HOA ĐÀO NĂM ẤY …
VÀ CHÙM THƠ MẶT TRẬN LẠNG SƠN 2/1979
Nguyễn Duy
NQL: Nhà thơ Nguyễn Duy (trái) năm 1979 là phóng viên báo Văn
nghệ, anh có mặt tại Lạng Sơn ngày 18/2/1979, một ngày sau Quân Trung quốc xâm
lược gây hấn trên toàn tuyến biên giới phía bắc nước ta. Một đêm dài kể chuyện
với bao nhiêu chuyện thú vị và cảm động nhưng vì bận rộn anh không viết được.
Nguyễn Duy gửi cho Quê Choa một chùm thơ mặt trận Lạng Sơn 2/1979 và ghi chép
anh viết trong những ngày căm hận ấy.
Cuộc chiến tranh đi qua...Thế là xong ! Tôi thở phào nhẹ nhõm
khi trút bộ quân phục để chuyển ngành về làm biên tập viên cho tờ Văn nghệ Giải
phóng. Lúc đó là đầu năm 1976. Năm 1977 tờ Văn nghệ Giải phóng lại nhập vào tờ
Văn Nghệ (toàn quốc), tôi trở thành biên tập viên thường trú tại các tỉnh phía
Nam của tờ báo vốn có nhiều kỷ niệm sâu sắc với mình. Cứ ngỡ rằng đã “vĩnh biệt
vũ khí”. Nào ngờ, tháng 6 năm 1978, tôi - phóng viên báo Văn nghệ, lại lặn lội
trong chiến hào ở Tây Ninh cùng với các bạn lính trẻ của Quân đoàn 4. Chiến dịch
biên giới phía Tây-Nam Tổ quốc đang thời kỳ ác liệt nhất. Quân Pôn Pốt tràn
sang dọc biên giới Việt Nam-Campuchia, tàn sát rất dã man đồng bào ta, từ Tây
Ninh qua Long An, Đồng Tháp, An Giang, Kiên Giang. Quân ta đánh chặn và chuẩn bị
tổng công kích... Lại những bài thơ chiến trận gửi về tòa soạn báo Văn Nghệ.
Qua mấy năm im tiếng súng, nhìn lại quãng đường bom đạn và đèo dốc
dài dằng dặc phía sau lưng mình mà ngại ngùng. Cứ ngỡ rằng, đã quen hơi phố phường
rồi, nếu phải đi trở ại con đường chiến tranh vừa qua, chắc là không đi nổi. Nhưng
khi việc đã tới, giặc đã ở trước mặt, thật lạ, có một nguồn sức lực từ đâu đó
trong con người mình bỗng khởi phát , xốc mình đi, những bước đi mạnh mẽ nguyên
vẹn của người lính năm nào...
Nguồn sức lực ấy lại khởi phát một lần nữa trong tôi vào đầu xuân
năm 1979. Sau chiến dịch biên giới phía Tây-Nam tôi tự thưởng cho mình một chuyến
nghỉ phép, về ăn Tết ở quê nhà - thị xã Thanh Hóa, ngày 15 tháng 2 năm 1979, tôi
ra Hà Nội để chờ máy bay trở lại miền Nam. Sáng 17 tháng 2, chiến tranh bùng nổ
trên toàn tuyến biên giới Việt Nam - Trung Quốc. Nhóm phóng viên xung kích của
báo Văn nghệ, gồm năm người vốn xuất thân từ lính, được cử lên mặt trận. Lái xe
Đào Ngọc Chi cũng vốn là lính chiến. Chiếc xe Rumani tòng tọc của chúng tôi hòa
vào đoàn xe chở lính lên phía Bắc. Tới thị trấn Đồng Mỏ chúng tôi bắt đầu làm
việc, với trạm phẫu, với thương binh với đồng bào các dân tộc chạy giặc từ mấy
huyện biên giới về. Ga Đồng Mỏ đặc kín người. Đường số Một tắc nghẽn. Hầm Núi Đá
(do quân Trung Quốc đào, hồi họ sang “giúp” ta chống Mỹ) thì dành cho người bị
thương nặng. Đêm ấy, chúng tôi ngủ ở chợ Đồng Mỏ cùng với đồng bào chạy giặc. Tôi
và Phạm Tiến Duật nằm chung cái bạt võng, trước vỉa hè nhà bưu điện. Anh Hoài
An ngủ trên xe với Đào Ngọc Chi. Anh Hồng Phi cùng với Đỗ Chu leo lên cái bàn bán
thịt trong lều chợ không có mái. Tiếng đại pháo từ Lạng Sơn vọng về ùng ình suốt
đêm. Những trang viết về mặt trận của nhóm chúng tôi bắt đầu từ đêm đó.
Lạng Sơn, 18-2. Thị xã vắng ngắt. Trời se lạnh. Hoa đào phai thấp
thoáng trong sương mù. Đại pháo đội sang từ phía Bằng Tường, tiếng đạn rít veo
véo, tiếng nổ lộng óc. Xe chúng tôi băng qua cầu Kỳ Lừa, lao về hướng Đồng Đăng.
Theo giới thiệu của ban chỉ huy sư đoàn Sao vàng, chúng tôi sẽ tới
trung đoàn An Lão đang chặn giặc ở nam Đồng Đăng. Có một chiến sĩ liên lạc của
trung đoàn An Lão dẫn đường. Ga Tam Lung hiện ra trước mặt. Chiếc xe hồng thập
tự của bệnh viện Lạng Sơn vừa bị bắn lật, nữ bác sĩ Thủy tử thương. Tiếp theo,
chiếc xe của xưởng phim Quân Đội trúng đạn, chiến sĩ Như Đạt, quay phim, hy
sinh tại chỗ. Cối 81 của địch nhằm vào xe chúng tôi. Nhanh như cắt, Đào Ngọc
Chi quặt xe vào con đường rẽ. Quân Trung Quốc từ các cao điểm gần đó nã cối
theo tới tấp...
Hầm chỉ huy trung đoàn An Lão nằm trên sườn cao điểm 417. Vừa gặp
chúng tôi, chính ủy trung đoàn đã đề nghị “các nhà văn trở về Lạng Sơn ngay
cho. Chiến sự đang ác liệt, đơn vị không thể bảo đảm an toàn cho các anh được...”.
Chúng tôi đưa mắt nhìn nhau. Cái bề ngoài của mỗi người quả là
xa lạ với thực tế trận mạc. Tôi mặc chiếc áo trắng có hoa đen, quần loe, kính cận,
máy ảnh toòng teeng trên vai. Anh Hồng Phi, râu tóc bờm xờm, áo len, quần dạ, đôi
dép sambô cao đế. Phạm Tiến Duật và Đỗ Chu thì đúng là bạch diện thư sinh, mảnh
khà mảnh khảnh.
- Xin các anh cứ yên lòng - Hồng Phi nói với chính ủy trung đoàn,
chúng tôi đều con nhà lính, quen thuộc súng đạn cả. Chúng tôi sẽ ở đây theo dõi
các trận đánh, và nếu có thể, xin các anh phát vũ khí...
Chính ủy Biền, nói vắn tắt về tình hình chiến sự. Căn hầm thỉnh
thoảng lại rung lên, đạn cối của địch vẫn rơi xuống quanh đấy, tiếng nổ nhức
tai, và khói, bụi sặc sụa.
Những ngày ở Tam Lung, chúng tôi đã viết các bài in trên báo Văn
Nghệ dạo đó. Quân ta chiến đấu rất anh dũng đánh chặn đạo quân xâm lược đông hơn
và mạnh hơn ta gấp nhiều lần. Quân Trung Quốc, tuy bị thương vong nặng nề, vẫn
thí mạng hết đơn vị này đến đơn vị khác, lấn chiếm ta từng cao điểm một.
Trước khi xuôi về thị xã Lạng Sơn, từ trên đỉnh đồi 417, tôi dùng
ống nhòm quan sát trận đánh bên cao điểm 611. Quân địch bò lên, đen kín cả sườn
đồi, có súng cối và pháo tầm gần yểm trợ. Trên chốt, quân ta chỉ có chưa đầy ba
chục chiến sĩ, trung đoàn An Lão vừa bàn giao trận địa cho quân địa phương tối
hôm trước. Đúng giữa trưa trận đánh kết thúc. Giặc chiếm được ngọn đồi. Chúng dồn
hàng đống xác chết lại, rải lên từng lớp chất cháy (sau này tôi mới thấy, đó là
xăng đặc, giống như thứ nhựa vá xe đạp, đựng trong bình vải sơn, mỗi bình bốn lít)
và đốt. Trời im ắng, cái im ắng ghê rợn sau trận đánh. Không một gợn gió. Ngọn
lửa đốt xác đỏ lòm. Từ đỉnh cao 611, cột khói dựng thẳng đứng lên trời, tỏa ra
thành hình cái nấm khổng lồ, đen kịt giữa bầu trời trắng bạc.
Nhóm phóng viên chúng tôi xuôi về thị xã Lạng Sơn. Cột khói đốt
xác của quân Trung Quốc vẫn đen ngòm, dựng thẳng đứng phía sau lưng. Tôi đã bị ám
ảnh mãi về cột khói đó, về những linh hồn vần vụ trong cột khói đó...
Phố xá hoang vu. Thị xã Lạng Sơn vẫn tươi thắm màu hoa đào. Tôi
chưa bao giờ thấy vườn hoa đào nào rộ đều và đẹp như vườn đào Nhà khách tỉnh ủy
Lạng Sơn. Đào bạch, đào phai, đào đỏ nở dọc theo các lối đi lát gạch. Hoa đào vô
tư nào có biết rằng chúng sắp bị tàn sát. (Sau khi quân Trung Quốc rút đi, tôi
đã trở lại thị xã Lạng Sơn, ngơ ngẩn trước cảnh đổ nát. Cả vườn đào cũng bị đánh
bằng thuốc nổ, không còn một nhánh, những cục nhựa đào đông lại nơi gốc đào cụt
trông như những cục máu bầm chưa khô hẳn. Các khu nhà sang trọng chỉ còn là các
đống gạch vụn. Vô vàn mảnh thủy tinh ruột phích nước rải lấp lánh dưới mặt đất.
Vòm hang đá núi Phai Vệ sập hẳn, có lẽ quân giặc đã phải dùng nhiều tấn thuốc nổ.
Động Tam Thanh nổi tiếng bao đời nay cũng đen ngòm khói thuốc bộc phá, một cái
hố rộng hoác, khét lẹt choán hết cả lòng động... Phố, nhà, vườn tược, cỏ hoa
cho đến cả hang động đều chung một số phận thảm sát). Còn lúc này, chúng tôi đang
ở giữa vườn đào thị xã, hoa đào cứ nở vô tư. Nhóm phóng viên báo Văn Nghệ tụ lại
đây, nghỉ đêm trong nhà khách tỉnh ủy đã bỏ trống, cùng với tổ tự vệ của giáo
viên trường Đông Kinh Phố. Trang thơ về mặt trận của tôi được hoàn chỉnh trong đêm
này. Chúng tôi chụm đầu đọc thơ cho nhau nghe, rồi hát trắng đêm. Đêm chia tay,
đêm vĩnh biệt những cây đào nở muộn. Tiếng súng bộ binh đã nổ rát ngoài rìa thị
xã.
Mờ sáng hôm sau, tổ công an vũ trang bảo vệ khu nhà khách tới giục
chúng tôi dời đi, họ nhận được lệnh phải rút ngay ra khỏi thị xã. Chúng tôi
thong thả chụp vài tấm ảnh cuối cùng với vườn đào rồi chặt những cánh đẹp nhất
cắm đầy chung quanh xe. Chiếc xe Rumani của tuần báo Văn nghệ lần đầu tiên được
ngụy trang hoàn toàn bằng hoa đào. Lái xe Đào Ngọc Chi phải yêu cầu bỏ bớt hai
cành cắm phía trước để còn trông thấy đường.
Trên chiếc xe hoa đào ấy, chúng tôi ngoái nhìn thị xã. Chào Lạng
Sơn. Chào chợ Kỳ Lừa và dòng sông Kỳ Cùng. Chào thành Tiên Xây và núi Vọng
Phu... Thị xã đẹp mê hồn trong sương mù. Không một bóng người. Chỉ có cây với
nhà, và hoa đào. Mấy con chó tìm chủ chạy lững thững dọc những phố nhỏ lặng ngắt.
Pháo từ phía Bằng Tường bất chợt gầm lên, súng bộ binh đồng loạt nổ rền bên kia
cầu Kỳ Lừa...
Chúng tôi đã mang về tòa soạn những trang viết chưa ráo mực cùng
những cánh đào còn ướt nhựa nơi vết cắt. Cành đào phai lớn nhất được cắm trong
cái bình đất nung đặt ở phòng khách tòa báo. Những cành nhỏ hơn, chúng tôi chia
ra, phân phát cho bạn bè. Bài viết của chúng tôi dồn dập in trên báo Văn Nghệ,
những nụ đào muộn mằn dồn dập nở. Cho tới ngày Trung Quốc bị đánh bật ra khỏi
biên giới nước ta, những cành đào Lạng Sơn vẫn còn tươi thắm giữa lòng Hà Nội.
Và, mãi mãi thắm trong tôi cái màu hồng kỳ diệu của hoa đào năm ấy...
(Đã
in báo Văn Nghệ, tháng 3.1983)
CHÙM THƠ MẶT TRẬN LẠNG SƠN 2/ 1979
LÊN MẶT TRẬN, NGÀY ĐẦU…
Lên xứ Lạng
chưa thấy thành Tiên Xây
đâu chùa Tam Thanh
đâu nàng Tô Thị...
Quân giặc tràn qua đèo Hữu
Nghị
Đồng Đăng thất thủ rồi
pháo Bằng Tường dội sang
xối xả
dằng dặc dòng người sơ tán
đổ về xuôi
Lẫn lộn người Kinh, người
Tày, người Dao
nào gánh, nào xe, nào
gùi, nào vác
hiển hiện những ngày xưa
loạn lạc
biên ải xưa giặc giã mới
tràn vào
những gương mặt nghìn năm
đanh sắt lại
máu lửa ngỡ cũ rồi mà vẫn
mới
vẫn mới cả nón mê cả áo
vá chân trần...
Miếng cơm ăn lẫn cát bụi
bên đường
giấc ngủ ngồi che hờ tàu
lá chuối
ngôi nhà không bỏ trống sau
lưng
đàn trâu lang thang lũ
gà con xao xác
lũ trẻ con mắt tròn ngơ
ngác
chân trẻ con lũn cũn chạy
như đùa
Trẻ con trên ôtô, trên
xe trâu, xe thồ
trẻ con trên lưng trẻ
con trên tay
trẻ con lon ton níu váy
níu áo
đòn gánh nữa kìa kẽo kẹt
nghiến trên vai
một đầu gánh là trẻ con
còn đầu kia là nồi là gạo
mắt trẻ con cứ tròn thao láo
như hòn sỏi ném theo đoàn
quân đi...
Bao lứa trẻ từng lớn lên
như thế
gặp lũ trẻ con nay bắt gặp
tuổi thơ mình
tuổi thơ của em
tuổi thơ của anh
gặp lại cả mấy thời chạy
loạn
thời là tản cư thời là sơ
tán
gian nan xưa cứ tưởng đã
cũ rồi !
Quân đi, quân đi
ngược lên biên giới
có cái nhìn như sỏi ném
sau tôi...
(Lạng Sơn,18. 2.1979 )
ĐÊM Ở CHỐT 417
Thâm lũng, Tam lung...
chìm nghỉm trong đen
bất chợt lại xanh lè đạn
nổ
lửa đốt lòng ta những đêm
không ngủ
là ánh đèn đã tắt dưới làng
dân
(Lạng Sơn, 22 .2 .1979)
DẠ HƯƠNG
Sẽ rất nhớ dáng người vừa
thoáng gặp
chiều Lạng Sơn súng nổ rụng
hoa đào
những giọt máu của vườn
cây vung vãi
trường sơ tán rồi, cô giáo
còn chốt lại
khẩu súng thép chéo lưng
con gái
ôi tấm lưng kia ngỡ sinh
ra để mà mềm mại
dáng điệu ấy chốt lại lòng
ta mãi
như dạ hương thoáng gặp
một đêm nào
(Lạng Sơn, 22 .2 .1979)
ẢI
CHI LĂNG
Ải Chi Lăng! Ải Chi lăng
!
lưỡi gươm đẫm máu Liễu
Thăng thuở nào
gập ghềnh lũng thấp đồi
cao
vũng lầy thành ruộng đã
bao nhiêu mùa
Chập chờn trận mạc xa xưa
quân reo ngựa hí gươm
khua dậy trời
thịt xương xưa hóa đất rồi
nợ xưa còn để nặng đời
sau ư ?
Gió trên vách đá ù ù
nghe
tù và dội xuống từ cao
xanh...
(Mặt trận Lạng Sơn, 23.
2 .1979)
Trích từ Tuyển tập thơ Nguyễn Duy, NXB Hội nhà văn năm 2010
NGUYỄN DUY.
Bộ đội Việt Nam trên đường ra mặt trận Tây-Bắc
Bộ đội Việt Nam đánh trả quân Trung Quốc xâm lược tại Lạng
Sơn năm 1979
Chiến
xa Trung Quốc bị bắn hạ.
Tù binh Trung Quốc bị bắt tại Cao Bằng
Tội ác quân Trung Quốc xâm lược
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét