi xin từ chức ngay và xin đi xuất
ngoại để yên lòng dân. Sau mấy năm lưu vong ông lại được dân Đại Hàn mời trở về
quê cũ. Ông Đỗ Mậu tỏ ý tiếc cho ông Diệm không chịu nhìn những gương trong
sáng đó, "không biết được những
thăng trầm tất yếu của kiếp nhân sinh, mà phú quý lợi danh có khác nào Mây trôi Nước chẩy.
Huống chi được xây dựng bằng con đường bất lương, phi nghĩa, xây dựng trên
xương máu, trên xác chết của bao nhiêu người thì làm sao tồn tại vững bền cho
được. Nó tụ càng nhiều nó phải tan càng mau như nước thuỷ triều sáng lên là
chiều phải xuống". (sđd, trang 444)
Đọc đoạn văn này - mà tư tưởng phản ảnh ý thức dân tộc nhân bản,
mang mầu sắc triết lý về cõi nhân sinh đã thấm nhuần vào làng mạc, đồng ruộng,
núi đồi, biển trời đất nước ta - tôi không tránh khỏi ngừng lại suy nghĩ mông
lung về thân phận con người và của cải vật chất thế gian. Than ơi, đến cái thân
xác của ta, thiết nghĩ là quý nhất, nó dính liền với ta, mà rồi nhiều lắm 100
năm cũng phải chết, cũng phải bỏ linh hồn ta mà tàn lụi trong hư nát, huống chi
là "ngoại thân", cái ở ngoài ta? Quả nhiên, ông Đỗ Mậu viết:"phú
quý lợi danh có khác nào Mây trôi Nước chảy", có khác nào ông đã nhắc
nhở mọi người nhớ lại cái chân lý ấy,
cái chân lý bất di bất dịch ấy, mà cố nhân chúng ta đã dùng nó như một nguyên
lý xử thế? Nó đã không còn là một tư tưởng triết học mơ hồ, hoang tưởng, mà nó
đã thấm sâu vào lòng người Việt Nam, tiếp nối từ đời này qua đời khác...Nó âm ỉ
sống trong lòng người, chỉ cần hướng nội là gặp được nó ngay. Chỉ một phút lơi
là, hướng ngoại, là cái chân lý ấy xa dần ta, để ta bị lôi cuốn vào văn minh
vật chất thời thượng bên ngoài, mà quên đi những hệ luận của nó là nhân nghĩa,
bao dung, độ lượng?! Đó là đặc tính của truyền thống của dân tộc ta. Nhưng
trong nhiều thế kỷ qua, những cơn sóng thần ở bên ngoài tràn tới, phủ lấp gây
ra biết bao nhiêu đổ vỡ, tang thương tứ tán cho dân tộc? Thật là xót xa quá!!!
Tôi nghĩ dẫu ta xa quê hương, lăn lộn kiếm sống ở xứ người, nhưng
nỗi hoài nhớ quê hương vẫn khắc khoải trong lòng, hễ bất chợt lúc nào dừng lại,
hướng nội, ắt ta lại gặp được hình bóng của quê xưa. Phải chăng đó là hồn dân
tộc, hồn Việt? Cho nên hễ ta giữ được tinh thần ấy trong ta, ắt không khi nào
ta xa rời dân tộc, không bao giờ ta phản bội dân tộc. Nhưng nếu ta lơ là, hướng
ngoại, vọng ngoại, ắt dẫn đến phi dân
tộc. Chỉ cần một sự sơ sểnh, con người ta đi đến chỗ phi dân tộc lúc nào không
hay!!! Cho vậy, tôi nghĩ người Việt muốn gìn giữ được hồn Việt trong ta, thì ta
phải gìn giữ những đặc tính dân tộc (nhân nghĩa, bao dung, độ lượng) như giữ
gìn con ngươi của mắt mình! Những người lãnh đạo đất nước đánh mất những đức tính ấy...phải chăng là
quên dân tộc, phi dân tộc ắt dẫn đến phản bội dân tộc, như tác giả Đỗ Mậu đã
viết cuốn:"Việt Nam Máu Lửa Quê Hương Tôi" để chứng minh điều đó? Tác
giả đã suy nghiệm, đã nhận rõ mặt "Hễ
đã phi dân tộc thì thế nào cũng phản dân tộc" (sđd, trong lời nói đầu),
để rồi dẫn đến kết luận:"Tất cả đã
không có căn bản dân tộc nên đã làm khổ đau dân tộc", (sđd, trong lời
mở đầu). Đọc cuốn sách, tôi cảm nhận quy luật lịch sử ấy mênh mông trên từng
trang sách.
Trở lại với những nhân vật đã làm cho thế giới khâm phục, như Mac
Millan; U Nu ... tôi nghĩ nếu Việt Nam chúng ta, trong giai đoạn 1954 - 1975,
có được một nhân vật lãnh đạo giống như thế, thì hẳn Việt Nam đã có một cuộc
diện khác hẳn như nó đã và đang xẩy ra, người Việt chúng ta đã không phải lang
thang trên đất khách. Thời xưa, với tinh thần "Dân vi quý, Quân vi
khinh", người làm vua chúa, công hầu danh tướng bao giờ cũng phải khổ
trước cái khổ của dân, đói trước cái đói của dân, vui sau cái vui của dân. Vua
tôn trọng ý dân - coi ý dân như ý Trời.
Đọc đoạn văn này, tôi trổi dậy ước mơ người Việt bây giờ và mai sau"rút được từ lời kể chuyện mộc mạc và tâm
tình chân thật này", (sđd,
trang 850) những suy tư ích quốc lợi dân thì phúc cho quê hương Việt Nam chúng
ta biết mấy!!!
Tôi quay nhìn về Đông phương...Tôi có thể thấy gi ở Đông phương?
Tác giả Đỗ Mậu đã vạch ra cho tôi thấy rõ:
"Quay
lại nhìn về Đông phương, ta thấy không thiếu những nhà lãnh đạo tài ba được
ngưỡng mộ như thần thánh và có điều kiện để trở thành độc tôn trong một xã hội
còn chậm tiến và thần quyền mà vẫn khiêm tốn và trách nhiệm nhìn thấy vị trí
của mình trong những bước tiến thoái của cuộc đời. Một U Nu của Miến Điện, một
Shigeru Yoshida của Nhật Bản, một Phác Chánh Hy của Đại Hàn, một Gandhi của Ấn
Độ ... Những người đó dù thất bại hay thành công, dù chết êm ấm hay chết bất
đắc kỳ tử, đều để lại trong lòng dân tộc họ nỗi thương tiếc và niềm kiêu hãnh
vĩ đại, cũng như đã được an vị hùng tráng trên bia đá lịch sử của tổ quốc họ.
Cũng
nhìn về phương Đông và thân thiết hơn trong lịch sử nước ta, một Lý Thánh Tôn
yêu dân như yêu con, một Lý Anh Tông đã biết "Tu thân là thận trọng ở bề
trong như dẫm trên băng mỏng, an dân là kính trọng kẻ dưới hãi hùng như cưỡi
ngựa nắm dây cương mục" , một Trần Thái Tông "từ bỏ ngai vàng như từ
bỏ một đôi giầy rách" và "lấy ý muốn của thiên hạ làm ý muốn của mình
và lấy tâm thiên hạ làm tâm của mình", một Trần Nhân Tông lập chí rằng
"trong nhân gian vẫn còn người đói khổ thì trẫm không được yên lòng"...(sđd, trang 847)
III/ Cảm nghĩ đến từ
những tâm tư của tác giả Đỗ Mậu
Ông Đỗ Mậu viết "Việt
Nam máu lửa quê hương tôi" với mục đích cao nhất của tác giả là nói
lên sự thật, "những Sự Thật đã vì
hiện trạng tế nhị của đất nước mà các nhân chứng chưa nói ra, hoặc những sự
thật mà vì cố chấp hẹp hòi sợ hãi, đã bị một số người trình bày một cách sai
lạc hoặc nhiều khi cố tình xuyên tạc " (sđd, trang 831).
Sau đó ở chương XX, kết luận, tác giả tâm tình:
"Không
những không cố chấp làm một thứ hủ nho hẹp hòi và bị trói chặt trong sự khiêm
nhường vô trách nhiệm, tôi còn tự thấy có nhiệm vụ, có bổn phận phải trang trải
ra trong lời kết luận này những tâm tư của mình. Những tâm tư của kẻ mà cuối
cuộc đời, nhìn lại quá trình hoạt động chỉ thấy thất bại này chồng chất lên
thất bại khác: 30 năm chống Cộng để cuối cùng phải chạy trốn nạn Cộng Sản, xả
thân cho một lãnh tụ để cuối cùng thấy lãnh tụ đi vào con đường phản quốc hại
dân.
Ngày
xưa, cụ Phan Bội Châu đã viết hai tập Tự Phán và Ngục Trung Thư để suy ngẫm về
những thất bại của mình và trao truyền bài học cho tương lai. Hôm nay tôi viết
cuốn hồi ký này là chỉ để theo bước chân của nhà Cách mạng Tiền bối đó, vụng về
bắt chước gương của người xưa mà thôi". (sđd, trang 832)
Quả nhiên, tâm sự của tác giả là cay đắng: 30 năm chống Cộng để
cuối cùng phải trốn chạy Cộng Sản, xả thân cho một lãnh tụ để cuối cùng thấy
lãnh tụ đi vào con đường phản quốc hại dân, thất bại này chồng chất lên thất
bại khác!!! Cay đắng là phải lắm, là lẽ đương nhiên vậy!!! Nhưng tôi nghĩ dẫu
sao ông Đỗ Mậu cũng còn một thời có quyền hành, lên xe xuống ngựa, có danh có
lợi, và cuối cùng khi Hà Nội chiếm trọn Miền Nam Việt Nam, ông và gia đình ông
đả thoát được ra nước ngoài, có những điều kiện sống mới, được sống trong bầu
không khí tự do. Ông không bị trình diện Cộng Sản để được đưa vào trại tập
trung cải tạo để học tập chính trị, lao động cưỡng bách ngoài rừng....mặc đầu
ông cho rằng bỏ nước ra đi cũng là kẻ đầu hàng như tướng Dương Văn Minh: "Nói cho cùng thì có phải chỉ có một mình
Dương Văn Minh đầu hàng đâu, những kẻ bỏ nước ra đi trước hay sau ngày 30 tháng
4 cũng là những kẻ đầu hàng" (sđd, trang 814).
Biết bao nhiêu dân Miền Nam đã hy sinh cả bản thân và gia đình
mình để bảo vệ miền Nam! Thử hỏi xem họ có được hưởng gì? Họ chính là những kẻ
nhận lãnh hậu quả bi thảm nhất của chế độ, của cuộc chiến, của những ngọn gió
phũ phàng của thời đại quét qua đất nước Việt ta! Họ là những kẻ phải đổ mồ hôi
và xương máu nhiều hơn cả. Thế thì họ, họ sẽ cay đắng biết bao nhiêu khi họ xả
thân cho một chế độ - trong đó có những lãnh tụ bao gồm chính ông Đỗ Mậu - để
rồi cuối cùng thấy quý vị đi vào con đường phản quốc hại dân? Và thấy quý vị bỏ
rơi họ trong những ngày cuối cùng của cuộc chiến? Các vị đã nói dối họ. Các vị
đã âm thầm lặng lẽ cùng vợ con lên tầu, bỏ nước, ra đi để mặc cho đất nước muốn
ra sao thì ra, để mặc họ sống chết cách nào không cần biết?!
Họ, trước đây, trong cả một thời gian dài, đã cầm súng bảo vệ đất
nước, bảo vệ chức quyền và tài sản của các vị, luôn cả bảo vệ gia đình các vị?!
Tâm sự của họ và thân nhân của họ mới cay đắng đến thế nào? Còn biết bao nhiêu
người xả thân, đem cái chết của họ để giữ cho Miền Nam được đứng vững cho đến
ngày 30.4.75? Giờ đây liệu trong các mồ chôn, họ có ẩn ức? Phải chăng ta
không được phép quên họ - vì họ đã hy sinh cho ta được sống - ta phải
chịu ơn họ?! Nhưng tác giả Đỗ Mậu lại viết: "... Miền Nam thất bại là vì tất cả chúng ta chứ không vì ai hết!” (sđd,
trang 815).
Không! Không phải thế! Không thể vì tất cả được!!! Phải có người
chịu trách nhiệm chứ? Ai đây, nếu không phải là những nhà lãnh đạo đất nước?
Lịch sử rồi đây sẽ làm sáng tỏ điểm này. Ai sẽ là người chịu trách nhiệm trước
lịch sử trong việc để miền Nam Việt Nam thất bại?! Phải chăng, cuốn "Việt
Nam Máu Lửa Quê Hương Tôi" của ông Đỗ Mậu, đã đưa ra những sự thật, đã là
một sử liệu giúp cho lịch sử tìm ra kẻ chịu trách nhiệm? Vậy sao lại viết
"vì tất cả chúng ta" ở phần
kết luận? Không, Không thế!!! Chính tác giả đã viết ở đoạn kế tiếp: "thu quyền lực về một nhóm bè đảng ở dinh Độc
Lập thì hỏi làm sao toàn dân đoàn kết để bây giờ bắt toàn dân chia sẻ trách
nhiệm thất trận đó được" (sđd, trang 815) Phải chăng tác giả mâu
thuẫn? Vậy nên câu: "Miền Nam thất
bại là vì tất cả chúng ta chứ không phải vì ai hết!" cần được xét lại
một cách nghiêm chỉnh. Đó là suy nghĩ
của tôi về tư tưởng "thất bại" của tác giả Đỗ Mậu
Mặt khác, tác giả viết: "Phần
cuối cùng của chương Thay Lời Kết Luận này xin được dùng để trang trải lời tâm
sự nhỏ với thế hệ tương lai của dân tộc, đang ở trong nước hay ngoài nước, đang
ở bên này hay bên kia của những chiến tuyến chính trị và văn hoá"
(sđd, trang 848, 849) Vậy thì những tâm sự nhỏ ấy là gì? Và tôi, người đọc
sách, cũng có cảm nghĩ về những tâm sự nhỏ ấy, xin được cùng viết ra nơi đây:
1/ "Tôi ra đời và lớn
lên từ đất Quảng Bình đau thương nhưng lại là mảnh đất kiêu hùng như mọi tấc
đất thiêng liêng khác của tổ quốc... Tôi đã trải qua một cuộc đời thơ ấu nghèo
khổ nhưng thanh bạch, đổ mồ hôi trên từng tấc đất để đổi miếng ăn, và lấy luỹ
tre làng, đồng ruộng khô làm vũ trụ xinh đẹp và to lớn của mình...
... Bài học lớn đầu tiên mà tôi học được từ đó
là tôi yêu quê hương không phải vì quê hương đó xinh đẹp hay xấu xa, giàu mạnh
hay nghèo khổ, mà tôi yêu quê hương vì tôi đã có mặt ở đó, sống để cùng chia xẻ
vui buồn, sướng khổ, vinh nhục với đồng bào ruột thịt.
... Bài học lớn cuối cùng mà tôi đã học được từ đó
là khi đã yêu quê hương thì phải xả thân bảo vệ và nuôi dưỡng nó".
“Bài học lớn đầu tiên và bài học lớn cuối cùng là yêu quê hương và
xả thân bảo vệ”. Chí lý lắm. Rất chính xác. Bởi đó là Sự Thật của hầu hết người
Việt Nam. Có tới khoảng 85% dân Việt Nam sống ở nông thôn, ban ngày thì đổ mồ
hôi ngoài ruộng đồng, ban đêm thì nghỉ ngơi vui vẻ bên trong luỹ tre bao bọc.
Bình thường, giản dị, đơn sơ, mộc mạc, đầy ân tình, nhân nghĩa, độ lượng, bao
dung với gia tộc, chòm xóm, và rộng hơn với cả cộng đồng dân tộc. Ấy, giản dị là thế đó, nhưng khi nhà nước có
biến, người dân mộc mạc này sẵn sàng hiến dâng tất cả, kể cả tính mạng của mình
để đối phó với giặc ngoại xâm. Hội nghị Diên Hồng với cuộc chống quân Mông Cổ
dưới đời nhà Trần là một thí dụ điển hình. Nhiều xóm làng đã sẵn sàng thực hiện
đường lối "vườn không nhà trống" để đối địch! Họ đã chẳng hy sinh tất
cả khi cần đó sao?
Quê hương Việt Nam ta, thưở xưa ấy, đẹp như thế đó. Tôi rất tâm
đắc với bài học lớn đầu tiên và bài học lớn cuối cùng của tác giả Đỗ Mậu. Về
sau này, với những cuộc xâm lăng của người Phương Bắc, tiếp đến là từ Tây
Phương đã làm lung lay đến tận gốc rễ thôn làng xưa ấy...Một thiểu số tiếp tay
cho giặc, làm Việt gian đã tạo ra những hủ tục để dễ đàn áp, bóc lột...và cũng
đã phá vỡ những truyền thống tốt đẹp nơi làng xã...Nhưng có thể nói rằng những
cuộc xâm lăng ấy tựa như những làn sóng dữ tràn vào quê hương, cái tinh thần
văn minh cố cựu của chúng ta phải tạm lắng chìm xuống , hay nói khác đi, phải
lui vào bóng tối. Nó vẫn âm thầm sống trong bóng tối, chờ đợi ánh bình minh.
Cái tinh thần ấy đã là cái sắc thái, bản chất đặc biệt và riêng biệt của một
chủng tộc - là chủng tộc người Việt ta - thì chẳng bao giờ mất được! Nó chỉ
trầm luân theo sóng dữ, nổi trôi theo thời cuộc, tan tác như lục bình trôi
sông... nhưng khi mà sóng gió đã yên, đã lặng, nó lại sống dậy, tựa như những đám lục bình lại tụ lại bên bờ...
2/ "Bị lôi cuốn trong
cơn lốc lịch sử, tôi đã lấy những quyết định bình thường như trăm ngàn người
dân Việt khác: chống Tây đô hộ và chống
Cộng Sản độc tài. Đó không phải là những quyết định chính trị có tính
toán mà là những phản ứng có tính bản năng và có tính cách truyền thống. Bị áp
bức thì vùng lên, bị kiềm chế thì phản kháng, tự nhiên như trẻ thơ đói khát thì
bú vú mẹ." (sđd, trang 849). Điểm này cũng rất chi lý, rất chính xác.
Dân tộc Việt Nam ta là một dân tộc bị xâm lăng, bị đàn áp suốt từ ngày lập quốc
đến giờ. Dân tộc ta chỉ tranh đấu để tự vệ. Sở dĩ có cuộc Nam tiến để mở mang
bờ cõi về phương Nam, cũng chỉ vì bị người phương Bắc xâm lăng, nên phải bánh
trướng về phương Nam để tìm đất sống. Có
thể nói, nôm na, là tất cả người Việt Nam từ các nhân vật lãnh đạo đến thứ dân
đều bị cuốn trong những cơn lốc lịch sử, cơn lốc của thời đại, nên đều có những
phản ứng có tính cách bản năng, trong hoàn cảnh của mỗi người. Nhưng hể có
người đứng ra lãnh đạo mà có tài đức, ắt được nhân dân hưởng ứng ngay. Nhân dân
hướng về rừng núi Lam Sơn, nơi đó có Lê Lợi, Nguyễn Trãi giương ngọn cờ dân tộc
đánh đuổi quân nhà Minh, là một thí dụ hùng hồn. Thí dụ gần nhất là những cuộc
khởi nghĩa chống Pháp của Nguyễn Thái Học, phong trào Cần Vương, v.v...đều được
nhân dân hưởng ứng, sẵn sàng xả thân bảo vệ quê hương. Đó là một sự tự nhiên,
không tính toán, không tham sống sợ chết.
Người Việt ta vốn coi cái chết nhẹ tựa lông hồng, phải chăng ý
thức hệ dân tộc nhân bản đã bao chứa những điểm tinh hoa: thà chết vinh hơn
sống nhục, sát thân thành nhân, quan niệm thành nhân trọng hơn quan niệm thành
công, quan niệm ác giả ác báo, nhân quả, sống gửi thác về, trọng nhân nghĩa,
sống thật với mình và với người, không màu mè, khinh sự giả trá...Thật là đẹp
quá, tuyệt quá! Cho nên, với những điểm tinh hoa ấy, ý thức dân tộc nhân bản
chẳng bao giờ có thể bị tiêu diệt được, dẫu những cơn lốc thời đại hung dữ đến
đâu. Bởi đó chính là Hồn Việt ... mà sử dụng ngôn ngữ bác học, người ta gọi đó
là ý thức hệ dân tộc nhân bản đó thôi. Ý thức hệ ... quả thật, đó là mấy chữ
mang mầu sắc triết học và chính trị thời thượng mà thôi. Có lẽ là vì những làn
sóng phương Tây tràn tới Việt Nam mang tên ý thức hệ này, ý thức hệ nọ, mà
người mình mới phải dùng đến các chữ ý thức hệ dân tộc nhân bản để diễn tả Hồn
Việt đó chăng? Để phân biệt với các ý thức hệ kia?
Tác giả viết rất rõ "... là
những phản ứng có tính bản năng và có tính cách truyền thống". Vâng,
chính cái tính cách truyền thống mà tác giả nói đến, là cái Hồn Việt. Mà đã là
truyền thống, ắt không thể mất được, không thể bị tiêu diệt được. Mọi âm mưu
xoá bỏ, để áp đặt bất cứ một ý thức hệ nào khác lên dân tộc Việt Nam, đương
nhiên, trước sau gì, cũng chuốc lấy thảm hại. Cho nên, hiện nay, Đảng Cộng Sản
Việt Nam, tay sai của đế quốc Cộng Sản muốn áp đặt ý thức hệ Mác-Lê duy vật lên
dân tộc Việt Nam, đang đứng trước nguy cơ thảm bại. Hồn Việt vẫn âm thầm sống,
vẫn nở hoa thơm trong bóng đêm, đợi ngày rạng sáng!
3/
"Vì nói cho rốt ráo, nghĩ cho tận
cùng, thì những Hồ Chí Minh, những Ngô Đình Diệm, cuối cùng cũng chỉ là nạn
nhân của cơn lốc lịch sử, của cuộc khủng hoảng thời đại đang khống chế dân tộc
ta" (sđd, trang 850 ). Điểm này cũng chí lý, chính xác lắm. Toàn bộ
nội dung cuốn "Việt Nam Máu Lửa Quê Hương Tôi" đã nói lên cho đọc giả
thấy cơn lốc lịch sử, cuộc khủng hoảng thời đại đã tràn vào đất nước ta và
khống chế dân tộc ta.
Vậy thì, nhìn về tương lai, người Việt Nam nào cũng có thể tự hỏi
rằng đến bao giờ cơn lốc lịch sử qua đi? cuộc khủng hoảng thời đại qua đi? Để
nó không còn như cơn sóng dữ, như cơn bão lớn không chế dân tộc ta? Vâng, bao
giờ sóng tan, mưa tạnh, bão tàn lụi, để Việt Nam được Độc Lập và Hoà Bình? Tác
giả Đỗ Mậu đã viết ở trang 845, sách đã dẫn:
"Theo
lẽ thường thì dân tộc làm chủ đất nước nên vận mệnh của tổ quốc liên hệ đến vận
mệnh của dân tộc mà giai tầng lãnh đạo là giai tầng tiêu biểu. Dân tộc Việt Nam
đã có những nhà lãnh đạo anh hùng tài đức trùm trời đất cũng như đã có những
bạo chúa hại dân hại nước muôn đời bị nguyền rủa. Từ những thế kỷ 20, vận nước
đa đoan nên đáng lẽ từ đống tro tàn của Đệ Nhị Thế Chiến, nước ta phải vươn lên
theo ngọn gió Giải Thực khắp Đông Tây để giành lại Độc Lập thống nhất trên sơn
hà gấm vóc, nhưng sinh lực suy kiệt nên ta chỉ có những nhà lãnh đạo tay sai Hồ
Chí Minh, Lê Duẩn ở miền Bắc, và những nhà lãnh đạo tay sai Bảo Đại, Ngô Đình
Diệm, Nguyễn Văn Thiệu ở miền Nam. "
Phải chăng, những nhà lãnh đạo tay sai này, ở vào cái thế chẳng
đặng đừng do cơn lốc lịch sử kia? Họ cũng chỉ là những nạn nhân? Tôi thiết
nghĩ, để trả lời đầy đủ cho câu hỏi này, cần phải có nhiều suy nghĩ thấu đáo
hơn, cần đào sâu hơn những tài liệu lịch sử đang được các nhân vật có thẩm
quyền giải mật dần. Bản thân tôi cũng còn phải suy ngẫm nhiều hơn nữa ...
Kể cả câu hỏi: "Bao giờ cuộc khủng hoảng thời đại chấm dứt, để nó còn hiệu
lực khống chế dân tộc ta?", cũng chưa thể trả lời được? Tôi có cảm tưởng
cuộc khủng hoảng thời đại vẫn còn mênh mông, tràn lan trên khắp mặt địa cầu,
nhìn đâu cũng thấy một khung trời u ám ...Tôi không trả lời được.
Kết Luận: Dưới đám mây Tần, quê hương nghìn trùng có một ngày
trong sáng?
Chúng tôi dùng câu cuối của tác giả Đỗ Mậu trong cuốn "Việt
Nam Máu Lửa Quê Hương Tôi", để làm tiểu đề cho kết luận bài viết về cảm
nghĩ của tôi đối với cuốn sách: "Dưới
đám mây Tần, quê hương nghìn trùng nếu có một ngày trong sáng, thì nấm mộ vàng
nơi đất lạ chắc sẽ nở hoa tươi" (sđd, trang 851). Câu văn nói lên cái
tâm của tác giả đối với quê hương, cho đến chết vẫn mơ ước quê hương được trong
sáng.
Tôi nghĩ, đây là ước vọng của mọi người Việt Nam ở trong nước cũng
như ở ngoài nước, hiện đứng ở tâm cảnh nào. Đó là mơ ước chung của người
Việt Nam không phân biệt. Vấn đề được gợi ra là làm thế nào thực hiện được ước
mơ chung đó? Phải chăng đó là mỗi người Việt Nam góp một chút tâm tư và sức lực
để cùng nhau cởi cái nút lịch sử oan nghiệt đang bóp chặt bước tiến của tổ
quốc?
Than ơi, cái nút lịch sử oan nghiệt ấy rất khó biết và cũng rất
khó tháo gở ... bởi vì, tôi nghĩ, nó có liên hệ đến cơn lốc lịch sử, cuộc khủng
hoảng thời đại, mà tác giả Đỗ Mậu đã nói đến, và chúng tôi đã trích dẫn trên. Có
lẽ chúng ta không còn cách nào khác hơn là chờ đợi, nhưng không chờ đợi với
thái độ tiêu cực, ù lì đứng một chỗ, mà chờ đợi với thái độ tích cực như trường
hợp tác giả Đỗ Mậu:
"Tôi
là sự tiếp nối tự nhiên của một tiền nhân vô danh nào đó từ thời lập quốc, bị
áp bức thì chống, bị xâm lăng thì đánh, bị đổ vỡ thì xây dựng, chứ không ù lì
đứng một chỗ, buộc căn cước văn hoá và lý tưởng đấu tranh vào một triều đại
nào, một chế độ nào, hay một ý thức hệ nào." (sđd, trang 850)
Tôi đã suy ngẫm về một số lập trường chính trị trong việc xây dựng
Việt Nam, mà ông Đỗ Mậu đã viết ra trong cuốn sách của ông :
" ...
từ 30 năm nay, Phật giáo Việt Nam đề nghị một sinh lộ và kêu gọi một nỗ lực
cuối cùng: Lấy sức mạnh của dân tộc để hoà giải tranh chấp của quá khứ, Hoà
giải các phe đối nghịch trong hiện tại, và Hoà hợp đời sống trong Hoà bình
tương lai mà mô thức chính trị quốc gia có thể là Dân Chủ Xã Hội Phi liên kết" (sđd, trang
807)
" ...
giáo chủ Phạm Công Tắc đã chủ trương một nước Việt Nam Hoà Bình Trung Lập (cũng
giống như chủ trương Phật giáo)" (sđd, trang 807)
"... Chủ
trương Việt Nam Trung lập phi liên kết là một sáng tạo chính trị tích cực và là
một đóng góp quí giá của Phật giáo Việt Nam cho dân tộc trong cái viễn ảnh đó,
tiếc thay cả hai ông Hồ và Ngô đều giáo điều và thiển cận nên không nhìn thấy
được, do đó đã làm cho đất nước tang thương và dân tộc điêu linh mãi cho đến
ngày nay." (sđd, trang 524)
"... Đau
đớn nhìn lại lịch sử...khi mất nước vào tay Cộng sản, lưu vong nơi xứ người,
nhiều chính khách, lãnh tụ, tướng tá, trí thức, cả già lẫn trẻ mong cầu Việt Nam
sau khi được giải thoát khỏi chế độ Công sản, sẽ là một quốc gia trung lập" (sđd, trang 524)
Tôi tự hỏi Việt Nam trong tương lai, có thể là một quốc gia trung
lập không? Hỏi để mà hy vọng. Rất có thể, Việt Nam phải kinh qua những gia đoạn
nổi trôi như nó đã và đang xẩy ra, thì rồi đây mới có thể bước tới chỗ ổn định
được, theo luật cùng tắc biến biến tắc thông. Cuộc khủng hoảng thời đại sẽ phải
tới lúc cùng, phải biến thông.
Nhìn cuộc diện thế giới, thế lưỡng cực Cộng sản và Tư bản đang mờ
nhạt dần, thế đa cực đang chuyển biến hình thành... Trong cái toàn cảnh của
toàn cầu ấy, các nước nhỏ như Việt Nam chiếm đa số trên mặt địa cầu, sẽ có nhu
cầu được tôn trọng Độc Lập, Thống Nhất, Tự Do và Trung Lập phi liên kết của họ?
Việt Nam ta, có thể sẽ có cơ hội thành một quốc gia hoà bình trung lập. Nhưng
muốn nắm bắt được cơ hội ấy, người Việt Nam phải có sự chuẩn bị, nhất là tinh
thần của người lãnh đạo đất nước, không thể coi mình là những người ngoại quốc
sống trên quê hương mình, không như kẻ ngoại nhân đô hộ nhân dân mình, không có
lòng trắc ẩn đối với người mình, như trước kia kẻ lãnh đạo đã sai lầm. Kẻ nào
thi hành nhân nghĩa sẽ là người cai trị.
HOÀNG NGỌC HIỂN
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét