Thứ Năm, 3 tháng 7, 2014


QUỐC NGỮ, NỖI TRĂN TRỞ

Trần Trọng Sỹ

Việt Nam từ khi thực dân Pháp đặt nền móng cai trị cho đến 1975, lúc nào cũng lắm phong ba bão tố chưa bao giờ có một nền chính trị ổn định và độc lập. Đến khi cuộc cách mạng 1963 lật đổ được Ngô Đình Diệm, con đường mang tên giáo sĩ Đắc Lộ đã được nhân sĩ miền Nam tháo bỏ, nhưng đáng tiếc là cố thủ tướng Võ Văn Kiệt lại đưa nó trở về. Mong rằng nhà nước nên xét lại việc vinh danh cho tên giặc cướp nước này. Đây là một sai lầm rất nghiêm trọng của lịch sử, cũng là sự khinh thường xương máu của nhân dân. (Trần Trọng Sỹ)

Đối với một số người, ký âm bằng La Tinh là một quốc nhục, một vết thù văn hóa mà không cách nào xóa bỏ.
Nhìn chung quanh ta, từ Lào, Miên, Thái, Myanmar, Nhật, Hàn, Trung Quốc chả ai có ký tự La Tinh? chỉ những nước mà ngay cả nguồn gốc họ cũng không biết như Philippines mới có ký âm La Tinh.
Bất kỳ nhà nghiên cứu văn hóa Á châu nào, chỉ cần nhìn cách họ viết chữ, là có thể xác định được phần nào văn hóa của nước đó. Hể ký âm bằng La Tinh thì biết ngay dân tộc này là nạn nhân của thực dân, đã bị nhồi sọ, đã ít nhiều bán một phần hồn cho văn minh La Mã. Chỉ ngay điểm khởi đầu này, ký âm La Tinh ở châu Á, và ngay cả ở Nam Mỹ, hoàn toàn không có gì vinh hạnh.

1- Ngoài bản chất La Tinh, các dân tộc Nam Mỹ chẳng còn giữ được văn hóa đặc thù
Vì sao Nam Mỹ được gọi là Mỹ Châu La Tinh? Vì cả bán lục địa này bị bọn Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha sang xâm chiếm làm thuộc địa từ 1492 với sự khám phá Mỹ Châu của Christophe Colomb, đến sau chiến tranh Mỹ-Tây Ban Nha 1898 (được viết rõ hơn ở sau trong phần Hoa Kỳ-Trung Quốc, hai đế quốc, hai giá trị), tức là 4 thế kỷ nô lệ. Nhưng cụm từ Mỹ Châu La Tinh được một trí thức Pháp tên là Michel Chevalier khai sinh. Năm 1830, Chevalier được lệnh bộ trưởng nội vụ Pháp Adolphe Thiers (sau này là tổng thống thứ hai của Pháp) sang Mỹ châu để nghiên cứu về chính trị và kinh tế. Ông nhận thấy tất cả các nước phía nam của HK đều chẳng có nguồn gốc bản địa, nhưng có chung một nền văn hóa La Mã, nên ông nảy ra ý hô hào các dân tộc 'La Tinh' cùng đứng chung với 'Latin Europe' để chống lại bọn Teutonic Europe, Anglo-Saxon America và Slavic Europe, nghĩa là chống lại văn minh Bắc Âu, trong đó có Hoa Kỳ. Sau này trí thức của cả vùng Mam Mỹ đều hướng về Pháp thay vì Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha đang trong thời kỳ suy thoái, nên cụm từ Mỹ Châu La Tinh theo văn minh Pháp được sử dụng từ đó.
Ngoài bản chất La Tinh, các dân tộc này chẳng còn giá trị văn hóa nào khác trừ một vài cái tên như đế quốc Aztec, đế quốc Inca; vì chúng được dính liền với tên tuổi của các chinh tướng (conquistador) nổi danh của Tây Ban Nha như Francisco Pizzaro hay Hernán Cortés. Bọn xâm lược dọn sạch văn hóa bản địa, chẳng những không còn chữ viết, ngay cả tiếng nói, truyền thống, tôn giáo đều được đốt sạch quét sạch.
Hy Lạp cũng bị La Mã càn quét tàn sát, cũng đã biến quốc gia này thành Thiên Chúa giáo, cả nền khoa học Hy Lạp đều bị dọn sạch, nhưng dân tộc này vẫn giữ được chữ viết, vẫn độc lập đối với La Mã, họ theo Chính Thống giáo.
Nhật Bản, Trung Hoa, Triều Tiên, Lào và ngay cả Campuchia đều giữ được chữ viết trước sức tấn công ào ạt của các giáo sĩ truyền giáo, điều này minh chứng rằng VN có ít kháng tố chống xâm lăng văn hóa so với các lân bang.
Ngày nay, những người da đỏ và người Phi châu đều hãnh diện về họ, về truyền thống, về những đặc trưng vùng miền, ngay ở cả những nơi xa xôi hẻo lánh với đời sống trần truồng giữa thiên nhiên chưa bị ô nhiễm bởi văn minh vật chất. Nhân loại của thế kỷ 20, 21 tôn trọng các khu vực văn hóa cổ đại này và khuyến khích giữ gìn những truyền thống, ngôn ngữ, tôn giáo của nó một cách nguyên vẹn. Đây không phải là thói quen của văn minh La Mã thường hay chinh phục bằng bạo lực với chiêu bài khai hóa của thời kỳ thực dân cổ điển.
Ở châu Á hay châu Mỹ vẫn có người hãnh diện về chiếc áo mới mình đang mặc nhờ ân khai hóa. Riêng tôi, tôi cảm thấy dù sao mình cũng may mắn, còn biết được ông bà tổ tiên là ai, nói tiếng gì; bởi vì tổ tiên của tôi quanh năm bán mặt cho đất, bán lưng cho trời, đời đời là dân Việt ở tầng lớp tột cùng; chỉ một chữ chiên còn không biết, làm sao mà biết hãnh diện bằng này cấp nọ của thực dân.
Tôi thực sự thương hại các dân tộc kém may mắn đó, họ kém súng đạn, không biết sử dụng những thủ đoạn xảo quyệt của văn minh thực dân, nên đã bị thực dân hóa. Đến khi giành được độc lập, muốn trở lại, muốn lùi lại cũng không có đất mà lùi. Tất cả các dân tộc Nam Mỹ đều phải đối diện với một tình huống như vậy, phải sống với chữ viết và tiếng nói ngoại lai, không được quyền lựa chọn.
Nam Mỹ đã bắt đầu phát triển nhưng rất chậm trừ Brasil được may mắn nằm trong danh sách B.R.I.C, còn Philippines, quốc gia 100% Công giáo, cho đến nay vẫn nghèo đói so với Lào, Thái, Việt Nam; nhất là VN, một xứ sở chỉ mới áp dụng kinh tế thị trường từ năm 1986.
Điều này minh chứng rằng theo văn hóa Âu Mỹ và theo văn hoá La Mã hoàn toàn dị biệt. Văn hóa Âu Mỹ khuyến khích dân chủ và khoa học, ngược lại văn hóa La Mã; cũng có thể gọi là văn hóa Vatican, là độc tài, quân phiệt, ngu dốt và nghèo đói. Nhìn qua Âu Châu cũng thấy rõ điều này, các quốc gia Âu châu La Tinh, như Michel Chevalier đã phân biệt, đều nghèo hơn những dân tộc Teutonic Europe bao gồm Đức, Hòa Lan, Đan Mạch, Anh, Na Uy, Thụy Điển...

2- Nếu Alexandre de Rhodes không bị đuổi ra khỏi đất Nhật
Chắc chắn là sẽ có người rất khó chịu về những lập luận như vậy, vì họ từng rất hãnh diện rằng đây là văn hóa VN, là công lao của giáo sĩ Đắc Lộ, là nhờ đó mà ta có văn minh. Alexandre de Rhodes đã từng muốn đến Nhật Bản để truyền đạo nhưng gặp phải sự bế quan tỏa cảng gắt gao của thời kỳ Shogun thời đại Đức Xuyên do sức bành trướng đáng sợ của đạo Thiên Chúa nên đã bị cấm đoán, cả ông và François Xavier đành bỏ cuộc ở Nhật. De Rhodes may mắn thành công ở VN do đang có nội chiến Trịnh Nguyễn phân tranh. Cả đàng trong và đàng ngoài đều muốn lợi dụng vị giáo sỹ khá thông thái này, và chính nhược điểm này đã gieo mầm họa cho dân tộc.
Cố đạo Alexandre de Rhodes (1591-1660) và hình bìa cuốn Phép Giảng Tám Ngày
Nhật Bản nhờ ngăn được cả François Xavier và Alexandre de Rhodes, họ chọn lọc phần tinh túy Tây phương, giữ vững truyền thống bản địa, đã trở thành siêu cường qua hai cuộc thế chiến. Tôi nghĩ rằng nếu A. De Rhodes không bị đuổi ra khỏi đất Nhật, thì có lẽ giờ này ta là Nhật, đang có đầy đủ điều kiện để chống lại Bắc Kinh, còn Nhật Bản ngược lại đang bi TQ dùng hằng trăm tàu thuyền vây hãm, đâm ủi và phun nước tại vùng biển Hoa Đông.
Giả sử rằng ngay cả tiếng nói ta cũng không còn, như người Argentine, người Mexico hoặc Brésil, thì chắc là niềm hãnh diện càng cao, thâm ân với giáo sĩ Đắc Lộ càng lớn hơn nữa !
Wikipédia trang nhà tiếng Pháp viết về A. De Rhodes đến VN năm 1624 và chế ra phiên âm La Tinh Việt ngữ như sau:
Il reprend les travaux de Francesco de Pina (1585-1625) sur place depuis 1617 et premier européen à maîtriser la langue vietnamienne, de Christoforo Borri(1583-1632) et du luso-japonais Pedro Marquez(1613-1670) arrivés en 1619, et travaille à la mise au point d'une transcription romanisée et phonétique du vietnamien, le Quoc Ngu, qui sera utilisée dans tout le pays. Il publiera en 1651 un dictionnaire annamite-latin-portugais accompagné d'une grammaire. Il est fort probable qu'il se soit également servi des premiers travaux de romanisation de la langue japonaise (romaji) de Yajiro (en), un japonais converti du milieu du XVIe siècle . Ce remarquable outil permit, non seulement une diffusion rapide de la religion, mais également une démocratisation de la connaissance dans tout le pays. Le quoc ngu est adopté depuis près d'un siècle comme le système d'écriture national du Viêt Nam et de façon officielle depuis 1954

3- Âm thanh và chữ viết, Ngôn và Ngữ
Ông lấy lại các tài liệu tại chỗ của Francesco de Pina (1585-1625) từ năm 1617, và của Christoforo Borris(1583-1632), người đầu Âu châu đầu tiên thông thạo tiếng Việt, và của các tài liệu tiếng Bồ-Nhật của Perdo Marquez(1613-1670), tất cả đều đến đây từ năm 1619, và tìm cách chuyển tiếng Việt sang cách phiên âm La ngữ, thứ tiếng sẽ được dùng cho cả nước. Ông cho in cuốn tự vị An Nam-La Tinh-Bồ đi kèm với văn phạm năm 1651. Cũng rất có khả năng ông đã sử dụng lại những tài liệu đầu tiên dùng để La hóa tiếng Nhật(romaji) của Yajiro, một người Nhật cải đạo vào giữa thế kỷ thứ 16. (Yajiro là thông ngôn Nhật đã cải đạo, phạm tội giết người ở Nhật, sau này trở thành tín đồ Thiên Chúa giáo với cái tên Paulo de Santa Fé- chú thích nd). Dụng cụ lỗi lạc này cho phép, không những quảng bá nhanh chóng về tôn giáo, mà còn phổ cập hóa được kiến thức trong toàn xứ sở. Quốc ngữ đã được thừa nhận từ gần một thế kỷ là hệ thống chữ viết quốc gia của VN và được chính thức hóa từ năm 1954.
Tượng cố đạo De Rhodes và điêu khắc gia Phạm Văn Hạng (ngồi bên phải ảnh)
Đọc qua những điều này ta thấy rõ De Rhodes tiếp tục công việc nửa chừng của nhiều giáo sĩ Bồ Đào Nha đi trước ông, nhưng chỉ riêng ông lãnh huy chương của người VN.
Đọc qua những trích dẫn mà người Pháp viết về VN, chính họ còn biết ngượng mồm không bao giờ gọi đó thẳng thừng là 'langue nationale Vietnamienne', mà luôn tránh né hoặc gọi làquoc ngu (không bỏ dấu), hoặc system d'écriture national du VN (hệ thống chữ viết quốc gia VN) hoặcl'écriture Vietnamien (chữ viết VN). Chỉ người Việt lại gọi đó là langue nationale (quốc ngữ) mà không chút ngượng mồm.
Dân Nhật cũng cùng lúc bị các giáo sĩ xâm nhập và truyền giáo và cũng có ý đồ xâm lăng cả văn hóa, nghĩa là La hóa tiếng Nhật, nhưng sức kháng cự Nhật Bản mạnh hơn VN, nên CG đã không thành công ở Nhật. Tôi đã có đọc được bài viết của Công giáo VN tán dương các cha Nhật Bản đã phúc tử vì đạo trong thời kỳ này và đã được phong thánh (tôi lập lại nguyên văn từ phúc tử của vị linh mục đáng kính).
Wikipédia còn nói rõ rằng, Christoforo Borris đã đến VN trước A. De Rhodes và đã thông thạo tiếng Việt.
Ở quốc gia nào cũng vậy, khi gọi là quốc ngữ thì hệ thống đó phải được bao gồm cả âm thanh và chữ viết, mà quan trọng hơn vẫn là âm thanh, chẳng hạn Anh ngữ, Pháp ngữ, Nhật ngữ...nhưng khi nói đến Việt ngữ thì kẹt cứng, vì tiếng nói thì Việt mà ký âm để đọc và viết thì La Tinh, râu ông chắp cằm bà.
Đối với một dân tộc không có chữ viết trước khi bị La hóa thì nó quá dễ dàng được chấp nhận, mà không chừng còn rất cần cám ơn. Nhưng VN đã có một hệ thống chữ viết trước khi thực dân đến. Cha ông ta đã cố gắng xóa bỏ ảnh hưởng của văn hóa Tàu mà tạo ra chữ Nôm, nhưng vừa thoát ra khỏi Tàu đã bị Tây nuốt chững. Cái đau khổ khi bị Hán hóa trong hành chánh và văn thư được toàn thể người Việt, từ vua đến dân cùng chiến tuyến chống lại, nhưng khi bị Tây hóa thì chia năm xẻ bảy ý kiến khác biệt.
Sự chia rẽ này cho thấy từ lúc lập quốc đến khi có chữ Nôm trong thời kỳ viết và sử dụng chữ Hán, tinh thần Việt lại hoàn toàn độc lập dối với văn hóa TQ. Ngược lại từ khi có 'quốc ngữ', thì tinh thần Việt đã mất đi tính độc lập, biểu hiện bằng những ca ngợi, những xưng tụng thâm ân đến từ bên ngoài, và dân Việt cũng sẵn sàng đấm đá nhau bằng mọi giá để một bên là bảo vệ dân tộc, một bên là vinh danh tôn giáo qua hình ảnh của Alexandre de Rhodes, Nguyễn Trường Tộ, Trần Lục hay Pétrus Ký.
Có thể kết luận rằng hơn 2000 năm sống với Tàu, người Việt luôn đoàn kết để chống Tàu. Từ khi Pháp và đạo Thiên chúa vào VN và ra đi, người Việt đánh nhau nhiều hơn cả chống ngoại xâm, từ đó đã vô tình hình thành hai khối đối lập: khối dân tộc và khối Công giáo. Nếu nhà nước không khôn khéo hóa giải được rạn nứt này, sớm hay muộn lại sẽ có đổ máu tại VN.
Cái nhìn này cho thấy 'quốc ngữ' không hoàn toàn mang phúc lợi đến cho VN như đa số người vô tư nhận xét, mà có thể sẽ là một hiểm họa.
Trong các nghiên cứu của các học giả Pháp, khi nói về quốc ngữ Việt Nam, họ luôn dè dặt dùng từ l'écriture vietnamienne (chữ viết tiếng Việt) chứ không bao giờ họ xài từ langue nationale (quốc ngữ), như đã nói ở trên.
Nhà nước VN không nên khơi lại, vinh danh cho, hay đưa ra nghiên cứu và thảo luận về đề tài Alexandre de Rhodes.
Giáo hội Công giáo VN nên chính thức chấp nhận đứng về phía dân tộc, như J. Paul 2 đã xưng thú với thế giới, thừa nhận những tội lỗi mà người Công giáo đã phạm phải trong quá trình du nhập vào VN cùng với bước chân của thực dân.
Chính sách romanisation (La hóa) văn hóa của giáo hoàng La Mã cùng với các đế quốc thực dân là có thực chứ chẳng ai bịa ra vì ghen ghét. Ký âm La Tinh là do các cha cố chế tạo với mục đích truyền giáo và cai trị thực dân. VN xài là vì bị cưỡng bức, cho đây là ký âm La Tinh Việt ngữ thì chuẩn, nhưng gọi thẳng thừng luôn là quốc ngữ, hoặc chữ quốc ngữ, sẽ tạo rất nhiều bất đồng dân tộc; vì tiếng nói là của ta, may mắn thay, không phải do các cha cố chế ra. Giám mục Puginier nói rất rõ mục đích của các nhà truyền giáo và mục đích thực dân chỉ là một trong việc La hóa chữ Việt:
...Vấn đề này có tầm quan trọng rất lớn, sau khi đạo Thiên Chúa được thiết lập, tôi xem việc tiêu diệt chữ Nho và thay thế dần dần ban đầu bằng tiếng An nam, rồi bằng tiếng Pháp như là phương tiện rất chính trị, rất tiện lợi và rất hiệu nghiệm để lập nên tại Bắc Kỳ một nước Pháp nhỏ ở Viễn Đông.”(trích dẫn lại của Bùi Kha)
Có học giả ngữ học nào phân tích giúp tôi xem thế nào gọi là một ngôn ngữ ? Nếu tôi không lầm thì khi nói đến quốc ngữ của một dân tộc, là không chỉ đề cập đến lối viết, mà phải bao hàm cả tiếng nói; phần tiếng nói còn có phần quan trọng hơn, vì nó khó bị các biến cố chính trị làm thay đổi. Alexandre De Rhodes đâu có sáng tạo ra tiếng Việt đâu mà cho rằng ông sáng chế Quốc ngữ? Hãy bỏ tiếng VN ra ngoài cái 'outil remarquable' (dụng cụ lỗi lạc) ấy đi, rồi xem thử đó có phải là quốc ngữ hay không.
Đây là một bất đồng thuận rất lớn của dân tộc. Nếu đã nhất định rằng đây là chữ quốc ngữ, thì câu hỏi cần được đặt thêm là: quốc ngữ VN là gì? Chẳng lẽ phải đặt ra một từ nữa là quốc ngôn, tiếng nói, để phân biệt với quốc ngữ, chữ viết? Nếu không thì câu hỏi ngớ ngẩn này bắt buộc phải được đặt ra: Quốc ngữ và chữ quốc ngữ khác nhau như thế nào ?
ngôn »« ngữ
Một trang nhà tiếng Pháp nói về ngôn ngữ Phi châu như sau:
En Afrique, la ou les langues officielles sont généralement des langues utilisées par l'administration ou les écrits, alors que la ou les langues nationales sont généralement des langues orales et véhiculaires. Tạm dịch : Ở Phi Châu, ngôn ngữ hay những ngôn ngữ chính thức được dùng thông thường trong văn thư hay trong hành chánh, trong khi quốc ngữ hay những quốc ngữ nói chung là ngôn ngữ để nói và được sử dụng hằng ngày.
Wikipedia tiếng Anh cũng phân biệt rất rõ ràng:
A national language may for instance represent the national identity of a nation or country. National language may alternatively be a designation given to one or more languages spoken as first languages in the territory of a country.” Tạm dịch: Có khi Quốc ngữ có thể đại diện cho căn cước quốc gia. Quốc ngữ cũng có thể dùng để thay thế một chỉ định cho một hay nhiều ngôn ngữ được nói như ngôn ngữ thứ nhất trong lãnh thổ một quốc gia.
và:
In many African countries, some or all indigenous African languages are legally recognized as "national languages" with "official language" status being given to the former colonial language (English, French, Portuguese, or Spanish). Tạm dịch: Trong nhiều nước châu Phi, vài hay tất cả ngôn ngữ Phi châu bản địa được công nhận bằng luật như “quốc ngữ”, còn “ngôn ngữ chính thức” thì để chỉ định tiếng thuộc địa cũ ( Anh, Pháp, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha).  
Nếu đúng tinh thần định nghĩa theo Anh ngữ như trên, làm sao dân tộc VN có thễ lấy 'quốc ngữ' viết theo La Tinh làm đại diện cho nguồn gốc của dân tộc (national identity)?
Thú thật từ 'quốc ngữ' của VN đã làm cho từ 'national language' của Anh và Pháp ngữ trở nên không thể đối chiếu. Cho nên đây là một đề tài rất rắc rối, không hề đơn giản trên phương diện chính trị và chính danh, càng chứng tỏ sự La Tinh hóa Việt ngữ và gọi nó là quốc ngữ ngày càng tạo ra phức tạp rối rắm, càng đi và ngõ cụt không có lối thoát.
Hãy tìm tên Wikipédia tiếng Pháp, thí dụ nước Sénégal, sẽ thấy ngay ngôn ngữ chính thức là tiếng Pháp, và quốc ngữ thì có nhiều thổ ngữ khác biệt. Cọng hòa Congo cũng ghi ngôn ngữ chính thức là Pháp, nhưng quốc ngữ là tiếng Kituba và tiếng Lingala. Nếu nhà nước chính thức công nhận phiên âm La Tinh của các giáo sĩ truyền giáo là quốc ngữ, vậy tiếng nói của dân tộc VN trước khi bị La Tinh hóa và may mắn vẫn còn tồn tại đến ngày nay phải được gọi là gì?

4- Thầy tu gian manh đi dạy đạo và đi khai hóa văn minh
Tôi đọc khá nhiều người viết về A. De Rhodes, mà theo Charlie Nguyễn, ngay cả cái tên De Rhodes cũng là ăn cắp, vì chữ “De” trong tên của người Pháp thuộc dòng dõi quý tộc. Alexandre Rhodes thêm chữ này vào cho thêm phần quý phái. Tôi tin rằng Charlie Nguyễn không có oán thù cá nhân nào với Alexandre de Rhodes để cố tình bôi nhọ vị cha cố đầu tiên đến VN. Còn cuốn tự vị Việt-La-Bồ thì chỉ biên tập có một phần, hai phần còn lại cũng là ăn cắp. Gian manh như vậy mà làm thầy tu đi dạy đạo và đi khai hóa văn minh? Những tác giả viết về đề tài này rất nghiêm chỉnh, như Huỳnh Ái Tông, Bùi Kha, Trần Chung Ngọc, Jacques Roland, GS Phạm Văn Hường, tôi xin trích ra vài dòng của Charlie Nguyễn để thay ý kiến của tôi về cái vinh danh tạo ra quốc ngữ, mà đúng ra phải luôn nói là chữ viết chính thức (l'écriture officielle), hoặc phiên âm La Tinh, như sau:
Riêng đối với lịch sử Việt Nam, Alexandre de Rhôde phải được coi là kẻ thù số một vì chính y là kẻ đầu tiên có sáng kiến lập ra hội Thừa Sai Paris và cũng là người đầu tiên vận động Pháp chiếm Việt Nam. Sử gia Pháp là ông Bonifacy, tác giả cuốn “Les Debuts du Christianisme en Annam” xuất bản tại Hà Nội năm 1930 đã viết: “Vai trò của Alexandre de Rhôde trong việc thành lập hội Thừa Sai Paris đã đưa giáo hội Công giáo Đàng Trong và Đàng Ngoài ra khỏi vòng kiểm soát của người Bồ Đào Nha, đã đem lại cho người Pháp vai trò quan trọng nhất ở bán đảo Đông Dương – pages 16-17. (“Sự Du Nhập đạo Thiên Chúa vào Việt Nam từ thế kỷ 17 đến thế kỷ 19” của giáo sư Nguyễn Văn Kiệm - Hội Khoa Học Lịch Sử Việt Nam – Hà Nội 2000 – trang 123). Phê bình về Alexandre de Rhôde và các giáo sĩ thừa sai, giáo sư Kiệm (sách dẫn chiếu, trang 300-301) viết: “Các giáo sĩ thừa sai, trong đó có Alexandre de Rhôde, đã gây nên một cú sốc lớn đối với đời sống tâm linh và văn hóa của dân tộc ta… làm băng hoại nền tảng của cộng đồng. Họ mang mặc cảm tự cao cho rằng Cơ Đốc giáo là tôn giáo hoàn vũ, cao siêu hơn bất cứ tôn giáo nào khác …. Do đó, họ coi các tôn giáo truyền thống bản địa đều là thấp kém, man muội cần phải xóa sạch để thay thế bằng Cơ Đốc giáo. Sự cấm đạo của nhà cầm quyền Việt Nam và tâm lý bất hòa giữa lương giáo trong dân chúng còn kéo dài đến ngày nay chính là những phản ứng tất nhiên chống lại sự xúc phạm đó và đồng thời là một hành động tự vệ chính đáng của một dân tộc đã có một nền văn hóa định hình và một ý thức tự tôn dân tộc cao.
Quân Pháp trước khi xâm lược cần đưa gián điệp dò đường, thì Alexandre de Rhodes chính là một trong những tên gián điệp dò đường, chuẩn bị quy mô cho cuộc xâm lăng thực dân.Tư tưởng thực dân còn do chính A. De Rhodes nói rõ trong cuốn Hánh Trình và Truyền Giáo như sau:
J’ai cru que la France, étant le plus pieux royaume de monde, me fournirait plusieurs soldats qui aillent à la conquête de tout l’Orient, pour l’assujetter à Jésus Christ, et particulièrement que j’y trouverais moyen d’avoir des Évêques, qui fussent nos Pères et nos Maitres en ces Églises. Je suis soirti de Rome à ce dessein le 11e Septembre de l’année 1652 après avois baisé les pieds du Pape”.
Tiến sĩ Thần học Hồng Nhuệ Nguyễn Khắc Xuân dịch :
“Tôi tưởng nước Pháp là một nước đạo đức nhất thế giới, nước Pháp có thể cung cấp cho tôi mấy chiến sĩ (plusieurs soldats) đi chinh phục toàn cỏi Đông phương (la conquête de tout l’Orient), đưa về qui phục Chúa Kitô và nhất là tôi sẽ tìm được các giám mục, cha chúng tôi và thầy chúng tôi trong các giáo đoàn. Với ý đó, tôi rời bỏ Rôma ngày 11 tháng 9 năm 1652 sau khi tới hôn chân Đức Giáo hoàng” -Hành trình và truyền giáo.
TCN đã phê bình những sai lầm của Hồng Nhuệ về cách dịch chẳng hạn dịch pieux là đạo đức (sic), nhưng tôi chỉ trích nguyên văn mà không cần bình phẩm thêm, vì trình độ Pháp ngữ của vị tiến sĩ thần học không biết có vấn đề hay không, nhưng pieux mà dịch là đạo đức thì học sinh trung học cũng phải cười phì, có lẽ ông ta cố tình dịch như vậy để ca tụng nước Pháp.
Đây là sự tự thú của vị giáo sĩ truyền giáo người Pháp về ý muốn thôn tính cả Đông Á chứ không phải chỉ riêng VN. Có người bênh vực lá thư này nói từ mấy chiến sĩ là các chiến binh thừa sai, ý nói là chiến sỹ của hòa bình, là giáo sĩ đi truyền giáo. Nếu luận cứ này đúng, vậy câu “sẽ tìm được các giám mục, cha chúng tôi và thầy chúng tôi trong các giáo đoàn” thì những người này là gì ? Những người này đều là giáo sĩ, đã là những chiến sĩ truyền giáo rồi, việc gì mà phải lặn lội đến Paris mà cầu viện? Chẳng lẽ giáo sĩ được Louis 14 cung cấp được gọi là soldat, còn các giáo sĩ khác như chính Alexandre de Rhodes thì không phải ? Hơn nữa, các thừa sai sao lại do vua Pháp cử đi mà không phải là Giáo Hoàng như rất nhiều học giả khác đã nhận định? Cho nên việc tiến sỹ thần học Nguyễn Khắc Xuyên dám nhục mạ GS Hoàng Tuệ là “ngu dốt”chỉ vì người ta đã dịch đúng, là việc hy hữu, chỉ có thể có trong hàng ngũ người Công giáo. Ngoài ra, nhóm 'trí thức' như Nguyễn Đình Đầu, Đinh Xuân Lan đều nhao nhao lên tâng bốc ông cố đạo người Pháp, kẻ đặt viên đá đầu tiên cho chủ nghĩa thực dân Pháp tại VN, không biết nhà nước VN bật đèn xanh như vậy với mục đích gì ?
Lại có kẻ, vì quá tôn thờ bọn xâm lược Pháp La Mã, đã nói một cách cao ngạo và hãnh diện rằng: Không có chữ quốc ngữ thì ta làm sao mà viết ? Lại làm sao mà văn minh tiến bộ như hôm nay được?

5- Tại sao chỉ có dân Việt Nam
Người VN bình thường nào cũng có thể trả lời, dân Nhật không xài La tinh, người Hàn Quốc cũng đâu có La tinh, TQ thì dĩ nhiên sao mà cần cái ấy của Tây Dương ? Chỉ Việt Nam kém may mắn mới ăn phải bã. Câu hỏi đầy tính tâng bốc như thế chỉ có thể có trong đầu óc một tinh thần nô lệ.
Xin trích ra đây đoạn văn mà giáo sư Nguyễn văn Trung, một trí thức Công giáo, nghiên cứu tài liệu để lại của quan toàn quyền Đông Dương Jean-Marie Antoine Louis de Lanessan 1891 một đoạn như sau:
“....Theo Lanessan, các vị thừa sai Công giáo thường nhắm quần-chúng, dân quê, bần cùng nghèo khổ, hoặc kẻ trộm cắp để giảng đạo. Nói cách khác, người Công giáo thường thuộc thành phần những giai cấp thấp hèn nhất trong xã-hội. Những người này thường được tập họp lại thành làng xóm riêng, tách khỏi đoàn thể dân tộc. Lý do cô lập các làng theo đạo ở tại các thừa sai sợ người theo đạo, giao thiệp với người Lương có thể quay lại những phong tục lễ nghi ngoại-đạo. Cũng vì lý do sợ đó mà họ đã tạo ra chữ quốc ngữ chủ-đích là để cho giáo dân khi biết đọc chữ quốc ngữ, thì chỉ biết đọc sách báo đạo mà thôi, trái lại nếu để cho họ học chữ Nho, sợ họ có thể thông cảm lại với tư tưởng ngoại giáo. Thành ra việc sáng lập chữ Quốc ngữ phải chăng nhằm một mục đích “ngu-dân” ly khai với văn-hoá dân tộc? .” (xem Chủ Nghĩa Thực Dăn Pháp ở VN - Thực Chất Và Huyền Thoại Nguyễn Văn Trung)
Cho nên tự hào về Alexandre de Rhodes là cố tình phản lại dân tộc.
Thú thật tôi còn hổ thẹn với người Miên, Lào là mình không bằng họ.
Tiến trình xâm lược của thực dân Pháp và Anh ở Đông Nam Á
Cũng chính quan toàn quyền này, Lanessane, là tư lệnh của quân Pháp trong trận chiến giữa Pháp và Xiêm (Siam) năm 1893, điều này chứng tỏ các thừa sai của Pháp có mặt cùng khắp Đông Dương, mà sao chỉ có riêng VN có chữ viết La tinh ? Có phải vì chỉ riêng VN là có Công giáo phản lại dân tộc ?
Việt ngữ La tinh là ngôn ngữ được nhà cầm quyền Pháp cưỡng bức thành văn tự chính thức, vì lúc ấy họ nắm hết vận mạng người Việt, như trong bằng chứng mà người Pháp viết sau đây:
Tiếng Pháp đã thế chỗ tiếng Latinh, nhưng tính chất công cụ của công cuộc này vẫn còn nguyên. Trong viễn kiến này, như Paulin Vial, Giám đốc Nội vụ Nam Kỳ, đã nhấn mạnh, việc sử dụng chữ Hán là một trở ngại cho hoạt động của chính quyền thuộc địa và sự giao tiếp giữa người Pháp và người Việt: “Ngay từ những ngày đầu, chúng ta đã nhận thấy rằng chữ Hán là một rào cản giữa chúng ta và dân bản địa; việc áp dụng lối viết dùng chữ cái giúp chúng ta hoàn toàn thoát khỏi rào cản đó; chữ Hán gây khó khăn cho việc chuyển tải đến người dân các khái niệm khác nhau cần thiết cho họ, ở mức độ phù hợp với tình hình chính trị và xã hội mới.” Ngoài ra, ngày 22 tháng 02,1869, chính quyền Nam Kỳ ra một nghị định, bắt buộc sử dụng chữ Quốc ngữ trong các văn bản hành chánh.(Alexandre de Rhodes Inventou o quôc ngu?- Alexandre de Rhodes có phát minh ra chữ Quốc ngữ? Alain Guillemin, Bản dịch của Ngô Tự Lập)
Bằng cấp do họ định, học vấn do họ cai quản, việc làm do họ cho, tiền bạc họ nắm. Họ đào tạo ra một số những tên nhà giàu theo giặc đi học tiếng tây làm bồi cho tây, những tên bồi tây này hô hào quốc ngữ, vì 100% bọn này đều theo Công giáo và theo giặc. Chỉ cần làm gì mà dân việt bỏ xa truyền thống, bỏ xa ông bà tổ tiên, thì họ hồ hỡi phấn khởi mà làm, để tâng công với quốc mẫu. Với quốc mẫu thì xóa bỏ văn hóa gốc của dân việt còn hay hơn triệu cây súng. Thế giới ngày nay lên án mọi hành động diệt chủng. Giết người tội ác còn nhẹ hơn là diệt văn hóa, vì diệt văn hóa đồng nghĩa với diệt chủng.

6- Học võ của người để đánh lại người
Dù sau đó những người yêu nước cũng hô hào học quốc ngữ, sự hô hào này là chuyện chẳng đặng đừng, nó như học võ của của người để đánh lại người, chẳng thể vì thế mà lại cho rằng chữ quốc ngữ đã được “rửa tội” và được toàn dân quý mến, cũng chẳng phải vì vậy mà những người như nhà giáo nhân dân Nguyễn Lân, viện sỹ Nguyễn Duy Quý (xem cùng bản dịch của Ngô Tự Lập) cho rằng cần phải tôn vinh Alexandre de Rhodes để cám ơn ông ta.
Đúng ra Alexandre De Rhodes hoàn toàn không biết trước rằng những ký âm pháp tiếng Việt bằng La Tinh mà ông đã thừa hưởng từ công lao của những giáo sĩ người Bồ đã đến trước ông tại VN, sẽ trở thành 'quốc ngữ' của người Việt. Tuy muốn biến toàn cõi Đông Dương thành nước Chúa, ông chỉ đơn thuần dùng ký âm này để viết sách truyền đạo. Sau khi thất bại trong việc yêu cầu vua Pháp xuất quân đánh Đông Á, cho đến lúc này, ông chưa hề nghĩ rằng ký âm La Tinh là một dụng cụ xâm lăng văn hoá hữu hiệu như những thực dân chuyên nghiệp và đã có nhiều kinh nghiêm hơn ông đi sau ông, như giám mục Pháp Puginier tự thừa nhận:
...Cần phải dạy càng sớm càng tốt cho người An Nam viết và đọc được tiếng họ bằng chữ Âu Châu, việc này dễ hơn và tiện lợi hơn dùng chữ Nho. Trong vài năm sau, cần phải bắt buộc mọi giấy tờ chính thức không được viết bằng chữ Nho như trước nữa, phải viết bằng tiếng trong nước, mỗi viên chức ít nhất phải được dạy đọc và viết tiếng An nam bằng chữ Châu Âu. Trong lúc đó việc dạy chữ Pháp sẽ tiến triển nhiều hơn và chúng ta chuẩn bị một thế hệ để cung cấp các viên chức có học tiếng nước chúng ta. Như thế có lẽ trong vòng 20 hay 25 năm chúng ta có thể bắt buộc mọi giấy tờ đều viết bằng tiếng Pháp, do đó chữ Nho sẽ dần già bị bỏ rơi mà chúng ta chẳng cần phải cấm đoán gì.” (trích lại của Bùi Kha)
Tóm lại, Quốc ngữ đã được chế ra với mục đích đầu tiên là truyền giáo với cuốn Phép giảng tám ngày và dĩ nhiên là cũng để làm gián điệp, vì nhờ nó mà giáo dân cung cấp thông tin cần thiết về văn hóa, quân sự, chính trị của VN. Tôi nghĩ rằng A. De Rhodes được vinh danh vì Công giáo VN được trực tiếp chỉ thị từ các cha cố Pháp; và giáo hội VN, với số ít trí thức nhận thức được khuôn mặt thật của các giáo sỹ thừa sai, kỳ dư đa phần đều ưa thích sống dưới chế độ thực dân; vì dưới chế độ đó, giáo hội CGVN không thua giáo hoàng La Mã, muốn gió có gió, muốn mưa có mưa. Tinh thần vọng ngoại cầu vinh này đã làm cho dân tộc trôi lăn trong cảnh bảy nổi ba chìm hằng thế kỷ.
Chữ Nôm đã bị kẻ thù giết mất xác, chưa tìm được để chôn cất, lại đem lên bàn thờ VN một thực thể ngoại lai thực dân xâm lược với bao lời ca tụng thần thánh hóa. Do vậy mà chữ Nôm đã không còn ai nhắc, mai một đi vì không có đất dụng võ, rồi dần dần, khi mà mọi người đều học và viết được La Tinh thì đã đại sự đã cáo thành. Công lao cổ xướng phong trào này là nhóm trí thức theo Pháp như Phạm Quỳnh, Pétrus Ký, Paulus Của vv , nó đã trở thành chữ quốc ngữ mà người VN hoàn toàn không có quyền lựa chọn.

7- Những lời ca ngợi kẻ bán nước
Nhân đây cũng xin nói vài lời về Trương Vĩnh Ký theo Wikipédia trang tiếng Pháp (tôi luôn nghi ngờ những gì được viết về VN với Wikipédia Việt ngữ):
Petrus Trương Vĩnh Ký (Petrus 張永記, 1837-1898), dit Petrus Key, est un érudit catholique vietnamien du sud, professeur au collège des interprètes français. Il échange des correspondances avec Émile Litrré et Ernest Renan. Auteur d'environ 130 ouvrages [réf. nécessaire], il est pionnier dans la traduction de livres du français vers l'annamite ou de l'annamite vers le français. À l'instar d'Alexandre de Rhodes, il est le vrai instigateur de la latinisation de l'écriture vietnamienne.
Petrus Truong Vĩnh Ký est né le 6 décembre 1837 à Vĩnh Long, ville de la Cochinchine , chef-lieu d'une province du même nom, sur le Mékong oriental, à 120 km au sud-ouest de Saigon. Il devient catholique, passe quelques années au séminaire de Malacca. Très jeune, il jouit d'une grande facilité pour les langues de l'Asie orientale et le français lui est aussi familier que sa langue maternelle. Il entre à Saigon au service du vice-amiral Charner, commandant en chef, puis du vice-amiral Adolphe Bonard, le 1er gouverneur. Il dépend de Henri Rieunier chargé, depuis 1861, des affaires indigènes à l'état-major général. ...
Tạm dịch:
Petrus Trương Vĩnh Ký (Petrus 張永記, 1837-1898), thường được gọi là Petrus Key, là một nhà bác học Công giáo ở Nam kỳ, giáo sư trường trung học thông ngôn Pháp. Ông từng trao đổi thư từ với Émile Littré và Ernest Renan.
Tác giả của khoảng 300 cuốn sách [nguồn cần được kiểm chứng], ông là người tiên phong trong lãnh vực dịch thuật sách vở từ tiếng Pháp ra tiếng An Nam và từ tiếng An Nam ra tiếng Pháp. Trừ Alexandre de Rhodes, ông thực sự là kẻ đứng đầu công trong việc La Tinh hóa chữ viết Việt Nam.
Pétrus Ký sinh ngày 6 tháng 1 năm 1873 tại Vĩnh Long, thành phố của Nam kỳ, thủ phủ của tỉnh mang cùng tên trong vùng Đông Mékong cách Sài Gòn 120km về phía tây nam. Ông thành con chiên, trải qua vài năm trong chủng viện ở Malacca. Rất trẻ, ông đã thông thạo thực dễ dàng những ngôn ngữ Đông Á, và Pháp ngữ đối với ông quen thuộc như tiếng mẹ đẻ. Về Sài Gòn ông phục vụ cho phó đô đốc hải quân Charner, chỉ huy trưởng, rồi phục vụ cho phó đô đốc Adolphe Bonard, thống đốc đầu tiên. Ông thuộc quyền của Henri Rieunier, từ năm 1861, lo về bản địa sự vụ trong ban tham mưu tổng quát....
Và đây là lời ca tụng Trương Vĩnh Ký của Minh Vân, một giáo dân Công giáo học rất cao, hiểu rất rộng (trích lại từ sách của Trần Chung Ngọc):
Hàng Trí giả toàn cầu đã không còn xa lạ gì với tên tuổi Đại Danh Nhân Thế Giới PETRUS KÝ (TRƯƠNG-VĨNH-KÝ). Tiên sinh là một “Đại Học Giả”, một Nhà Bác Ngữ Học kỳ tài đa năng, đa diện trên nhiều lãnh vực Khoa-Học, khiến giới Trí thức Âu-Châu lúc bấy giờ đã phải cúi đầu trước trình độ bác cổ thông kim của Vị Tiền Bối nầy! Ngay cả các nhà Văn Hóa, nhà Từ điển, nhà Khoa Học thời danh lúc bấy giờ cũng phải nghiêng mình nhường bước cho việc bầu chọn PETRUS KÝ vào hàng “THẾ GIỚI THẬP BÁT VĂN HÀO” năm 1874, kể cả Đại Văn Hào Pháp VICTOR HUGO (1802-1885), một Nhân vật Văn Hóa đã được an táng trong Điện Panthéon nước Pháp, cũng phải lui sau nhường chỗ đứng. Bản thân các Danh nhân Văn Hóa thế giới, không những tự nguyện xin đứng phía sau, nhưng còn để lại cho hậu thế ngày nay bao nhiêu tác phẩm đã viết, nội dung tôn vinh ca ngợi nhà Tiền Bối Văn Hóa PETRUS KÝ đến hết lời. Tiên Sinh là một người dân bị trị không quyền chức duy nhất trên hành tinh được ghi tên vào Bộ “Đại Từ điển Bách Khoa " (Larousse Illustré) rất danh giá của nước Pháp là điều hy hữu!
Nếu tôi là Pétrus Ký tôi sẽ đỏ mặt khi nghe tán tụng theo lối mà giáo chủ Ma giáo Nhậm Ngã Hành được ca tụng, nào là muôn năm trừng trị, nào là nhất thống giang hồ, nếu có ai đọc Tiếu Ngạo Giang Hồ của Kim Dung.
Người Pháp công nhận tài của Pétrus Ký, nhưng họ không hề nhắc đến việc ông này có trong Panthéon hay không, và có thuộc về 18 vị bác học hay không. Có lẽ Minh Vân đã đọc được tài liệu do Trương Vĩnh Lễ viết trong Bulletin de l'Association Nationale des Anciens d'Indochine et du Souvenir Indochinois, số đệ nhất tam cá nguyệt năm 1989. Trương Vĩnh Lễ tán dương nhiều hơn Minh Vân, nhưng cũng không hề nói Vĩnh Ký được vào Panthéon đứng trước cả Victor Hugo.
Petrus Trương Vĩnh Ký (1837-1898) với 2 huy chương của Công giáo (La Mã và Tây Ban Nha) và 3 huy chương của Thực dân Pháp (trong đó có huy chương cao quý nhất của chính phủ Pháp là Bắc Đẩu Bội Tinh). Nhờ công lao nầy cho thế quyền và giáo quyền ngoại bang đô hộ nước ta, ông được dựng tượng đặt sau lưng Nhà thờ Đức Bà tại Sài Gòn.
Không ai chê Trương Vĩnh Ký bất tài, nhưng chắc chắn ông là một trong những tay sai của người Pháp, vì ông theo Công giáo, từng học ở chủng viện Malacca, và được làm việc dưới quyền trực tiếp của Henri Rieunier, một trung úy sau này lên đến chức đô đốc của hải quân Pháp. Theo tài liệu của Trương Vĩnh Lễ, Pétrus ký được nữ hoàng Tây Ban Nha Isabelle La-Catholique và Pháp ban thưởng lúc ông làm thông ngôn cho phái đòan của cụ Phan Thanh Giản, riêng Pháp đã tặng ông danh dự Bắc Đẩu Bội Tinh.
Pháp và Tây Ban Nha là hai đế quốc ác ôn nhất lịch sử thực dân đều ban huân chương cho ông, thì chẳng lẽ công lao làm tôi tớ của ông lại lu mờ, trừ trường hợp Trương Vĩnh Lễ lại cũng phịa.
Xin trích ra một đoạn văn bán nước của Pétrus được sử gia Vũ Ngự Chiêu tiết lộ trong cuốn Các Vua Cuối Nhà Nguyễn 1883-1945 - Tập 1 với nguyên văn như sau:
SHM (Vincennes) GG2 99:2. Petrus Key, tức Trương Vĩnh Ký sau này, cũng cùng một nhận xét. Tháng 3/1859, Petrus Key viết cho Grand Chef et Vous Tous très honorables officiers de la flotte francaise”: Ayez pitié de nous. Vous êtes nos libérateurs et la main des ennemis nous a touchés! Hala! The wearer knows very well where the shoe pincheth. Nous savons auusi que “qui trop embrasse mal etreint.” Et cependant nos souffrances nous poussent à invoquer votre puissaance et à vous exposer du fond du coeur tout ce que je veux de soumettre à votre prudence et a votre sagesse.” Thư tháng 3/1859, Petrus Key gửi Grand Chef; SHM (Vincennes), GG2 99:2” Vũ Ngự Chiêu, Các Vua Cuối Nhà Nguyễn 1883-1945 - Tập 1 (Houston, TX: Văn Hóa, 1999), tr.130.
Tôi xin tạm dịch đoạn văn này cho những ai không đọc được Pháp ngữ:
Tháng 3/1859, Pétrus Ký viết cho Xếp Lớn và Tất Cả Quý Vị Sĩ Quan rất đáng tôn kính của hạm đội Pháp:
Xin thương xót chúng tôi. Quý ngài là những người giải phóng của chúng tôi, và bàn tay của kẻ thù đã chạm đến chúng tôi! Xin hoan nghênh quý ngài! Kẻ mang giày mới biết kích cỡ của chiếc giày (ý nói người VN mới biết nhược điểm của VN, lời nguời dịch). Chúng tôi cũng biết được rằng không thể ôm đồm “bắt cá hai tay”.
 Và trong khi sự chịu đựng của chúng tôi đã khiến chúng tôi cầu khẩn đến sức mạnh của quý ngài đồng thời bày tỏ, đệ trình lên quý ngài tấm lòng sâu xa của chúng tôi đối với sự thận trọng cũng như sự khôn ngoan của quý ngài.
Đoạn thư trên rõ ràng là thư mong mỏi, nhưng tuyệt nhiên không dám hối thúc quân đội Pháp đến đánh chiếm VN. Pétrus Ký sẵn sàng làm chỉ điểm cho ngoại bang, như kẻ mang giày biết giày chật hẹp chỗ nào. Cùng với sự bày tỏ lòng kính trọng còn hơn tôi thần kính trọng vua chúa, nào là du fond du coeur nào là soumettre, tóm lại là giọng văn của một nô lệ đang quỳ lạy cầu xin thực dân tối cao đem quân sang dày xéo VN. Không biết 'kẻ thù' mà Pétrus Ký gọi là ai ? Phải chăng là triều đình Huế? Hay là toàn dân VN ? Với lời lẽ này mà đòi vào Panthéon của Pháp tôi e là nằm mơ giữa ban ngày. Với lời lẽ này mà vẫn được nhà nước CHXHCNVN tôn kính và vinh danh mới thực là lạ!
Tuy nhiên tôi rất muốn xem tài liệu nào bằng tiếng Pháp ghi chép những thành tích quốc tế của Pétrus như được vào Panthéon, được liệt vào 18 bác học gia đứng đầu thế giới (vì Pháp công nhận nên phải có chứng cứ qua các tài liệu bằng Pháp ngữ, chứ tôi không nghĩ rằng Pháp đáng tin hơn VN). Những công trạng ấy do học giả VN cứ lập đi lập lại mãi mà không đưa ra bằng chứng thì chẳng có giá trị nghiên cứu. Hơn nữa, việc Pétrus ký học giỏi với việc Pétrus Ký là tay sai ngoại bang là hai việc riêng biệt. Theo như nhiều tài liệu của người Pháp, thì không thể phủ nhận Pétrus Key là người thông minh.
Vậy mà ngày nay, dù không còn chính quyền tay sai nào của Công giáo La Mã, nhóm người này vẫn được đề cao, được vinh danh mang tên những con đường, những trường học, những tượng đài. Chẳng lẽ nhà nước lại khuyến khích bán nước? Chỉ cần thông minh hơn một tí, có nhiều phương tiện hơn kẻ khác là có thể bán nước mà vẫn được 'bằng khen'!
Đối với tôi, quốc ngữ chính là chữ Nôm, được dùng viết cuốn sách đầu tiên đời Trần Thiền Tông Bản Hạnh hay Truyện Kiều của đại thi hào Nguyễn Du đời Lê, còn quốc ngữ mà cả nước đang sử dụng là ngôn ngữ đầu tiên bằng ký âm la tinh để truyền đạo của tên giặc Pháp Alexandre de Rhodes với cuốn Phép giảng tám ngày đem vào VN, chẳng nhục thì thôi, hà cớ gì còn vinh danh mang tên đường !?
Việt Nam từ khi thực dân Pháp đặt nền móng cai trị cho đến 1975, lúc nào cũng lắm phong ba bão tố, chưa bao giờ có một nền chính trị ổn định và độc lập. Đến khi cuộc cách mạng 1963 lật đổ được Ngô Đình Diệm, con đường mang tên giáo sĩ Đắc Lộ đã được nhân sĩ miền Nam tháo bỏ, nhưng đáng tiếc là cố thủ tướng Võ Văn Kiệt lại đưa nó trở về.Mong rằng nhà nước nên xét lại việc vinh danh cho tên giặc cướp nước này. Đây là một sai lầm rất nghiêm trọng của lịch sử, cũng là sự khinh thường xương máu của nhân dân.
Tình thực mà nói, nếu Pháp và bọn truyền giáo Pháp không đến VN, thì ngày nay người Việt chắc chắn xài chữ Nôm, đọc được văn bia thư khố mà cha ông để lại. Đã vậy, chưa chắc có cuộc nội chiến Bắc Nam kéo dài 21 năm. Không chừng còn có thể là một cường quốc không thua gì Nhật.

Hiện nay có khoảng 3,8 tỹ người dùng mẫu tự alphabet La Tinh, chủ yếu là trong các nước thực dân Âu châu và thuộc địa cũ của họ (tại Đông Nam Á, Phi châu và Nam Mỹ). Số còn lại của nhân loại là 3,2 tỹ trong hơn 60 quốc gia thì không dùng mẫu tự La Tinh: Afghanistan, Ai Cập, Albania, Algeria, Ấn Độ, Armenia, Azerbajan, Bangladesh, Barhain, Belarus, Bhutan, Brunei, Bulgary, Cambodia, Chad, Cyprus, Do Thái, Ethiopa, Georgia, Hàn Quốc, Hy Lạp, Indonesia, Iran, Iraq, Jordan, Kazakhstan, Kenya, Kuwait, Kyrgyzstan, Lào, Lebanon, Lithuania, Lybia, Malyasia, Mauritania, Miến Điện, Mongolia, Morocco, Nepal, Nhật Bản, Liên bang Nga, Oman, Pakistan, Qatar, Saudi Arabia, Serbia, Somalia, Sri Lanka, Sudan, Taiwan, Tây Tạng, Thái Lan, Thổ Nhĩ Kỳ, Trung Quốc, Tunisia, U.A.E., Ukraina, Uzbekistan, Yemen, …

8- Phân biệt hai nền văn minh Tây phương
Nên biết phân biệt có hai nền văn minh Tây phương: văn minh Âu Mỹ và văn minh thực dân La Mã. Tác giả Hoàng Văn Chí (Từ thực dân đến Cọng Sản) có một nhận xét khá chính xác: Cùng đều là thực dân, các quốc gia theo đạo Phản Thệ (Tin Lành) ít tàn bạo bằng các quốc gia theo Công giáo La Mã. Những quốc gia như Anh, Hòa Lan, Đức đều có thuộc địa, sau khi họ ra đi, các cựu thuộc địa vẫn còn lại văn hóa bản địa ít bị xâm hại.

9- Chướng ngại của sự đoàn kết
Giả thiết rằng quốc ngữ VN là chữ Nôm, ta có rất nhiều cái lợi: người TQ không đọc được điều ta viết, như người Nhật, người Hàn; còn nhân dân, cũng sẽ giống dân Nhật và Hàn, có thể thông hiểu và đọc được Hán ngữ, vốn là văn hóa đã được gạn lọc và đã hội nhập cùng dân tộc.
So trình độ Anh ngữ giữa người Việt và người Nhật, Hàn, Trung hay Ấn, dù ta có được chữ viết La Tinh làm 'vốn', chưa chắc ta hơn họ về ngữ văn này. Đừng nghĩ rằng mẫu tự La Tinh giúp ta dễ dàng hội nhập với văn minh Âu Mỹ hơn các dân tộc khác, mà không chừng chính nó lại chỉ khiến ta học theo cái mà Âu Mỹ đang xem là rác rưởi, đang tìm đủ mọi cách tống thải nó ra ngoài.
Theo thiển ý, cái hại của quốc ngữ La Tinh lớn hơn cái lợi, nó là một trong những chướng ngại của sự  đoàn kết. Dân tộc này sẽ không bao giờ trở về trong nguyên khối nhất quán như trước; trừ phi dân tộc cũng rơi vào tình trạng bị Công giáo hóa 100% như các nước Nam Mỹ hoặc Philippines, hoặc hoàn toàn ngược lại; mặc dù đây không phải là một thiển ý  đáng ao ước.
Tác giả Công giáo Charlie Nguyễn ví chữ quốc ngữ như con dao mà tên cướp đến cướp của giết người rồi để lại, ta cứ xài mà không cần cám ơn tên cướp.
Tôi thì cho rằng, chữ quốc ngữ giống như đứa con oan nghiệt bị giặc cưỡng hiếp mà sinh ra; dù gì cũng là con, đứa con của tủi nhục; nhưng đành chấp nhận giữ mối nhục đó mà sống, phải yêu thương và phải nuôi nó lớn khôn lớn, nhất là phải giáo dục nó; nhưng cha nó, dứt khoát cần được đưa ra tòa án.

Trần Trọng Sỹ



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét