Hiển thị các bài đăng có nhãn alexandre de rhodes. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn alexandre de rhodes. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Ba, 21 tháng 1, 2020


CHỮ QUỐC NGỮ
CÂY MUỐN LẶNG MÀ GIÓ CHẲNG DỪNG

Viên Như
 
Đáng lý ra ta nên nói “Chữ Việt Bồ là công cụ để xâm lăng” còn“Chữ Quốc ngữ là công cụ để chống xâm lăng”, tức là gậy ông đập lưng ông. Cho nên để cho phần đông giới trẻ dễ phân biệt, tránh nhập nhèm, tôi đề nghị chúng ta nên sử dụng một từ cụ thể cho loại chữ của các giáo sĩ, trong bài tôi dùng từ “chữ Việt Bồ”

  I. CÁC LOẠI CHỮ VIẾT Ở VIỆT NAM QUA CÁC THỜI KỲ.
Theo dòng lịch sử, nước Việt có ba loại chữ viết đã được lưu hành: Chữ Nho, chữ Nôm và chữ Quốc ngữ. Sở dĩ chúng có tên gọi khác nhau vì chúng có vai trò và tiêu chí khác nhau, cũng như khi gọi tên một loài cá cụ thể như cá voi, cá mập và cá thu, nó cung cấp cho người đọc hay nghe một hình ảnh và vai trò khác nhau của từng loại, tuy chúng đều hoạt động trong nước.

   Sở dĩ tôi nêu lên vấn đề này vì lâu nay khái niệm chữ Quốc ngữ được sử dụng ở nước ta mang tính chung chung cho loại chữ Việt ký âm bằng mẫu tự La Tinh, vì vậy người ta xem chữ Việt ký âm bằng mẫu tự La Tinh thời kỳ đầu của các giáo sĩ phương tây, ở đây xin tạm gọi là chữ Việt Bồ, như là chữ Quốc ngữ, từ đó đòi hỏi phải tri ân, tạc tượng, thậm chí tôn vinh lên thành bậc tiên hiền. Vì vậy thiết tưởng rằng việc phân định chức năng, vai trò và chủ thể của các loại chữ viết đã và đang lưu hành ở nước ta là cần thiết, chỉ khi nào ta làm rõ được vấn đề này thì vấn đề “chữ Quốc ngữ” mới may ra có hồi kết; đồng thời từ đó mới quyết định ai là cha đẻ để xứng đáng được tri ân và vinh danh. Tôi tin rằng rất nhiều người quan tâm đến vấn đề này một cách nghiêm túc đã hiểu điều này rồi, tuy nhiên không phải ai cũng hiểu đầy đủ các tiêu chí nào để một loại chữ viết trở thành chữ quốc ngữ. Do đó, với kiến thức giới hạn về ngôn ngữ học, xin được trình bày thiển ý của tôi về vấn đề này ngỏ hầu góp thêm một chút khái niệm về chữ Quốc ngữ, hy vọng rằng những gì trình bày có thể giúp những người không có thời gian tiếp xúc với ngôn ngữ học nhận thức được thế nào là chữ Quốc ngữ.
Về chức năng của chữ viết, thiết nghĩ rằng có lẽ ai cũng biết rồi, ở đây chỉ trình bày về vai trò và chủ thể của nó mà thôi.

   1. Chữ Nho.
Chữ Nho là loại chữ tượng hình, biểu ý, được người Việt sử dụng từ xưa cho đến năm 1918 mới chính thức bị bãi bỏ bởi sắc lệnh của vua Khải Định.
Các văn bản của triều đình bắt buộc phải viết bằng chữ Nho.
Vì vậy các bộ sử của nước trước thời điểm 1918 đều viết bằng chữ Nho; Đồng thời văn học thời kỳ này đều viết bằng loại chữ này.
   Tuy nhiên chữ Nho không phản ảnh toàn bộ tiếng Việt, vì vậy nó chỉ được xem là Quốc tự chứ không phải là chữ Quốc ngữ.
   2. Chữ Nôm.
   Chữ Nôm là chữ do người Việt sáng chế ra dựa vào chữ Nho, theo các nhà nghiên cứu thì chữ Nôm bắt đầu ra đời từ thế kỷ thứ 10.
   Chữ Nôm là chữ ghi lại tiếng Việt (quốc ngữ) nhưng không nằm trong hệ thống giáo dục thời đó, vì vậy không được dùng để viết văn bản của triều đình.
   Tuy nhiên chữ Nôm cũng được xem là Quốc tự một cách mặc nhiên và có nhiều tác phẩm nỗi tiếng viết bằng loại chữ này như truyện Kiều, Cung oán ngâm khúc v.v.. Nhưng nó chưa phải là chữ Quốc ngữ, vì chưa được hệ thống hay chuẩn hóa và chưa được sử dụng theo một thể thống nhất trên toàn quốc.
 
   3. Chữ Quốc ngữ.
Chữ Quốc ngữ ở là tên gọi loại chữ ký âm tiếng Việt bằng mẫu tự La Tinh.
Chữ Quốc ngữ là loại chữ đã được chuẩn hóa trên mọi mặt của một ngôn ngữ chữ viết theo hệ La Tinh, như:
● Bảng chữ cái.
● Quy tắc đánh vần.
● Quy tắc chính tả.
● Các ký hiệu biểu cảm như: Chấm than, chấm dấu hỏi v.v..
● Các chữ số và ký hiệu để dùng trong toán học như: Cộng, trừ, nhân, chia, căn, lũy thừa v.v..
● Khi thể hiện bằng văn bản, bất cứ người Việt nào có trình độ học vấn trung bình cũng đọc và hiểu được nội dung trên mặt chữ của văn bản đó.
● Chữ Quốc ngữ được dùng chính thức và bắt buộc cho các văn bản nhà nước, là chữ viết duy nhất trong hệ thống giáo dục của Việt Nam từ năm 1918, căn cứ vào sắc lệnh của vua Khải Định, cho tới nay, mặc dù tên gọi chữ quốc ngữ đã xuất hiện từ năm 1867 trên Gia Định Báo. [1] Tuy nhiên trên thực tế chữ Quốc ngữ bắt đầu dùng chính thức và duy nhất vào văn bản nhà nước từ 1945.
Với các tiêu chí trên, chữ Việt ký âm bằng mẫu tự La Tinh hiện nay được gọi là CHỮ QUỐC NGỮ. Tất nhiên đây chưa phải là tất cả, do đó tôi nghĩ rằng các cơ quan có trách nhiệm về tiếng Việt còn phải bổ sung nhiều nữa.
Ở trên tôi chỉ nói ba loại chữ viết đã được sử dụng ở Việt Nam qua các thời kỳ với những tiêu chí cụ thể, riêng chữ Việt Bồ, tôi cho rằng nó là loại chữ không có các tiêu chí đã trình bày trên, nó chỉ là tài liệu để tham khảo về lịch sử chữ Việt ký âm bằng mẫu tự La Tinh mà thôi, do đó tôi không liệt vào mục I này.

II. CHỮ QUỐC NGỮ VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ TRANH CÃI.
Như đã nói trên, do không phân định vai trò và chủ thể của từng loại chữ một cách rõ ràng, cho nên nhiều người sử dụng tên gọi chữ Quốc ngữ một cách chung chung trong tư cách là loại chữ Việt ký âm bằng mẫu tự La Tinh. Điều này dẫn đến sự nhầm lẫn và cho rằng chữ Việt Bồ là Chữ quốc ngữ, lí do là vì cả hai đều là loại chữ Việt ký âm bằng mẫu tự La Tinh. Do đó ta cần phải làm rõ điều này, bởi vì nếu không có tiêu chí rõ ràng, cụ thể thì rất có thể rồi đây chữ của cụ Bùi Hiền cũng được xem là chữ Quốc ngữ, vì nó cũng là loại chữ Việt ký âm bằng mẫu tự La Tinh, nghe đâu cụ còn thể hiện bằng Truyện Kiều của Danh nhân văn hóa Nguyễn Du nữa, như thế thì ăn đứt cuốn Phép Giảng Tám Ngày, với nội dung bậy bạ, của A.D. Rhodes rồi.

   1. Chữ Việt Bồ có phải là chữ Quốc ngữ không?
Với các tiêu chí về ngôn ngữ chữ viết mà tôi đã trình bày trên, đặc biệt là CHỮ QUỐC NGỮ, ta thấy chữ VIỆT BỒ không có bất cứ một tiêu chí nào để được gọi là chữ Quốc ngữ. Cụ thể như sau:
● Nó có Bảng chữ cái không? Không.
● Nó có Quy tắc đánh vần không? Không.
● Nó có Quy tắc chính tả không? Không.
● Nó có Các ký hiệu biểu cảm như: Chấm than, chấm dấu hỏi không? Không.
● Các chữ số và ký hiệu để dùng trong toán học như: Cộng, trừ, nhân, chia, căn, lũy thừa không? Không.
● Khi thể hiện bằng văn bản, bất cứ người Việt nào có trình độ học vấn trung bình cũng đọc và hiểu được nội dung trên mặt chữ của văn bản đó không? Không.
   Thậm chí nó cũng không phải là quốc tự như chữ Nho và chữ Nôm, bằng chứng là không có bất kỳ một trường lớp nào dạy chữ ấy, dĩ nhiên là không có bất cứ một văn bản nào của chính quyền hay tác phẩm văn hóa của người Việt viết bằng loại chữ Việt Bồ vào thời điểm đó cả, như thế làm sao gọi chữ Việt Bồ là chữ Quốc ngữ được. Bản thân tôi cũng đã làm một cuộc thăm dò bằng cách nhờ những người có học trung bình, tức là lớp 11, 12 đọc thử, vừa đọc vừa đoán một trang trong sách Phép Giảng Tám Ngày. Kết quả hầu hết không đọc được quá 40% mặt chữ, tất nhiên là không biết nội dung trang sách nói gì một cách tổng thể. Chính vì vậy ngày nay, khi in lại sách Phép Giảng Tám Ngày của A.D. Rhodes, nhà thờ cũng in thành hai phần, phần một in nguyên bản, phần hai in phần chuyển ngữ thành chữ quốc ngữ, thậm chí đưa thêm nội dung vào. Điều này chứng tỏ chính họ đã nhận thức chữ Việt Bồ không phải là chữ Quốc ngữ, nếu không thì DỊCH sang chữ Quốc ngữ làm gì?
Nguyên bản:
Phần dịch ra chữ Quốc ngữ:
Ta cầu cùng Đức Chúa Trời giúp sức cho ta biết tỏ tường đạo Chúa là dường nào. Vì vậy ta phải hay ở thế này chẳng có ai sống lâu; vì chưng kẻ đến bẩy tám mươi tuổi chẳng có nhiều. Vì vậy ta nên tìm đàng nào cho ta được sống lâu, là kiếm hằng sống vậy: thật là việc người quân tử. Khác phép thế này, dù mà làm cho người được phú quý, song le chẳng làm được cho ta ngày sau. [2]

2. Chữ Việt Bồ là một công cụ dành riêng cho các giáo sĩ phương tây dùng  để truyền đạo, nó được tạo ra do lệnh của Vatican.
Việc đầu tiên của bất cứ nhà truyền giáo nào cũng phải tìm cách để truyền thông với người bản xứ, vì vậy việc ký âm tiếng Việt bằng mẫu tự La Tinh là điều bắt buộc, đây là công việc đầu tiên của bất cứ ai muốn tiếp cận với một cộng đồng hay một dân tộc, vì nếu không biết tiếng bản địa thì nói với họ, những đối tượng mà các giáo sĩ muốn cải đạo, bằng cách nào, do đó ý kiến cho đó là công cụ để truyền giáo là hoàn toàn chính xác. Tuy nhiên ở đây tôi muốn nhấn mạnh rằng nó không những là công cụ để truyền giáo, mà chỉ là công cụ dành riêng cho các giáo sĩ mà thôi. Ta thấy điều này khi xét những phát biểu của A.D. Rhodes trong cuốn Từ Điển Việt - Bồ - La. Trong phần thư gởi các Hồng Y Thánh Bộ Truyền bá Đức tin, A.D. Rhodes viết:
Vậy tôi xin hỏi trong vòng chưa đầy hai mươi lăm năm gần đây, việc ấn hành phương ngữ của nhiều dân tộc xa lạ có ý nghĩa gì nếu không phải là truyền bá và phổ biến khắp trái đất những tư tưởng lời Thiên Chúa mà theo lệnh của Người, Roma là thư viện và kho chứa, vừa để nuôi dưỡng đoàn chiên của vị Mục tử Tối Cao Nhân lành, vừa để ngăn chặn lũ sói lang xông phá? Mà lại để Lời Thiên Chúa xâm nhập dễ dàng hơn tới tận Hoàn cầu, nơi người Đông kinh và Cô sinh, tức là tất cả mọi người An nam đang chiếm cư, thì bây giờ lòng đại lượng bao la của quý vị cũng truyền lệnh thực hiện quyển từ điển An Nam, một cuốn từ điển giúp ích cho những người làm công tác Tông đồ được chỉ định cho phần vườn Nho này của Chúa…” [3]

Và trong Báo cáo vắn tắt về tiếng An Nam hay Đông Kinh, tác giả viết:
Những phương ngữ gần gủi nhau hơn ở phương đông, đặc biệt tiếng Trung Hoa và Đông kinh, kể cả tiếng Nhật nữa, có cách học khác xa tiếng xứ sở của chúng ta; bởi chúng thiếu hẳn giống; đích thực chúng cũng không có biến cách…và những quy tắc phải giữ trong câu nói.” [4]
Với những trích dẫn trên chứng minh rằng chữ Việt Bồ là loại chữ chỉ dành cho các giáo sĩ làm công cụ để truyền đạo mà thôi, nó được thực hiện nằm trong kế hoạch của Vatican, do đó ta thấy A.D. Rhodes phải giải trình như đã trích trên.
Không những thế, chữ Việt Bồ còn có mục đích khác, đó là các giáo sĩ sử dụng nó như một mật mã giữa họ với nhau, tránh các trí thức khác của nước Việt có thể hiểu được những việc làm của họ. Cụ thể tại phần trích trên, A.D. Rhodes viết:
Vậy tôi xin hỏi trong vòng chưa đầy hai mươi lăm năm gần đây, việc ấn hành phương ngữ của nhiều dân tộc xa lạ có ý nghĩa gì nếu không phải là truyền bá và phổ biến khắp trái đất những tư tưởng lời Thiên Chúa mà theo lệnh của Người, Roma là thư viện và kho chứa, vừa để nuôi dưỡng đoàn chiên của vị Mục tử Tối Cao Nhân lành, vừa để ngăn chặn lũ sói lang xông phá?”
Lưu ý rằng đây là lời của A.D. Rhodes trong cuốn Từ điển Việt - Bồ - La, có nghĩa là “lũ sói lang” ấy đang ở nước Việt. Vậy ai là lũ sói lang ở nước Việt? Lũ sói lang này chính là những gì mà ông ta mô tả trong cuốn Phép Giảng Tám Ngày, “Chẳng phải hiền, chẳng phải thánh, chém cho ngã xuống, Giáo này thì thờ ma quỉ mà làm những phép giả, bọn man rợ (tổ tiên nước Việt) vua, quan”. Rõ ràng vì sợ trí thức bản xứ biết được thực chất của chúng nên chúng không cho họ tiếp cận với loại chữ này (Việt Bồ), vì biết được thì họ sẽ xông phá ngay.

Như thế rõ ràng chẳng có lý do gì mà bảo rằng A.D. Rhodes và các giáo sĩ phương tây sáng chế chữ Việt Bồ cho người Việt, vì vậy mà như ta biết cuốn tự điển này từ ngày xuất hiện tới giờ nó chẳng giúp ích gì cho ai trong việc học tiếng Việt cả, bởi vì nội dung và hình thức cũng như tác dụng của nó đã cho thấy nó được soạn ra cho những nhà truyền giáo chứ không phải cho người Việt như đã nói trên, có nghĩa nó là công cụ để truyền giáo của các giáo sĩ phương tây, như nhận xét của Tiến sĩ Nguyễn Kiều Dung “Từ điển ấy là loại sách TÂY VIẾT CHO TÂY ĐỌC” và trên thực tế nó đúng là như vậy.

Tuy nhiên gần đây, một số người có trình độ trong lãnh vực ngôn ngữ học, đem công trình nghiên cứu về cuốn từ điển này thuyết trình ở Hội thảo về Chữ Quốc ngữ, một hội thảo chủ yếu nói về sự hình thành và phát triển một loại chữ viết, một lãnh vực thuộc ngôn ngữ học, cụ thể là Hình vị học, khiến cho ai cũng nghĩ rằng nhờ có cuốn từ điển đó mà người Việt học và biết chữ Quốc ngữ, đây là một thủ thuật biến xác chết thành người sống. Vì sao tôi cho như vậy? Tại vì Từ điển chủ yếu là để học nghĩa của một từ, một cụm từ, nó thuộc về Ngữ nghĩa học, chứ không phải là để học cái con chữ, tức là cái hình vị, vì nghĩa của con chữ thì nằm trong tiếng nói của người Việt, tức Quốc ngữ rồi, vậy mà đem cái Ngữ nghĩa học, Từ điển học (thống kê bao nhiều từ, loại gì) nói ở nơi đang bàn về lịch sử hình thành chữ, tức thuộc về Hình vị học, có lộn sòng không? Kiểu này cũng giống như bên ngoài ghi Thi thể hình, vào trong hóa ra lại là Thi sắc đẹp vậy. Nếu có đề cập đến cuốn từ điển này chăng nữa, thì chủ yếu là để chứng minh rằng tác phẩm viết bằng chữ Việt Bồ đó đã có mặt tại thời điểm nào đó, tức là nói về lịch sử hình thành chữ Quốc ngữ mà thôi, chứ ai tìm hiểu nội dung cuốn từ điển này, kể cả cuốn Phép Giảng Tám Ngày, chẳng giúp ích gì nhiều cho người Việt trong quá trình La Tinh hóa tiếng Việt.
Tại sao tôi cho như vậy? Tại vì cái quan trọng trong việc ký âm một âm tiết hay một từ là ghép vần (tiếng Việt là ngôn ngữ đơn âm nên âm tiết trùng với từ hay tiếng), mà điều này người Việt đã biết từ 2000 năm trước, họ đã áp dụng điều này vào tự điển để hướng dẩn cho người đọc biết chữ ấy đọc như thế nào. Ngày ấy người ta gọi là Thiết , nghĩa là cắt. Ví dụ âm Tết, cái âm mà bấy lâu nay ta cứ cho đọc trại từ âm TIẾT nên gọi là âm Hán Việt, kỳ thật nó là âm thuần Việt, điều đó cũng có nghĩa là chữ đó (Hán) là chữ của người Việt. Thuyết văn giải tự của Hứa Thận cho:
. 竹約也。从竹即聲。子結切.
Tết. Trúc ước dã, Tùng trúc tức thanh. Tử kết thiết.
Trúc ước vậy. Bộ trúc âm tức. Đọc là Tử kết – Tết.
Thiết là một phương pháp để thành lập một âm mới từ hai chữ cho sẵn, trong trường hợp này là âm TẾT. Chữ đầu thì cắt âm đuôi, như TỬ, cắt âm Ử, còn âm T, chữ đuôi thì cắt âm đầu, như KẾT, cắt K, còn lại âm ẾT, ghép lại hay đánh vần thành TẾT.
Tất cả các cuốn tự điển chữ Hán đều áp dụng phương thức này. Qua đây chứng minh rằng khái niệm chữ biểu âm đã được cha ông nước Việt nhận thức từ lâu, nhưng có lẽ do gánh nặng của quá khứ, cùng sự trói buộc bởi văn hóa khu vực mà không thể rẽ ngang, từ bỏ chữ biểu ý để chuyển sang biểu âm, chứ không phải người Việt thiếu trí tuệ, đợi các ông tây dạy cho mới biết. Sự việc các ông tây dùng chữ biểu âm có giá trị như là chất xúc tác cuối cùng, buộc người Việt phải rẽ ngang lịch sử chữ Viết, thế thôi.
Nói như thế để chứng minh rằng hai cuốn Từ điển Việt – Bồ - La và Phép Giảng Tám Ngày chẳng giúp ích gì nhiều cho người Việt trong quá trình ghép âm thành tiếng. Vì vậy cái duy nhất mà người Việt cần là các mẫu tự, với các âm mặc định (võ đoán) từ đó người Việt, chủ thể của  tiếng Việt,  ghép âm thành tiếng một cách nhanh chóng, vì họ đã biết cách ghép âm từ lâu như đã nêu trên. Cũng chính vì vậy mà ta thấy chữ Quốc ngữ khác xa so với chữ Việt Bồ.
Cho nên cuốn Từ điển Việt - Bồ - La từ ngày nó xuất hiện tới giờ, nó nằm yên đâu đó, chứ có người Việt nào sử dụng cuốn từ điển này đâu, bởi vì nó chỉ có giá trị cho những người Việt học tiếng Bồ hay tiếng La Tinh, chứ không phải là dành cho người Việt học tiếng Việt, mà trước giờ tiếng Bồ và La Tinh có phải là ngôn ngữ mà xã hội quan tâm đâu. Cho nên tôi mới gọi hành động đó là “một thủ thuật biến xác chết thành người sống” hay ta có thể nói đây là một sự đánh tráo giữa chữ Việt Bồ và chữ Quốc ngữ, một việc làm mà bấy lâu nay nhiều người cố bắt ông A.D. Rhodes đẻ cho bằng được.

Xem ra đợt công kích này được chuẩn bị hết sức chu đáo và tốn bộn tiền chứ chẳng phải chơi. Nói công kích là công kích các ông bà ở Viện Sử học, Viện Ngôn ngữ học và Viện Văn hóa, khiến cho họ bối rối mà nhanh chóng tham mưu cho Chính phủ ra văn bản công nhận A.D. Rhodes là ông tổ của chữ Quốc ngữ. Tất nhiên chỉ cần như vậy thôi, còn các thứ khác như lễ vinh danh, tạc tượng thì chắc họ làm từ thiện cho nước Việt. Còn đối với người dân, mấy ai quan tâm thế nào là ngữ nghĩa học, thế nào là hình vị hay ngữ âm học đâu, cho nên họ mới tha hồ múa gậy giữa rừng hoang. Còn nói hết sức chu đáo là vì một mặt họ đánh từ trong đánh ra ngoài, nào GS, PGS, TS Ngôn ngữ học, dạy trường Đại học này, Đại học kia chẳng biết nghe lời ai, có phải Benjamin Franklin không? Phê bình những người Kiến nghị là "tùy tiện". Giấy trắng, mực đen sờ sờ ra đó mà cho là tùy tiện. Còn bên ngoài thì có cái giàn đồng ca, ca bài “Thề quyết vinh danh”, với ông nhạc trưởng núp sau cánh gà trên liên lưới - internet. Tất nhiên họ kêu gọi đứng vào cho đông vậy thôi, chứ nhiều ông chẳng học nhạc gì cả, thấy ông hàng xóm chơi nhạc cho nhà thờ thổi tí te nên cũng biết một chút đồ rê mí, vì vậy mà có ông thổi một đoạn “A.D. Rhodes đã đẻ ra tiếng Việt” khiến cho cả giàn nhạc khựng lại, dĩ nhiên là ông nhạc trưởng thấy không ổn nhưng hy vọng không ai nhận ra. Tất nhiên để thực hiện được kịch bản đó không thể vài ba đồng bạc hay nước miếng được, nhất định phải dùng loại tiền tệ quốc tế US Dollar mới may ra.

Trở lại cuốn Từ điển Việt - Bồ - La, qua cuốn từ điển này ta biết A.D. Rhodes không phải là người ký âm tiếng Việt bằng mẫu tự La Tinh đầu tiên, cụ thể trong phần đầu cuốn Từ Điển Việt - Bồ - La A.D. Rhodes đã viết như sau:
   “Tuy nhiên trong công cuộc này, ngoài những điều mà tôi đã học được nhờ chính người bản xứ trong suốt gần mười hai năm, thời gian mà tôi lưu trú tại hai xứ Cô-sinh và Đông-kinh, thì ngay từ đầu tôi đã học với Cha Francisco de Pina người Bồ Đào, thuộc Hội Dòng Giê-su rất nhỏ bé chúng tôi, là thầy dạy tiếng, người thứ nhất trong chúng tôi rất am tường tiếng này, và cũng là người thứ nhất bắt đầu giảng thuyết bằng phương ngữ đó mà không dùng thông ngôn, tôi cũng sử dụng những công trình của nhiều Cha khác cùng một Hội Dòng, nhất là của Cha Gaspar de Amaral và Cha Antonio Barbosa, cả hai ông đều đã biên soạn mỗi ông một cuốn từ điển: ông trước bắt đầu bằng tiếng An Nam, ông sau bằng tiếng Bồ-Đào, nhưng cả hai ông đều đã chết sớm. Sử dụng công khó của hai ông, tôi còn thêm tiếng La Tinh theo lệnh các Hồng y rất đáng tôn...”. [5]
Qua những lời này chứng tỏ rằng A.D.Rhodes đã học tiếng Việt trực tiếp với người bản xứ và ba ông Francisco de Pina, Gaspar de Amaral và Antonio Barbosa; đồng thời ông học tiếng Việt gián tiếp thông qua hai cuốn từ điển của các giáo sĩ này, chính vì vậy mà ông có hai cuốn từ điển đó trong tay, từ đó ông mới viết cuốn Phép Giảng tám ngày. Có nghĩa là những kiến thức về chữ Việt Bồ mà ông dùng để viết cuốn Phép Giảng Tám Ngày là do ba giáo sĩ người Bồ và người bản xứ truyền lại. Cho nên nói về chữ Việt ký âm bằng mẫu tự La Tinh thời kỳ đầu là nói đến hai giáo sĩ Gaspar de Amaral và Antonio Barbosa và cuốn Từ điển Annam-Lusitan-Latinh, tức Từ điển Việt-Bồ-La. Ngay cả Francisco de Pina cũng không được chứ nói gì là A.D. Rhodes và cuốn Phép Giảng Tám Ngày như ta vẫn thấy ngày nay. Làm như thế khác nào cướp công của đồng đạo mình. Cho nên nếu cho A.D. Rhodes là cha đẻ chữ Việt Bồ còn chưa được huống gì là cha đẻ chữ Quốc ngữ, cùng lắm là cha ghẻ của chữ Việt Bồ thôi. Bởi vì nội hàm ngữ nghĩa của từ “cha đẻ” là cha với con phải cùng thời, từ chuyên môn là “đồng đại” (hiểu theo nghĩa đời người). Đau đẻ khi nào thì đẻ khi đó, chứ chết từ ba đời, tám kiếp rồi mà còn đẻ nỗi gì? Ngay cả con mình đẻ ra, tức mình là cha đẻ của nó, nhưng con của nó mà mình cứ đi rêu rao mình là cha đẻ của đứa bé ấy thì thiên hạ biết chắc “thằng này loạn luân” những người hiểu biết trên thế giới không ai chấp nhận đâu.
 
  III. SỰ LIÊN QUAN GIỮA CHỮ QUỐC NGỮ VÀ CHỮ VIỆT BỒ 
Theo lý mà nói nếu không có sự kiện các giáo sĩ phương tây ký âm tiếng Việt bằng mẫu tự La Tinh (chữ Việt Bồ) thì chữ Quốc Ngữ chưa đến sớm với người Việt như vậy. Tuy nhiên nói đến chữ Việt Bồ là nói đến cuốn Từ điển Việt-Bồ-La, với những gì trình bày trên, ta thấy từ điển, một việc làm có tính học thuật cao, mà còn như vậy nói gì cuốn Phép Giảng Tám Ngày, cuốn sách đứng hàng thứ ba sau hai cuốn từ điển nói trên. Có nghĩa rằng mối quan hệ giữa chữ quốc ngữ và chữ Việt Bồ là một mối quan hệ lỏng lẻo, tức là không phải mối quan hệ truyền thụ, kế thừa để từ đó phát triển thành một thành quả mới, mà nó chỉ là mối quan hệ có tính tình cờ của lịch sử giữa nhu cầu chữ viết của người Việt và nhu cầu truyền đạo của các giáo sĩ phương tây mà thôi. Nói cách khác đây là sự kiện một bên là vô tình, bên kia là hữu ý, tức là các giáo sĩ phương tây tự ký âm tiếng Việt để dùng trong việc truyền đạo, nhưng vô tình giới thiệu cho người Việt cách ký âm tiếng Việt bằng mẫu tự La Tinh.
Từ đó người Việt hữu ý, chủ tâm nắm bắt cơ hội, học hỏi rồi dần phát triển và hoàn thiện, kết quả là thành chữ quốc ngữ. Do đó những giáo sĩ phương tây nói chung, A.D. Rhodes nói riêng không có công gì trong việc hình thành và phát triển chữ quốc ngữ. Vì vậy chẳng có gì phải vinh danh và tri ân cả. Cũng như nếu không có người bán vé số để kiếm tiền, thì cũng không có người mua vé số để đánh bạc với số phận. Nhưng có ai thấy trong cuộc đời này người bán vé số lại đòi người trúng số vinh danh, tạc tượng để tri ân bao giờ chưa? Cùng lắm, nếu người trúng số tử tế, họ thưởng cho một phần nào đó mà thôi. Nếu người bán vé số mà cố đòi hỏi như vậy thì nhất định tên này có quan hệ mật thiết với bọn lưu manh, ăn cướp chứ không thể khác. Và trên thực tế, người Việt đã mua tấm vé số này quá đắt, nhưng họ đã tử tế tưởng thưởng cho người bán tấm vé số này bằng cách ghi nhận vào lịch sử rằng các giáo sĩ là những người ký âm tiếng Việt bằng mẫu tự La Tinh đầu tiên. Chỉ thế thôi chứ còn đòi gì nữa.

IV. ĐỪNG BIẾN MÌNH THÀNH KẺ VÔ ƠN.
Như vậy đã tri ân thì phải tri ân những người Việt, qua nhiều thế hệ, đã tận dụng hoàn cảnh, cơ hội để dày công tạo ra một công cụ ngôn ngữ đắc lực cho dân tộc mình, họ xứng đáng là những trang tuấn kiệt như người xưa đã nói “Thức thời vụ giả vi tuấn kiệt - 識時務者爲俊傑”. Tuy nhiên ngày nay rất nhiều người, với suy nghĩ rằng chữ Quốc ngữ là do A.D. Rhodes đẻ ra, vì vậy dân tộc Việt Nam phải vinh danh để tri ân ông ta cũng như các giáo sĩ phương tây, tất nhiên nơi cất giữ những vinh danh ấy là Giáo hội Thiên Chúa Việt Nam, họ muốn dùng cái vinh danh ấy để che đậy những vết thương loang lổ trên bức tranh lịch sử Việt Nam mà họ đã gây ra. Trong vấn đề này, bản chất của nó ngược lại với chuyện chữ Việt Bồ và chữ Quốc ngữ, có nghĩa là họ thì hữu ý, còn ta thì vô tình. Ta vô tình vì cứ dùng mãi từ chữ Quốc ngữ song hành cùng với tên A.D. Rhodes, họ tận dụng sự vô tình này để kết luận rằng chính ta thừa nhận chuyện đó, thế là họ hữu ý, chủ động đòi vinh danh, ai có ý kiến khác là họ lên mặt dạy đời “Đừng biến mình trở thành kẻ vô ơn”.

Cho nên hãy trả lại cho chữ Việt Bồ về đúng vị trí của nó trong lịch sử chữ viết của nước ta, đó là: “Chữ Việt Bồ là công cụ để truyền giáo của các giáo sĩ phương tây.”  Lịch sử truyền giáo chứng minh rằng, các giáo sĩ đi truyền giáo thực chất là đi tiền trạm để thăm dò, nắm tin tức, vẽ bản đồ làm cơ sở để quân đội liên minh với Vatican xâm lăng, do đó mọi việc làm của họ chỉ phục vụ cho mục đích duy nhất đó mà thôi, ngay cả cuốn Thánh Kinh, chứ nói gì hai cuốn Từ điển Việt – Bồ - LaPhép Giảng Tám Ngày.
Hãy nghe Giám mục Anh Giáo của Châu Phi  phát biểu khi nhận giải thưởng Nobel Hòa bình năm 1984 “Khi các giáo sĩ thừa sai (missionaries)[6]  đến Châu Phi, họ có Thánh Kinh và chúng tôi có đất đai, lãnh thổ. Họ bảo “Chúng ta hãy cùng cầu nguyện.” Chúng tôi nhắm mắt (cầu nguyện). Khi mở mắt ra, chúng tôi có Thánh Kinh còn họ có đất đai, lãnh thổ của chúng tôi.” Vì vậy người ta nói “Chữ Việt Bồ là công cụ để xâm lăng” là có cơ sở. Tuy nhiên trước đây khi nói câu này, người ta hay dùng từ chữ Quốc ngữ thay vì chữ Việt Bồ, khiến cho người đọc hiểu không chính xác, có nghĩa là chữ Việt Bồ là công cụ của các giáo sĩ phương tây, còn chữ Quốc ngữ là công cụ của người Việt. Cho nên cái liên hệ duy nhất đối với chữ Quốc ngữ với chữ Việt Bồ đó là người Việt đã tận dụng chất liệu này để chế tác, phát triển thành chữ quốc ngữ, hay ta có thể nói Chữ quốc ngữ là một chiến lợi phẩm đã được cải tiến từ chữ Việt Bồ mà người Việt đã thu được từ những kẻ xâm lăng”. Tuy nhiên chiến lợi phẩm ấy, chữ Việt Bồ, chỉ là một thanh sắt mà thôi, chính người Việt đã mài dũa thanh sắt này thành một con dao sắc bén để dùng vào những mục đích hữu ích cho dân tộc mình, ngay cả dùng nó để đánh đuổi những kẻ đã mang thanh sắt ấy đến, “Gậy ông đập lưng ông.”
Tất nhiên, những người đòi vinh danh A.D. Rhodes không chấp nhận thất bại đâu, bởi vì dù vô tình hay hữu ý thì chữ Quốc ngữ cũng bắt nguồn từ chữ Việt Bồ, đó là điều không cần phải tranh cãi, từ đó lại đòi hỏi phải biết ơn, đã biết ơn tất phải vinh danh với luận điệu “Uống nước nhớ nguồn”. Tuy nhiên họ cứ lập lại câu này một cách vô thức mà không biết rằng nguồn cũng có nguồn trong, nguồn đục, trong trường hợp này là chữ Việt Bồ, đây là cái nguồn duy nhất mà người Việt phải uống trong vấn đề chữ Quốc ngữ, nhưng ngặt nỗi cái nguồn nước này đậm đặc chất Asen, không uống trực tiếp được đâu, uống vào là không chết cũng thành tàn phế, cho nên phải biết ơn những người, bằng tấm lọc yêu nước, thương nòi, đã dày công lọc cái nguồn độc hại ấy thành nguồn nước trong lành “Chữ Quốc ngữ” cho họ dùng hằng ngày, vì vậy câu “Đừng biến mình trở thành kẻ vô ơn” nên áp dụng cho những kẻ sùng A.D. Rhodes và chữ Việt Bồ chứ không phải những người chống vinh danh ông ta.

Nhưng biết làm sao được, tráo trở và gian manh là thuộc tính của những người sùng A.D. Rhodes như chính con người ông ta. Chỉ mới đây thôi, GS. Nguyễn Đăng Hưng, Viện trưởng Viện Vinh Danh Chữ Quốc Ngữ (mới bị xóa tên) sang tận Iran để tôn vinh thầy mình. Tất nhiên thầy sao, trò vậy. Để tri ân thầy mình, A.D. Rhodes, ông làm hai tấm bia ghi bằng tiếng Anh, Pháp và Iran cho quốc tế biết tấm lòng của ông và những người theo ông, nhưng tiếng Anh thì ông ghi “A group of Vietnamese, devoting to honor “Chữ Quốc Ngữ” – Một nhóm người Việt, hiến dâng để tôn vinh “Chữ Quốc Ngữ” còn  tiếng Việt, ông ghi “Người Việt Nam vinh danh chữ Quốc ngữ” như thế không tráo trở và gian manh là gì? Không biết có cơ quan nhà nước nào cho phép ông đại diện cho dân tộc Việt Nam không? Tôi nghĩ là không.
Cũng với hai câu này, ông dùng cụm từ “Chữ Quốc Ngữ” như một đại danh xưng, ở đây là cái ông nằm dưới mộ đó, tức là A.D. Rhodes, trong khi đó ông đang là Viện trưởng Viện Vinh danh Chữ Quốc Ngữ, thế cũng có nghĩa là Viện Vinh danh A.D. Rhodes, như vậy ông đã dại dột lộ cho thấy cái gian manh khi đặt tên cái Viện mà ông đương chức, cho nên Đại học Duy Tân bỏ của chạy lấy người là phải thôi.


Không dừng lại đó, ông lại lôi cả Nhạc sĩ Phạm Duy vào, bằng cách cho hát bài Tình ca để cúng dường cho A.D. Rhodes, một bài hát ca ngợi tiếng nói của dân tộc rất cảm động, trong đó có đoạn:
“Tiếng nước tôi! Bốn ngàn năm ròng rã buồn vui
Khóc cười theo mệnh nước nổi trôi, nước ơi
Tiếng nước tôi! Tiếng mẹ sinh từ lúc nằm nôi
Thoắt nghìn năm thành tiếng lòng tôi, nước ơi...”
Với sở học của ông, hơn 40 năm lặn lội ở trời Tây, mà không hiểu được thế nào là “Tiếng” thế nào là “Chữ” sao? Nhất định ông hiểu, nhưng ông đã bị nhiễm cái gen di truyền khiến ông không thể làm khác, Nhạc sĩ Phạm Duy giờ đây đang hầu tổ tiên, chắc cũng giật mình mà đính chính “Không, tôi không làm bài đó cho kẻ nằm dưới mộ kia”. Chưa hết, ông lại sửa cả câu nói nổi tiếng của Học giả Phạm Quỳnh “Truyện Kiều còn, tiếng ta còn; Tiếng ta còn, nước ta còn. Có gì mà lo, có gì mà sợ, còn điều chi nữa mà ngờ”[7] thành “Chữ quốc ngữ còn, tiếng ta còn, nước Việt Nam còn”.
 
Ông có biết câu nói này xuất hiện vào hoàn cảnh nào không? Thưa ông, cụ Phạm Quỳnh đã nói câu này để cảnh báo tiếng Pháp sắp thay thế tiếng Việt vào lúc bấy giờ. Nhận xét về câu nói này, năm 2006, nhà văn Mạc Phi đã viết “Cần phải thấy rõ âm mưu hiểm độc của thực dân Pháp là làm cho thanh niên, học sinh, sinh viên, trí thức Việt Nam quên tiếng mẹ đẻ, sùng bái tiếng Pháp, sùng bái văn hóa Pháp, coi thường, thậm chí coi khinh di sản văn hóa Việt Nam...”[8] Nhận xét nầy không những đúng vào thời điểm Phạm Quỳnh phát biểu câu nói trên, mà còn ngay cả vào thời điểm này nữa, nó như căn bịnh mãn tính, đã di căn tới tận mọi ngõ ngách tâm hồn của một số người Việt, vì vậy cứ nói về chữ Quốc ngữ là họ cứ say sưa tung hô các ông Tây, bất chấp rất nhiều tiền nhân nước Việt, cả người dân lẫn chính phủ, đã bỏ ra không biết bao nhiêu công sức để hoàn thiện và truyền dạy cuối cùng mới thành chữ Quốc ngữ ngày nay. Thế đấy, một câu nói có tính chân lý như vậy, mà ông lại đem câu ấy sửa lại một cách tùy tiện để phục vụ cho âm mưu đen tối của mình, đây là một việc làm thiếu kính trọng với tiền nhân, một việc làm của những đứa trẻ con, không phải của người lớn, nhất là trí thức, thế mà còn khắc vào bia đá để lưu danh muôn thuở nữa, lưu phương hay lưu xú đây?
Không phải bỗng dưng mà Học giả Phạm Quỳnh nói như thế đâu, mà bởi vì ông là chứng nhân lịch sử trong giai đoạn thực dân Pháp muốn Pháp hóa tiếng Việt, nhưng cá nhân ông ta bất lực nên mới thốt lên câu ấy. Phạm Quỳnh bất lực nhưng Hồ Chí Minh thì không, chỉ trong một thời gian ngắn, với chính sách “Diệt giặc dốt” chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, đứng đầu là chủ tịch Hồ Chí Minh, đã vô hiệu hóa chính sách Pháp hóa tiếng Việt mà người Pháp đã ôm ấp trong suốt 80 năm đô hộ, để rồi sau đó tống cổ chúng ra khỏi bờ cõi, để tiếng Việt vẫn là giai điệu ngọt ngào pha lẫn buồn vui theo nỗi thăng trầm của đất nước, như Tình ca của Phạm Duy đã thể hiện cho đến ngày nay. Việc này tôi đã trình bày đầy đủ trong bài Sự ghi nhận và lòng biết ơn tôi nghĩ ông nên đọc để biết thế nào là khí phách Việt.

Với những việc làm trên nhất định A.D. Rhodes nằm dưới mộ cũng hết sức hài lòng, bởi vì các ông đã kế thừa một cách hoàn hảo sự tráo trở và gian trá mà ông ta và các cố đạo đã dày công đào tạo, trao truyền. Tuy nhiên, tục ngữ Việt Nam có câu “Con hơn cha là nhà có phúc”, có nghĩa rằng ngoài cái tố chất tráo trở và gian trá mà ông Viện trưởng đã kế thừa từ bậc thầy vĩ đại của mình, ông còn hơn A.D. Rhodes mấy bậc khi tuyên bố “Tôi là người LƯƠNG”. Đây là một chiêu tuyệt đại thượng thừa, một kiểu lưu manh siêu hạng, nếu ở tấm bia ông ghi “người Việt Nam” chung chung, thì giờ đây ông đã cụ thể hóa bằng từ “người Lương” có nghĩa là tuyệt đại người Việt, Lương hay Giáo (khỏi cần kể) cũng đều cúi đầu trước A.D. Rhodes mà thôi. Viết đến đây tôi chợt nhớ ra chuyện tử hình những năm xưa, sau khi nhận hàng loạt phát súng vào người, nếu tử tù chưa chết, người ta khuyến mãi thêm một phát cuối cùng để kết liểu, hành động này gọi là “phát súng ân huệ”. Cái câu “tôi là người Lương” của ông xem ra có khác gì cái “ân huệ” ấy đâu.
Tuy nhiên, tôi nghĩ ông là người Việt, chảy trong ông vẫn là dòng máu của tổ tiên, hơn nữa ông lại là người có học, tôi mong ông hãy hồi tâm, đừng tiếp tay cho những kẻ đã cướp nước Việt nữa, bởi vì không cướp được nước thì họ lại bày mưu, tính kế cướp văn hóa, cụ thể là chữ Quốc ngữ, cái thành quả văn hóa mà ông đã đem dâng cho một tên tội đồ của dân tộc Việt Nam đang yên nghỉ tại Iran. Ngược lại ông và những người cùng chí hướng với ông nên tri ân các tiền nhân nước Việt đã vận dụng tinh thần tùy duyên, biến một nguồn nước độc hại thành giòng nước trong lành cho người Việt, trong đó có ông và dòng họ tắm mát bấy lâu nay. Đồng thời qua đó nhận thức rằng để có được một đất nước với những mùa xuân đầy hoa trái hôm nay, có máu xương của biết bao nhiêu con người đã đổ xuống mà không một lời than thở, đòi hỏi gì như ông, như Thiền sư Huyền Quang đã viết một cách nhẹ nhàng trong bài thơ:
                  Xuân nhật tức sự.
二八佳人刺繡持      Nhị bát giai nhân thích tú trì,
紫荊花下轉黃鸝     Tử kinh hoa hạ chuyển hoàng ly.
可憐無限傷春意     Khả lân vô hạn thương xuân ý,
盡在停針不語時.     Tận tại đình châm bất ngữ thì.
Ngày xuân tâm sự
Chầm chậm nàng xuân dệt gấm hoa,
Hoàng li hót dưới tử kinh nhà.
Nỗi lòng xuân đó sao thương quá!
Dâng hết xuân thì chẳng nói ra.

Vâng! Đã có biết bao nhiêu con người vì sự tồn vong của dân tộc, sự tha hóa của giống nòi, vì nền độc lập của đất nước và hạnh phúc của nhân dân mà hy sinh tuổi thanh xuân của mình để làm nên những trang sử hào hùng mà không một lời đòi hỏi, cũng như mùa xuân đã vì nhân thế mà hiến dâng hết nhựa sống của mình, làm nên những đóa hoa tươi thắm tô đẹp cuộc đời cho đến khi tàn tạ mà chẳng một lời thở than. Vì vậy những ai đang hưởng thụ một nền độc lập với bao mùa xuân tươi đẹp trên quê hương, đất nước thân yêu nầy “Đừng biến mình trở thành kẻ vô ơn”.

V. KẾT.
Lịch sử của dân tộc ta mấy trăm năm qua là một lịch sử của sự chia cắt, chia rẻ và hận thù, cho nên khát vọng lớn nhất của người Việt mấy trăm năm qua là làm sao thống nhất được giang sơn, đất nước, làm cơ sở cho sự đoàn kết dân tộc để cùng nhau xây dựng đất nước hùng cường, ngỏ hầu đền đáp công ơn của tổ tiên và sự hy sinh của biết bao tiền nhân, những người có tên và không tên đã xây đắp nên quê hương, đất nước này.
Cũng vì hoài bảo này mà dân tộc Việt Nam, vốn sinh ra trong một nền văn hóa đầy lòng nhân ái và bao dung, cố quên đi những đau thương do các thế lực ngoại bang, kể cả những thế lực trong nước gây ra. Tuy nhiên xem ra tinh thần bao dung và nhân ái đó đã không đủ sức thuyết phục được những con người đã bán linh hồn mình cho quỷ dữ, họ vẫn nuôi mộng biến nước Việt thành một đứa con lai của theo nghĩa hiện đại nhất.

Theo thời gian lòng nhân ái và sự bao dung không được nuôi dưỡng đúng cách, nó bắt đầu biến chất trở thành ba phải, từ đó cứ nào là phải “thoáng” và hãy “bỏ qua” nếu không “thế thì dở quá” phản ứng mạnh thì “có gì mà ầm ỉ”, người sống xem ra muốn thất thủ, nhưng người chết cũng không được yên thân, được nước lấn tới, lại phong cho những kẻ cướp nước, hại dân cái tước hiệu “các bậc tiên hiền” với cái vị trí này thì xem ra trong lịch sử nước nhà còn có ai xứng để dám ngồi chung chiếu với họ, nhất là các vị “Khổng, Lão, Thích và Tổ tiên nước Việt” thì nhất định khó mà tiếp cận, nếu không lo tránh xa thì biết đâu lại rước họa vào thân, bởi vì lần này không cần phải dùng dao chém đâu mà là bằng hỏa tiển, được sản xuất hợp pháp nội địa, cả tầm gần lẫn tầm xa. Tất nhiên, những thứ đó không phải là những khúc củi mục trôi lềnh bềnh trên giòng sông mạng, mà nó là sản phẩm được đánh bóng bằng loại dầu bóng thượng hạng “lobby” chắc phải thêm một chút gia vị “money” cho đậm màu dân tộc, có như thế mới được đem trưng bày ở các cửa hiệu cơ quan ngôn luận chính thống báo nọ, chí kia.

Vâng, quá khứ đau thương của dân tộc chỉ là những thước phim quay thử, để cho các đạo diễn tài ba ngày nay, cắt chổ nọ, dán chổ kia, xây tượng đài cho các “bậc tiên hiền” bằng máu xương của những người dại dột, dám xem đất nước mình quý hơn mấy chữ a, bê, cê. Xin download vài bài gởi theo đám mây hương đến với các nghĩa quân Ba Đình, xin quý vị đọc cho khuây khỏa trong lúc chờ đợi đại ân nhân Pháp tặng cho vài viên đạn hay vài nhát dao (học bài của A.D. Rhodes) để về nơi an nghỉ cuối cùng, để thấy rằng họ khôn ngoan, sâu sắc biết nhường nào, còn các ông thật là quá quê mùa, nông cạn. Xin chắp tay, cúi đầu tạ lỗi với quý vị ./.

Các nam nghĩa quân Ba Đình
P/S.
Thưa quý thức giả.
Từ lâu, những người nghiên cứu chữ Quốc ngữ thường sử dụng cụm từ “chữ Quốc ngữ” cho chữ Việt kí âm bằng mẩu tự La Tinh đầu tiên của các giáo sĩ phương tây, người đại diện là A.D. Rhodes. Theo tôi đây là một cách dùng từ không thích hợp, bởi vì một mặt chúng ta dùng từ “chữ Quốc ngữ” cho chữ của A.D. Rhodes, mặt khác lại ra sức chứng minh rằng đó không phải là chữ Quốc ngữ hiện nay bằng những lí luận hết sức hàn lâm. Điều này khiến cho công chúng, nhất là giới trẻ không phân biệt được thế nào là chữ Quốc ngữ của các giáo sĩ và chữ Quốc ngữ hiện nay, từ đó họ cho rằng (và họ có lí) chữ ấy là chữ Quốc ngữ. Chính các vị nói đấy thôi, cho nên tri ân là phải chứ biện luận quanh co cũng chỉ là ngụy biện mà thôi. Đây là một việc “Thả gà ra bắt” tự mình làm khó mình.
Chính vì vậy khi nói “Chữ Quốc ngữ là công cụ để xâm lăng” nó gây ra dị ứng, vì cả nước đang sử dụng chữ Quốc ngữ mà nói như vậy thì làm sao thuyết phục họ được.
Đáng lý ra ta nên nói “Chữ Việt Bồ là công cụ để xâm lăng” còn“Chữ Quốc ngữ là công cụ để chống xâm lăng”, tức là gậy ông đập lưng ông.

Cho nên để cho phần đông giới trẻ dễ phân biệt, tránh nhập nhèm, tôi đề nghị chúng ta nên sử dụng một từ cụ thể cho loại chữ của các giáo sĩ, trong bài tôi dùng từ “chữ Việt Bồ”, còn quý vị dùng như thế nào là tùy nhưng cần phải tách bạch.
Quần chúng, nhất là tuổi trẻ, họ có quá nhiều thứ để phải học, vì vậy không có thì giờ đâu mà nghe những lí luận hàn lâm, nhưng họ là những chủ nhân của đất nước sau này, do đó mong quý vị hãy quan tâm. Đường dẫn sau đây là một minh họa chứng minh cho việc này.
Cám ơn quý vị đã đọc lời đề nghị này.
____________________
Tham khảo:
[1] Theo Marcucci, Matthew A. (2009). Trong cuốn “Rendering Sinograms Obsolete: Vietnamese Script Reform and the Future of Chinese Characters”
[3] Từ điển Việt-Bồ-La, Nxb KHXH, 1991, phần phiên dịch, tr.1
[4] Sdd, tr.5
[5] Sdd, tr.3
[6] Từ missionaries, có nghĩa là các Giáo sĩ hay Thừa sai, nhưng hầu hết các trang mạng và sách vở ngày nay đều dịch từ này trong đoạn phát biểu của Giám mục Desmond Tutu là “người da trắng”. Qua đây ta thấy bàn tây lông lá của những kẻ sùng Tây thò đến khắp nơi, từ nào bất lợi cho Thiên Chúa giáo là họ dịch lươn lẹo, cũng như ông Nguyễn Đình Đầu và Linh mục Hồng Nhuệ Nguyễn Khắc Xuyên chú thích một cách tùy tiện cụm từ “Plusieurs soldats” là “chiến sĩ Phúc âm, tức là các nhà truyền giáo, chứ không phải binh sĩ đi chiếm cứ xâm lăng”. Thế đấy “Soldats – Các lính chiến” thì dịch là Missionaries – Các giáo sĩ thừa sai, còn “Missionaries – Các giáo sĩ thừa sai” thì dịch thành Người da trắng.
[7] Tạp chí Nam Phong, số 86 (năm 1924)
[8] Phạm Quỳnh và bản án tử hình đối với ông, Mạc Phi. Tạp chí Xưa và Nay số 269 (10/2006)

Viên Như
Nguồn: tác giả gửi
_________________
Bài đọc thêm:


Chủ Nhật, 22 tháng 12, 2019


CHỮ QUỐC NGỮ, TIẾNG VIỆT NAM,
VÀ TU SĨ ALEXANDRE DE RHODES

Mai Kim Ngọc / Việt Báo
Cô sinh viên Ba Tây và tác giả phát âm tiếng Việt dễ dàng,  thoải mái với mấy mấy nguyên âm đủ sắc huyền hỏi ngã nặng. 

Lời tòa soạn: Gần đây, nhiều ý kiến, tranh cãi gay gắt về vai trò và công trạng sáng lập chữ quốc ngữ, đặc biệt xung quanh nhà truyền giáo người Bồ Đào Nha Alexandre de Rhodes. Việt Báo xin trích đăng lại bài viết của tác giả Mai Kim Ngọc trong mục VVNM năm 2013, bài viết là một tham khảo kỹ lưỡng về chữ quốc ngữ và vai trò của Alexandre de Rhodes, và tác giả đề cập đến sự “vô phép” trong Phép Giảng Ngày khi người tu sĩ Đắc Lộ này nói về Tam Giáo của nước chủ nhà.

*
Đại hội 48-55 năm nay các bạn đồng khoá giao cho tôi công việc nhẹ nhàng gần như tượng trưng. Đó là đọc và nhặt lỗi chính tả những bài gửi đến. Vậy mà tôi chưa đọc được một bài, vì một vấn đề nguyên tắc: lấy tiêu chuẩn gì mà sửa chính tả của bạn bè.
Khi viết lách tôi thường dùng những từ điển Việt ngữ phổ thông. Nhưng hiệu đính chính tả người khác, tôi phải cẩn thận hơn. Tôi tự hỏi các từ điển tôi thường dùng căn cứ vào đâu mà xác định cách đánh vần. Tìm kiếm thêm chút nữa, tôi khám phá ra là những sách tôi có đều không xuất xứ. Như một thứ tác phẩm mồ côi, chúng không dựa vào thẩm quyền nào khi chọn lựa chính tả.
Mơ màng đi ngược dòng thời gian, tôi nghĩ đến cuốn từ điển đầu tiên ngày xưa thầy giáo nhắc tới. Đó là cuốn Dictionarium Annamiticum Lusitanum et Latinum (DALeL) do tu sĩ dòng tên Alexandre de Rhodes in tại Roma năm 1650, cùng với cuốn 'Phép Giảng Tám Ngày ...' của ông.
Mong ước cầm được trong tay cuốn sách hiếm của Rhodes là chuyện viển vông. Cuốn DALeL xuất bản hơn 300 năm trước tại Roma không tái bản lần nào, một vài bản có còn tồn tại chắc được các viện bảo tàng cất kỹ trong lồng kính. Để tự an ủi, tôi nghĩ thầm dù có được cuốn sánh cổ trong tay, chưa chắc nội dung đã phù hợp với tiếng Việt bây giờ.
Cứ như vậy, tôi sinh hoạt trong nghề văn với chính tả có độ chuẩn tương đối, định bụng một ngày nào rảnh rang sẽ bỏ công ra tra cứu vấn đề đến tận ngọn nguồn. Nấn ná suốt bảy năm trung học tôi đã không có dịp thi hành ý định. Rồi bảy năm y khoa tiếp nối, tôi vẫn viết lách với chính tả tương đối của mình. Hai năm trung úy quân y trưng dụng quá bận rộn vì y khoa cấp cứu thời chiến, tôi cũng không làm được gì cho mối tư lự chính tả bấy lâu trăn trở.

*

Khi về hưu tuởng đã quên, nhưng một sự việc nhỏ nhặt vô tình nhắc lại chuyện cũ, nhân một hôm đi nghe đoàn nghệ sĩ của Rio de Janeiro trình diễn dân ca Ba Tây tại hí viện ngoài trời Hollywood Bowl. Không hiểu lời, nhưng tôi thú vị tức thì với âm hưởng tiếng Bồ Đào Nha được nghe lần đầu.
Tôi đã đọc đâu đấy rằng tiếng Bồ của Ba Tây rất chuẩn so với chính quốc. Lý do là Ba Tây không là một thuộc địa như các thuộc địa khác, mà có thời đã là trụ sở chính của vương quốc Bồ. Khi Napoléon chinh phục hết nước này đến nước khác tại Âu châu, vua Bồ thấy bất an đã đưa cả hoàng gia và triều đình sang đóng đô tại Rio. Napoléon sau cùng thất trận đi đày nơi hải đảo, vua Bồ trở về ngai vàng chính quốc nhưng để con trai lại thay vua trị vì Ba Tây... Có lẽ do đó Ba Tây có ngôn ngữ không những rất chuẩn, mà âm hưởng lại có gì vương giả.

Trở lại buổi đi xem trình diễn dân ca Ba Tây tại Hollywood Bowl. Lúc tôi thiu thiu với cơn gió đêm mát rượi của hí viện ngoài trời, một hiện tượng như mơ như thực xảy ra. Tôi vẫn không hiểu tiếng Bồ, nhưng trong lúc mơ màng bỗng thấy nhạc Bồ có gì gần gũi. Rồi có lúc tôi cảm thấy như nghe được tiếng Việt xen kẽ giữa những lời ca ngoại quốc. Trong tâm thức một đoàn âm thanh quen thuộc kéo về. Chúng gồm những phụ âm kép mà tôi vẫn nghĩ chỉ tiếng Việt mới có, như NG hay TH ở đầu hay cuối một số từ. Rồi một lũ nguyên âm trầm bổng với đủ năm dấu sắc huyền hỏi ngã nặng kéo theo. Nửa thú vị nửa ngỡ ngàng, tôi như người lữ khách một chuyến du lịch nơi xa lại gặp một đoàn trẻ con trong họ chạy tới vây quanh.
Cuộc sống bận rộn lại làm tôi quên vụ nhạc Bồ có âm hưởng Việt, cũng như ý định giải quyết mối thắc mắc kinh niên về chính tả. Nhưng không quên hẳn được, vì hai năm sau tôi có dịp đi du lịch Ba Tây. Tôi may mắn vì ngoài anh hướng dẫn viên chính thức lại có cô sinh viên sắp tốt nghiệp khoa du lịch xin đi theo tập sự. Cô bé sõi tiếng Anh, nhưng nói tiếng Bồ khi trao đổi với bác tài xế cũng là người địa phương.

Nghe ngôn ngữ líu lo của họ, tôi lại bắt được những nguyên âm và phụ âm quen thuộc cùng với năm dấu sắc huyền hỏi ngã nặng của tiếng mẹ đẻ. Tha hương, âm hưởng Việt Nam bất ngờ trong tiếng nói Ba Tây nghe ngọt như cam và mát như cơn mưa giữa trưa hè. Cảm giác đẹp như câu thơ cổ lớp Hán tự ngày xưa:
          Đại hạn phùng cam vũ,
          Tha hương ngộ cố tri.
Du lịch tại Nam Bán Cầu mà tôi thấy gần gũi với cảnh với người, cô sinh viên viên Ba Tây bỗng giống con cháu gái gọi tôi bằng ông.
Tôi nghĩ hòan cảnh thuận lợi để tìm hiểu tại sao tiếng Bồ nghe giống tiếng Việt. Tôi viết ra giấy chữ NGA bắt cô gái đọc, hy vọng cô sẽ không đọc thành NHA như những người Pháp hay Mỹ. Cô không phạm phải lỗi phát âm ấy, chỉ thoáng ngạc nhiên là tại sao lại bị trắc nghiệm. Tôi lại bắt cô đọc NGA NGỦ NGON, mệnh đề ba chữ đã vặn lưỡi vô số người ngoại quốc. Cô đọc vẫn chuẩn. Không có vụ NHA NHỦ NHON như đám bạn người nước ngoài của tôi... Tôi đố thêm vài phụ âm nữa nhưng đặt ở đuôi của từ, như manG và manH, hay thanG và thanH xem cô gái có phân biệt được mang với manh hay thang với thanh không. Cô gái không gặp khó khăn gì. Cô còn thoải mái với mấy nguyên âm có bỏ đủ dấu sắc huyền hỏi ngã nặng.

Cảm giác vô lý có bà con ruột thịt với cô sinh viên Ba Tây làm tôi vui như tự nhiên được thêm đứa cháu gái. Đồng thời tôi nhớ đã đọc đâu đó rằng mẫu tự Quốc ngữ là do các tu sĩ Dòng Tên soạn ra từ mẫu tự Bồ khi họ phiên âm chữ Nôm. Hèn chi cô gái đã thoải mái đọc được mấy từ và khóm từ Việt tôi đem ra đố. Thật là một sự tình cờ lý thú, thanh quản Ba Tây và mẫu tự Việt tình cờ lại khao khít với nhau và ngược lại. Thật là hú vía. Nếu bị phiên âm với một mẫu tự khác như Pháp hay Nga hay Anh chẳng hạn, không biết tiếng Việt bây giờ sẽ ngọng nghịu như thế nào.
Tôi quyết định bỏ thời gian tra cứu vụ này. Bớt một số giờ vãn cảnh, tôi tìm đọc trên liên mạng những đề tài liên quan đến Việt ngữ xưa và nay. Tôi tìm hiểu các tu sĩ dòng Tên Lisbonne hà cớ gì sang tận Việt Nam trên ba trăm năm trước để sáng chế ra lối viết mới. Tại sao số từ họ phiên âm ba bốn thế kỷ trước đã ngưng lại tại mức 8000. Từ cuốn DALeL của Alexandre de Rhodes cho đến cuối thế kỷ XIX khi được thực dân mang ra xử dụng, không thấy một cuốn từ điển mới của nhà Dòng với nhiều từ hơn. Và tôi cũng tò mò về một tu sĩ đặc biệt làm việc trong nhà Dòng Hà Nội thế kỷ 17 là ALexandre de Rhodes.

Pháp đánh giá công lao của Rhodes rất cao trong việc phiên âm chữ Nôm ra tiếng La-tanh, và những lời khen lao họ dành cho ông có vấn đề lạm phát trầm trọng. Không những người Pháp mà một số không nhỏ người Việt thời Bảo hộ cũng cực kỳ quý trọng ông.
Mặt khác, ngay thủa sinh thời ông lại bị hai người Việt Nam quý tộc đánh giá rất thấp và xếp vào thành phần bất hảo. Đó là chúa Trịnh của xứ Đằng Ngoài và chúa Nguyễn của xứ Đằng Trong. Người thì trục xuất người thì hạ ngục Rhodes, thậm chí phán cho đương sự cái án tử hình... Sau bao nhiêu bôn ba để xin về lại Việt Nam, Rhodes sau cùng bị bề trên đổi sang Iran, và qua đời ở đấy. Hai thập niên sau cùng, ông chưa chết mà đã bị lãng quên. Cứ thế tên tuổi ông cũng như hai cuốn sách về tiếng An Nam do ông trước tác không ai nhắc tới suốt 300 năm lẻ.
Bất ngờ vì nhu cầu chính trị, thực dân Pháp đem Alexandre de Rhodes ra suy tôn như một thần tượng, thậm chí một vị thánh văn hoá cho dân thuộc địa. Những dữ kiện thu được nhờ một tối lang thang trên mạng, làm tôi hăng hái truy lùng thêm những tài liệu về tiếng An Nam của các tu sĩ Bồ và Việt ngữ của chúng ta. Kết quả là một câu chuyện hy vọng có đầu có đuôi khá nhiều tình tiết ly kỳ đáng ghi lại để mua vui cho các bạn đồng khoá.

Tiếng An Nam, thủa trứng nước


Từ đầu thế kỷ 17 hay sớm hơn nữa, những tu sĩ Dòng Tên tại nhà dòng Hà Nội bắt đầu phiên âm chữ Nôm bằng mẫu tự Bồ. Tôi không nghĩ các tu sĩ bấy giờ có phương tiện như phòng vi âm các đài phát thanh hay phòng thí nghiệm thính giác của các đại học ngữ học bây giờ. Tôi đoán phương cách làm việc của họ đại khái như sau. Họ nhờ một người thông ngôn lanh lợi chọn trong đám nhân viên Việt của nhà Dòng đọc những từ chữ Nôm (văn tự chính thống bấy giờ). Tu sĩ lắng nghe nhiều lần cho đến khi thật quen tai thì phiên âm bằng mẫu tự Bồ và ghi ra giấy. Từng từng chữ từng chữ một, tu sĩ và người phụ tá bản xứ hoàn tất một văn tự mới gọi là chữ An Nam, như tên gọi trong cuốn tự vị Việt Bồ La Dictionarium Annamiticum Lusitanum et Latinum (DALeL) của Alexandre de Rhodes. Mớ ngữ vựng hoàn tất được mỗi lúc một nhiều, chẳng mấy chốc đủ dùng trong sinh hoạt hàng ngày của nhà Dòng như sai bảo người làm, luyện tiếng Việt cấp tốc (kiểu phrase book) cho các tu sĩ tân nhiệm từ Lisbonne mới qua, hay dậy giáo lý căn bản cho kẻ tân tòng bản xứ đang chuẩn bị rửa tội...
Từ điển DALeL của Alexandre de Rhodes sưu tập được khoảng 8000 từ. Con số này chắc bao gồm cả những từ đã phiên âm của hai cuốn từ điển có trước soạn bởi các sư huynh của Rhodes là Antonio Barbosa và Gaspar do Amaral. Danh từ An nam hay An nam mít xuất hiện từ đây, mới đầu chỉ để chỉ thứ văn tự mới, có lẽ đến thời Pháp thuộc cuối thế kỷ XIX mới có nghĩa coi rẻ coi thường.

Trừ hai cuốn sách của Rhodes, toàn bộ tài liệu liên quan đến tiếng An Nam của các tu sĩ Bồ bị thất lạc. Mất mát quan trọng là hai cuốn từ điển của Antonio Barbosa và Gaspar do Amaral. Không những ấn bản không còn, mà tất cả những bản nháp, bản thảo cũng không sót lại một tờ. Mất mát quan trọng không kém là văn khố của nhà dòng Bồ hơn ba thế kỷ sinh hoạt, gồm những tài liệu giảng huấn, những bài vở của các học viên, những bài giảng của các giáo viên... Sau cùng, người ta cũng không tìm được một tài liệu gì về công trình của tu sĩ bề trên Francisco de Pina, người đã vỡ lòng tiếng Việt cho Rhodes khi đương sự mới từ Lisbonne sang nhậm chức...
Sự mất mát xảy ra bao giờ, không ai biết rõ. Ta có thể võ đoán là chuyện đó không xảy ra trong 300 năm đầu khi nhà dòng Bồ tại Hà Nội do giáo hội Bồ quản trị. Người Bồ không lơ là với tài sản văn hoá của người Bồ. Nhưng khoảng trăm năm cận sử, Bồ bàn giao cho Pháp nhà Dòng Hà Nội cùng những cơ sở tôn giáo khác tại Việt Nam. Sự mất mát có thể xảy ra vào khoảng thời gian này. Phải đây là do chiến tranh loạn lạc liên miên, hay còn phản ánh nhiều lý do khác về chính trị, hành chánh, quản trị, hay kỳ thị và ganh tỵ giữa Bồ và Pháp.


Giáo sĩ Alexandre de Rhodes


Huyền Thoại Alexandre de Rhodes


Dù vì nguyên do gì, sự thất lạc những tài liệu tiền phong về việc soạn từ điển tiếng An Nam làm Rhodes trở thành người có tác phẩm xưa nhất trong lãnh vực. Dựa vào chi tiết này và nhiều ý đồ khác, người Pháp gọi ông là cha đẻ của Quốc ngữ (Le Père du Quốc Ngữ).
Sự vinh danh tất nhiên quá đáng, vì Rhodes không phải là người sáng chế ra lối viết mới. Khi ông tới Hà Nội thì bề trên Francisco de Pina và các sư huynh của ông đã khởi xướng việc này từ lâu. Ông cũng không phải là người độc nhất đã đánh vần số 8000 từ trong từ điển của ông. Như đã nói, trước ông đã có từ hai cuốn từ điển Việt Bồ, một của Antonio Barbosa và một của Gaspar do Amaral. Chỉ tiếc là Rhodes không ghi xuất xứ những từ ông sưu tập và bỏ vào Dictionarium Annamiticum Lusitanum et Latinum (DALeL), nên hiện tại không biết bao nhiêu là công ông, bao nhiêu là công của người đi trước.

Tiểu sử của Rhodes cũng phức tạp và mơ hồ như sự nghiệp của ông. Ông sinh năm 1593 tại Avignon, và theo học chủng viện Dòng Tên Lisbonne. Tốt nghiệp, ông được cử sang xứ Đằng Ngoài của chúa Trịnh năm 1620 khi mới 27 tuổi. Như đã nói, tu sĩ trẻ tân nhiệm Rhodes được học tiếng Việt với bề trên là Francisco de Pina. Bốn năm sau với vốn ngôn ngữ ấy, ông vào truyền giáo tại xứ Đằng Trong của Chúa Nguyễn. Được hai năm, ông lại trở ra xứ Đằng Ngoài.
Sự cố quan trọng đầu tiên trong nghiệp vụ truyền giáo đến với Rhodes khi Chúa Trịnh trục xuất ông (1630). Về Macao, ông xoay xở vận động với giáo hội và 10 năm sau ông lại được sang Việt Nam (1640). Không về được Hà Nội vì cái án trục xuất vẫn còn đấy, ông vào Đằng Trong truyền giáo. Ở đây ông cũng đụng chạm với luật pháp địa phương. Năm 1645, chúa Nguyễn hạ ngục ông rồi kết án tử hình. Ông thoát chết trong đường tơ kẽ tóc. Tội chết được chúa ân xá vào phút chót, nhưng án trục xuất vẫn áp dụng.

Bị cả hai miền Nam Bắc lần lượt đuổi đi, ông về lại Âu Châu. Mười năm ở đấy, ông năng nổ tìm cách thỉnh cầu Lisbonne và Roma yểm trợ tài nguyên cho ông trở lại Việt Nam. Thời gian này ông mang tiếng khoác lác về bản thân, khoe con số 6000 tân tòng ông đã tự tay rửa tội. Ông cũng khoác lác trình bày Việt Nam như một vùng đất giàu có ngoan đạo và đông đúc giáo dân. Có lẽ vì Rhodes thiếu trung thực trong những báo cáo trên nên cuộc vận động của ông đã thất bại. Ông bỏ Roma và Lisbonne để sang Pháp vận động với vua Pháp về việc thành lập hội truyền giáo Paris cho giáo hội Pháp.[MEP: Société des Missions Étrangères de Paris - hoangnamgiao) Không biết sợi rơm nào đã bẻ gẫy lưng con lạc đà, bề trên tại Lisbonne sau cùng thuyên chuyển ông sang Teheran. Từ đó về sau người ta không nghe nói ông vận động gì thêm để về lại Việt Nam. Ông qua đời năm 1660, hưởng thọ được 69 tuổi.
Cuộc sống của giáo sĩ Rhodes tại Việt Nam đầy sự cố không phải không có lý do. Tu sĩ trong khi truyền giáo tìm cách thân thiện với cả hai miền Nam Bắc đang thù nghịch nhau. Dưới góc nhìn của các chúa Trịnh và Nguyễn, có thể họ cho ông là người bất hảo và trí trá. Với các nhân vật quan trọng của Âu châu, ông xem ra cũng không trung thành với ai. Để thuyết phục Roma và Lisbonne yểm trợ ý đồ trở lại Việt Nam của mình, ông đã không ngần ngại tô điểm thành tích bản thân cũng phóng đại sự trù phú của Việt Nam. Khi không toại nguyện, ông cũng không ngần ngại chạy sang Paris khuyên vua Pháp nên thiết lập Hội Truyền Giáo Pháp để sớm xử lý mục vụ Viễn Đông trước các cuờng quốc khác. Tuy nhiên chưa kịp nhận phẩm hàm gì của vua Pháp, ông bị giáo hội Lisbonne đổi sang nhà dòng Ba Tư.


Phép Giảng Tám Ngày.

Tác phẩm Phép Giảng Tám Ngày, cũng có thể là nguồn gốc của những vấn nạn đã xảy đến cho ông tại Việt Nam. Nói chung, người Việt chúng ta vua quan cũng như dân chúng coi trọng tôn giáo người khác. Chúng ta tin rằng từ bi là đức hạnh của mọi tôn giáo, và không có gì bất đồng với giáo lý đạo Ky Tô. Vậy mà ngoài các chương giáo lý cổ điển, Alexandre de Rhodes sáng tác thêm chương Bốn với tựa là 'Những Đạo Vạy' để miệt thị Phật Lão Nho cũng như mỹ tục thờ cúng tổ tiên. Lời lẽ khá thô lỗ, có chỗ ông gọi Phật là thằng Thích Ca... (coi phụ lục).  Ông đã dùng tài liệu 'Phép Giảng Tám Ngày' để rửa tội cho vô số tân tòng. Nội dung Chương Bốn, Những Đạo Vạy không còn bí mật với ai. Tai vách mạch rừng, thái độ miệt thị ông dành cho tôn giáo chủ nhà chắc đã đến tai nhà chức trách. Phải chăng đây là lý do trực tiếp làm hai lần ông bị trục xuất, và một lần bị hạ ngục với án tử hình. Nhìn theo cái nhìn dài, Rhodes coi rẻ văn hoá và tín ngưỡng Việt Nam đã làm hại đạo Thiên Chúa không ít, tạo chia rẽ Lương Giáo, và gây khó khăn cho những tu sĩ đến sau. Tôi có nhiều bạn thân theo đạo Thiên Chúa mà chưa thấy ai có kiến thức giới hạn về tôn giáo Á Đông như Rhodes. Tôi cũng chưa thấy ai đối đãi thô bạo với cốt lõi của văn hoá Việt Nam như khi ông bàn về Tam Giáo...

Hiếu động như vậy mà sinh thời Alexandre de Rhodes không đạt được vinh hoa gì đáng kể. Cuối cùng ông chết âm thầm tại Iran. Sự nghiệp ông tượng trưng bằng hai cuốn sách liên hệ đến tiếng An Nam cũng không thành công bao nhiêu. Âu châu vào thời ông quá bận tâm với những vấn đề quan trọng để lưu ý đến một chức sắc cấp trung hay cấp thấp, với hai tác phẩm ích lợi giới hạn cho người Bồ giảng đạo tại Việt Nam. Ở Hà Nội, sách của Rhodes cũng không hữu dụng. Nhà Dòng đã đầy đủ chuyên viên để phiên âm tiếng địa phương theo vần mẫu tự Bồ. Sự thật là chính Rhodes còn phải đi học tiếng Việt với các sư huynh và sư phụ của ông tại đây. Ngoại trừ những bản làm quà tặng cho bè bạn và bề trên cũ, sách ông mang về nhà Dòng Hà Nội khác gì chở củi về rừng.

Bên trong giáo đường đã vậy, bên ngoài giáo đường tác giả cũng như tác phẩm kể như không ai biết đến. Người Việt Nam từ văn nhân thi sĩ đến vua chúa quan lại, mọi người thoả mãn với hai tiếng Hán và Nôm. Giấy tờ hành chánh dùng Hán tự, còn toàn bộ những sinh hoạt khác đều dùng chữ Nôm. Kể từ những văn bản thủa ban sơ như Văn Tế Cá Sấu cho đến Sãi Vãi, Nhị Độ Mai, Trê Cóc, Hoa Tiên, Phan Trần, Lục Vân Tiên... cho tới ba đại tác phẩm của đất nước là truyện Kiều, Chinh Phụ Ngâm và Cung Oán, tất cả đều viết bằng tiếng Việt (chữ Nôm). Không ai làm thơ làm văn bằng chữ An Nam hay An Nam Mít của Rhodes với 8000 từ đánh vần bằng mẫu tự Bồ. Suốt ba thế kỷ hơn, quên lãng là số phận của Rhodes và sự nghiệp viết lách của ông.

Chuyện bể dâu Văn tự và Văn học
Tuy nhiên lịch sử có những bất ngờ. Tiếng An Nam của các tu sĩ Bồ tưởng đã bị bụi thời gian phủ lấp, bỗng hồi sinh vào cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX. Lý do là Thực dân Pháp một khi chiếm được Việt Nam nhất định triệt tiêu ảnh hưởng của Tầu. Văn tự là một gốc rễ quan trọng của ảnh hưởng ấy, nên Pháp nhất định loại chữ Hán và chữ Nôm ra khỏi đời sống Việt Nam.
Nhanh chóng và dể dàng Tây thay Hán tự bằng Pháp văn. Vừa nắm được chính quyền ba tỉnh miền Đông (1862), họ tức thì đặt một nền hành chánh trực trị có khuôn mẫu từ Pháp mang sang, với quan chức Pháp trực tiếp cai trị dân bản xứ. Tất cả văn thư đều viết bằng Pháp văn, từ công báo, giấy tờ hộ tịch, cho đến đơn từ của dân chúng và công văn các công sở... Nhu cầu thông tin giữa quan chức Tây và nhân dân Việt được qiải quyết bằng thông ngôn. Đến 1867 Pháp chiếm nốt ba tỉnh miền Tây, và toàn bộ Nam kỳ trở thành nhượng địa Cochinchine. Dân chúng Nam Kỳ không còn là con dân Triều Đình, và tiếng Pháp trở thành văn tự hành chánh độc nhất.

Tiếp theo là Trung kỳ và Bắc kỳ. Vì những lý do phức tạp, Pháp không cai trị vùng đất cuối cùng của Triều đình như đã cai trị Nam kỳ. Họ để vua quan ta làm vì, nhưng lập một đội ngũ công chức cao cấp Pháp ngồi bên trên cai trị tất cả từ phủ toàn quyền tới tòa hành chánh tỉnh. Họ nắm thực quyền kể cả quyền trả lương cho vua quan ta, nhưng mang danh xưng hiền lành là công sứ hay khâm sứ, tựa hồ họ chỉ đóng vai đại diện ngoại giao hay cùng lắm cố vấn cho chánh quyền Việt Nam. Nhưng quan Tây chỉ nói tiếng Tây là chuyện dĩ nhiên, và không kèn không trống Hán tự biến mất khỏi đời sống hành chánh.
Pháp thanh toán chữ Nôm song song với Hán tự. Thật ra Pháp dư biết chữ Nôm cần còn phải thanh toán nhanh hơn. Nó là chữ viết mà cũng là tiếng nói của người Việt. Hình dạng gần gũi với Hán tự, chữ Nôm như cái gai trước mắt thực dân. Còn lối viết này ngày nào là thực dân còn chưa yên tâm trong ý đồ tiêu diệt toàn bộ ảnh hưởng Tàu trên con người và văn hoá Việt Nam.
Bắt quần chúng thay đổi tiếng nói là chuyện vô cùng khó khăn chưa ai làm được, kể cả những bạo chúa. Nhưng thay đổi chữ viết là chuyện trong tầm tay người Pháp, nhất là các tu sĩ Bồ đã chế sẵn chữ An Nam từ hơn ba trăm năm trước. Tương kế tựu kế, thực dân lấy chữ An Nam thay thế chữ Nôm.
Theo nguyên tắc, tiếng An Nam của các tu sĩ Bồ thoả mãn tất cả chờ mong của Pháp. Không còn liên hệ hình dáng cũng như nội dung với Hán tự, chữ An nam sẽ giúp Pháp dứt khoát thanh toán ảnh hưởng văn hoá Trung quốc. Chút bất tiện nhỏ là những từ điển tam ngữ sẵn có của các giáo sĩ dư thừa phần tiếng Bồ và tiếng La-tanh. Giải pháp cũng dễ dàng, Pháp chỉ việc cho đội ngũ thông ngôn lấy sách gốc cũ bỏ phần Bồ và La-tanh mà thay thế chữ Pháp vào.

Pháp áp dụng chính sách dẹp bỏ chữ Nôm ngay khi mới chiếm được một nửa Nam Kỳ. Phải công nhận sự siêng năng vượt bực của giáo chức Pháp tòng sự tại Soái phủ Nam Kỳ bấy giờ. Ba tỉnh miền Đông cụ Phan [Thanh Giản – hoangnamgiao] mới mất cho Tây năm 1862, thì trung tuần tháng tư năm 1865 tờ Gia Định Báo bằng chữ An Nam ra đời. Trong khoảng thời gian ba năm, Pháp đã huấn luyện xong một quần chúng bản xứ đông đúc biết viết và đọc chữ An Nam để đóng vai ban biên tập cũng như độc giả cho tờ báo.
Rồi sách truyện bằng chữ An Nam nối đuôi theo báo chí xuất hiện. Trong khi lãnh thổ còn lại của Triều đình vẫn dùng Hán tự và chữ Nôm, dân Nam kỳ bắt đầu tiêu khiển với các truyện ngắn bằng tiếng An Nam như Người Buôn Ngọc, Thầy Lazaro Phiền, Câu Chuyện Một Tối Của Người Tân Hôn, vân vân... Báo chí và văn học bằng chữ An Nam vùng nhượng địa đi trước Bắc Kỳ và Trung Kỳ cả mấy thập niên.
Từ bàn đạp Nam Kỳ Pháp tiếp tục truy kích chữ Nôm tại vùng đất theo lý thuyết còn thuộc Triều đình. Bằng áp lực từ mọi phía, Vua Khải Định sau cùng hạ chiếu chính thức hoá và chính thống hoá văn tự An Nam mà vua ban cho tên mới là Quốc ngữ (1918). Lúc này nhà Nguyễn đã mất thực quyền từ lâu, từ hành chánh đến tài chánh, đến quốc phòng, đến ngoại giao, đến lục lộ, đến canh nông, đến y tế, vân vân, và đến học chánh. Có lẽ học trò các trường bảo hộ đã học Quốc ngữ từ trước cả lệnh vua.

Tiếng An Nam và Chữ Quốc Ngữ.


Hai danh từ tiếng An Namchữ Quốc Ngữ thường bị dùng lẫn lộn với nhau. Sự lầm lẫn có lý do chính là cả hai loại văn tự đều chung một bảng mẫu tự dựa trên bảng mẫu tự Bồ Đào Nha. Nhưng sự giống nhau chấm dứt tại đây.
Tiếng An Nam gồm 8000 từ phiên âm bởi các giáo sĩ Bồ và đã được sưu tập bởi Rhodes để in trong từ điển DALeL. Tiếng An Nam có công dụng giãi quyết nhu cầu nội bộ của nhà Dòng. Như đã nói chức năng của nó là giúp cho các giáo sĩ từ Lisbonne mới qua một mớ ngữ vựng tối thiểu để giao tiếp với dân bản xứ, và huấn luyện giáo lý cơ bản cho tân tòng muốn theo đạo Chúa với những tài liệu trình độ như Phép Giảng Tám Ngày của Rhodes.
Với nhu cầu như vậy, xem ra vốn ngữ vựng của DALeL cũng đã đầy đủ. Gần bốn thế kỷ sau, nhu cầu nội bộ của nhà Dòng Hà Nội về tiếng An Nam có lẽ không gia tăng, nên ta không thấy một cuốn từ điển mới nào dày hơn ra đời. Nhu cầu cố định thì ngữ vựng cũng cố định.

Tiếng Quốc ngữ là tiếng Việt ngôn ngữ của dân tộc Viêt Nam viết theo mẫu tự Bồ. Trái lại tiếng Việt tất nhiên có từ khi có nước Việt Nam. Nó phục vụ cho mọi nhu cầu của dân tộc, từ giao tiếp hàng ngày, yêu thương vợ chồng, dậy dỗ con cái, sinh hoạt học đường, văn chương thơ phú vân vân... Nó có một số ngữ vựng khổng lồ có thể diễn tả được mọi ý nghĩ, mọi ý niệm, dù phức tạp hay tế nhị đến đâu. Nó có từ trước khi Tây tìm ra pho sách cổ là cuốn từ điển Rhodes và quyết định dùng nó làm khởi điểm để thay thế chữ Nôm.
Chỉ một truyện Kiều cũng đủ chứng tỏ sự giàu có của tiếng Việt. Truyện đủ ngữ vựng, đủ tinh tấn, đủ tế nhị, đủ hào hùng, đủ nên thơ để xử lý mọi tâm cảnh. Viết bằng chữ Nôm hay viết bằng mẫu tự Bồ Đào Nha, sự việc cũng thế thôi. Cái chân lý vẫn không đổi là Việt ngữ là một ngôn ngữ đã phát triển đến chỗ tinh hoa dù viết bằng phương pháp nào. Nói cách khác, Quốc ngữ hay Việt ngữ có lịch sử dài như lịch sử đất nước, chứa đựng tất cả văn hoá và văn minh Việt Nam.
Cái vốn 8000 chữ các cha Bồ để lại có giúp gì cho Quốc ngữ không? Sự thật là không có bao nhiêu. Những từ quá cũ sau ba bốn thế kỷ đã tự đào thải ra khỏi ngôn ngữ dân chúng. Nhiều từ khác cũng không dùng được vì đánh vần không chuẩn, như Trời đánh vần thành Blời, Bậy đánh vần ra Vạy, vân vân và vân vân. Chỉ cần đọc Phép Giảng Tám Ngày của Rhodes ta thấy ngay vấn đề của 8000 từ các giáo sĩ đã phiên âm và để lại. Tại sao các tu sĩ Bồ đã phiên âm không chuẩn? Lý do hiển nhiên là phiên âm tùy thuộc rất nhiều khả năng nghe của nguời phiên âm. Nghe sai thì đánh vần sai. Những tu sĩ Bồ dù học vấn uyên thâm cũng ít khi có cặp tai của người bản xứ khi nghe tiếng Việt.

*

Khi mập mờ lẫn lộn Quốc ngữ với tiếng An Nam của từ điển Rhodes, Pháp muốn ta hiểu lầm rằng tất cả ưu điểm của Việt ngữ là nhờ phiên âm ra mẫu tự Bồ mà có. HIểu lầm như vậy, ta phải ơn Rhodes vì ông là cha đẻ của Quốc ngữ. Pháp vun đắp cho sự ngộ nhận bằng đủ mọi cách.
Hình ảnh của Rhodes xuất hiện khắp nơi, từ bìa vở học trò cho đến con tem bưu điện... Những hội ái hữu Việt Pháp treo những tấm chân dung vĩ đại của ông. Sách giáo khoa bậc trung và tiểu học có những bài vô cùng kính phục và ưu ái, tri ân vị giáo sĩ gốc Avignon đã tận tình chế tạo cho Việt Nam một văn tự thích nghi để bước vào thời đại văn minh... Rhodes sau khi được Pháp tô điểm có thể sánh với các thánh hiền thời tiền sử như Thần Nông, Nhân Diêm hay Sĩ Nhiếp...
Lập luận tuyền truyền của Pháp không phải không có ảnh hưởng. Thời Cộng hòa của chính phủ miền Nam, ảnh Rhodes vẫn được in trên tem bưu điện. Ngòai Bắc, tượng Rhodes dựng tại vườn hoa bờ hồ Hòan Kiếm bị dẹp đi một thời gian, đến gần đây được phục hồi và đặt lại tại công viên cũ. Ta phải phục khả năng thuyết phục của người Pháp, khi khá gần đây một hoạ sĩ Việt Nam vẽ bức tranh lớn trình bày cảnh Rhodes đã thành thánh, ân cần đưa thi hài cụ Nguyễn Văn Vĩnh vào thiên đường. Tôi không tin cụ Vĩnh muốn như vậy. Tất nhiên cụ đã qua đời trước khi bức tranh được vẽ, và cụ không thể cải chính được sứ điệp của người hoạ sĩ xu thời.
Sau cùng là huyền thoại về Pháp tịch của Alexandre de Rhodes. Huyền thoại này tóm gọn tất cả những mập mờ về giáo sĩ thành một chủ đề, là Việt Nam nợ nước Pháp một thánh nhân đã có công lớn mang lại văn tự và văn minh cho mình.
Nhưng sự thật là sự thật, và trước khi sang đề tài khác, tôi xin tóm tắt những nhược điểm chính của luận điệu thực dân:
1. Alexandre de Rhodes không phài là người Pháp. Cha ông gốc Tây Ban Nha và mẹ ông gốc Ý Đại Lợi. Thời Rhodes, sanh quán Avignon của ông cũng không thuộc địa phận Pháp khi ông ra đời. Nhiều nhiều năm sau, Avignon mới sát nhập với Pháp.
2. Alexandre de Rhodes không phải là người có sáng kiến lấy mẫu tự Bồ để phiên âm chữ Nôm. Khi ông tới Việt Nam thì nhà dòng Hà Nội đã phiên âm tiếng Việt từ lâu. Chính họ đã vỡ lòng Rhodes về tiếng Việt phiên âm bằng mẫu tự Bồ của họ.
3. Cuốn từ điển của Alexandre de Rhodes là một sưu tập từ ngữ không mấy hữu dụng. Như đã nói, không kể sự già cỗi bắt buộc sau hơn ba thế kỷ đông lạnh, một phần không nhỏ của 8000 từ sưu tập bị đánh vần không chuẩn. Các tu sĩ Bồ dù sao cũng là người ngoại quốc, nên tai nghe chỉ chính xác đến mức tương đối.
4. Cuốn Phép Giảng Tám Ngày phản ánh sự giới hạn kiến thức trầm trọng của Rhodes về văn hoá, triết học, và tôn giáo Đông phương nói chung và Việt Nam nói riêng. Phát biểu một cách bừa bãi (Chương 4, các Đạo Vạy), sách cũng phản ánh sự coi thường nước chủ nhà của tác giả. Đây là sự hỗn hợp đáng tiếc của sự khiếm khuyết kiến thức trầm trọng với cung cách phát biểu bất nhã và thô bạo. Nó nguy hiểm cho liên hệ hài hòa giữa Lương với Giáo, và gây ra một hình ảnh bất lợi cho nhà thờ Thiên Chúa giáo, nơi tôi có nhiều thầy cũng như bạn.

*
Vậy thì ta nên ơn ai hay ơn cái gì?  Không phải bỗng dưng trên trời rơi xuống mà ta có được chữ Quốc ngữ. Tôi nghĩ ta phải cảm ơn các giáo sĩ Bồ đã chế tạo cho ta một mẫu tự rút ra từ mẫu tự của họ. Dù họ đi khỏi Việt Nam đã mấy thế kỷ, các nhà từ điển Việt nam vẫn có thể tiếp tục phiên âm một mình bằng cách dùng bảng mẫu tự này mà đánh vần. Không có một bảng mẫu tự nào khác trên thế giới có thể đóng góp như vậy cho chúng ta.
Cái kỳ diệu của bản mẫu tự này là mặc dù đã có hàng chục người việt Nam làm từ điển, mà kết quả kể như vẫn tương đối nhất quán. Khác nhau chút đỉnh từ người này sang người khác vì cách phát âm địa phương, nhưng tựu trung vẫn là tiếng Việt, không ngô ngọng như mớ từ An Nam của từ điển Rhodes.
Vấn đề còn lại là một ngày nào đó, một viện hàn lâm Việt Nam sẽ xét lại mỗi từ Việt Nam, để hoàn tất toàn bộ chính tả theo một số quy ước chung được mọi người đón nhận trong tinh thần yêu thương dân tộc. Một công cuộc như vậy không phải là không làm được.
Nhu cầu tương lai. Sau cùng tôi có vài suy ngẫm phát xuất từ sự thiếu thông tin bản thân về nguồn gốc tiếng Quốc Ngữ. Có lẽ trong tương lai càng gần càng tốt, chương trình giáo dục tại cấp tú tài hay dự bị đại học nên có ít nhất trong các lớp chuyên về nhân văn một số giờ tối thiểu về ngôn ngữ và văn hoá Bồ Đào Nha, mà bản mẫu tự đã là chìa khoá để phiên âm chữ Nôm ra Quốc ngữ trong dạng thức Việt ngữ hiện tại.
Một số giờ tối thiểu cũng nên dành cho các tu sĩ Dòng Tên đã tiên phong trong việc La-tanh hoá chữ Việt như Francisco de Pena, Antonio Barbosa, Gaspar do Amaral, và sau cùng như Alexandre de Rhodes. Với họ, và đặc biệt với tu sĩ Rhodes, ta cần một cái nhìn mới dưới ánh sáng khoa học thuần túy, thay vì xu hướng thần thánh hoá nặng ý đồ tư lợi của chánh quyền Bảo Hộ trong quá khứ, hay xu hướng khắt khe về sau của một vài học giả quốc gia mà lòng căm phẫn chưa nguôi vì những tội ác cũ của thực dân.

Sau cùng, ta cũng không nên quên những người Việt đã cộng tác với các giáo sĩ Bồ trong công trình La-tanh hoá chữ Nôm. Họ là ai, cuộc sống như thế nào, tương quan với các tu sĩ ngoại quốc như thế nào, ta hòan tòan không biết hay chưa biết thấu đáo. Ta chỉ biết họ phần đông là giáo dân, đúng đắn thấy được giá trị tâm linh của đạo Chúa để gửi đức tin, mặc dù sự cấm đạo không sáng suốt của vua quan ta bấy giờ, cũng như sự cẩu thả của những văn bản như Phép Giảng Tám Ngày của Rhodes.
Cuộc đời của mỗi đồng bào ruột thịt ấy là một cuốn tiểu thuyết về thân phận con người giằng co giữa những thử thách của đức tin, lương tâm, xã hội và lịch sử. Là dân bản xứ phục vụ trong cơ sở ngoại nhân, họ bị coi như nhân viên phụ thuộc trong công tác ngữ học của các giáo sĩ. Vậy mà trong mỗi ê-kíp phiên âm Bồ Việt, với mỗi chữ Nôm được đem ra đánh vần, tôi không ngạc nhiên nếu họ hiểu rõ ý nghĩa hơn, nghe và phát âm chuẩn hơn, so với đối tác ngoại quốc. Vì sự lãng quên của hòan cảnh, tên tuổi họ chưa được truy nguyên rõ ràng và công lao của họ chưa được ghi nhận đúng mức. Đã đến lúc trả cho César cái gì của César, và một Đại học Ngôn Ngữ chân chính phải tìm hiểu cho rõ danh tánh cũng như công lao của những người Việt tiên phong trong công cuộc phiên âm chữ Nôm ra vần La-tanh.
Tôi có bệnh lạc quan kinh niên và những ước vọng không mệt mỏi cho tương lai Việt ngữ. Tôi thấy trong tương lai gần một trường cao đẳng ngôn ngữ quốc gia được thành lập. Trường có một đội ngũ học giả có khả năng quốc tế, chuyên về những vấn đề liên quan đến tiếng Việt trước cũng như sau Quốc ngữ.
Nhìn trong khuôn khổ hẹp của bài này, cơ sở ấy sẽ đánh giá bằng cái nhìn phi chính trị, phi cảm tính, và nếu cần phi hận thù, phần công lao của các nhà tiền phong Việt cũng như Bồ hay Pháp trong việc La-tanh hoá chữ Nôm...

Nhìn rộng ra thì cơ sở ấy sẽ là điểm phát xuất những trao đổi lưỡng lợi và rộng  rãi với các cơ sở quốc tế như Trường Ngôn Ngữ Á Đông của Pháp hay một cơ sở tương đương của Bồ Đào Nha, hay văn khố Hội Truyền Giáo Paris cũng như văn khố giáo hội Lisbonne... Những luận án giá trị do sự cố gắng quốc gia hay sự cộng tác quốc tế sẽ ra đời, về những tác phẩm đầu tiên viết bằng Quốc ngữ tại vùng thuộc địa Nam Kỳ hay vùng Bảo Hộ Trung và Bắc Kỳ, về những suy ngẫm đối chiếu hai ngôn ngữ Bồ Việt, từ ngữ vựng tới văn phạm, từ sự giống nhau hay khác nhau của linh hồn hai dân tộc qua tiếng nói, về chuyện lợi lạc của Quốc ngữ trong việc chống nạn mù chữ, hay chuyện thiệt thòi vì bỏ chữ Nôm mà mất liên lạc với văn học Tàu cùng với kho tàng dịch thuật đồ sộ người Tàu đã thực hiện từ cuối nhà Thanh tiếp nối bởi chế độ Dân Quốc cho đến bây giờ... Đó là những bông hoa sẽ nở trong vườn văn học và nhân văn đất nước.

Mai Kim Ngọc

(Phần nhấn mạnh – in bold – là của hoangnamgiao)