LM TRẦN TAM TỈNH PHÊ PHÁN
CHẾ ĐỘ NGÔ ĐÌNH DIỆM
Linh mục Vincent
Trần Tam Tỉnh, Giáo sư Đại học Laval (Quebec),
Viện sĩ Viện Hàn
Lâm Hoàng Gia Canada,
Trích đoạn từ tác phẩm Thập Giá và Lưỡi Gươm, Chương III, Mục 1
Toàn thể độc giả chắc còn nhớ các biến cố tại Sài Gòn
những năm 1954 – 1956. Ngô Đình Diệm phải đánh dẹp các lực lượng phong kiến đã
do quân Pháp dựng lên trong thời chiến: Quân Bình Xuyên, lúc đó kiểm soát ngành
cảnh sát Sài Gòn Chợ Lớn, các đảng phái vũ trang như Cao Đài và Hòa Hảo và cái
gọi là quân đội miền Nam, nhưng sĩ quan đều là tay sai của Pháp. Diệm đã thắng.
Một đàng, nhờ Mỹ đã thành công hất cẳng Pháp, bắt họ rút hết quân thuộc địa về.
Quân Pháp đi rồi, Ngô Đình Diệm truất phế Bảo Đại, rồi tự phong là tổng thống
Cộng hòa miền Nam. Trong tất cả các cuộc khủng hoảng này, chú Sam luôn luôn có
mặt đấy, «Theo yêu cầu của ông Diệm, chúng tôi (trung tá Lansdale, trùm CIA)
đến thăm ông ta hầu như mỗi chiều, trong thời gian đó căng thẳng gia tăng, và
nhiều khi cuộc thăm viếng của chúng tôi kéo dài hàng giờ» (Pentagon Papers,
tr.20).
Nhưng đàng khác, bên cạnh sự ủng hộ của Mỹ, Diệm cũng cần
có lực lượng dân chúng để giúp ông cầm quyền. Nhân dân miền Nam tỏ thái độ hững
hờ hoặc chống đối ông. Các đảng phái chính trị - tôn giáo hầu như không không
muốn hợp tác với ông. Quân đội thì còn ở dưới sự chỉ huy của các sĩ quan thân
Pháp. Đảng Cần Lao do em của Diệm là Ngô Đình Nhu lập ra, tập họp một nhóm
chính trị gia Công giáo tư sản còn ở giai đoạn trứng nước. Diệm dựa vào khối
Công giáo di cư, dễ sai bảo và cuồng nhiệt, sẵn sàng tuân lệnh các cha xứ kéo
nhau xuống đường mít tinh ủng hộ. Cuộc xuống đường đầu tiên xảy ra ngày
21-9-1954. «Trong không khí bị đầu độc của Sài Gòn, những người di cư khốn khổ
ấy dầu sao cũng là một sự khích lệ cho Diệm, khi họ kéo nhau biểu tình hô to
ủng hộ ông ta, với những khẩu hiệu được bôi vẽ vội vàng. Như thế ông không phải
cô đơn một mình trong dinh Norođôm, như một vài người muốn nói. Người di cư
được tập họp theo những mệnh lệnh hết sức đơn giản. Họ biết rằng người cha của
họ, người họ cậy nhờ, người bảo hộ cho họ, đó là tổng thống Diệm… Người ta nói
với họ rằng tổng thống sắp gặp rắc rối với các đối thủ, thế là họ kéo nhau tới,
một cách hiền hòa, chẳng súng ống gì, để nói lên sự gắn bó của họ». Đó là mô tả tình hình theo báo
Missi. Còn phải thêm luận điệu của Paris-Match để hiểu sự kết cuộc bi đát của
nội vụ:
«Các đoàn xe cam nhông Bình Xuyên xuất hiện, điều động
vào địa hình rất tài, dựng cản khắp đưởng phố. Rồi bỗng dưng một loạt súng máy
bắn xả vào một toán, mà chỉ cần nhẹ hơn cũng đử sức giải tán… Nhiều người chết
và bị thương nằm la liệt giữa phố. Một nhóm nhỏ biểu tình tiến tới quảng trường
Bá Đa Lộc và treo lên bờ rào của Nhà thờ chính tòa mấy câu khầu hiệu. Các linh
mục tới gỡ đi và khuyên đám biểu tình hãy giải tán.».
Những màn tương tự cứ tiếp tục xảy ra tại Sài Gòn. Mỗi
lần «Quốc gia lâm nguy», hàng chục ngàn người Công giáo, từ các trại di cư
quanh thủ đô sắp hàng theo sau các cha xứ bận áo chùng thâm, kéo tuôn về thủ đô
để biểu tình nói lên ý chí cương quyết ủng hộ Diệm tới chết. Quả thế, số phận
họ được coi như gắn liền với số phận của thủ tướng.
Nhờ viện trợ Mỹ, việc định cư hầu như được giao phó hoàn
toàn trong tay cái cha xứ, các làng «kiểu Bắc kỳ» mọc lên tại Hố Nai, Cái Sắn
v.v… bao quanh nhà thờ, lúc đầu chỉ làm bằng vật liệu nhẹ, sau được xây gạch
thường có tháp chuông. Đó là những ốc đảo khép kín, vừa không thể xâm nhập, vừa
không thể đánh chiếm.
Nhờ sự ủng hộ vô điều kiện đó, sau cùng Diệm đã hất được
Bảo Đại trong cuộc trưng cầu dân ý ngày 23-10-55, Diệm chiếm được 98% số phiếu.
Nước Cộng hòa được công bố và đương nhiên Diệm trở thành tổng thống đầu tiên.
Các mục tiêu của chính phủ ông đơn giản lắm. a) củng cố miền Nam; b) giải phóng
miền Bắc khỏi ách Cộng sản.
Người ta đã viết nhiều về Ngô Đình Diệm như một «người
hùng Đông Nam Á», là «Côngxtantanh châu Á», là «Klôvít mới trong lịch sử Giáo
hội». Theo dư luận của những người đã từng cộng tác với ông, Diệm là một người
liệm khiết, độc tài, phong nho, và «trung cổ». Cổ lổ, ông càng tỏ ra cổ lổ hơn,
khi tự cho mình là «Người Chúa chọn» để cứu dân. Là người độc thân từng sống
gần chục năm trong tu viện, chủng viện, tại Việt Nam cũng như tại Mỹ, ông gần
gủi với thuyết thiên chủ hơn là dân chủ.
Là cha của nước Cộng hòa, ông chỉ chấp nhận một đảng duy
nhất là Cần Lao, được thành lập và khuynh loát bởi ông em Ngô Đình Nhu, làm
nòng cốt cho cái ông gọi là Phong trào cách mạng quốc gia. Phong trào này được
tổ chức theo cơ cấu của một chính thể quốc gia, có tất cà các bộ chân rết như
bộ máy chính quyền từ trên xuống dưới, khiến bất cứ ai muốn được thành tỉnh
trưởng, quận trưởng, xã trưởng, giáo sư hay công chức, đều phải là đảng viên
Cần Lao. Hệ tư tưởng của Đảng và Phong trào là «thuyết Nhân vị», chỉ có một
trường đào tạo duy nhất là «Trung tâm đào tạo nhân vị’, do người anh của tổng
thống là Giám mục địa phận Vĩnh Long, Ngô Đình Thục sáng lập. Bất kỳ
là Công giáo hay không, tất cả công chức đều phải qua một khóa học tập ít là
một tháng tại đó. Cá lớp học đều do các linh mục đảm nhiệm, nhồi nhét những
khái niệm về nhân bản, con người được Thiên Chúa sáng tạo, giảng về những điều
lầm lạc của Phật giáo, Khổng Giáo,
về các tội ác của Cộng sản… Cuộc «tẩy não» này do chính các linh mục thực hiện,
họ là những người chỉ biết triết học kinh viện tây Âu và «đã tiếp thụ tại Rôma
cái khái niệm về Phật giáo do các cố cựu thừa sai dạy cho» (lời thú nhận của
giám mục Thục).
Vị giám mục này, anh của tổng thống, niên trưởng của hàng
Giáo phẩm, đã hóa thành trí não tuyệt vời của chế độ. Người ta tìm tới ông để
xin xỏ ân huệ, đặc quyền. Giám mục làm như hiện thân của Giáo hội, cũng như ông
em là hiện thân của Nhà nước. Thật không phải vô cớ mà thiên hạ hàn tán về «óc
hiếu thắng của Giáo hội» và chủ nghĩa gia đình trị của nhà họ Ngô. Đáp lại các
lời chỉ trích, giám mục Thục nói năm 1963 rằng «Trên bàn giấy của tôi nằm chồng
chất những lô đơn xin tôi can thiệp cho họ ơn này ơn nọ, khổ thay, thường chỉ
là thế tục, từ chóp bu của Giáo hội, băng qua các đồng nghiệp của tôi trong
hàng giám mục (…) và xuống cho tới những tầng lớp thấp nhất của quần chúng, bất
phân màu da và tôn giáo (tôi có thể kể ra tên tuổi đáng kính như hồng y Feltin
và đức cha Rô-đanh (Rodhain). Tôi không thể dửng dưng trước những lời kêu xin
của họ. Cho nên có sự ăn qua giữa cái thiêng liêng và cái phàm tục! Ở vào địa
vị tôi, các ông sẽ xự sự thế nào?» (ICI, 15.4.1963).
Từ 1955 đến 1963 là thời vàng son của chủ nghĩa cha chú,
với những lợi ích thật chẳng bao nhiêu, nhưng với những hà lạm gây nhiểu tiếng
tăm hơn, nhất là trong khi công chúng gồm 90% là ngoài công giáo mà bị kiểm hãm
dưới một thứ «chính phủ công giáo». Khắp nơi, ở thành phố cũng như nông thôn,
chiếc áo chùng thâm là biểu tượng của quyền thế.
Tại các vùng Công giáo di cư, cha xứ là toàn quyền, là
những ông vua tuyệt đối. Giám mục Ngô Đình Thục cũng phải thừa nhận những
chuyên hà lạm của các nhà độc tài áo đen. Trong một lá thư gởi cho một bạn cũ,
ông viết: «Người ta có cả trăm hồ sơ, tố cáo các linh mục ăn cắp tiền của di
cư, bằng những danh sách ma, bằng cách tẩy xóa sổ sách, bằng cách thu xếp để
chiếm đoạt tiền bạc của chương trình Cải cách ruộng đất, hoặc bán hàng viện trợ
Mỹ (theo các lời tố cáo của chính bà con di cư) hay là giữ tiêu riêng các khoản
tiền họ nhận để xây dựng nhà ở cho bà con di cư: Nhà nước (và cả Giáo quyền) dễ
dãi cứ nhắm mắt làm ngơ cái vụ đó, bởi vỉ linh mục rất cần cho việc huy động
dân chúng trong cuộc chống Cộng.
Tại thành thị, các linh mục chẳng có bằng cấp, chẳng tài
giỏi gì, mà vẫn điều khiển các trường tư thục, được tổ chức những áp phe vơ vét
tiền bạc. Hai linh mục đã được cử làm viện trưởng của hai trong ba đại học của
toàn miền Nam, trong đó có đại học Đà Lạt. Đại học này chỉ là Công giáo nơi
danh nghĩa thôi. Đất đai và cơ sở kiến trúc của nó đều do Nhà nước đài thọ. Để
có nguồn thu nhập cho đại học, giám mục Thục đã giành được độc quyền các vùng
đốn cây tại Định Quán, là điểm ngon nhất nước. Ông cũng xin được những thửa đất
ruộng mênh mông dọc bờ biển, để trồng dương liễu và dừa; công viện này được
tiến hành nhờ có tiền vay được hàng triệu đồng của chính phủ. Đã có đại học
Công giáo thì phải có sinh viên. Song Đà Lạt là một thành phố nhỏ miền cao
nguyên, ở xa các trung tâm đô thị lớn và nhất là nó chỉ là một thành phố biệt
thự dành cho hạng giàu có. Muốn cho đại học Công giáo này hoạt động, chính phủ
quyết định dời khoa sư phạm Sài Gòn lên, đem theo toàn bộ sinh viên, anh chị em
nào cũng có học bổng Nhà nước cấp.
Thế là nhờ có sự bảo trợ của giám mục Thục thuộc địa phận
Vĩnh Long, sau nầy làm Tổng giám mục Huế, các sinh viên Công giáo đã giành được
những vị trí then chót và lương bỗng cao. Tòa giám mục trở thành một loại phòng
ngoài của dinh Tổng thống. Người ta thấy bộ trưởng, dân biểu, tỉnh trưởng,
tướng tá (trong đó có nhiều người mới trở lại đạo) lũ lượt sắp hàng vào hầu đức
cha. Tại các tỉnh, các linh mục cố vấn chính trị rất có ảnh hưởng cạnh tổng
thống hoặc bên cạnh người em thứ ba của tổng thống – phó vương không danh nghĩa
của miền Trung – các cha không ngần ngại tìm cách đưa con chiên mình vào thay
thế các quận trưởng hay xã trưởng không công giáo.
Để thành lập những đơn vị bảo vệ dinh tổng thống Diệm
chiêu mộ những người di cư tỉnh Thanh, Nghệ, Tĩnh, Bình vốn nổi tiếng là dũng
cảm và chống Cộng. Ông nói chuyện đó với linh mục Cao Văn Luận, một người rất
thân tín. «Giả như tôi đem vào được ít chục ngàn chiến sĩ của Thanh Nghệ Tĩnh
Bình và một chục cán bộ có khả năng cỡ cha Khai, thì mọi sự chắc chắn sẽ thành
công. (Người ta biết rằng sau này linh mục Khai đã hối tiếc vì đã qua nhiệt
tình phục vụ ông Diệm).
“Chính phủ công giáo” ngày càng trở nên lộ liễu khi
ngành công binh, từng đoàn binh xa và vật tư của chính phủ được đưa ra sử dụng
trong việc xây cất nhà thờ, chủng viện, các nhà thuê thuộc tòa giám mục; khi
các cán bộ nông thôn và công chính được phái đi lo việc trồng dương liễu và dừa
cho đức cha, khi các binh sĩ được biệt phái thường trực tại văn phòng Công giáo
tiến hành, khi các giám mục có chỗ danh dự đứng bên cạnh tổng thống trong các
nghi lễ công cộng, hay là trong các cuộc duyệt binh, khi chính phủ phê nhận
luật gia đình của bà Nhu, em dâu của Diệm, áp dụng – trong một nước mà 90% dân
là không công giáo – các khoản luật gần giống như trong Giáo luật. Khỏi nói tới
việc dựng các tượng Đức Mẹ do tay tổng thống, có giám mục nọ kia phụ vào, tại
nhiều điểm ranh giới để «nhờ Đức Mẹ che chở đất nước khỏi nạn Cộng sản».
Quả thế, Đức Mẹ cũng được đưa vào môi trường của chủ
nghĩa hiếu thắng huênh hoang, nhất là dịp Đại hội Thánh mẫu tháng 2 năm 1959,
có hồng y Agagian, sứ thần của Đức giáo hoàng qua chủ sự. «Ba trăm ngàn giáo
hữu đã đi theo cuộc rước khổng lồ trong ngày kết thúc, sau đó hồng y đã long
trọng dâng nước Việt Nam cho Đức Mẹ Vô Nhiễm» theo tin tức báo chí thời ấy.
Để cuộc rước đó thành công, ngoài sự tưởng tượng của Rôma và Pari, người ta đã
huy động hàng ngàn tên công binh để xây dựng một bệ lớn trước nhà thờ chính tòa
Sài Gòn, để dựng lên cổng chào, đồng thời đưa ra hàng trăm xe căm nhông để vận
chuyển hàng chục ngàn giáo dân từ các tỉnh về.
Đức Mẹ cũng được cung kính đặc biệt tại La Vang, quãng 30
km mạn nam vĩ tuyến 17. Vì những lý do chính trị, ngôi nhà nguyện nhỏ mất hút
trong rừng núi, bỗng trở nên một nơi hành hương cho toàn thể người Công giáo
Việt Nam, thậm chí của toàn nhân dân Việt Nam! Được mệnh danh là «thành lũy thế
giới tự do chống cộng sản», ngôi nhà nguyện khiêm tốn này vừa được nâng lên
hàng Vương cung thánh đường từ sau Đại hội Thánh Mẫu, đã tiếp nhận vào tháng
8-1961 một cuộc hành hương khồng lồ nhất trong lịch sử chế độ Diệm. Ngày 16-8,
tổng thống đích thân phú thác tương lai nước Việt Nam cho Đức Mẹ La Vang. Trước
mặt 200.000 người hành hương, đầy đủ các giám chức của Giáo hội, các bộ trưởng
và công chức cao cấp, phần lớn không phải là Công giáo, tổng giám mục Ngô Đình
Thục đã đọc lời kinh dâng nước Việt Nam cho Đức Mẹ, sau cuộc rước kiệu khổng
lồ.
Nhằm biến La Vang thành một thứ Lộ Đức Việt Nam, hàng
giám mục đã tổ chức tại La Vang để lấy cho được cỡ 10 triệu đồng dành cho việc
xây nhà thờ mới, các tượng Thánh Giá và cái hồ «làm phép lạ». Vé số được phân
phối một cách đương nhiên cho các công chức, Công giáo hay không cũng mặc, bằng
cách khấu trừ tiền lương của họ. Các học sinh nghèo, nhất là tại các trường học
miền Nam, cũng phải mua vé số. Một số vé được đem giao cho các công chức và
quân sự phân phối. Tại Sài Gòn, một bữa tiệc kiểu Mỹ đã được tổ chức trong đó
có khách được mời phải đóng 2.500 đồng (ngang với một tháng lương của công
nhân) gọi là để đóng góp cho Trung tâm quốc gia La Vang. Danh sách các ân nhân
«tự nguyện» của La Vang rất dài, với những người đứng đầu sổ là Phó tổng thống
người Phật giáo, các bộ trưởng, các tướng tá, mỗi người dân cũng từ 10.000 đến
20.000 đồng.
Đối với Nhà nước cũng như giáo hội, La Vang không chỉ là
một trung tâm tôn giáo, mà còn là biểu thị của chế độ chống cộng. Chẳng hạn khi
bình luận cuộc hành hương năm 1961, tờ Viễn Đông, một tạp chí tuyên truyền của
chế độ, đã viết: «La Vang là nơi hòa nhập nên một, đối với người Công giáo, bản
chất lòng yêu nước với đức tin giải ra trước con mắt của kẻ tin một việc lựa
chọn hai chiều thật đúng với việc quan phòng của Chúa. Và sự chọn lựa này hiện
rõ một lần nơi cái dự án kỳ diệu không tả nỗi và nơi vị trí địa dư của La Vang.
Nguyện đường năm ngay đường ranh giáp với chủ nghĩa cộng sản vô thần, từ nay
nhà nguyện này nổi lên như một «con đê thiêng liêng của Nước nhà».
Bên cạnh chủ nghĩa hiếu thắng bề ngoài đó, phải nói thêm
một thứ hiếu thắng khác về «mục vụ» như là đặc điểm của Giáo hội thời kỳ này,
đó là việc đưa dân ngoại vào đạo. Giám mục Angxen (Ancel) phụ tá địa phận Lyon,
đã nhắc lại lời giám mục Thục: «có những làng nguyên vẹn xin chịu phép rữa tội.
Người ta không làm sao dạy giáo lý kịp cho họ… Và ông kết luận: «Đây là nước
duy nhất tại Viễn Đông (không kể Philippin) đang trên đà trở lại đạo cả nước».
Những con số người lớn chịu rữa tội, nhất là tại địa phận Qui Nhơn xem ra phù
hợp với cảm tưởng của vị giám mục Pháp: 16.323 năm 1956-1957, 27.385 năm
1958-1959, 37.429 năm 1960-1961. Năm 1959, tại Qui Nhơn, chỉ trong một tháng,
61.000 người xin chịu phép rửa tội. Ơn Chúa hình như, đùng một phát, tuôn xuống
như mưa trên địa phận của giám mục Phạm Ngọc Chi, giám mục phụ trách di cư
những năm 1954-1956, ông đã nhận được từ cơ quan Viện trợ Công giáo Hoa kỳ 38
triệu đô la, của tổ chức viện trợ Pháp cũng như Caritas quốc tế còn nhiều triệu
khác nữa.”
Phong trào trở lại đạo hàng loạt như thế vừa là kỳ diệu
vừa gây khó chịu, bởi vì dân chúng trong vùng do đã sồng dưới quyền kiểm soát
của Việt minh trong thời chiến tranh Pháp – Việt. Giám mục Chi đã cho chúng tôi
biết rằng phép lạ đó, một phần vì nhờ có việc tuyên truyền «thuyết nhân vị»
của chính phủ, dọn đường cho quần chúng tại đây tìm gặp được đạo Công giáo và
đàng khác nhờ các việc từ thiện Công giáo, các trường học, cô nhi viện, nhà
thương, điểm phát quần áo, bánh mì và lương thực. Có người cho rằng việc theo
đạo hàng loạt đó chỉ lập lại theo ngạn ngôn đã có từ thời Pháp, «đi đạo lấy
gạo mà ăn» thôi. Quả thế, viện trợ Công giáo từ ngoài vào đều do các linh
mục tự tiện thao túng và thường chỉ dành để phân phát cho người Công giáo. Dân
chúng miền Trung này, là vùng nghèo nhất miền Nam, chẳng qua đã tìm nơi việc
theo đạo Công giáo một phương tiện kiếm ăn. Có những người cũng cho rằng họ vào
đạo để khỏi bị sách nhiểu về chính trị. Quần chúng ở đây, vì đã từng sống lâu
năm dưới chế độ Việt minh, nên bị tình nghi có liên hệ với «kẻ địch», bây giờ
vào đạo là gặp được con đường để tỏ lòng trung thành với chế độ hoặc ít ra
tránh được những quấy nhiểu của cảnh sát. Đó là ơn Chúa hay chỉ là do động cơ
khác của con người? Có thể nói là cả hai phía vậy.
Điều chắc chắn là phong trào trở lại đạo đó chấm dứt với
năm 1963, ngay khi tổng thống công giáo Diệm bị lật đổ.
Về phép lạ Qui Nhơn, nên đọc thêm những gì viết sau đây
của báo Missi (1-1959): «Các linh mục phải kêu xin tiếp cứu. Giám mục Fulton
Shenn đã nghe những lời yêu cầu đó và người Công giáo Hoa Kỳ đã hợp tác với
giám mục Chi. Hàng ngàn tràng chuỗi, sách kinh đã được gửi tới Qui Nhơn, cũng
như những lô ảnh vẻ Đức Mẹ và tượng Chúa Kitô là những dấu hiệu đầu tiên của
con người mới.
Người ta nói đến lý do chính trị của cuộc trở lại. Điều đó
chắc chắn là có và có một cách hết sức đặc biệt.
Mùa hè 1955, Ngô Đình Diệm tung ra chiến dịch Tố Cộng và
qua luật 10-1959, ông đã lập các Tòa án quân sự đặc biệt, như một bộ máy đàn
áp. Luật này, kết án tử hình và phải thi hành trong vòng 3 ngày, khỏi có quyền
bào chữa, tất cả những người Cộng sản, những người có quan hệ với Cộng sản
(những chiến sĩ yêu nước chống Pháp, cả cha mẹ và bạn bè của họ), tất cả những
bị cáo được xem là phạm đến an ninh quốc gia. Các cuộc càn quét đã bắt về ngàn
«tên đỏ», từ nay gọi là Việt cộng và nhiều người trong số đó đã bị giết. Một số
khác may mắn hơn, như ông Nguyễn Hữu Thọ, rồi đây sẽ là Chủ tịch Mặt trận Dân
Tộc Giải Phóng, từng là luật sư ở Sài Gòn và là Chủ tịch Ủy ban Hòa bình Sài
Gòn Chợ Lớn, phải sống lê lếch trong các trại giam. Trong lãnh vực này, tài
liệu bí mật của Lầu Năm Góc cũng giống như những gì do chính phủ Việt Nam Dân
Chủ Cộng Hòa phổ biến hồi đó: «Suốt thời gian của cái gọi là chiến dịch Tố
cộng được tung ra mùa hè năm 1955, từ 50.000 đến 100.000 ngàn người đã bị nhốt
vào ngục. Nhưng như bản báo cáo có nói, phần lớn những kẻ bị bắt đây không phải
là đảng viên Cộng sản». Đó là lời của Bơttơphiu (F. Butterfield) viết trong
bản phân tích Tài Liệu Lầu năm góc. Tác giả còn thêm: «Chương trình công dân
vụ đã thất bại, bởi vỉ tổng thống Diệm hầu như chỉ phái toàn những người di cư
miền Bắc hay là công giáo đến các làng đó. Nông dân cho rằng những thứ người đó
không phải là người của họ” (Pentagon Papers, tr.82).
Mặc dầu thái độ thiên vị của Diệm không chỉ nằm lại nơi
các bảng thống kê, cũng cần ghi nhận rằng, trong một miến Nam chỉ có 10% là
Công giáo, mà tại Quốc hội có tới 30% dân biểu Công giáo, với 3 vị chủ tịch
quốc hội liên tiếp là Công giáo: trong bộ máy hành chánh, có 9 trên 14 tỉnh
trưởng miền Trung và 14 trên 18 tỉnh trưởng miền Nam là Công giáo, trong chính
phủ thì 4 trong số 12 bộ trưởng là Công giáo và trong quân đội 3 trong số 16
tướng lãnh là Công giáo.
Các bản thống kê nói trên cho
thấy một khuôn mặt xã hội không mấy đúng đắn về người Công giáo Việt nam. Như
đã trình bầy ở trên, gần như toàn thể giáo dân người Việt là thành phần nông
dân, nghèo đói. Cho đến năm 1954, giữa đám rừng tác giả và thi sĩ nổi tiếng,
người ta chỉ đếm được một thi sĩ là công giáo. Rất ít người là trí thức. Như
vậy, việc tăng vọt số người Công giáo trong chính trường cần được giải thích
không phải vì họ có nhiều trí thức trình độ vượt trổi, hay là tài ba lỗi lạc
hơn thiên hạ trong lãnh vực quản lý hành chánh và chính trị.
Trong một báo cáo được soạn thảo vào cuối tháng 8, theo
chỉ thị của tòa Khâm sứ Sài Gòn, để gửi cho Vatican, một linh mục khá thông
thạo các các vấn đề Việt Nam có viết:
«Người ta đã nói đến tiếng «hiếu thắng». Tôi nghĩ
tiếng đó không phải là thái quá để đánh giá cách xự sự của một số giám mục và
linh mục. Trong các cuộc lễ nhậm chức giám mục hai năm trước đây cho hai đức
cha Qui Nhơn và Đà Nẵng, người ta đã tổ chức những cuộc biểu tình khổng lồ.
Không phải tất cả do người Công giáo đơn phương làm. Nhân sự và phương tiện của
chính phủ đã góp một phần lớn vào các cuộc tập họp đó, mà không phải bao giờ
cũng do lòng tự nguyện…»
«Các đêm canh thức Giáng sinh, các Tuần Ta, nhật Tuần
thánh của chúng tôi, được tổ chức với sự hỗ trợ to lớn của quân đội và bộ Thông
tin, gây nên ganh tỵ nơi người Lương. Và các vụ xổ số, hội chợ do các linh mục
tổ chức để có tiền làm việc thiện, gây bực bội cho rất nhiều người trong quần
chúng. (Tài liệu này, chúng tôi có bản sao, chắc đã ảnh hưởng mạnh mẽ tới đường
lối của Vatican thời kỷ này)».
Một biến cố cuối cùng, lẽ ra phải đánh
dấu tuyệt đỉnh của chủ nghĩa hiếu thắng, nếu không có vụ khủng hoảng Phật giáo
nổ ra: Tổng giám mục Thục đang chuẩn bị lễ Ngân khánh, ăn mừng 25 năm làm giám
mục, ngày 29-6-1963. Từ tháng 3, một Ủy ban Ngân khánh đã được thành lập, do
Chủ tịch Quốc hội làm chủ tịch, với nhiều vị bộ trưởng và nhân vật tên tuổi làm
ủy viên. Người ta tổ chức tại Sài Gòn một bữa tiệc mỗi thực khách phài đóng
5.000 đồng và tại các tỉnh thì tổ chức các cuộc lạc quyên, vừa xin vừa ép, với
những cuộc xổ số do tỉnh trưởng chỉ thị. Người ta muốn biến cuộc lễ Ngân khánh
của Giám mục thành Quốc lễ. Nhưng cuộc lễ này đã chỉ ăn mừng «trong thân mật»,
do cuộc nổi lên của Phật tử.
Tôi không nghe, không biết LM Trần Tam Tĩnh là ai, tìm hoài để biết nguồn gốc và con người này, nhưng không thấy ở đâu, kể cả Google lẫn Wikipedia cũng không thấy, ngoại trừ Sáchhiếm...
Trả lờiXóaTuy nhiên, mới đọc vài hàng "Lưỡi Gươm và Thập giá" đã thấy sặc mùi cộng sản...hì hì, xem ra đây là kiểu "giả cầy", "sói đối lốt chiên" ???
Đúng vậy đó bạn. Mình cũng tìm kỹ rồi, chỉ có nơi báo "chính thống" thôi
Xóacha Vinh Sơn Trần Tam Tỉnh chơi thân với nhà nước mà, có cái nhìn cảm tình với CS không có gì là lạ, nhưng cuốn này trừ những dòng nói tốt hơi quá cho chính quyền thì những nhận xét của cha về Giáo Hội công Giáo VN với quá trình lịch sử cũng không có gì sai nhiều cho lắm. Tôi chẳng ưa chủ nghĩa CS và chủ nghĩa vô thần, nhưng mà người lương vẫn bảo Kitô hữu chúng ta theo tây theo Mỹ cũng có phần đúng thôi, lịch sử khó chối, chúng ta đánh đồng chống CS vô thần với việc hợp tác với tây.
Xóa*chịu khó đọc, bỏ qua mấy đoạn tung hô chính quyền đến ngượng thì vẫn có nhiều tư liệu, luận điểm hay, có điều nếu là người ít đọc các tài liệu như thế này chắc không nhiều Kitô hữu đoc nổi một chương vì tức run người (hồi đầu tôi còn ù cả tai, mắt nổ đom đóm vì tức), nhưng cam đoan là cuốn này đáng đọc (đọc nên bỏ chương cuối).