BÀI HỌC CHIẾN TRANH VIỆT
NAM
NHÌN TỪ HẬU TRƯỜNG CHÍNH
TRỊ HOA KỲ
Lương Minh Sơn
LGT – Trong
biến cố giàn khoan nước sâu HD-981 được Trung Quốc cắm sâu vào Thềm Lục địa Việt
Nam từ đầu tháng 5 năm 2014 trên Biển Đông, giữa nhiều thảo luận công khai của
giới trí thức trong và ngoài nước, có một xu thế cho rằng Việt Nam cần “thoát Trung”.
Lẽ dĩ nhiên
là dân tộc ta cần “thoát Trung”. Không những “thoát Trung” mà còn cần “thoát”
nhiều thứ khác còn quan trọng và hắc ám hơn rất nhiều, nhất là trong lãnh vực văn
hóa. Tuy nhiên, từ niềm phấn kích nầy, có một số “nhà dân chủ” còn chủ xướng là
“thoát Trung” để “ôm Mỹ”, một chiêu
bài tuy ồn ào và quyến rũ nhưng thật …lãng mạng và nguy hiểm ! Các “Nhà bất đồng
chính kiến” Công giáo loại Lê Quốc Quân, Jean Baptiste Nguyễn Hữu Vinh hô hào như thế thì cũng dễ
hiểu vì đó là truyền thống lịch sử 400 năm “ôm ngoại bang” của Công giáo Việt
Nam; nhưng những “Nhà Dân chủ” như Nguyễn Quang A hay Phạm Chí Dũng mà cũng ùa theo thì nghe … buồn
cười quá, không giống ai cả !
Mới đây thôi,
trong chủ đề “Hoa Kỳ khờ khạo hay gian
hùng” của Chương Trình Giờ Giải Ảo do NGƯỜI VIỆT TV phát hành ngày 28-6-2014
( http://nguoiviettv.com/?p=15600
), chuyên gia kinh tế Nguyễn Xuân Nghĩa (từng mang hàm tương đương với Thứ trưởng
Tài Chánh của chính phủ VNCH năm 1975) đã chứng minh và khẳng định nhiều lần rằng
Mỹ là một nước có đặc tính “gian hùng”.
Không phải tự nhiên mà ông Nghĩa đi đến kết luận đó đâu. Phải từng sống và biết
rõ lẽ sinh-tử của hai chế độ Cọng hòa tại miền Nam với các ông quan “Thái thú” (cụm từ của báo chí miền
Nam trước 1975 để chỉ hai Đại sứ Ellsworth Bunker và Graham Martin) đã khống chế
dinh Độc Lập như thế nào; và phải từng sống và tìm hiểu cơ cấu vận hành chính
trị và các chính sách của Mỹ, mới thấm thía được điều nầy. Ông Nghĩa cũng không
phải là “người VNCH” duy nhất nói lên điều nầy. Cứ hỏi/đọc thành phần lãnh đạo chính trị và quân
sự Việt Nam Cọng Hòa đang lêu bêu ở hải ngoại thì biết họ cay đắng về thân phận
“đồng minh” như thế nào !
Mấy ông “trí
thức Bắc Kỳ” ở Hà Nội, quanh quẩn trên Internet và bờ Hồ Hoàn Kiếm, không hiểu
được đâu. “Ôm Mỹ” không phải dễ, làm tay sai bán nước lúc nào không hay đấy !
Bài viết công
phu dưới đây của tác giả Lương Minh Sơn mô tả hoàn cảnh và những “bà mụ” Mỹ đã hình
thành chế độ Ngô Đình Diệm như thế nào, và sau đó là đề cập đến mối quan hệ giữa
Mỹ và chế độ Đệ Nhất Cọng hòa đã biến thiên như thế nào. Qua đó, nhất là qua các
tư liệu giải mật của chính phủ Mỹ, độc giả đặc biệt sẽ thấy được sự vận hành và cách triển khai các
chính sách của bộ máy chính trị Mỹ. Tuy phức tạp nhưng luôn luôn nhất quán, tuy
hai đảng chính trị nhưng chỉ có một mục tiêu quốc gia. Và chủ nghĩa nước lớn thì
chảy xuyên suốt chủ trương và hành trạng của giai tầng lãnh đạo chính quyền Hợp
Chúng Quốc.
Bài viết được
Nhật báo Người Việt đăng làm 6 kỳ vào cuối năm 1996, nhưng tiếc thay đến kỳ thứ 6 thì bài viết bị ngưng dang dở mà Người
Việt không có lời giải thích. Do đó, loạt bài nghiên cứu nầy thiếu phần quan trọng
nhất như đề bài đã hứa là “Bài học chiến
tranh Việt Nam” là gì ? Tuy nhiên, qua nội dung cũng như cách lập luận và
qua những tài liệu trích dẫn, ta cũng đoán được tác giả muốn trao gửi hai điều vì quá hiển nhiên nên ít ai chịu suy gẫm cho sâu: (1) Mỹ là một nước lớn với quyền
lợi giăng mắc khắp nơi nên họ không suy nghĩ kiểu nước nhỏ, và (2) Khi còn mang
căn tính nô lệ trong đầu mà lại đi “ôm Mỹ” thì chẳng chóng thì chày cũng sẽ
mang vận mệnh quốc gia ra đùa với lữa.
[Năm 2013,
một tập họp những tài liệu của chính phủ Mỹ về giai đọa cuối cùng của chế độ Ngô
Đình Diệm mới được giải mật lại càng làm sáng tỏ thêm những biến cố và cũng cố
thêm các luận điểm của tác giả Lương Minh Sơn từ 17 năm trước đó. Xin đọc Hồ Sơ Mật 1963 - Từ
các nguồn tài liệu của Chính phủ Mỹ (Thien Tri Thuc Publications, Hoa Kỳ, 2013)
] – BlogHNG
BÀI HỌC CHIẾN TRANH VIỆT
NAM
NHÌN TỪ HẬU TRƯỜNG CHÍNH
TRỊ HOA KỲ
Lương Minh Sơn
Năm 1995, Robert S. McNamara, Bộ trưởng Bộ
Quốc Phòng Hoa Kỳ (1961-1968), đã nêu ra và giải thích một số quyết định sai
lầm của hội đồng chính phủ trong cuộc chiến tranh Việt Nam, [MCN]. Qua những
dẫn chứng đáng chú ý, ông cho rằng những quyết định sai lầm đó đều dựa trên lý
do”thiếu khả năng hiểu biết và suy xét” về tình hình chính trị và văn hoá của
Việt Nam hơn là vì “khác biệt quan điểm về giá trị đời sống hoặc cố ý.” Bằng
những lời lẽ mang âm hưởng ăn năn của một người khoa bảng ngây thơ như thời ông
vừa từ bỏ chức chủ tịch đại công ty xe Ford về làm Bộ trưởng Quốc Phòng, ông
chấp nhận mọi trách nhiệm cho tấn thảm kịch vỉ đại của Việt Nam. Tuy nhiên,
McNamara thú tội với người Hoa Kỳ nhiều hơn là với người Việt Nam, một dân tộc
đã phải hứng chịu nhiều đau khổ trực tiếp nhất trong cuộc chiến. Và mặc dù đã
kéo dài những lời kể lể ân hận như một thể kinh cầu nguyện, một người đã từng
điều khiển cuộc chiến tranh Việt Nam trong suốt hai đời tổng thống như ông vẫn
không viết được gì nhiều về những điều thầm kín bên trong hội đồng chính phủ
của Kennedy cũng như của Johnson, về tiến trình đã đưa đến những quyết định sai
lầm đó, và về sự mâu thuẩn giữa các cấp lãnh đạo dân sự và quân sự.
Nói theo lời của sử gia George C. Herring [1],
“... chúng ta cần phải nhìn xa hơn những công cụ mà McNamara đã sử dụng để giải
thích trong quyển bút ký. Cuộc chiến tranh Việt Nam là cuộc chiến tranh của
McNamara, đúng, nhưng nó cũng là cuộc chiến tranh của Dwight Eisenhower và John
Foster Dulles, cuộc chiến tranh của John Kennedy và Lyndon Johnson, và cuộc
chiến tranh của Richard Nixon và Henry Kissinger. Và hơn bất cứ những gì khác,
ý thức hệ của giới soạn thảo chính sách, cùng với sự tập hợp của những chính
sách rạn nứt đó mới chính là những gì có thể giải thích tại sao Hoa Kỳ can
thiệp vào Việt Nam để rồi cuối cùng đưa đến thất bại,” [HER].
Hôm nay nhân dịp ngày giỗ của cố Tổng thống
đầu tiên của nền Đệ I Cộng Hoà của miền Nam Việt Nam, bài viết nầy xin có một
vài nhận định về một số thảm cảnh của cuộc chiến tranh Việt Nam dựa trên những
dữ kiện đã xảy ra từ phía hậu trường chính trị Hoa Kỳ và thế giới, nhất là
trong suốt thời kỳ của chế độ Ngô Đình Diệm. Ước mong rằng những dữ kiện nầy sẽ
đóng góp được phần nào cho những công cuộc nghiên cứu lịch sử trong mai sau.
Bài đi 6 kỳ
Kỳ 1: Thí Điểm Đầu Tiên Của Cuộc Chiến Tranh Lạnh
(Nhật báo NGƯỜI VIỆT, ngày 9 tháng 11 năm
1996)
Muốn nhìn vào
cuộc chiến tranh Việt Nam (VN), chúng ta cần phải nhìn lại cuộc chiến tranh ở
Đại Hàn, bởi vì đó là tiền thân của chiến tranh VN. Nói cách khác, chiến tranh
VN là nước cờ tiếp của cuộc chiến tranh lạnh mà Triều Tiên là nước cờ đầu bàn.
Thập niên
1950 là thời điểm mở đầu cho những tình trạng căng thẳng chính trị và quân sự
giữa hai trục siêu cường mới vừa được nổi bật từ sau cuộc Đệ II Thế Chiến. Hoa
Kỳ (HK) và Nga Sô. Thế giới quen gọi thời kỳ nầy là thời kỳ Chiến Tranh Lạnh,
và một trong những thử điểm đầu tiên của cuộc Chiến Tranh Lạnh ở Á châu là Đại
Hàn.
Sau Đệ II Thế
Chiến, Triều Tiên bị chia hai thành hai quốc gia chỉ vì vị thế đóng quân của
Nga Sô và HK. Từ vỉ tuyến 38 trở ra Bắc là Dân Chủ Cộng Hoà Triều Tiên, theo
chủ nghĩa Cộng Sản (CS) và chịu ảnh hưởng của Nga Sô. Từ vỉ tuyến 38 trở vào
Nam là Cộng Hoà Triều Tiên, theo chủ nghĩa Cộng Hoà và chịu ảnh hưởng của HK.
Ngày 25-06-1950, quân đội CS Bắc Hàn cùng với sự hổ trợ của cộng sản quốc tế
vượt vỉ tuyến 38 tiến đánh Nam Hàn và chiếm thủ đô Seoul. Để trả đủa, Tướng
Douglas MacArthur chỉ huy quân đội Liên Hiệp Quốc, đa số là các lực lượng HK và
Nam Hàn, đổ bộ lên Inchon thuộc về mạn Bắc của vỉ tuyến 38 và đánh ngược về
Nam. Quân đội Liên Hiệp Quốc lấy lại Seoul trong ngày 26 tháng 9, nhưng không
cô lập được địch thủ để CS Bắc Hàn chạy thoát được về bên kia vỉ tuyến.
MacArthur xua quân vượt vỉ tuyến chiếm thủ đô Pyongyang của Bắc Hàn vào ngày 9
tháng 10 đẩy bật CS Bắc Hàn qua bên kia biên giới Trung Cộng. Từ đó quân đội
Liên Hiệp Quốc dừng chân bên nầy biên giới, gạch phòng tuyến ở phía nam sông
Yalu, coi như đã thâu gồm Đại Hàn thành một khối. Phần lớn các chiến sĩ HK tin
tưởng rằng họ sẽ được về kịp đón Giáng Sinh.
Ngày 26 tháng
11, trong cơn bão tuyết dưới không độ, 300 ngàn “Chí Nguyện Quân” Trung Cộng
cùng với quân đội CS Bắc Hàn dùng chiến thuật biển người vượt sông Yalu và phá
vỡ phòng tuyến của Liên Hiệp Quốc. Quân Liên Hiệp Quốc bị đánh bất ngờ nên mất
đội hình, rút lui gần như trong tan rả. Trên đường mở đường máu rút về Nam, Sư
đoàn 1 Thủy Quân Lục Chiến HK bị tổn thất gần hai phần ba quân số, trong số đó
có 3 ngàn quân bị tử vong, và 7 ngàn quân bị thương nặng. Quân đoàn 8 Bộ Binh
HK phải triệt thoái khỏi Pyongyang, bỏ luôn vỉ tuyến 38 về trấn thủ vỉ tuyến
37. Tháng Giêng năm 1951, chiến đấu cơ MIG của Không quân Nga Sô bắt đầu tham
dự mặt trận mở màn cho nhiều cuộc không chiến đẫm máu. Khi quân đội Liên Hiệp
Quốc lấy lại Seoul, tám mươi phần trăm thành phố thủ đô của Nam Hàn đã trở
thành bình địa.
Ngày
28-6-1951, Jacob Malik, Đại biểu của Nga Sô tại Liên Hiệp Quốc lên tiếng đề
nghị ngưng bắn. Tướng Mathew B. Ridgway, Tổng Tư Lệnh Quân Đội Liên Hiệp Quốc ở
mặt trận Triều Tiên thay thế cho MacArthur cũng ngỏ ý chịu ngồi vào bàn hội
nghị. Tuy nhiên, cuộc hội nghị không kéo dài được bao lâu thì cuộc chiến càng
ngày càng trở nên tàn khốc. Tháng 9 năm 1951, tổng số quân của quân đội Liên
Hiệp Quốc ở Nam Hàn lên đến nửa triệu, nhiều hơn quân số của Bắc Hàn và Trung
Cộng. Trong suốt hai năm sau đó, sự giao tranh chỉ xảy ra ở hai bên bờ vỉ tuyến
38. Giữa năm 1953, theo một kế hoạch vừa đánh vừa dỗ, HK oanh tạc các hệ thống
đê điều của Bắc Hàn làm ngập lụt ruộng lúa đồng thời trao trả tù binh cho Bắc
Hàn để kêu gọi khối CS ngồi vào bàn hội nghị. Ngày 13-06-1953, trong một nổ lực
thử lửa cuối cùng, 60 ngàn quân Trung Cộng đánh qua vỉ tuyến, nhưng hai ngày
sau đã bị 45 ngàn quân Liên Hiệp Quốc đánh bật về vị trí cũ. Ngày 27-07-1953,
hai bên ngồi lại ở PanMunjon, ký thỏa hiệp ngưng bắn, chấm dứt cuộc chiến mà cả
Bắc và Nam Hàn đều đã gần sụn bại. Trong 3 năm chiến tranh, Bắc Hàn và Trung
Cộng bị tổn thất gần 1 triệu rưởi quân, vừa chết vừa bị thương, Liên Hiệp Quốc
bị tổn thất khoảng 345 ngàn quân vừa chết vừa bị thương; trong số đó, Hoa Kỳ có
25,604 quân tử trận, và hơn 103 ngàn quân bị thương. Về phiá thường dân, gần 2
triệu người Đại Hàn đã gục ngả trên khắp hai miền nam bắc, và hàng trăm ngàn
gia đình đã phải sống cảnh màn trời chiếu đất [TRA, “Korean War”].
Mặt Trận Điện Biên Phủ: Khúc Quanh Lịch Sử
Mặt trận Điện
Biên Phủ không phải là nước đi của bàn cờ Chiến Tranh Lạnh, nhưng nó lại là cơ
hội thuận tiện để HK thiết lập một thử điểm chiến lược mới trong cuộc Chiến
Tranh Lạnh ở VN.
Mặc dù đã
phải viện trợ cho Pháp trở lại Đông Dương sau cuộc Đệ II Thế Chiến để đổi lấy
lá phiếu ủng hộ của Charles De Gaulle trong khối Phòng Thủ Minh Ước Bắc Đại Tây
Dương (NATO)[2]. HK vẫn nghĩ rằng chủ nghĩa Thực Dân không còn sức hấp dẫn
trước lý thuyết đầy hứa hẹn của chủ nghĩa CS. HK nghĩ rằng đã đến lúc các đệ
Tam quốc gia như VN cần phải có một chủ nghĩa mới để có thể đối đầu với sự bành
trướng của CS Quốc Tế. Lúc nầy, Ngô Đình Diệm (NĐD) và Đức Cha Ngô Đình Thục đã
bắt đầu tiếp xúc với một số giới chức ở Washington để tìm sự ủng hộ.
Về phía CS,
sau khi đã chứng minh được tiềm lực sẵn sàng giao chiến với các siêu cường như
HK, Trung Cộng hăng hái gởi 30 ngàn “Chí Nguyện Quân” cùng một số vũ khí thặng
dư qua giúp CSVN vây đánh Pháp ở Điện Biên Phủ. Trong lúc quân đội Viễn Chinh
và Thuộc Địa Pháp đang hứng chịu tổn thất nặng nề vì những trận sơn pháo dồn
dập của CS. Ngoại trưởng Georges Bidault của Pháp tuyên bố rằng HK cần phải
viện trợ thoả đáng để giải vây Điện Biên Phủ, bằng không thì Pháp buộc lòng
phải đi tới một “giải pháp chính trị mới”, ý nói sẽ điều đình với CS. Ngoại
trưởng John Foster Dulles của HK nhất quyết không chấp nhận thấy Pháp điều đình
với CS, và cho đó là hành động “thoả hiệp
với quỉ Sa Tăng.” Ông ráo riết vận động Quốc Hội HK can thiệp. Đề Đốc
Arthur Radford, Tổng Tham mưu trưởng Quốc Phòng HK lập tức soạn thảo kế hoạch
hành quân giải vây Điện Biên Phủ. Kế hoạch, với ám danh “Vulture” (Kên Kên) dự trù sẽ quy động 60 oanh tạc cơ B-29 từ
Philippines cùng với 150 oanh tạc cơ các loại lớn nhỏ từ các mẩu hạm vào không
tập quân đội CS. Radford tự tin rằng hoả lực không tập khủng khiếp của HK sẽ
làm rúng động tinh thần chiến đấu của một đạo quân mà ông cho là chưa được tinh
nhuệ [WEI, Trg. 165].
Tháng 4 năm
1954, Quốc Hội HK không chấp thuận thi hành kế hoạch “Vulture” vì không muốn
dấn thân vào vào Điện Biên Phủ mà không có sự hợp tác của Anh quốc. Giới chính
trị ở Washington trách cứ Anh quốc đã bỏ mặc HK chống cộng một mình ở Đại Hàn.
Trong một cố gắng chót, Tổng thống Eisenhower kêu gọi Anh quốc gởi một vài oanh
tạc cơ từ Hong Kong và bán đảo Mả Lai tháp tùng theo các phi đoàn HK, coi như
cho có tính cách “liên hiệp”. Anh quốc vẫn nhất quyết không muốn dính líu vào
VN vì đã có thoả thuận ngầm với Trung Quốc trong vần đề an ninh của nhượng địa
Hong Kong.
Ngày
07-04-1954, Eisenhower mở một cuộc họp báo và đưa ra lý thuyết Domino để cảnh
cáo về một sự mất mát lớn nếu thế giới tự do không biết cân nhắc trước việc
Pháp đang bị điêu đứng ở Đông Dương. Ông nói, “Nếu chúng ta sắp các con domino theo một đội hình và hất ngã con đầu
thì các con sau sẽ lần lượt ngã xuống một cách rất nhanh chóng.” [WEI, Trg.
165]. Con domino đầu của
Eisenhower là miền Nam VN, và các con sau đó là bán đảo Mả Lai, Miến
Điện, Thái Lan và Nam Dương, cùng với các nguồn tài nguyên và thổ sản trù phú
như: thép, lúa, cao su, đồng và dầu hoả (Nam Dương). Phó Tổng thống Richard M. Nixon
cũng tin tưởng rằng tình hình ở Đông Nam Á đang đòi hỏi HK phải có thái độ
quyết liệt với CS. Ông tuyên bố, “Nếu để
ngăn chận sự bành trướng của CS ở Châu Á, chúng ta cần phải dấn thân bằng cách
gửi thanh niên HK qua đó ... Tôi sẽ đích thân ủng hộ quyết định nầy”. [WEI,
Trg. 165-166]. Ngày 24-04-1954, Anh quốc rút lui ra khỏi mọi cuộc hội đàm có
tiêu đề hành quân hỗn hợp Anh-Mỹ, và Quốc Hội HK vẫn nhất quyết duy trì tư thế
không can dự vào Điện Biên Phủ. Ngày 07-05-1954, quân đội Viễn Chinh ở Điện
Biên Phủ đầu hàng quân Việt Minh. Tháng 6 năm 1954, chính phủ Pháp ở Paris sụp
đổ. Pierre Mendès France lên nắm chức Thủ Tướng Pháp và quyết định triệt thoái
quân đội Viễn Chinh ra khỏi VN trong im lặng.
Hiệp định Genève: Điều kiện Rút quân trong
danh dự
Trong những
ngày đầu của cuộc hội nghị, HK không chịu trực thoại với Trung Quốc vì không
muốn nhìn nhận Trung Quốc là một thực lực ngang hàng trên chính trường quốc tế.
Một huyền thoại kể lại rằng khi Thủ tướng Chu Ân Lai, Trưởng phái đoàn Trung
Quốc đưa tay ra để bắt với Ngoại trưởng John Foster Dulles, Foster Dulles quay
qua hướng khác và nói với một người trong phái đoàn HK rằng, “Tôi không muốn nói chuyện gì với hắn ngoại
trừ khi tôi mắc phải tai nạn xe cộ với hắn,” (ý nói để cãi lộn). Sau nầy,
Foster Dulles viện cớ là bận việc nên ở lại HK, và người thay thế ông trong
chức vụ Trưởng phái đoàn HK trong cuộc hội nghị Genève là Walter Bedell Smith,
cựu Phó Giám Đốc CIA (1950-1953). Và cũng cùng với lý do như HK, Pháp không
muốn trực thoại với Bắc Việt mà chỉ với Trung Quốc và Nga Sô.
Trong lúc
chiến trường ngoại giao vẫn còn đang căng thẳng, Ngoại trưởng Mikhailovich V.
Molotov của Nga Sô, Ngoại trưởng Anthony R. Eden của Anh Quốc, Thủ tướng Pierre
Mendès France của Pháp, Thủ tướng Chu Ân Lai của Trung Quốc, và Thủ tướng Phạm
Văn Đồng của miền Bắc VN cùng nhau họp riêng ở ngôi biệt thự Le Bocage của
Molotov. Tại nơi nầy, Molotov đưa ra đề nghị chia đôi VN ở vỉ tuyến 17 và mọi
phe tham dự đã cùng nhau đồng ý, [KAR, Trg. 203]. Bedell Smith và Ngoại trưởng
Trần Văn Đổ của miền Nam VN không được mời họp nên sau này không chịu ký vào
bản hiệp định.
Trong khi Nga
Sô và Trung Quốc đều ra mặt giả đò tôn trọng Bắc Việt như một đồng minh ngang
hàng và có thực lực thật sự trên bàn hội nghị, Pháp không còn tư thế và cũng không màng đòi hỏi cho miền
Nam VN được vào họp, mặc dù sự quyết định của buổi họp hôm đó có liên hệ trực
tiếp đến đời sống của tất cả những người đã từng tin tưởng vào sự bảo hộ của họ.
Điều nầy cho thấy người Pháp quan tâm đến vấn đề “rút quân trong danh dự” nhiều
hơn là vấn đề nhân nghĩa với miền Nam VN. Anh Quốc chỉ đóng vai giám khảo miễn
sao cho họ khỏi phải từ bỏ quyền lợi ở nhượng địa Hong Kong để dấn thân vào
cuộc xung đột ý thức hệ vô lợi ích giữa chủ nghĩa “Thực Dân và Cộng Sản” rồi
đến “Cộng Sản và Tư Bản”. Miền Nam VN lúc đó là một chính phủ sơ khai, vừa được
trả độc lập kể từ ngày 04-06-1954 nên gần như không có tiếng nói. Đối với HK,
cuộc hội nghị ở Genève có công bằng hay không, John Foster Dulles và hội đồng
An Ninh Quốc Gia ở Washington cũng đã khởi động một kế hoạch riêng cho tương lai của miền Nam VN.
Kỳ 2: Chủ Trương Trả Đũa Mãnh Liệt
(Nhật báo NGƯỜI VIỆT, ngày 10 tháng 11 năm
1996)
Trong một quốc
gia siêu cường như Hiệp Chủng Quốc nhiệm vụ của một ngoại trưởng là phụ giúp
tổng thống soạn thảo chính sách đối ngoại, và giải thích chính sách đối ngoại của
Phủ Tổng Thống cho Quốc Hội để mưu tìm sự hậu thuẩn. John Foster Dulles là
Ngoại trưởng cho Tổng thống Dwight D. Eisenhower trong những năm đầu khi HK dấn
thân vào Đông Nam Á.
Dwight D.
Eisenhower là một quân nhân chuyên nghiệp. Mỗi khi làm việc gì, ông thường chủ
trương phải làm cho hết sức, nhưng ông biết chọn con đường hoà giải. Ông cổ xúy
nhiều chương trình có tính cách nổ lực chung cho quốc tế, chẳng hạn như chương
trình khuyến khích các cường quốc sử dụng năng lượng nguyên tử cho lợi ích
chung cho nhân loại, và chương trình tài giảm vũ khí. Ông không ham nghe những
lời chỉ trích quá trớn về người Nga Sô. Có lần, ông nói với các cố vấn trong
hội đồng chính phủ rằng “HK cần phải chấm
dứt những lời dỡn cợt vô ý thức nầy và phải cố gắng tiến tới một nền hoà bình
chung.” Trái lại, Foster Dulles là một người dân sự và luôn luôn sống trong
thế giới của những thuật ngữ lớn tiếng. Ông chống lại mọi cuộc thương thuyết có
vẻ thừa nhận Nga Sô là một xã hội có một “nền đạo đức tương đồng với HK.” Ông
hay hăm doạ về một sự “trả đủa mãnh liệt” hoặc về viễn ảnh cùng nhau tiến tới
bờ vực thẳm của chiến tranh. Sự khác biệt trên đường hướng hoạt động của
Eisenhower và Foster Dulles càng trở nên rõ ràng nhất là trong lần thương
thuyết cuối cùng cho cuộc ngưng bắn ở Đại Hàn. Eisenhower cho đối phương thấy
một cách kín đáo rằng ông sẽ sẵn sàng gia tăng chiến tranh nhưng ông cũng hy
vọng đối phương sẽ chấp nhận giải pháp ôn hoà và cho phép ông tránh con đường
mà ông buộc lòng phải chọn. Trong khi đó, Foster Dulles nhất quyết không muốn
có một thoả thuận cho đến khi nào ông chứng minh được sự cứng rắn của HK bằng
cách dạy cho Trung Quốc “một bài học đích đáng.” [WEI, Tr. 154].
Nếu
Eisenhower và Foster Dulles là hai nhân vật có hai cá tánh khác biệt như thế
thì điều tương quan lớn nhất giữa hai người là chính sách ngăn chận sự bành
trướng của CS Quốc Tế, một chính sách được để lại từ thời Tổng thống Harry S.
Truman (1945-1953) và Ngoại trưởng Dean G. Acheson (1949-1953), [TRA, “Truman”,
“Acheson”]. Chính sách nầy có thể là phản ảnh mặc cảm của một hội đồng chính
phủ đã để Trung Quốc rơi vào tay CS (1949). Đầu thập niên năm 1950, giới soạn
thảo chính sách ở HK đã có lần bàn thảo về vấn đề trao đổi mậu dịch thương mại
với Nga Sô theo quan niệm quyền lợi tài chánh sẽ làm cho chính quyền Nga Sô bớt
căng thẳng. Tuy nhiên, năm 1953 lại là khởi điểm căng thẳng của cuộc Chiến
Tranh Lạnh. Một trong những lý do là vì sau khi Eisenhower vừa nhận chức tổng
thống được 2 tháng, Joseph Stalin chết, để lại một khoảng trống trong giới
quyền lực ở Điện Cẩm Linh. Từ đó, mọi dự án tương trợ Nga-Mỹ đều bị đình hoãn
một cách vô hạn định, để nhường chỗ cho một cuộc chạy đua chế tạo vũ khí có sức
công phá tàn khốc, nhân danh “an ninh” và “hoà bình” cho mỗi trục. Từ đó, một
thế hệ của con người đã phải lớn lên không có một ý niệm nào khác, ngoại trừ
phải “theo Nga” hoặc “theo Mỹ.”
Giữa năm
1953, John Foster Dulles lên tiếng báo hiệu cho các quốc gia đã bị Nga Sô thôn
tính rằng họ “có thể trông cậy nơi HK.” Năm 1954, khi Pháp còn đang lưỡng lự
trước lời kêu gọi của HK về vấn đề tái vũ trang cho Tây Đức, ông tuyên bố truớc
một cuộc họp báo rằng sự chậm chạp của Pháp có thể khiêu khích HK “tái thẩm
định” mối liên hệ ngoại giao với Pháp và kết quả có thể sẽ “không mấy gì dễ
chịu.” Lời tuyên bố nầy có vẻ muốn ám chỉ rằng các quốc gia nào không chịu theo sự chủ xướng của HK sẽ
bị bỏ rơi. Năm 1955, giữa phiên họp của một hội đồng tư vấn đối ngoại,
Foster Dulles thuyết trình về một “tư thế mới” của HK, một tư thế mà HK có thể
sẽ đương đầu với mọi khiêu khích bằng một sự “trả đủa mãnh liệt,” (hình như ý
muốn nói đến loại bom nguyên tử với bí danh “H-Bomb” vừa được hoàn tất). Tháng
Giêng năm 1956, Foster Dulles trả lời phóng viên James Shepley của tuần báo
Life, “Các anh phải thử thời vận may rủi
với hoà bình cũng như các anh phải thử thời vận may rủi với chiến tranh ... Nếu
sợ đi tới bờ vực thẳm thì các anh đã thất bại,” [WEI, Tr. 156].
Từ năm 1953
đến năm 1959, Eisenhower và Foster Dulles cùng nhau duy trì quyền lực và tư thế
lãnh đạo của HK trước sự bành trướng của Nga Sô. Cả hai đều xem đời sống vật
chất dư giả là minh chứng thành công cho hệ thống đạo đức và chính trị của HK.
Cả hai đều muốn sử dụng nền kinh tế của HK để làm khuôn mẫu cho cái mà họ gọi
là “Thế Giới Tự Do.”
Xây Dựng Thành Trì Chống Cộng
John Foster
Dulles là ngoại trưởng đầu tiên đi công du nhiều nhất của Hoa Kỳ. Với trên nửa
triệu dặm Anh, ông thăm viếng nhiều quốc gia Âu, Á để thiết lập một hệ thống mà
các quốc gia đệ Tam thân Mỹ thường tự hào là “Thành Trì Chống Cộng.” Các quốc
gia nầy cần cảm thấy sự hiện diện của một nhân vật cao cấp như Foster Dulles
như một biểu tượng tiên quyết cho một niềm tin mới, và ông thì cần tránh né
guồng máy chính trị phe đảng ở Washington để được rảnh tay sắp đặt kế hoạch
ngăn chướng sự bành trướng của CS Quốc Tế.
Kể từ những
năm còn trẻ, người ta đã nhận thấy Foster Dulles là một ngôi sao sáng trong vòm
trời ngoại giao. John W. Foster, cha đỡ đầu của ông là Ngoại trưởng cho Tổng
thống Benjamin Harrison (1885-1889). Robert Lansing, cậu của ông là Ngoại
trưởng cho Tổng thống Woodrow Wilson (1913-1921). Chỉ khoảng 10 năm sau khi tốt
nghiệp ở viện đại học Princeton, năm 1919, John Foster Dulles, 30 tuổi đã được
làm thành viên của phái đoàn HK trong cuộc hội nghị Versailles ở Pháp. Hội nghị
nầy bàn thảo về những điều khoản để kết thúc cuộc Đệ I Thế Chiến. Năm 1945, ông
tham dự buổi họp thành lập tổ chức Liên Hiệp Quốc, và sau này được cử làm Đại
biểu cho HK trong thành phần Chủ tọa. Eisenhower đã từng nói, “Dulles thực tập
làm ngoại trưởng kể từ hồi ông vừa lên chín.”
Tuy nhiên
ngay từ lúc còn trẻ và thường đi lễ nhà thờ Cơ Đốc (Presbyterian) ở Watertown,
New York, khả năng đối thoại của John Foster Dulles là một khả năng lấy căn bản
đạo đức của tôn giáo làm nền tảng. Qua thập niên 1930, ông thường xuyên tham dự
những buổi hội thảo về vấn đề hoà bình thế giới do World Council of Churches và
Federal Council of Churches tổ chức. Hai hội đồng nầy là những tổ chức của
những giáo phái có cùng một niềm tin nơi Thiên Chúa (Christian), được thành lập
phần lớn với mong muốn tạo “sự liên kết trước những vấn đề tương quan trên thế
giới.” Từ những buổi họp nầy, Foster Dulles tin tưởng rằng, con người cần phải
lấy lời Thánh Kinh làm phương cách để đối phó với mọi trở ngại trong đời sống. Đến năm 1940, ông có khuynh
hướng xem tất cả mọi vấn đề chính trị, dù có phức tạp đến đâu, cũng đều là
những sự xung đột giữa một bên là những người Thiên Chúa Giáo (TCG) đang bị
tiêu diệt, và một bên là kẻ thù của họ. Có lần, khi một vài người trong
chính phủ khuyên nhủ ông nên xem xét lại chuyện lạm quyền và tham nhũng của
Tưởng Giới Thạch của Đài Loan và Lý Thừa Vãn của Nam Hàn, đôi mắt của Foster
Dulles bị chớp một cách liên tục như mỗi khi ông thường bị kích thích. Ông ngồi bật dậy từ chiếc ghế và nói, “Không cần biết các ông nói gì về họ, hai vị
đó là những người tương đuơng với hàng giáo phẩm đã sáng lập ra các thánh
đường. Họ là những vị TCG đã chịu khổ nhục vì đức tin của họ”, [WEI, Tr.
155]. Thành thử chuyện một
tín đồ Ngô Đình Diệm đưọc John Foster Dulles chọn đưa về Việt Nam làm Tổng
thống đầu tiên của miền Nam Việt Nam không phải là một ngẫu nhiên.
Quan Điểm Của Vatican Về Chiến Tranh Việt Nam
Năm 1861, người Pháp đem quân đội và tôn
giáo vào để cai trị VN nhưng năm 1954, người Pháp chỉ có thể triệt thoái quân
đội mà không có một kế hoạch thoả đáng để cứu vản tình thế cho các giáo dân VN
đã từng đặt niềm tin nơi người Pháp. Trong lúc hồi tưởng về những ngày
cuối cùng ở miền Bắc, Đại tá Vanuxem của
quân đội Viễn Chinh đã kể lại những lời lẽ trách cứ của Giám mục Phạm Ngọc Chi,
một người bạn thân của Vanuxem, khi đơn vị ông sửa soạn rút khỏi Giáo phận Bùi
Chu, như sau “Chúng tôi cứ tưởng rằng
chúng tôi xứng đáng được hưởng sự độc lập mà chúng tôi đã có bổn phận góp công
giúp đỡ, nhưng đến khi nhận ra thì đã quá muộn. Những người mà chúng tôi đã trông cậy lại là những
kẻ thù đang muốn chúng tôi bị mất linh hồn” [VAN, Tr. 159-159].
Ở Vatican,
Đức Giáo Hoàng Pius Thứ XII có lẽ cũng đã dự đoán được tình trạng cực kỳ nguy
hiểm cho giáo dân VN một khi quân đội Pháp rút khỏi miền Bắc, nên kể từ cuối
thập niên năm 1940, Ngài
đã khuyến khích Đức Hồng Y Francis Joseph Spellman vận động chính phủ HK sửa
soạn can dự vào VN. Điều nầy có thể là một thắc mắc không nhỏ đối với
những người chuyên nhìn trên phương diện tôn giáo thuần tuý, tuy nhiên dưới
khía cạnh chính trị, ngoài nhiệm vụ lãnh đạo đời sống tâm linh của giáo dân
trên thế giới, Đức Giáo Hoàng của TCG - La Mã (The Roman Catholics) còn có
trách nhiệm đại diện cho Hội Đồng Giáo Hội (The Council) và quốc gia Vatican để
phản ảnh quan niệm và phát
huy ảnh hưởng chính trị của Toà Thánh đối với thế giới. Thành thử, muốn
tìm hiểu về quan niệm và ảnh hưởng chính trị của quốc gia Vatican trong cuộc
chiến tranh “Quốc Cộng” ở VN nói riêng, và trong cuộc Chiến Tranh Lạnh nói
chung, lịch sử cần nhìn lại quan điểm chính trị của một số Giáo Hoàng, bắt đầu từ
Đức Giáo Hoàng Pius Thứ XII.
Đức Giáo
Hoàng Pius Thứ XII tên thật là Euginio Pacelli, sanh năm 1876 ở Ý Đại Lợi. Năm
1930, Ngài được cử làm Ngoại trưởng cho Đức Giáo Hoàng Pius Thứ XI. Năm 1933,
Ngài lập công lớn với Toà Thánh vì đạt được thoả hiệp dung hoà với Phát Xít Đức (The 1933
Concordat). Theo thoả hiệp, Toà Thánh coi như sẽ không phát biểu ý kiến về tình
hình chính trị của Đức Quốc Xã, chẳng hạn như chuyện Đức Quốc Xã đang chuẩn bị
guồng máy chiến tranh cho cuộc Đệ II Thế Chiến. Ngược lại, Đức Quốc Xã coi như
sẽ tôn trọng thực thể và chủ quyền của Toà Thánh. Sau nầy, trên đường tiến vào
thôn tính thủ đô La Mã, thiết đoàn chiến xa Panther của biệt đội SS Phát Xít
Đức đã phải chẻ thành hai đường đi vòng qua Toà Thánh thay vì có thể san bằng
để băng qua nếu họ muốn.
Trong suốt
cuộc Đệ II Thế Chiến quan điểm của Đức Giáo Hoàng Pius Thứ XII về đường lối
tiến tới hoà bình là duy trì tư thế trung lập cho Toà Thánh đối với mọi phe lâm
chiến. Tuy nhiên, lịch sử thế giới Tây phương chỉ trích Ngài nặng nề nhất vì Toà Thánh đã không lên án Đức
Quốc Xã khi quốc gia này thẳng tay tàn sát 6 triệu người Do Thái và vì Toà
Thánh đã không tận dụng khả năng để che chở những người Ý gốc Do Thái khi mật
vụ SS Đức lùng bắt họ ở Ý Đại Lợi.
Khi một số
giới chức lãnh đạo Tây phương khuyên Joseph Stalin, Chủ tịch Đảng Cộng sản Nga
Sô nên cho người TCG – La Mã giảng đạo tự do ở Nga để lấy lòng Đức Giáo Hoàng,
Stalin hỏi, “Đức Giáo Hoàng? Đức Giáo Hoàng có mấy sư đoàn?”, [WIN], [CDQ]. Năm
1949, Đức Giáo Hoàng Pius Thứ XII kêu gọi giáo dân trên thế giới đứng lên chống
lại chủ nghĩa CS, và đồng thời tuyên bố “phạt tuyệt thông” (excommunicate) tất cả những giáo dân
nào theo CS [CUP, “Pope Pius XII]. Nhưng, tại sao chính trị lại có tôn
giáo, và tôn giáo lại có chính trị? Tổng thống Richard M. Nixon (1969-1974) đã
từng nói: “Mặc dù người CS là những người vô thần nhưng chủ nghĩa CS lại là một
tôn giáo với hơn một phần tư tín đồ trên thế giới,” [NIX, Chg. 5]. Thành thử,
ngoài vấn đề “an ninh phòng thủ” cho Hiệp Chủng Quốc, sự bành trướng của khối
“tôn giáo vô thần” CS trong thập niên năm 1950 còn là mối đe dọa trực tiếp đến
ảnh hưởng của Vatican nói riêng, và của khối TCG hữu thần nói chung. Giáo sĩ
Malachi Martin, người đã từng phục vụ trong Toà Thánh Vatican cũng đã xác nhận,
“Đức Giáo Hoàng (Pius Thứ XII) lo ngại CS
sẽ bành trướng và làm suy hại đến uy tín của Giáo hội,” [COO, Tr. 241-242].
Nhưng quan điểm của quốc gia Vatican có ảnh hưởng gì đến chiến tranh VN? Các dữ
kiện của đầu thập niên năm 1950 cho thấy Ngô Đình Diệm được Đức Giáo Hòang Pius Thứ XII gửi gắm
cho Đức Hồng Y Spellman dẫn qua HK để vận động chính trị vì quan niệm tôn giáo
nhiều hơn là vì quan niệm cho phép một quốc gia nhược tiểu như VN được sống lại
sau hơn 80 năm bị đô hộ.
Tháng 10 năm
1950, Đức Hồng Y Spellman, Linh mục McGuire và ba nhân vật Ủy Viên Chính Trị
(political churchmen) của một số Giáo phái TCG ở HK như Cha Emmanual Jacque,
Giám mục Carroll và Giáo sư Edmund Walsh đưa NĐD và Đức Cha Ngô Đình Thục đi
gặp một số nhân viên của bộ Ngoại giao HK tại khách sạn Mayflower ở Washington.
Ông Dean Rusk là một trong những nhân vật của Bộ Ngoại Giao có mặt trong buổi
cơm tối hôm đó. Sau nầy, ông Rusk làm Ngoại trưởng HK từ năm 1961 đến 1969. Mục
đích của cuộc gặp gỡ xã giao nầy là để chính phủ HK tìm hiểu về tình hình VN và
để xác định lập trường chính trị của ông Diệm và Đức Cha Thục. Sự kiện chín mươi phần trăm
người dân VN không phải là tín đồ Thiên Chúa Giáo không làm ông Diệm quan tâm
vì ông đã tuyên bố trong bữa cơm tối hôm đó rằng ông “tin tưởng vào quyền lực của
Vatican và ông chống Cộng một cách cực lực.” [COO, Tr. 242].
Với hai yếu
tố vì tôn giáo và vì chống Cộng, ông Diệm được Đức Hồng Y Spellman tiếp tục
giới thiệu với William O. Douglas, Thẩm Phán Tối Cao Pháp Viện; Thượng Nghị Sĩ
Mike Mansfield; Thượng Nghị Sĩ John F. Kennedy; Allen Dulles Giám đốc Trung
ương Tình báo CIA; và anh của ông Dulles là Ngoại trưởng John Foster Dulles
[MAN, Tr. 58]. Từ đó ông Diệm trở thành con đáp số gần như mỹ mãn trong bài
toán chính trị của mọi phe phái có ý muốn can dự vào VN:
·
Chính sách đối ngoại đang đòi hỏi HK cần phải
xây dựng một thành trì chống Cộng ở VN.
· Ngoại trưởng
John Foster Dulles đang muốn tìm
một lãnh tụ chống Cộng theo khuôn mẫu đạo đức và xã hội của người TCG.
· Đức Hồng Y
Spellman đang cần HK thay thế Pháp ở VN, và cũng cần một giáo dân trung kiên như ông Diệm để lãnh đạo công
cuộc chống Cộng như lời kêu gọi của Đức Giáo Hoàng Pius Thứ XII.
Điều còn lại
sau cùng cho kế hoạch chính trị hỗn hợp nầy là làm thế nào để giái thích cho
hội đồng chính phủ và Quốc hội HK về kinh nghiệm chính trị và khả năng lãnh đạo của NĐD? Tổng thống Eisenhower cũng
chỉ có thể trấn an hội đồng chính phủ bằng câu nói, “Trong đám thằng mù, thằng chột sẽ làm vua,” [HER]. Điều nầy cho thấy: một là ông
Diệm không có một thành tích chính trị nào đáng kể, hai là ông Diệm không có
khả năng lãnh đạo, hoặc ba là người Mỹ hoàn toàn không biết gì về ông Diệm.
Đầu năm 1954,
Ngoại trưởng John Foster Dulles khuyến dụ Pháp khuyên nhủ Bảo Đại bổ nhiệm NĐD
về VN làm Thủ tướng. Ngay sau khi hiệp định Genève vừa được ký ở Thụy Sĩ, Allen
Dulles, Giám đốc CIA lập tức gửi Edward Lansdale, một cựu Đại tá Không quân, và
một toán chuyên viên CIA sang VN với hai nhiệm vụ. Nhiệm vụ trước nhất là để
thiết lập một tổ chức gài điệp viên ra Bắc, và nhiệm vụ sau đó là để “trợ giúp đưa NĐD, một người Thiên Chúa Giáo – La Mã về làm Tổng thống,”
[TOU, Tr. 7].
Kỳ 3: Tình Báo Hoa Kỳ và Việt Nam
(Nhật báo NGƯỜI VIỆT, ngày 11 tháng 11 năm
1996)
Năm 1954, Hoa
Kỳ thật sự không xa lạ gì với tình hình chính trị ở Việt Nam. Trước đó 9 năm
nhân viên tình báo HK cũng đã có mặt ở VN nhưng với một mục đích khác. Đồng
minh của HK lúc đó sẽ là đối thủ của người mà HK đang chuẩn bị đưa về miền Nam
VN làm Tổng thống. Archimedes L.A. Patti, Trưởng phòng Hành quân của Phòng Cung
Cấp Tin Tức Chiến Lược (OSS) với bản doanh đặt tại Kunming (Trung Quốc) vẫn còn
nhớ về những ngày đầu của tháng 7 năm 1945 khi ông gửi Trung tá Allison R.
Thomas và Toán “Deer” nhảy dù vào vùng Tuyên Quang thuộc miền Bắc VN để liên
lạc với Hồ Chí Minh [PAT, Tr. 127]. Nhiệm vụ của toán tình báo nầy là thiết lập
một hệ thống phản gián dài hạn để chống lại quân đội Nhật Bổn. Các sĩ quan OSS
của Thomas huấn luyện hai biệt đội “Hành Động Đặc Biệt” của Tướng Võ Nguyên
Giáp, từ cách ăn cắp tài liệu tuyên truyền, chỉ điểm, ám sát và cho đến cấp cứu
các phi công đồng minh bị bắn rơi trên bầu trời Đông Nam Á, [PAT, Tr. 65-67,
96].
Thoạt đầu
Patti có ý muốn sử dụng tất cả các đảng phái chính trị quan trọng ở VN, theo
lối suy luận càng nhiều càng tốt. Nhưng sau nầy, ông loại bỏ Đại Việt và VN
Quốc Dân Đảng vì cho rằng các đảng phái nầy không đáng tin cậy. Theo Patti, Đại
Việt là một đảng phái thân Nhật và đã hoạt động tình báo cho quân đội Hồng Nhật
trước khi Patti sang VN, còn VN Quốc Dân Đảng là một tổ chức theo kiểu của
Tưởng Giới Thạch và thân Trung Hoa Quốc
Gia. Patti có thử sử dụng một vài người của VN Quốc Dân Đảng, nhưng các điệp
viên nầy vừa cung cấp tin tức tình báo cho HK, “vừa cho Trung Hoa Quốc Gia và vừa cho cả quân đội Pháp,” [PAT, Tr.
504,530]. Patti cho rằng Việt Minh là nhóm có thực lực duy nhất còn lại để giúp
HK chống Nhật Bổn. Sự nhận định nầy không hẳn là đúng. Chưa có một tài liệu nào
cho thấy Patti đã chính thức gặp các lãnh tụ cao cấp của Đại Việt lẫn VN Quốc
Dân Đảng trong thời gian nầy. Nếu những người mà Patti đã gặp gở chỉ là những
nhân viên ngoại vụ của các tổ chức nầy thì những điều Patti nhận định về họ chỉ
là những sự nhận định có tính cách phiến diện. Tuy nhiên điều quan trọng ở đây
là dù cho Patti có hiểu đúng hay sai về tình hình chính trị lúc đó, sự quyết
định của một sĩ quan tình báo cấp trung như ông vẫn đã thay đổi lịch sử của cả
một quốc gia như VN. Nếu HK hợp tác với các tổ chức của người Việt quốc gia thì
Pháp đã khó lòng đòi hỏi HK phải ủng hộ Pháp trở lại thuộc địa sau cuộc Đệ II
Thế Chiến.
Mặc dù vẫn
biết rằng thực chất của nhóm Việt Minh lúc đó là một tổ chức với đa số thành
viên là người Cộng Sản, Patti nhận xét rằng cái dáng vẻ “quốc gia đại chúng”
của Việt Minh là chìa khoá mà HK đang cần có để bước chân vào Đông Nam Á. Thật
sự, quyết định ủng hộ một tổ chức Cộng Sản trá hình như Việt Minh cũng không
phải là quan điểm của một cá nhân trưởng phòng OSS như Patti, mà là từ chính sách của HK
trong thời Đệ II Thế Chiến. Năm 1943, Washington cho phép tình báo OSS hợp tác
với các tổ chức kháng chiến Cộng Sản trải dài từ Âu sang Á, miễn mục đích chung
là để chống lại trục Phát Xít Nhật-Đức-Ý. Năm 1990, Nhân chuyến đi VN để dự đám
giỗ 100 tuổi của Hồ Chí Minh, Patti có cho biết các “Biệt Đội Hành Động” của Võ
Nguyên Giáp do sĩ quan OSS của ông huấn luyện ngày trước đều am hiểu về đường
đi nước bước của tình báo HK. Đây là một trong những yếu tố quan trọng đã phá
hũy toàn bộ chương trình cấy gián điệp ra Bắc của HK và miền Nam VN trong cuộc
chiến [TOU, Tr. 1].
Trong lúc hợp
tác với nhau để chống Nhật Bổn, Hồ Chí Minh được cơ hội tưởng tượng rằng
Washington sẽ công nhận một VN độc lập dưới tay ông, sau khi chiến tranh thế
giới chấm dứt. Tháng 8 năm 1945, Patti đáp xuống phi trường Gia Lâm ở Hà Nội để
chuẩn bị giải giới quân đội Nhật Bổn. Tháng 9 sau đó, Hồ Chí Minh tuyên bố độc
lập cho VN ở Công Viên Ba Đình bằng một bài diễn văn dịch lại từ bản Hiến
Chương của Hiệp Chủng Quốc, nhưng HK không lên tiếng ủng hộ. Washington cho
rằng Hồ Chí Minh đã có ràng buộc với Nga Sô (mặc dù HK đã biết từ trước) và HK thì đang cần phải ủng hộ Pháp
trở lại thuộc địa (vì vấn đề NATO). Cuối tháng 10 năm 1945, Patti và
toàn thể sĩ quan OSS thình lình rút khỏi VN. Các lá thư của Hồ Chí Minh gửi cho
Tổng thống Truman không được phúc đáp, coi như để dứt khoát một vài tháng liên
hệ ngắn ngủi và đùa dỡn với Hồ Chí Minh.
Năm 1952,
Pháp bắt đầu cảm thấy mệt mỏi với cuộc chiến tranh chống lại Việt Minh, nhất là
ở những vùng rừng núi ở miền Thượng Du Bắc Việt. Vào khoảng thời gian nầy, đa
số những người VN không chấp nhận cộng sản cũng đã rời bỏ tổ chức Việt Minh.
Khi Pháp lên tiếng kêu gọi HK viện trợ để Pháp “chống cộng”, David Whipple, một
sĩ quan tình báo của Toà Lãnh Sự HK ở Hà Nội đã kể lại một sự tranh chấp quan
trọng giữa hai quan điểm chính trị tương phản của HK lúc đó. Quan điểm thứ nhất
là của Donald Heath, Đại sứ HK tại Hà Nội, Heath muốn HK tiếp tục ủng hộ Pháp
và nhóm người Việt thân Pháp để chống Việt Minh. Quan điểm thứ hai là của Ed
Gullian, Phụ Tá Trưởng Phòng Tình Báo cho Toà Lãnh sự HK. Gullian cho rằng HK không thể có chính nghĩa
trong việc chống cộng ở VN nếu chỉ tiếp tục ủng hộ Pháp và nhóm thân Pháp,
mà còn cần phải ủng hộ cả nhóm VN Quốc Dân Đảng. David Whipple giải thích, “Pháp và Việt Minh có một sự tương quan về
vấn đề VN Quốc Dân Đảng. Việt Minh cần tiêu diệt mọi phe nhóm quốc gia càng
nhiều càng tốt. Hành động nầy đã quá rõ ràng. Pháp thì muốn tiêu diệt VN Quốc
Dân Đảng vì tổ chức nầy là của người quốc gia chân chính và vì VN Quốc Dân Đảng
có vẻ có chính nghĩa để được quốc tế ủng hộ, kể cả HK. Pháp muốn thế giới Tây
phương thấy rằng họ đang chiến đấu chống lại Việt Minh, một tổ chức của Cộng
Sản, hơn là chống lại VN Quốc Dân Đảng, một tổ chức của người Quốc Gia chân
chính ... Thành thử, Pháp
và Việt Minh vừa chống nhau mà cũng vừa hợp tác với nhau để tiêu diệt VN Quốc
Dân Đảng” [TOU, Tr. 4].
Trong khi Ed
Gullian qua mặt Donald Heath để ráo riết yêu cầu Washington ủng hộ VN Quốc Dân
Đảng trước khi Pháp và Việt Minh ra tay tiêu diệt đảng nầy, David Whipple liên
lạc với người của VN Quốc Dân Đảng để tìm hiểu về lập trường của họ và đồng
thời cũng để bầy tỏ tư thế của HK trong cuộc chiến “Pháp-Cộng”. Tuy nhiên
Washington quyết định không can thiệp vào vụ VN Quốc Dân Đảng. Điều nầy cho
thấy, vì quyền lợi với
Pháp, Washington đã từ chối cứu VN Quốc Dân Đảng mặc dù vẫn biết rằng quân đội
Viễn Chinh và các binh đoàn Thuộc Địa không có chính nghĩa bằng VN Quốc Dân
Đảng trong con đường chống Cộng.
Năm 1954, khi
VN Quốc Đân Đảng chỉ còn là một tổ chức trên hình thức nhiều hơn là trên thực
tế, và khi Pháp cũng sửa soạn rời bỏ VN vì đã thua Việt Minh, Washington bị hụt chân trong
chính sách chống Cộng ở VN nên quay sang ủng hộ nhóm giáo dân VN, vì cho rằng
đoàn thể TCG – La Mã là nhóm người có đủ lý do và thực lực để giúp HK chống
Cộng tới cùng. Trong buổi phỏng vấn ngày 13-04-1994 với một cựu Trưởng
Phòng Tình Báo của bộ Quốc Phòng HK, David Whipple cho thấy sự sai lầm của HK
khi xem nhóm người TCG – La Mã là một khối có một thực lực đồng nhất. Whipple
nói, “Điều nầy có thể đúng trên nhản quan của Vatican, nhưng ở VN
mỗi Giám mục của một giáo phận là một lãnh chúa với đường lối cai quản khác
nhau” [TOU, Tr. 5]. Mặc dù có một tinh thần chống cộng rất cao và
kinh nghiệm của cuộc chiến Pháp-Cộng năm xưa, các giáo dân thường có khuynh
hướng tin tưởng nhau vì mức đồng đạo hơn là dựa trên những điều tra về lý lịch
một cách căn bản. Điều nầy đã trở thành một cơ hội thuận lợi cho người Cộng sản
dễ bề trà trộn vào đoàn giáo dân di cư và xâm nhập vào Nam trong năm 1954.
Một trong
những trường hợp điển hình nhất là vụ Phạm Xuân Ẩn. Ông Ẩn được coi là một tín đồ TCG - La Mã sùng đạo nên rất được lòng tin cậy
của hai Đức Giám mục của Giáo phận Bùi Chu lẫn Phát Diệm. Năm 1954, ông
tháp tùng theo Đức Giám mục Lê Hữu Từ vào Nam với một sứ mạng hoàn toàn ngược
lại với tinh thần chống Cộng của Đức Giám mục Từ. Khi Đại tá Edward Lansdale
qua Sài Gòn cũng vào năm 1954, ông Ẩn đến liên lạc và xin gia nhập vào tổ chức
cấy gián điệp ra Bắc. Sau khi được nhiều người chứng nhận là một “giáo dân
trung kiên,” ông Ẩn bắt đầu làm việc cho văn phòng tình báo HK dưới danh xưng
trá hình là văn phòng Sứ Quán Quân Sự Sài Gòn (Saigon Military Mission). Cả
Lansdale và Đức Giám mục Từ đều không biết được Phạm Xuân Ẩn là một sĩ quan
tình báo Cộng Sản với hơn 10 năm đảng tịch. Lúc còn ở ngoài Bắc, ông là Trưởng
Phòng Tình Báo của Việt Minh ở tỉnh Thái Bình. Ông được chỉ thị vào Nam với mục
đích xâm nhập vào tổ chức của Lansdale.
Kỳ 4:
(Nhật báo NGƯỜI VIỆT, ngày 12 tháng 11 năm
1996)
Thật ra Cộng
sản cũng không phải tốn bao nhiêu công sức để tìm hiểu về hoạt động tình báo
của HK. Trước khi qua Sài Gòn, Đại tá
Edward Lansdale đã nổi tiếng là một sĩ quan tình báo có thành tích chống
cộng hữu hiệu ờ Philippines. Còn Thiếu tá Lucien Conein, phụ tá cho Lansdale là
cựu sĩ quan OSS đã từng theo Archimedes Patti ra Bắc huấn luyện cho các biệt
đội tình báo của Võ Nguyên Giáp hồi năm 1945. Thành thử, Cộng Sản chỉ cần nhắm
vào hai sĩ quan tình báo cao cấp nầy là có thể tìm ra được nhiều chi tiết hoạt
động khác. Trong hai năm đầu của kế hoạch cấy người ra Bắc (1954-1956), nhóm
của Lansdale đã gởi tổng cộng khoảng 20 điệp viên và một số vàng trị giá gần 1
triệu đô-la thời đó. Được biết, số vàng nầy được chôn dấu dưới các căn nhà có
nền xi-măng với mục đích để tổ chức một số lực lượng nổi dậy từ ngoài Bắc, nếu
miền Nam bị đánh chiếm.
Thoạt đầu các
gián điệp còn gởi báo cáo. Có tin còn cho hay số vàng đã được chôn dấu kỹ
lưỡng. Tuy nhiên đến cuối năm 1956, mọi liên lạc với ngoài Bắc đều bị mất dấu
một cách đột ngột. “Lou” Conein nói, “Miền Bắc hoàn toàn yên lặng. Giống như cái
xách tay bị lũng đáy, (và đồ mất tự lúc nào mà không ai hay biết).” Năm 1961,
CIA có nghĩ đến chuyện sử dụng điệp viên của Russ Miller để ra Bác thâu hồi lại
số vàng, nhưng kế hoạch bị hủy bỏ vì không có cơ hội thành công [TOU, Tr. 26].
Ngoài chuyện
Phạm Xuân Ẩn, tình báo HK còn bị thêm một yếu tố khác, có ảnh hưởng ít nhiều
đến sự thất bại của các toán biệt kích nhảy Bắc trong suốt thập niên năm 1960.
Năm 1954, trước khi triệt thoái khỏi VN, quân đội Viễn chinh Pháp có gởi một số
sĩ quan người Việt từ các tiểu đoàn Thuộc Địa qua Pháp để được huấn luyện về
tình báo. Lê Văn Bưởi, một cựu Thiếu tá Tình báo đang nằm chờ chết ở bịnh viện
New York vì bịnh sưng màn óc, vẫn còn nhớ về những ngày khi ông được Pháp chọn
đi thụ huấn. Lúc đó, ông là một thanh niên TCG – La Mã vừa ngoài 20 tuổi và rất
sùng đạo. Ông nói, “Người Pháp cần những người Công
giáo trung thành như chúng tôi để làm tai mắt cho họ trong cộng đồng VN. Khi
Điện Biên Phủ mất, tôi là một trong những người được chọn đi Pháp để học khoá
tình báo. Mục đích chính là để thành lập một nhóm Công giáo trung kiên ở lại
miền Bắc làm gián điệp, sau khi Pháp rút đi trong năm 1955” [TOU,
Tr. 61]. Thiếu tá Bưởi sau này được biệt phái ra miền Trung làm điệp viên cho
tổ chức tình báo của Ngô Đình Cẩn. Trong một điệp vụ riêng cho ông Cẩn, ông
Bưởi bị Cộng sản bắt và cầm tù hơn 20 năm trên đất Bắc.
Việc người
Pháp bố trí một mạng lưới gián điệp ở lại miền Bắc cho thấy Pháp vẫn còn có ý
muốn trở lại VN trong một tương lai gần. Tuy nhiên, đến đầu năm 1956, sau khi
thấy cơ hội không thể nào thực hiện được phần lớn vì không còn được HK ủng hộ, Pháp chuyển giao các hồ sơ của
mạng lưới gián điệp miền Bắc lại cho một vị linh mục. Theo Thiếu tá Bưởi,
vị linh mục đó sau nầy
được gọi về Vatican để nhận lãnh một chức vụ khác có liên quan đến vùng Đông
Nam Á. Thỉnh thoảng, vị linh mục nầy có trở qua VN, giảng đạo ở thánh đường
Huế. Mỗi lần qua, ông mang theo một số hồ sơ gián điệp của Pháp và giao lại cho
Ngô Đình Nhu, cố vấn miền Nam của Ngô Đình Diệm. Sau nầy, cuối thập niên
năm 1950, ông Nhu có chia sẽ một số hồ sơ đó cho tình báo HK, nhưng số lượng đó
không cung ứng đủ tin tức để HK có thể thẩm định về tình hình của Cộng sản ở
miền Bắc. Ngược lại, một số tin tức do tình báo HK gởi ra cho các gián điệp nầy
để chuẩn bị đón nhận các toán biệt kích xâm nhập của HK đều gần như bị bại lộ.
Theo tài liệu
“Đạo Quân Bí Mật, Chiến Tranh Bí Mật”,
do Viện Ngiên Cứu Chiến Tranh Đặc Biệt của bộ Hải Quân HK vừa xuất bản hồi cuối
năm 1995, toàn bộ kế hoạch Oplan-34 Alpha
thả biệt kích ra Bắc từ năm 1961 đến năm 1967 bị thất bại một cách đáng kinh
ngạc. Mãi đến khi Oplan-34 Alpha bị “đóng sổ”, HK mới biết được kế hoạch nầy có
nội tuyến, ít nhất là ở hai trường hợp tiêu biểu. Trường hợp thứ nhất là việc
một sĩ quan Truyền Tin của sở Liên Lạc là một gián điệp Cộng sản. Sở Liên Lạc
có nhiệm vụ phối hợp với tình báo HK để thả biệt kích, và phần lớn mọi liên lạc
với miền Bắc đều qua phòng thông tin của cơ quan nầy. Trường hợp thứ hai là
Phạm Chuyên, một gián điệp Cộng sản được gài vào Sài Gòn để làm gián điệp đôi.
Năm 1959,
Phạm Chuyên từ miền Bắc trốn vào Nam xin chiêu hồi. Ông tự khai là cháu của
Phạm Văn Đồng, Thủ tướng của Cộng sản Bắc Việt và có đảng tịch khá cao. Tổ chức
tình báo của bác sĩ Trần Kim Tuyến thâu nạp, cải huấn, và sau nầy đưa ông Chuyên
qua cho HK sử dụng. Theo tài liệu của Liên Đội Cố Vấn Thám Sát (MACSOC)[4], Bộ
Quốc Phòng HK, kế hoạch Oplan-34 Alpha đã thả tổng cộng là 52 toán với gần 500
biệt kích ra Bắc. Phạm Chuyên với bí danh ARES là toán đầu tiên, một người một,
nhảy Bắc tháng 2 năm 1961 và vẫn còn giữ điện thoại thường xuyên với miền Nam
cho đến tháng 4 năm 1969. Tất cả 51 toán còn lại đều được ghi nhận là đã bị mất
tích, bị phục kích giết hoặc bị bắt ngay tại địa điểm thả. Toán cuối cùng là
toán VOI, 4 người nhảy ngày 18-10-1967, bị mất liên lạc ngay sau khi xâm nhập.
Trong cuộc
chiến tình báo, Cộng sản chẳng những đã cấy điệp viên ngay trong lòng tình báo
của miền Nam VN và HK, mà còn có cả kế hoạch gài phản gián ngay trong mạng lưới tình báo TCG – La Mã “được chỉ thị ở lại miền Bắc.” Kế
hoạch nầy là để đề phòng trường hợp có toán thoát khỏi lưới phục kích ở địa
điểm xâm nhập. Biệt kích Trần Quốc Hùng xâm nhập thành công bằng đường biển vào
HàTỉnh ngày 08-05-1962. Sau đó, ông lên Hà Nội để móc nối và bị bắt ngay tại ngôi nhà thờ mà
ông nói rằng ông có nhiệm vụ “liên lạc
với những linh mục đã từng cộng tác với Pháp trước năm 1955,” [TOU,
Tr. 59]. Ông Hùng không thể nào biết được rằng đầu năm 1962, biệt đội phản gián
đặc trách về việc chống lại các tổ chức TCG – La Mã, thuộc sở Công An Hà Nội,
thừa hành Sắc Lệnh Tập Trung của đảng Cộng sản đã bắt giam gần hết các giới
chức hàng giáo phẩm TCG – La Mã ở miền Bắc. Đa số các nhân vật còn lại là những
thành phần đã chấp nhận làm “tai mắt” cho Cộng sản, hoặc đã được Cộng sản cho
tự do để dễ bề theo dõi.
Năm 1989,
trong một buổi phỏng vấn người Việt tị nạn, một vị linh mục gốc Hà Nội đã khai với nhân viên điều tra
của Thượng Viện HK rằng ông đã từng hợp tác với tình báo Cộng sản VN.
Đầu thập niên năm 1960, Đảng Cộng sản nói với những người như ông rằng mọi
người cần phải hợp tác với chính quyền và đề cao cảnh giác về “những hoạt động xâm nhập của ngoại bang”.
Ngoài khía cạnh tín ngưỡng, vị linh mục nầy có lẽ đã tin tưởng về một sự độc
lập cần thiết cho VN sau gần một thế kỷ bị đô hộ nên chấp nhận hợp tác với sở
Công An Hà Nội. Sau hơn 2 năm báo cáo các tin tức phản gián cho Cộng sản, ông
bị bắt giam 15 năm khổ sai, không một lời tuyên án. Vị linh mục già ngồi khoanh
hai tay trước ngực, người đong đưa nhè nhẹ trước tiếp liều tị nạn, như để vơi
đi cơn đau. Khi được hỏi về những năm tù ở các trại giam Phong Quang và Tuyên
Quang, ông chỉ có thể gằng được hai chữ, “Khổ nhục”. Vì ý thức chính trị hay
tôn giáo, hơn một thế hệ người Việt đã trở thành những chiếc lá khô trong trận
bão dân tộc, mặc cho căm thù dày xéo lên đời họ một cách vô nghĩa.
Vài Lời Ngõ Trước Khi Tiếp Tục Theo Dõi.
Chiến tranh VN
là một cuộc chiến tranh dai dẳng và phức tạp nhất quân sử thế giới hiện đại. Từ
năm 1945 đến năm 1975, nhiều dữ kiện cho thấy các phe nhóm tham dự cuộc chiến
gồm có: Cộng Sản, Quốc Gia, Thực Dân Pháp, các đảng phái chính trị, các đảng
phái tôn giáo, Hoa Kỳ và khối Đồng Minh. Nhưng dù muốn dù không, HK vẫn là siêu
cường đã có ảnh hưởng trực tiếp nhất cho toàn bộ cuộc chiến. Thành thử, các
khiá cạnh từ phiá hậu trường chính trị HK vẫn nói lên một giá trị quan trọng và
đặc thù về những cái nhìn của giới chính khách của HK trong suốt thời gian
chiến tranh.
Tuy nhiên, để
có thể tiếp tục theo dõi và phân tích các diễn biến, vấn đề cần được khẳng định
ngay từ lúc nầy là mỗi người trong chúng ta cần phải chuẩn bị cho mình một tinh
thần cởi mở, hết sức vô tư và vô cùng bình tĩnh trước những dữ kiện lịch sử. Nếu có những điểm nào có liên hệ
đến một vài đoàn thể của tôn giáo thì đó cũng có thể vì một vài nhân vật đã tự
nguyện bước ra khỏi phạm vi của tôn giáo thuần túy để dấn thân vào lãnh vực
chính trị hoặc quân sự. Nếu có những điểm nào cho thấy một số người lợi
dụng tôn giáo để mưu đồ tham vọng cá nhân, xin hãy đừng quên rằng đa số các tín
đồ chân chính của tôn giáo đó cũng là những nạn nhân trực tiếp nhất của sự lợi
dụng, và chính xương máu của họ cũng đã đổ xuống một cách oan uổng.
Chiến tranh
VN là nỗi nghiệt ngã chung cho toàn thể người VN, không phân biệt ý thức chính
trị hoặc tôn giáo. Mặc dù phải chịu ảnh hưởng xung đột ý thức hệ giữa các trục
siêu cường, một số nhân vật lãnh đạo của cả hai miền Nam Bắc cũng đã từng bám
víuvào thời thế để bành trướng mộng bá vương hoặc để trục lợi hoàn cảnh, mặc
cho người dân phải hứng chịu những tai ương tàn khốc. Thành thử, nếu muốn tạo
dựng lại một tinh thần VN đoàn kết và vững chắc, tất cả mọi người VN chúng ta
cần phải có khát vọng muốn tìm hiểu về những gì đã thật sự xãy ra cho quê hương
nhược tiểu. Hiểu để thông cảm, để chia sẽ khổ đau của nhau. Hiểu để không còn đố
kỵ và hiềm khích nhau. Nhất là hiểu để biết được tư thế của người Mỹ trong vấn
đề chính trị trong tương lai. Cách đây 122 năm, triết gia Friedrich Nietzsche
có nói, “Chỉ có những cá tính cứng cỏi
mới có thể chịu đựng được lịch sử, còn những người nhẹ dạ đều đã bị lịch sử
thiêu hủy.”
Nền Đệ I Cộng Hoà.
Ngày
10-06-1954, Vua Bảo Đại ký sắc lệnh 38/QT chuyển giao toàn quyền quyết định về
dân sự lẫn quân sự cho Ngô Đình Diệm. Một tuần sau, ngày 26-06-1954, ông Diệm
về nước nắm chức Thủ tướng. Ngày 07-07-1954, ông ra mắt Hội Đồng Nội Các gồm 16
tổng bộ trưởng. Vài năm
sau, 14 trong 16 vị tổng bộ trưởng đó đã đứng qua tư thế đối lập hoặc trở thành
kẻ thù của ông Diệm.
Đầu năm 1955,
trong một cuộc tranh chấp quyền lực với Trung tướng Nguyễn Văn Hinh, Tổng Tham
mưu trưởng Quân đội Miền Nam VN, một sĩ quan của Pháp đưa về để bảo vệ Bảo Đại,
ông Diệm bị Bảo Đại cách chức vì lý do không còn được tín nhiệm. Tuy nhiên HK đồng ý trả 100
triệu đô-la bằng viện trọ quân sự cho quân đội Viễn chinh để Pháp chấm dứt ủng
hộ Bảo Đại nên ông Diệm có tư thế không tuân hành lệnh giải nhiệm. Ngày
23-10-1955, qua sự vận động của tình báo HK và một số văn bút ở Sài Gòn, ông
Diệm tổ chức một cuộc trưng cầu dân ý. Trước khi trở về HK để lánh mặt trong
cuộc bầu cử, Đại tá Edward Lansdale căn dặn ông Diệm, “Trong lúc vắng mặt, tôi không muốn bỗng nhiên nhận được tin ông đắc cử
với tỉ số 99.99 phần trăm số phiếu,” [MCC, Tr. 62]. Ông Diệm đắc cử với tỉ
lệ 98.2% và kết quả
nầy cho phép ông chính thức truất phế Bảo Đại. Sau khi chỉnh đốn một số tệ trạng
xã hội và củng cố quyền lực, ngày 26-10-1956, ông lên làm Tổng thống, dưới thể
chế của một nền cộng hoà đầu tiên của miền Nam VN.
Kỳ 5:
(Nhật báo NGƯỜI VIỆT, ngày 13 tháng 11 năm
1996)
Từ năm
1954-1956 quyền của Tổng thống Ngô Đình
Diệm thể hiện một số thành quả có tính cách cải cách xã hội. Chẳng hạn như vụ
bài trừ á phiện, đóng cửa sòng bạc Kim Chung Đại Thế Giới, đóng cửa xóm mãi dâm
Bình Khang, và truy tố một số chính khách về tội biển thủ ngân sách quốc gia.
Tuy nhiên dư luận quốc tế khâm phục nhất là việc ông giúp đỡ cho hơn 850 ngàn
người VN từ Bắc định cư trong Nam, trong số đó có hơn 700 ngàn là người TCG – La Mã. Thế giới Tây
phương nhìn ông qua hình ảnh của một Thánh Moses đang dẫn dắt các con Chúa về
miền đất hứa. Nhiều người ngoại quốc gốc TCG, sau khi hay tin cuộc di dân, đã
tình nguyện qua VN làm công tác nhân đạo và xã hội trong các chương trình định
cư. Một số viết sách ca ngợi thành quả tốt đẹp của nền Đệ I Cộng Hoà, làm tăng
thêm uy tín ông Diệm trước quốc tế. Nhưng nếu thế giới Tây phương khen ngợi và HK đã lên tiếng
khẳng định ủng hộ cũng như cương quyết bảo vệ ông Diệm cho đến gần cuối thập
niên năm 1950, thì tại sao ông lại bị “bỏ rơi” cho đến sụp đổ trong năm 1963,
và bằng một cái chết quá thê thảm?
Sự Ra Đi
Trong Giới Quyền Lực.
Một trong những lý do quan trọng trong vấn đề Tổng
thống Ngô Đình Diệm bị “mất tín nhiệm” với Tây phương là sự thay đổi trong giới quyền lực
quốc tế đã từng ủng hộ ông trong thập niên năm 1950. Đức Giáo Hoàng Pius
thứ XII mất năm 1958. Từ đó giáo hội TCG – La Mã đeo đuổi một quan điểm mới
trong vấn đề đối ngoại. Nếu quan điểm của giáo hội trong thập niên năm 1940 là
thoả hiệp với người Phát-Xít nhưng không thể dung hoà được với người Cộng sản
thì bước sang những năm cuối cùng của thập niên năm 1950 và đầu thập niên 1960,
giáo hội cũng đã bắt đầu
thấy rằng chống Cộng bằng vũ lực hầu như không giải quyết được vấn đề cho nhân
loại, nhất là ở VN. Quan điểm có tính cách chuyển hướng nầy là tư tưởng của Đức
Giáo Hoàng John thứ XXIII, người thừa kế Đức Giáo Hoàng Pius thứ XII.
Đức Giáo Hoàng John thứ XXIII tên thật là Angelo
Giuseppe Roncali sanh năm 1881 tại Ý. Trong lãnh vực chính trị và ngoại giao,
Ngài đã từng là thành viên ngoại giao cho toà thánh ở vùng Balkan và Trung Đông
(1925-1944), Đại sứ cho toà thánh (Đức Khâm Sứ) ở Pháp (1944-1953), và Đức Hồng
Y của Venice (1953). Trên cương vị của một Đức Giáo Hoàng, Ngài rất chú trọng
đến các vấn đề: cải tổ đường lối hoạt động của toà thánh, chủ trương sống hoà
bình với thế giới, đề cao chuyện an cư lạc nghiệp cho xã hội, và khuyến khích
đàm thoại giao hữu với các giáo phái khác, điển hình là việc hoà giải với giáo
phái Tin Lành (Protestants) hồi năm 1962.
Ngài triệu họp đại hội Cộng Đồng Vatican II mà mục
đích chính là để điều nghiên lại tư thế của giáo hội trong bối cảnh của thế
giới hiện đại. Thập niên năm 1960 được ghi nhận là thập niên có nhiều biến
chuyển quan trọng trong vấn đề ý thức hệ của nhiều sắc dân trên thế giới. Năm
1870, nếu Cộng Đồng Vatican I [5] đã phán quyết rằng “chủ trương của Đức Giáo Hoàng không bao giờ sai” thì 97 năm sau, Cộng Đồng Vatican II biểu quyết
rằng chủ trương của Đức
Giáo Hoàng vẫn có thể được sửa đổi để cho phù hợp với tình thế của xã hội.
Kết quả của đại hội Cộng Đồng Vatican II kêu gọi nhiều sự cải tổ từ trong căn
bản của giáo luật, chẳng hạn như: không còn nghiêm cấm chuyện lấy người “ngoại
đạo”, chấp nhận chuyện thờ cúng ông bà tổ tiên, và cho phép làm lễ bằng ngôn ngữ
địa phương thay vì bằng tiếng Latin, vân vân. Nói cách khác, Đức Giáo Hoàng
John thứ XXIII là Đức Giáo Hoàng được thế giới yêu mến nhất trong lịch sử hiện đại
[CUP, “John XXIII”].
Năm 1962 cũng là thời điểm mà một số giới chức Việt
Nam đã cho rằng chính quyền của Tổng Thống Ngô Đình Diệm có gửi người đi họp mật
với Cộng Sản Bắc Việt để tìm một giải pháp mới cho cuộc chiến tranh Việt Nam
[NGU, Trg.?].
Tiếp tục với chuyện ra đi trong giới quyền lực quốc tế,
Ngoại trưởng John Foster Dulles bị bịnh chết năm 1959, Allen Welsh Dulles, Giám
đốc CIA bị mất chức năm 1961 và Dwight Eisenhower hết nhiệm kỳ tổng thống cũng
vào năm 1961. Từ đó người
gần như là duy nhất còn lại và có quyền hành để có thể tiếp tục ủng hộ ông Diệm
hay không là Tổng thống John Fitzgerald Kennedy. Tuy nhiên vấn đề không
thể chỉ đơn giản ở chỗ “quyền lực ủng hộ” đã bị thay đổi. Theo các điểm đã
trình bày ở phần “Xây Dựng Thành Trì Chống Cộng” thì những người đã ra đi đều
là những người đã chọn ông
Diệm vì lý do tôn giáo nhiều hơn là
vì nhu cầu chiến lược toàn cầu của Hiệp Chủng Quốc. Bài toán chính trị
hỗn hợp của những phe nhóm muốn can dự vào VN của thập niên năm 1950 vẫn còn
một hàm số để làm hậu thuẫn cho Tổng thống Ngô Đình Diệm, nếu HK nghĩ rằng ông
Diệm vẫn còn đủ thực lực để “chống Cộng” theo cường độ “cực lực” mà ông đã phát
biểu. Điều gì đã làm HK không còn tín nhiệm ông?
Hung Thần
Tây Ban Nha.
Năm 1971, dựa theo tập tài liệu “Hồ Sơ Ngũ Giác Đài”, bình luận gia Neil Sheehan có đúc kết một phần
nhận định về chính quyền của Tổng thống Ngô Đình Diệm như sau, “Ngay từ những ngày đầu, chính cá nhân của Tổng thống Diệm và quan niệm
chính trị của ông đã làm giảm thiểu hiệu năng của chính quyền … Được trưởng
thành trong một gia đình vừa cuồng tín theo TCG - La Mã, vừa mang nặng tính
phong kiến của giai cấp quan lại thống trị, ông Diệm là một người độc đoán, cô
chấp, thơ lại, đa nghi và câu nệ về phương diện luân lý. Tinh thần của ông là
tinh thần của một ‘Spanish Inquisitor’ …,” một loại hung thần của Tây Ban Nha thời Trung
Cổ, [SHE, Tr. 70-72].
Ngô Đình Diệm làm quan lên đến chức Thượng thư Bộ Lại,
tương đương với chức Bộ Trưởng Giáo Dục gần 10 năm cho triều đình thân Pháp, trong thời kỳ
đất nước còn bị đặt dưới quyền bảo hộ của người Pháp (1923-1933). Ngô Đình
Khôi, anh của Ngô Đình Diệm, làm Tổng Đốc ở Quảng Nam, tương đương với chức
tỉnh trưởng, cho đến khi bị Việt Minh xử tử cùng với người con trai lớn vì mang
tội theo Pháp. Năm 1885, trong khi người VN trong phong trào Cần Vương phò vua
Hàm Nghi nổi lên chống Pháp, Ngô Đình Khả, thân phụ của Tổng thống Diệm, làm
quan chức An Phủ Sứ chuyên lo việc “dẹp loạn” dưới quyền điều khiển của một sĩ
quan Viễn Chinh, một Ủy Viên Chính Phủ Bảo Hộ vùng Bắc Trung Kỳ. Sau năm 1893,
ông Khả được phong làm Tổng Quản Cấm Thành (Palace Superintendent) dưới thời
vua Thành Thái.
Năm 1984, chương trình “Vietnam: A Television History” trên đài PBS có đối chiếu hai khúc
phim tài liệu của 2 lãnh tụ trong cuộc chiến tranh “Quốc-Cộng”: một người là Hồ
Chí Minh với miếng khăn trầu, đang đứng dưới sình lầy cấy mạ với nông dân; và
một người là Ngô Đình Diệm đang ngồi chễm chệ trên chiếc ghế bành của một chiếc
thuyền, do một số sĩ quan đang đứng dưới đẩy, theo sau là một toán lính bồng
súng trong tư thế giàn chào hơn là để
bảo vệ. Điều nầy cho thấy, nếu Hồ Chí Minh là một người với nhiều thủ đoạn,
đang diễn xuất dưới sình với chủ đích mị dân trong hoàn cảnh đấu tranh chính
trị của đất nước thì hình
ảnh của Ngô Đình Diệm trên chiếc thuyền nhắc nhở cho khán giả HK về các triều
đại phong kiến hồi thế kỷ thứ 19 ở các nước thuộc địa, nhiều hơn là về một tổng
thống của một nền dân chủ hay cộng hoà.
Đúng hay sai, “Hồ Sơ Ngũ Giác Đài” vẫn hướng người Mỹ
về con người của Tổng thống Ngô Đình Diệm. Lời nhận định vừa nêu ra cho thấy
hồi năm 1954 nếu Ngoại trưởng John Foster Dulles và một thiểu số chính khách HK
đã chọn ông Diệm trên căn bản của một người có cùng một niềm tin nơi TCG
(Christianity) cùng đạo và cực lực chống Cộng thì năm 1963 hình ảnh của một Spanish Inquisitor là một trong
những lý do quan trọng mà HK không dám và không thể tiếp tục ủng hộ ông.
Thành thử muốn hiểu được thái độ của HK và của thế giới Tây phương nói chung
đối với các “Spanish Inquisitor”, những danh từ như “inquisitor” và “inquisition” cần phải được tham khảo một
cách cặn kẻ và đúng theo nguyên vị của chúng trong lịch sử.
“Inquisition” có 3 nghĩa tùy theo lối sử dụng trong
câu văn. Thứ nhất là một sự kết tội và tuyên án của toà thánh TCG – La Mã (The
Roman Catholic Church) đã từng áp đặt nhằm mục đích đè bẹp các giáo phái khác. Thứ hai
là một cuộc điều tra có tính cách vi phạm đến đời tư và quyền tư hữu của người
khác. Và thứ ba là một cuộc tra khảo có tính cách nghiêm khắc và tàn nhẫn [MIF,
“Inquisition”]
Kỳ 6:
(Nhật báo NGƯỜI VIỆT, ngày 14 tháng 11 năm
1996)
“The Spanish
Inquisition” là thời kỳ hoàng gia Tây Ban Nha ra lệnh bắt bớ và tàn sát những
người theo các giáo phái khác vì cho là “dị giáo”. Thời kỳ nầy bắt đầu từ năm
1478, khi Hoàng Hậu Isabella de Castille khởi động phong trào bắt bớ những
người Do Thái mặc dù đã theo TCG – La Mã nhưng vẫn còn bí mật duy trì những tục
lệ của Do Thái Giáo. Năm 1483, Vua Ferdinand và Hoàng Hậu Isabella cử giáo sĩ
Tomas de Torquemada của giòng tu Spanish Dominican lên nắm quyền tư lệnh để thi
hành chương trình “Iquisition” trên toàn lãnh thổ và những vùng thuộc địa của
Tây Ban Nha. Năm 1487, Đức Giáo Hoàng Innocent thứ VIII phong thưởng cho giáo
sĩ de Torquemada danh hiệu “The Grand Spanish Inquisitor”, một “inquisitor” vĩ
đại, và ra lệnh khởi động chương trình “Inquisition” trên toàn thế giới.
Ngày
31-03-1492, Hoàng gia Tây Ban Nha ra sắc lệnh bắt buộc 150 ngàn người Do Thái ở
thành phố Granada phải bán tháo hết của cải để rời khỏi Tây Ban Nha trước ngày
31 tháng 7 vì lý do để làm sạch cho “danh dự và sự rực rở của Thượng Đế”. Hàng
ngàn người Do Thái phải miễn cưỡng “theo đạo” nhưng sau nầy vẫn bị nguyền rủa
là “Los Marranos” (Loài Heo Dơ Bẩn). Hơn 60 ngàn người phải đút lót tìm đường
vào định cư ở Bồ Đào Nha. Một số khác được Hoàng đế Bajazet của Ottoman (Cổ Thổ
Nhỉ Kỳ) thâu nhận, mặc dù giáo phái chính của đế quốc nầy là Chánh Thống Giáo
(Orthodox).
Năm 1499, một
“Spanish Inquisitor” khác là Tướng Francisco Jimenez de Cisneros áp đặt phương
cách làm lễ biến đổi những người “dị giáo” sang TCG – La Mã một cách tập thể,
và chuyện nầy đã bắt lửa cho cuộc đại loạn đẫm máu ở Granada. Năm 1543, các
“Spanish Inquisitor” ra lệnh xử đốt những người Tin Lành (Protestants) trên các
phong thánh giá. Cuộc đàn áp tôn giáo nầy kéo dài 342 năm. Năm 1820, khi Hoàng
đế Ferdinand thứ VII ra lệnh chấm dứt thời kỳ “Inquisition” thì đế quốc Tây Ban
Nha cũng đã mất gần hết các thuộc địa vùng Trung Mỹ, [TRA, “Human Rights and
Social Justice”: 1478, 1483, 1492, 1499, 1543, 1820]. Gần thế kỷ sau, ngày
14-11-1994, trong một bài hiệu triệu gởi các hàng giáo phẩm của TCG – La Mã,
Đức Giáo Hoàng John Paul thứ II lên tiếng kêu gọi “Giáo hội của Ngài cần phải ăn năn thống hối đối với những tội lỗi mà
người TCG – La Mã đã lầm lẫn gây ra trong quá trình lịch sử, chỉ vì họ đã bảo
vệ đức tin một cách quá nhiệt thành”. Ngài nói, “Giáo hội TCG – La Mã không
thể nào bước qua được ngưỡng cửa của thiên niên kỷ mới nếu không khuyến khích
giáo dân hãy rửa mình cho tinh khiết, bằng cách ăn năn về những lỗi lầm trong
quá khứ”, [LAT].
Hoa Kỳ và Tôn Giáo.
Đối với HK,
mặc dù là một đất nước được gầy dựng trên nền tảng luân lý và đạo đức của niềm
tin nơi Thiên Chuá (Judeo-Christian), tổ tiên của người Mỹ là những người Âu châu đã từng bỏ
chạy qua đây để tránh sự ruồng bắt của Toà Thánh La Mã trong thời kỳ
“Inquisition”. Thành thử, Hiến Pháp HK nghiêm cấm và tách rời mọi sự
liên hệ về quyền lực chính trị giữa chính quyền và tôn giáo, không phải chỉ vì
trình độ ý thức chính trị cao mà còn là vì những kinh nghiệm đau đớn có thật
lúc trước. Nếu HK đã cấm bang giao với Cộng Sản Trung Quốc trong 23 năm
(1949-1972), với Cộng Sản VN trong 19 năm (1975-1994) vì không tương quan trên
chính kiến và quyền lợi, thì HK cũng đã từng cấm bang giao với Vatican trong
117 năm (1867-1984). Điều nầy cho thấy, trong thập niên năm 1950, Ngô Đình Diệm
được Đức Hồng Y Spellman và các Ủy Viên Chính Trị Tôn Giáo của một số nhà thờ
Mỹ đưa đi gặp một số giới chức HK chẳng những phải bằng trường hợp bí mật để
che dấu nhân dân HK mà còn không thể nào hợp pháp được với hiến pháp của Hiệp
Chủng Quốc. Trong khi ông Diệm cho giới chức HK biết rằng ông “tin tưởng vào
Vatican và ông chống Cộng cực lực” thì năm 1960, Thượng nghị sĩ John F. Kennedy
đã phải khẳng định với Phó Tổng thống Richard Milhous Nixon và hằng chục triệu
người Mỹ rằng mọi quyết định của ông trên cương vị của một Tổng thống Hiệp
Chủng Quốc sẽ không thể nào bị chi phối bởi tôn giáo của ông. Lý do là vì
Kennedy đang tranh cử để trở thành vị tổng thống đầu tiên và duy nhất của HK
cho đến ngày hôm nay là người TCG – La Mã, trong một quốc gia mà gần 80 phần
trăm dân số không phải là người có cùng giáo phái, và không có quyền bang giao
với Vatican, [WAR, ‘Census of Religious Groups in the U.S.”].
Richard M.
Nixon và dư luận người Mỹ thắc mắc về trường hợp tín ngưỡng của John F. Kennedy
không phải vì tôn giáo nhưng là vì chính trị. HK là một quốc gia chấp nhận đa
tôn giáo với hơn 180 hệ phái từ đủ mọi tôn giáo, trong đó có khoảng 60 triệu là
người TCG – La Mã. Vatican vừa là toà thánh với nhiệm vụ phát huy và bảo tồn
giáo luật vừa là một quốc gia có nhiệm vụ phát biểu và khẳng định quan điểm
chính trị để bảo vệ quyền lợi đối với các quốc gia khác trong cộng đồng thế
giới. Và Kennedy muốn trở thành tổng thống của một quốc gia đang bị cấm bang
giao với quốc gia mà tâm linh ông tin tưởng là điều mà nhân dân HK có quyền
muốn biết trong năm 1960. Nỗi thắc mắc nầy đã hiện ra trong cuộc bỏ phiếu với
sự kiện Kennedy được trội hơn Nixon chỉ có 113,057 dân phiếu trong tổng số 69
triệu phiếu đi bầu, có nghĩa là chưa được 2 phần ngàn số phiếu [6], [TRA,
“Political Events – 1960”].
Thành thử,
nếu Ngô Đình Diệm đã trở thành một “Spanish Inquisitor” thì ngay cả Kennedy
cũng không thể nào có thẩm quyền để tiếp tục dung túng ông. Và nếu vấn đề
“Inquisition” đã từng có thật ở miền Nam VN thì Cộng sản không phải là nỗi kinh
hoàng duy nhất đã xãy đến cho dân tộc Việt.
“Hồ Sơ Ngũ Giác Đài”.
Năm 1968, sau
khi thấy rằng mọi chiến lược và chiến thuật áp dụng ở VN hầu như đều không thành
công, Bộ trưởng Robert S. McNamara ra lệnh thành lập một ủy ban cao cấp đặc
biệt để điều nghiên về những gì đã thật sự xãy ra ở Đông Nam Á, kể từ sau cuộc
Đệ II Thế Chiến cho đến hết tháng 5 năm 1968. Vì chương trình có tính cách học
tập nội bộ, ủy ban đặc biệt được toàn quyền ghi chép lại tất cả những dữ kiện
tìm thấy mà không sợ phản ứng chính trị hoặc “đụng chạm”. Chương trình nầy được
mang tên là “Hồ Sơ Ngũ Giác Đài” và được định loại tối mật.
Tháng Giêng
năm 1969, chương trình “Hồ Sơ Ngũ Giác Đài” được hoàn tất với một bản tài liệu
gồm 47 tập. Nhiều dữ kiện trong đó cho thấy các giới chức soạn thảo chính sách của HK đã quyết định sai lầm phần
lớn vì thiếu hiểu biết về tình hình chính trị của VN và vì bản tánh kiêu ngạo
của họ. Trầm trọng hơn hết là chính phủ HK đã liên tiếp che dấu nhân dân HK
về mức độ thật sự mà quân đội HK đã bị trưng dụng ở Đông Nam Á. Giữa năm 1971,
trước sự “lừa dối qui mô” nầy, Daniel Ellsberg, một nhân viên cao cấp của Bộ
Quốc Phòng đem bản sao của bộ tài liệu dầy 3 ngàn trang và chuyển giao cho nhật
báo New York Times để công bố cho
quần chúng. Ngày 13-06-1971, New York
Times bắt đầu đăng một số bài bình luận dựa trên những tài liệu của tập “Hồ
Sơ Ngũ Giác Đài”. Vài tuần sau, John Mitchell, Bộ Trưởng Tư Pháp yêu cầu New York
Times ngưng trích đăng tập tài liệu với lý do là các bài viết nầy sẽ làm nguy
hại đến vấn đề “an ninh phòng thủ của HK
tới một mức độ không thể nào hàn gắn”. New
York Times từ chối lời yêu cầu và chia sẽ tập tài liệu với nhật báo
Washington Post. Bộ Tư pháp xin trát toà liên bang để ngăn cấm báo chí sử dụng
tập tài liệu nhưng Tối Cao Pháp Viện phủ quyết chuyện ngăn cấm đăng tải vì lý
do vi phạm đến quyền tự do báo chí mà hiến pháp đã qui định. Ngày 12-09-1971,
chính phủ truy tố Ellsberg và Anthony Russo, một người đồng loã, về 3 tội
trạng: ăn cắp, gián điệp và âm mưu phá hoại chính phủ. Ngày 11-05-1973, toà án
liên bang tha bổng mọi cáo trạng vì lý do chính phủ đã có những hành vi bất hợp
thức. Từ đó, tập “Hồ Sơ Ngũ Giác Đài” được dư luận HK xem là một trong những tập tài liệu trung thật về
chiến tranh VN, ít nhất là trên cái nhìn của những giới chức HK có liên hệ
[CUP, “Pentagon Papers”], [TRA, “Communication & Media, 1971”].
Hiệu Quả của Chính Phủ Ngô Đình Diệm.
Trở lại phần
nhận định về chính phủ của Ngô Đình Diệm, “Hồ Sơ Ngũ Giác Đài” tiếp tục viết, “Bộ máy chính trị của ông Diệm quả thật là một định chế gia đình trị,
được tổ chức cứng ngắc và có đặc tính trung ương tập quyền quá mức ...
Tổng thống Diệm vẫn tiếp tục là nhà cai trị không thể chối cãi được của miền
Nam VN. Tất cả những vấn đề trọng đại và thứ yếu đều do chính ông quyết định.” Điều nầy cho thấy, ông Diệm đã biết hầu hết
các chuyện lạm dụng quyến hành của ông bà Ngô Đình Nhu, ông Ngô Đình Cẩn, Đức
Giám Mục Ngô Đình Thục nhưng vẫn chấp nhận dung túng họ một cách vô điều kiện.
Về tổ chức chính phủ,
“Hồ Sơ Ngũ Giác Đài” viết, “Chế độ của
ông Diệm phản ảnh quan niệm của ông: Bộ mặt chính phủ đại nghị vẫn được duy trì
nhưng trên thực tế, chính
phủ đã cai trị một cách hoàn toàn độc đoán ... Quyền lập pháp của Quốc hội bị
giới hạn chặt chẽ, quyền tư pháp không được phát triễn và bị lệ thuộc vào hành
pháp. Thành phần nhân sự của hành pháp lại không ai khác hơn là những
thuộc hạ của ông.” Điều nầy cho thấy, Hồ Chí Minh và Ngô Đình Diệm không
khác nhau trong chính sách cai trị đất nước. Khác hay không chỉ trên hình thức
và trên nhân sinh quan.
Về các chương
trình cãi cách đất nước, “Hồ Sơ Ngũ Giác Đài” viết:
“Các chương trình nhằm gia tăng an ninh ở nông thôn đã được thực
hiện một cách tồi tệ đến nỗi thay vì tạo được sự phân cách giữa quân phiến loạn
và nông dân thì chương trình nầy lại tạo sự phân cách giữa nông dân và chính
quyền. Hậu quả là đáng lẽ an ninh phải được gia tăng thì bị suy giãm ...
Chương trình Dân Sự Vụ được quan niệm như một công cụ để tạo mối cảm thông giữa
chính phủ Sài Gòn và dân quê nhưng đã không đạt được mục tiêu khi ông Diệm đưa toàn người Bắc di cư và tín
đồ TCG – La Mã về thôn ấp. Đối với dân quê (miền Nam), các đoàn dân sự
vụ đó là những người ngoại cuộc (outsiders) ... Chương trình Cải Cách Điền Địa
thay vì phân phối đất cho người nghèo, kết cuộc chỉ để tước lấy lại những gì mà
nông dân đã được Việt Minh cấp phát để đem trả lại cho điền chủ.” Năm 1957,
HK có cấp một số tiền khá lớn để ông Diệm mua ruộng của điền chủ và phân phát
lại cho nông dân. HK nhận thực rằng truất hữu ruộng đất để cấp phát cho dân
nghèo là một trong những kế hoạch chiến tranh tâm lý quan trọng nhất để giúp miền
Nam ngăn chận tình trạng các tá điền bất mãn bỏ theo Cộng sản. Ông Diệm chỉ
chính thức thi hành chương trình nầy vào năm 1959 và sau khi ông bị lật đổ vào
năm 1963, chỉ có khoảng 150 ngàn trong tổng số 1 triệu tá điền của miền Nam VN
được cấp ruộng đất. Nói cách khác, “15% dân số (điền chủ) vẫn làm
chủ gần 75% đất đai của miền Nam VN. Nhưng mỉa mai thay cho tổng số
ruộng đất mầu mỡ đó, năm 1959, “miền Nam VN đã phải bắt đầu nhập cảng khoảng 20
triệu Mỹ kim thực phẩm” cho cái gọi là “Thực phẩm cho Hoà Bình”, [FIT, Tr.
101-104]. Điều nầy cho thấy, một
là đa số tá điền đã bỏ theo Cộng sản, hai là vì thôn quê miền Nam không còn
được an ninh, có nghĩa là các chương trình Dinh Điền không được thành công.
“Trong chiến dịch gọi là Tố Cộng bắt đầu từ
mùa Hè năm 1955, từ 50
ngàn đến 100 ngàn người bị nhốt vào các trại tập trung. Trong số những kẻ bị
giam cầm, có rất nhiều người không liên
hệ gì đến Cộng sản”. Năm 1954, đa số các cán bộ Cộng sản đã tập
kết ra Bắc để chuẩn bị cho một giai đoạn mới của cuộc chiến tranh VN. Mặc dù
Cộng sản vẫn còn lưu lại một số cán bộ hạ tầng để làm công tác móc nối tuyên
truyền và giao liên; số lượng nầy khó có thể nào lên đến con số hàng chục ngàn
mà HK đã nhận được từ phiá chính quyền của ông Diệm. Điều nầy cho thấy, một là
các con số báo cáo đã bị ngụy tạo như một bằng chứng để xin thêm tiền viện trợ
chống Cộng, hai là có rất
nhiều người không phải là Cộng sản nhưng vẫn bị bắt vì oán thù cá nhân hoặc vì
nhu cầu của chỉ số cần bắt.
Bài viết
chưa kết thúc nhưng Nhật báo Người Việt
đã … cho chấm dứt loạt bài ở đây mà không đưa ra một lời giải thích nào. Theo chổ chúng tôi biết, tác giả/bút hiệu “Lương Minh Sơn” cũng không thấy xuất hiện
trên các tạp chí ở hải ngoại. Thật tiếc ! - NG
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét