TỪ
NỀN ĐỘC LẬP, NGHĨ VỀ VĂN HÓA HÒA BÌNH
Cao Huy Thuần
LTS: Nhà thơ Nguyễn Duy có bài Nhìn từ xa… Tổ quốc: “Dù ở đâu vẫn Tổ quốc trong lòng,
cột biên giới đóng từ thương đến nhớ”. Một nhà sử học cũng bảo: Cứ đi ra biển
xa mà ngắm về dải đất liền của Tổ quốc, mới thấy cái rưng rưng xúc động của
việc nhìn ngắm Tổ quốc từ xa, và nghiệm về dân tộc, về đất nước hình chiếc liềm
trong thế giữ Biển Đông. Mừng ngày Độc lập, trên Sài Gòn Tiếp Thị số đặc
biệt này, có những người Việt xa xứ chia sẻ những cảm xúc, những tâm sự của
mình cho niềm mong mỏi thế nước mạnh hơn, dân ta ấm no hơn và tộc Việt mãi
trường tồn. Đó là các học giả Cao Huy
Thuần (Pháp), Vũ Minh Khương
(Singapore), Lê Văn Cường (Pháp), Nguyễn Văn Tuấn (Úc), Nguyễn Phương Mai (Hà Lan) – Sài Gòn Tiếp Thị
Từ Pháp, giáo sư Cao Huy Thuần
chia sẻ những hoài niệm của chính ông, một nhân chứng lịch sử của thời khắc
tháng 8. 1945. Ông có những trăn trở chân thành của mình đối với sự phát triển
đất nước trong giai đoạn hiện nay.
Thưa Giáo sư, cảm xúc của Giáo sư là
thế nào khi nghĩ về ngày độc lập 2.9 của đất nước?
Tôi nghĩ đến bao nhiêu xương máu đã
đổ ra để giành lại độc lập và bảo vệ độc lập. Bài quốc ca của chúng ta có câu:
"Đường vinh quang xây xác quân thù".
Đúng vậy. Nhưng đường vinh quang cũng xây xác bao nhiêu chiến sĩ, bao nhiêu
thường dân, bao nhiêu máu của cả dân tộc, không phân biệt. Máu ấy đỏ chung trên
lá cờ của chúng ta, phất phới như một mảnh hồn chung, nhắc nhở chúng ta đừng
quên: độc lập ấy là máu của cả dân tộc từ Bắc chí Nam, vinh quang ấy là vinh
quang của cả dân tộc từ Nam chí Bắc.
Ngày độc lập có gắn với kỷ niệm nào
của Giáo sư không?
Tôi thuộc thế hệ những người được
sống với nền độc lập 1945. Năm ấy, tôi 8 tuổi, kỷ niệm đầy ắp. Là nhi đồng Cứu
quốc trong đội văn hóa của huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi, tôi đi hát lưu diễn
từ huyện này qua huyện khác, có khi cả tuần không về nhà, ghẻ lở khắp lưng vì
không tắm rửa, vì ngủ sau sân khấu, vì ăn toàn mắm với cơm độn khoai.
Thay mặt thiếu nhi, tôi được vinh dự
nhảy lên bục, hô hào toàn quốc kháng chiến, "thưa đồng bào, quân Pháp đã
đổ bộ lên Tân Gia Ba", chẳng biết Tân Gia Ba là cái gì, ở đâu. Quảng Ngãi
là đất màu mỡ của cách mạng, nhiều anh học trò của cha tôi xung phong vào Nam
ngay từ khi mở mặt trận và chết ngay trong những trận đầu tiên, tuổi chưa tròn
mười tám. Tôi đã chảy nước mắt với chiếc khăn tang quấn trên đầu chị vợ chưa
cưới của một anh trong số đó. Chị đẹp làm tôi não nùng. Hình ảnh đầu tiên về
chiến tranh trong ký ức của tôi là như vậy: chị đẹp, anh trẻ, và chiếc khăn tang.
Lãng mạn chăng? Đúng vậy. Nhưng tôi
đang nói đến bối cảnh đặc biệt của 1945 và không khí tiểu tư sản trí thức chung
quanh tôi. Kháng chiến thuở đầu nhuốm đầy phong vị lãng mạn vừa trí thức vừa
anh hùng. Xung phong vào Nam, các anh coi cái chết nhẹ tựa lông hồng. "Một lần đi là không trở về", thiếu
nhi chúng tôi cũng hát như các anh, tất cả đều là Kinh Kha qua sông Dịch. Từ
giã người yêu, chẳng ai nồng cháy một cái hôn, chỉ lạnh lùng để khỏi vương vấn:
"lạnh lùng vung gươm ra sa trường".
Sự thực, tôi chẳng thấy ai đeo gươm, chỉ đôi khi thầm phục trái lựu đạn cài bên
hông. Mà lựu đạn ấy cũng biết lãng mạn: có trái không nổ. Tôi nghe nói có nhiều
anh chết khi xung phong chỉ vì lựu đạn không nổ. Nhưng sá gì! Các anh chết với
nụ cười và bài hát trên môi: "Quyết
chiến sa trường. Sống thác coi thường. Mong xác trong da ngựa bọc thân thể
trai..."
Kháng chiến khởi đầu không thể hào
hùng đến thế nếu thiếu đi cái chất lãng mạn anh hùng ấy trong dòng máu thanh
niên trí thức, nếu thiếu đi những bài thơ trữ tình yêu người yêu nước trong
balô của anh bộ đội. Ít nhất là trong vòng các anh thanh niên mà tôi biết lúc
đó, có hai dòng máu lãng mạn chảy trong huyết quản: một dòng bắt nguồn từ tiểu
thuyết của Tự Lực Văn Đoàn, một dòng bắt nguồn từ câu thơ trong Chinh phụ ngâm:
"Chàng tuổi trẻ vốn dòng hào kiệt /
Xếp bút nghiên theo việc đao cung". Tại sao tôi dám nói thế? Tại vì,
từ huyện này qua huyện khác, tôi đã nghêu ngao một câu hát ấy mà về sau tôi
không còn nghe ai hát nữa ngoài anh Trần Văn Khê: "Xếp bút nghiên lên
đường tranh đấu/ Xếp bút nghiên coi thường công danh như phù vân/ Sơn hà nguy
biến, tiến ta tiến!/ Hèn thay đời nhàn cự, hèn thay vui yêu đương/ Lúc quê
hương cần người, dứt đường tơ vương, giã nhà lên yên..."
Không Chinh phụ ngâm thì là
gì? Tất cả là thơ. Kháng chiến là thơ. Mà làm gì anh bộ đội có những bài thơ
hay thế trong ba lô nếu không có Tự Lực Văn Đoàn khai hoa nở nhụy cho thơ mới?
Tất cả thanh niên trí thức chung quanh tôi thời ấy đều mang Nhất Linh, Khái
Hưng, Xuân Diệu trong hơi thở. Tất cả đều là tình nhân của cô Loan, cô Thoa.
Tôi muốn nói thêm: cái chất lãng mạn
anh hùng của thời 45 ấy truyền thừa cho đến các anh chị sinh viên miền Nam
chúng tôi thời 63 và sau đó. Giọt máu - và bây giờ giọt nước mắt - mà các anh
chị thấm vào trang sử thời ấy, các anh chị thử ngửi xem, có phải nó thơm mùi
thơ, mùi văn, hương đồng gió nội rất lãng mạn? Nếu không phải thì tại sao các
anh thích hát Trăng mờ bên suối ở
những dịp nghiêm trang? Tất cả các anh thanh niên trí thức thời 45, tất cả,
hoặc gần như thế, các anh chị sinh viên thời Huế-Sài Gòn năm xửa năm xưa, tất
cả đều là thi sĩ dù có làm thơ hay không, bởi vì tất cả đều mang chất thơ của
văn hóa Việt Nam trong máu. Đừng quên rằng cái lãng mạn của Tự Lực Văn Đoàn
cũng là cái lãng mạn phản kháng. Phản kháng một tư tưởng cổ hủ xiềng xích tự do
của con người. Chất thơ văn trong máu các anh chị buộc các anh chị phải phản
kháng, từ 45 cũng như từ 63. Trước bạo lực, cường quyền, bất công, các anh chị
không khuất phục. Như thế hệ trí thức 45 đã không khuất phục. Ngày 2.9 năm nay,
tôi hướng về cái chí khí thanh niên đó.
Theo Giáo sư, vì sao một dân tộc
từng ngẩng cao đầu trong những cuộc đấu tranh chống ngoại xâm để giữ nước,
nhưng lại là một dân tộc quẩn quanh với mệt nhoài ở những chặng hòa bình tìm kế
bứt phá vươn lên?
Chiến tranh có quy luật của chiến
tranh. Hòa bình có quy luật của hòa bình. Trở về lại với bài quốc ca, năm 1945
chúng tôi hát: "Thề phanh thây uống máu quân thù" mà chẳng thấy gì
ghê rợn. Bây giờ chúng ta hát: "Đường vinh quang..." Thế là "văn
hóa" của chiến tranh đã khác với văn hóa của hòa bình rồi! "Mỗi ngày
anh du kích giết được 3 thằng Tây, vậy 10 ngày anh giết được bao nhiêu
thằng?", ấy là bài toán đố lớp tiểu học hồi 1950.
Bây giờ không ai ra toán kiểu đó
nữa. Tuy vậy, chiến tranh vẫn chưa ra khỏi cái đầu và thực tế chính trị. Như
một quán tính, chiến tranh vẫn đè nặng trên tư duy. Ta và địch vẫn mãi đánh
nhau trong đầu óc, với căm thù, thủ đoạn và bạo lực, ngăn cản mọi suy nghĩ về
sự cần thiết tất nhiên của cạnh tranh chung sống trong hòa bình. Có cần phải
nhắc lại rằng chiến tranh không có văn hóa? Không ai nói "văn hóa chiến
tranh". Chỉ có văn hóa hòa bình.
Đừng áp dụng quy luật của thời chiến
vào giai đoạn của thời bình. Một bên là nước mặn, một bên là nước ngọt. Chiến
tranh là chỉ huy, hòa bình là nghe ý kiến. Chiến tranh là mệnh lệnh, hòa bình
là biện luận. Chiến tranh là đại bác, hòa bình là cây bút. Chiến tranh là sắt
thép, hòa bình là tơ lụa. Chiến tranh là thù địch, hòa bình là đối thủ. Chiến
tranh là cưỡng bức, hòa bình là thuyết phục. Chiến tranh là lý lịch, hòa bình
là vua Trần xí xóa. Chiến tranh là bạo lực, hòa bình là pháp luật. Chiến tranh
là sa trường, hòa bình là nghị trường. Chiến tranh là lạnh lùng của bộ máy, hòa
bình là nồng ấm của hơi thở con người. Chiến tranh là nhất cực, hòa bình là đối
trọng. Chiến tranh là con ó quắp mũi tên nơi móng, hòa bình là con bồ câu lông
trắng, chân son, và mắt ôi là bồ câu.
Hòa bình mà cứ dùng khí giới của
chiến tranh để đối thoại thì "văn hóa" ấy không phải là động lực của
phát triển. Đó là cản trở phát triển. Cản trở về mọi mặt, mọi lĩnh vực.
Thách thức lớn nhất đối với việc
phát triển đất nước hiện nay là gì, thưa Giáo sư?
Là chưa có tư duy hòa bình như tôi
vừa nói.
Theo Giáo sư, trong giai đoạn hiện
nay, cách thức nào hạn chế những thách thức đó để đưa dân tộc đi lên?
Chỉ có một phương thức duy nhất thôi
là dân chủ. Ở đâu cũng vậy và ở thời nào cũng vậy, quyền lực lâu ngày của một
chế độ sẽ hao mòn tính sắc bén với thời gian, người Pháp nói rõ hơn: le pouvoir s'use, ta có thể dịch là
quyền lực bị lão hóa. Ngày xưa, khi mới đánh đuổi ngoại xâm và lên ngôi, ông
vua thường là minh quân. Một đời, hai đời, vài đời, tính sắc sảo ban sơ dùi mòn
đi, cuối cùng là hôn quân hắc ám. Giới tinh hoa quan chức không có động lực gì
thúc đẩy để thay đổi, chỉ ham địa vị, cũng từ từ rữa nát theo ông. Tất cả chế
độ chỉ dựa trên ông vua và hầu cận tả hữu mà vua thì hôn quân, quan thì nịnh
thần, tất loạn, không Hồ Quý Ly thì Mạc Đăng Dung phải soán ngôi để thiết lập
trật tự mới.
Chế độ quân chủ ngày xưa không tìm
ra được một nguyên tắc để ngăn cản tính lão hóa tất yếu của quyền lực, để quyền
lực chuyển mình thay đổi trong hòa bình. Ngày nay, chính thể dân chủ có nguyên
tắc, có kinh nghiệm để mài giũa lại quyền lực cho sắc bén, hữu hiệu, để quyền
lực tự củng cố, tự sửa đổi. Ông Khổng Tử ngày xưa bảo thủ như vậy mà cũng nói:
Học cũng như chèo thuyền nước ngược, không tiến tất thoái. Cai trị cũng vậy.
Nhân ngày độc lập, tôi cũng xin nói
thêm, hay nói cho đúng, cũng xin hát thêm - hát những bài hát mà chúng tôi đã
hát hồi 1945. Bài Bao chiến sĩ anh hùng tận cùng như thế này: "Thề phục
quốc, tiến lên Việt Nam!/ Lập quyền dân, tiến lên Việt Nam!/ Đài hạnh phúc đắp
xây tự do!/ Việt Nam tranh đấu chống quân ngoại xâm".
Triệu người Việt Nam như một đều
đang nói: chúng ta đang gặp ngoại xâm. Triệu người Việt Nam như một đều đang
thề: thề phục quốc. Triệu người Việt Nam như một đều đang hô to: lập quyền dân.
Triệu người Việt Nam như một đều đang ước mơ tự do, hạnh phúc. Chúng ta đang
sống năm 2013 hay năm 1945?
Triết lý phát triển nào cho Việt Nam
phù hợp với bối cảnh hiện nay, thưa GS?
Tôi xin mượn một chuyện khoa học để
trả lời câu hỏi của anh. Hồi thế kỷ 18, nhiều nhà hóa học, nhất là Stahl, nghĩ
rằng nếu cái bàn, cái ghế, bất cứ cái gì cũng có thể cháy được thì như vậy hẳn
phải có một tố chất gì đó chung cho tất cả những vật thể có thể cháy ấy. Tìm
tòi mãi mà không chiết ra được cái tố chất chung ấy, họ gọi cái chất hãy còn vô
hình đó là phlogistique. Như thế cho đến Lavoisier. Lavoisier đảo ngược cách
suy nghĩ. Chắc gì cái tố chất chung ấy nằm ở trong bản thề cáí bàn, cái ghế,
mọi vật có thể cháy? Biết đâu nó nằm ở bên ngoài? Đảo ngược cách suy nghĩ như
vậy, Lavoisier khám phá ra cái mà bây giờ trẻ con cũng biết: cái ấy là ôxy. Có
ôxy thì cháy. Ôxy ở bên ngoài.
May mắn cho Lavoisier là rốt cục các
nhà hóa học không còn kết án ông là diễn biến... khoa học. Không làm một cuộc
đổi mới tư duy thì xin anh đừng nói phát triển.
Giáo sư có tin rằng mỗi dân tộc có
một số mệnh riêng?
Tôi là Phật tử nên không tin ở số
mệnh. Đạo Phật dạy tôi: tất cả đều do hành động của ta. Hành động tốt thì kết
quả tốt, hành động xấu thì kết quả xấu. Các câu hỏi của anh là hành động. Trả
lời của tôi là hành động. Nó nhỏ như hạt mưa. Nhưng triệu triệu hạt mưa thì
chấm dứt hạn hán.
LÊ
NGỌC SƠN
thực hiện
2/9/2013
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét