Thứ Sáu, 6 tháng 9, 2013


 

CHÍN CÂU HỎI CỦA NHÀ NGHIÊN CỨU VŨ NGỰ CHIÊU
ĐẶT RA CHO BÀ NGÔ ĐÌNH NHU VÀO NĂM 2009


Mẫu Phỏng Vấn
Bà TRẦN THỊ LỆ XUÂN (1924-)
Tức Quả Phụ Ngô Ðình Nhu


Gần 46 năm đã trôi qua từ biến cố 1963, chấm dứt chế độ Ðệ Nhất Cộng Hòa của Tổng thống Ngô Ðình Diệm (1897-1963) bằng hai xác chết nằm trong lòng thiết vận xa, tay còn bị trói ngoặt về phía sau, với hai vết đạn bắn vào gáy.
Người duy nhất còn sống sót trong gia đình họ Ngô là Bà quả phụ Ngô Ðình Nhu, tức Trần Thị Lệ Xuân. Năm nay bà Lệ Xuân cũng đã 85 tuổi, còn mất lúc nào chưa rõ. Bà thường tuyên bố đã viết xong hồi ký, nhưng từ 45 năm nay, chẳng thấy hồi ký xuất hiện.
Ðộc giả Việt Nam và các nhà nghiên cứu đều đối diện những câu hỏi chưa có đáp án rõ ràng về cuộc đời bà Lệ Xuân, cùng những biến cố lịch sử liên hệ đến Ðệ I Cộng Hòa.
Chúng tôi đưa ra 9 câu hỏi tổng quát dưới đây, hy vọng bà Lệ Xuân trả lời, hoặc trực tiếp, hoặc gián tiếp qua hồi ký lưu lại cho hậu thế.

Vũ Ngự Chiêu
26/8/2009


I. Xin cho biết sơ lược tiểu sử:

II. Hôn nhân với Ngô Ðình Nhu.
Bà nghĩ gì về lời cáo buộc của André Trần Văn Ðôn?
Theo Ðôn, Lệ Xuân hành xử như “vợ” (platonic wife) của Diệm. Tình trạng giữa Diệm và Lệ Xuân, theo Ðôn, giống như Hitler và Eva Braun. Ðôn cũng tiết lộ rằng Diệm rất thích những thanh niên đẹp trai. Một Trung sĩ làm vườn đã được Diệm cân nhắc lên hàng Trung tá, trông coi dinh điền quân đội, nhờ đẹp trai. Theo Ðôn, không thể tách rời Diệm với vợ chồng Nhu.

Background:
Thứ Sáu, 23/8/1963: - André Ðôn, Quyền Tổng Tham Mưu trưởng, gặp Lucien Conein tại Bộ Tổng Tham Mưu. André Ðôn yêu cầu đài VOA loan tin là không phải quân đội đã tham gia cuộc đàn áp, tấn công các chùa chiền, mà chính là Cảnh sát đặc biệt của Nhu. Theo Ðôn, khoảng 1,420 tăng ni bị bắt giữ khắp miền Nam trong đêm 21/8/1963.
Theo Ðôn, Nhu là “khối óc” (thinker) của Diệm; nhưng Diệm có quyền quyết định.
Lệ Xuân hành xử như “vợ” (platonic wife) của Diệm. Diệm chưa bao giờ lấy vợ và không quen có đàn bà bao quanh. Chín năm qua, Lệ Xuân lo chăm sóc Diệm sau mỗi ngày làm việc mệt nhọc. Lệ Xuân săn sóc, nói chuyện, giúp Diệm giải tỏa áp lực, và giống như bất cứ người vợ Việt Nam nào, thống trị gia đình. Giữa Diệm và Lệ Xuân không có liên hệ tình dục. Theo Ðôn, Diệm chưa hề trải qua mùi vị tình dục.
Tình trạng giữa Diệm và Lệ Xuân, theo Ðôn, giống như Hitler và Eva Braun. Ðôn cũng tiết lộ rằng Diệm rất thích những thanh niên đẹp trai. Một Trung sĩ làm vườn đã được Diệm cân nhắc lên hàng Trung tá, trông coi dinh điền quân đội, nhờ đẹp trai. Theo Ðôn, không thể tách rời Diệm với vợ chồng Nhu.
[Trong hồi ký của McNamara, đoạn nói về Lệ Xuân, cũng tương tự như nhận định này. McNamara còn gọi Lệ Xuân là “một mụ phù thủy.”]

III. Liên hệ với Bảo Ðại.

IV. Luật Gia Ðình.
12/1957: Ðề xướng Luật Gia Ðình (1/59), mà có người cho là chỉ có mục đích ngăn cản cuộc ly dị của chị gái Lệ Xuân, Trần Thị Lệ Chi, ngoại tình với một người Pháp [Etienne Oggeri] nhưng vẫn ham muốn gia tài của nhà chồng, tức Luật sư Nguyễn Hữu Châu.
[Wikipedia: Her family received further scorn as her sister, Trần Lệ Chi, who was married to Nguyển Hữu Châu had a French lover named Etienne Oggeri, and critics alleged that Madame Nhu introduced the laws so that her sister's husband could not get a divorce. http://en.wikipedia.org/wiki/Madame_Nhu ]

Background:
Nguyễn Hữu Châu (1920-)
 
Sinh ngày 5/8/1920. 1942: Luật sư. Lấy con gái Trần Văn Chương, Lệ Chi (chị của Lệ Xuân). 6/3/1956: Ðắc cử dân biểu quận I Sài Gòn. 5/1957: Bộ trưởng Phủ Tổng Thống, Bộ trưởng Nội Vụ; tháp tùng Diệm qua Mỹ.

12/1957: Trần Thị Lệ Xuân đề xướng Luật Gia Ðình (1/59), mà có người cho là chỉ có mục đích ngăn cản cuộc ly dị của chị gái Xuân, Trần Thị Lệ Chi, ngoại tình với một người Pháp [Etienne Oggeri] nhưng vẫn ham muốn gia tài của nhà chồng, tức Luật sư Nguyễn Hữu Châu.

25/2/1958: Nguyễn Hữu Châu gặp Ðại sứ Durbrow, cho biết chiều đó đã xin Diệm cho từ chức Bộ trưởng Nội vụ. Diệm cử Lâm Lễ Trinh lên thay. Lý do từ chức của Châu:

- Cá nhân: Ly dị vợ và rắc rối về Luật Gia Ðình.

- Diệm đang mất dần sự ủng hộ của dân chúng (FRUS, 1958-1960, I:15-16).

29/3/1958: Nguyễn Hữu Châu chính thức xin từ chức. Theo XLTV Ðại sứ Mỹ, Howard Elting, có 3 lý do khiến Châu từ chức: âm mưu trả thù việc Châu quyết định xin ly dị Lệ Chi (đang ngoại tình); âm mưu trả thù của Ðảng Cần Lao; và, phản đối một chế độ ngày thêm độc tài. (FRUS, 1958-1960, I:30) Sau đó, vượt biên qua Miên, rồi lưu vong tại Pháp.

22/12/1958: Châu gặp nhân viên sứ quán Mỹ tại Paris lần thứ hai.

Khẳng định không hề là “vòng bên trong” của gia đình họ Ngô. Anh em họ Ngô là những người được chim bẻ ná. [once you’ve shot the bird, there no more need for the slingshot]. Từ giữa năm 1957, bắt đầu bị thất sủng. Từ tháng 7/1957, sau khi Châu muốn ly dị vợ, trở thành mục tiêu hạ nhục của Ðảng Cần Lao. Từ đầu năm 1958, mất hết quyền lực, chỉ còn là một công chức.

Nguyễn Công Viên, hiện là Ðại sứ tại Ðài Bắc, bị mất chức vì chống lại việc cấp giấy phép khai thác lâm sản dài theo lộ 20, đụng chạm với tay chân Ngô Ðình Thục. Năm 1956, Hoàng Hưng, cho Châu xem văn khế mua một ngôi villa gần Sở Thú mà PTCMQG tặng cho Ngô Ðình Diệm. giá 6 triệu MK. Theo đề nghị của Châu, villa này sau đứng tên Ngô Ðình Thục. Ðể che dấu sự thực, Châu dàn xếp cho một người mang tiền từ Huế vào trả cho chủ villa người Pháp. [115] PTCMQG cũng mua tặng vợ chồng Nhu một villa trên đường Miche. Việc tu sửa nghĩa trang gia đình và dinh thự ở Huế cũng nhờ những quà tặng kiểu này. Không biết Nguyễn Văn Bửu.

Theo Châu, Diệm cho phép thuộc hạ làm những điều trái đạo đức. Các đảng viên Cần Lao phải làm lễ tuyên hứa trung thành với Diệm và Nhu. Ðảng viên hành xử như do thám tại các tòa Ðại sứ, như Trung tá Trần Văn Tung ở Pháp, hay một viên chức trẻ ở Oat-shinh-tân. Tại Sài Gòn, những người có nhiệm vụ tiếp xúc với Mỹ bị bí mật theo dõi. Vì thế Châu không bao giờ dám mời Tướng Williams đến nhà. Cẩn và Nhu là những người dám móc nối CS để duy trì quyền lực. Châu không hiểu tại sao Mỹ tiếp tục đổ viện trợ vào một xứ đã sử dụng viện trợ một cách bê bối như Nam Việt Nam. (FRUS, 1958-1960, I:114-117).

V. Tổ chức Phụ Nữ:
Chủ tịch Phong Trào Phụ Nữ Liên Ðới; Thủ lĩnh Thanh Nữ Cộng Hòa; phát minh kiểu áo cổ vuông, và cho người đắp tượng Hai Bà Trưng giống mình.
Background:
20/5/1958: Trần Thị Lệ Xuân đề nghị Quốc Hội thành lập Phong trào Phụ Nữ Liên Ðới.
Trong một chuyến thăm Mỹ bí mật, ngày 7/9/1960 Lệ Xuân đã nhờ Tướng Edward Lansdale và CIA bí mật can thiệp, nhưng Lansdale chẳng làm được gì giúp vợ chồng Nhu.( Lệ Xuân than phiền rằng các nhân viên và sĩ quan Mỹ tại Sài Gòn không thân thiện với chính phủ VNCH). Khi VC gia tăng tấn công, Durbrow chẳng những không tích cực giúp đỡ mà chỉ lo can thiệp vào nội tình cai trị của Diệm. Thái độ của Mỹ về việc tranh chấp biên giới với Miên thật khó hiểu. VC đột nhập qua ngả biên giới trong khi Mỹ cố tình ve vãn Sihanouk, tảng lờ việc Sihanouk thân thiện với Trung Cộng. Lệ Xuân rất buồn về những tin đồn vô căn về vợ chồng Nhu-Lệ Xuân. Tại sao cơ quan CIA không công khai thanh minh cho Lệ Xuân, nói Lệ Xuân là người thứ tư trong danh sách cần tiêu diệt của Cộng Sản (sau Diệm, Nhu và Cẩn). Tại sao những người Mỹ không hành động như Tướng [Samuel T. ] Williams, Tư lệnh MAAG [?1956-1960], con người chỉ biết làm bổn phận của mình? FRUS, 1958-1960, I:568-569.
Thứ Sáu, 7/6/1963: Phong Trào Phụ Nữ Liên Ðới [PTPNLÐ] ra quyết nghị về vấn đề tranh đấu của Phật giáo.
Sau khi bày tỏ lòng kính trọng triết lý Phật giáo, quyết nghị này cho rằng “khoác áo tu hành chưa hẳn đã là chân tu,” nên “một số người đã có những lời lẽ không những vô ý thức mà còn xuyên tạc, không chịu nhận địa vị tối cao chính đáng của quốc kỳ, đòi hỏi những quyền đã được hiến pháp công nhận và thực sự sử dụng,” lên án những cuộc biểu tình chống chính phủ là chống lại quốc gia (anti-nationalist), “núp bóng từ bi để gây rối loạn,” “có hành động phá hoại nhằm mục đích làm giảm uy tín của Phật Giáo và khuynh đảo Quốc Gia,” bị “Cộng sản thao túng hoàn toàn hướng về mục tiêu thể hiện hỗn loạn hay trung lập.” Và yêu cầu chính phủ không thể tiếp tục im lặng trước những mưu toan chính trị, lập tức trục xuất những ngoại nhân chuyên phá hoại, dù mặc áo thày tu hay không, đặc biệt là “những kẻ mưu toan biến Việt Nam thành chư hầu của một tổ chức hay một nước ngoài.” (“Quyết nghị của Phong Trào Phụ Nữ Liên Ðới Việt Nam (Sài Gòn, 7/6/1963), TTLTQG 2 (TP/HCM), PTT/1CH, HS 8515; FRUS, 1961-1963, III:362n2)
Quyết nghị này được trao cho báo chí ngày hôm sau, 8/6/1963.
Thứ Bảy, 8/6/1963: Sài-Gòn: Lệ Xuân, vợ Nhu, đả kích Phật giáo đã bị cán bộ CS xâm nhập.

- Chiều: Trueheart gặp Thuần về quyết nghị của PTPNLÐ. Thuần nói bất lực, không giải quyết được gì.

- 17G00: Truehart gặp Diệm. Phản đối lời tuyên bố của vợ Nhu. Dọa sẽ công khai không ủng hộ lập trường của Diệm về vấn đề Phật giáo. Diệm nói không thể bác bỏ quyết nghị của PTPNLÐ. Cho lệnh Bộ trưởng Nội vụ phải để những người biểu tình tại chùa Từ Ðàm được tiếp tế lương thực và nước uống. Nói không biết gì về việc phi cơ chính phủ thả truyền đơn sỉ nhục các lãnh tụ Phật giáo. (Gravel, II:208; FRUS, 1961-1963, III: Tài liệu 160)

Sau đó, Diệm khẳng định lập trường của chính phủ:

- Sẽ thương thuyết trong thế mạnh

- Phật giáo thiếu thành tín (bad faith)

- Chính quyền địa phương bất lực trong vấn đề đối xử, đặc biệt là đã khuyến khích một số phần tử lãnh đạo Phật giáo

- Mãi đến ngày 24/5, các chuyên viên y khoa mới báo cáo là thương tích không do mảnh lựu đạn gây nên.

- Diệm cũng cho biết sẽ sử dụng các biện pháp cần thiết để duy trì trật tự nếu hỗn loạn tiếp tục. (FRUS, 1961-1963, III:Tài liệu 160).

* Oat-shinh-tân, 12G55: Rusk chỉ thị cho Trueheart: Yêu cầu Thuần hay Diệm bác bỏ nghị quyết của PTPNLÐ, sử dụng đặc quyền rút bỏ Sắc luật số 10, và xác định lời tuyên bố của Lệ Xuân có được chính phủ duyệt trước hay chăng. Lời tuyên bố của Lệ Xuân làm suy giảm vị thế của VNCH, và làm tổn hại uy tín của Mỹ, có thể gây khó khăn cho việc tiếp tục yểm trợ VNCH tại Quốc Hội cũng như dư luận Mỹ. (Ibid., Tài liệu 158)

Thứ Ba, 27/8/1963: - Lansdale gặp vợ chồng cựu Ðại sứ Chương. Cả hai khẳng định Diệm và Nhu phải ra đi. Nếu Mỹ chỉ mong mỏi thay đổi chính sách, dân chúng sẽ quay sang chống Mỹ.

Chương không tán thành việc cử Bửu Hội làm Thủ tướng.

Vợ Chương yêu cầu Lansdale phải qua Sài Gòn, khuyên họ rời nước, để tránh cái chết. [You must go to Saigon fast and tell Diem and the Nhu’s to leave the country now. The people hate them and they shouldn’t stay for the people to kill them. They will surely be killed if they stay, and nobody at the Palace now is telling them how the people really feel. They are cut off from reality. Why do they need power, after nine years of it, if the family is killed? The US told Synman Rhee to leave. Why not Diem and Nhu?; III:666)] Chương đang ở toà Ðại sứ VNCH, chờ bàn giao cho Ðỗ Vạn Lý. (III:665-666)
Thứ Năm, 29/8/1963: - Phong trào Phụ Nữ Liên Ðới ra Quyết Ðịnh: Tình thế hiện tại do một nhóm phản loạn gây ra với sự trợ giúp của Cộng Sản, và tay sai ngoại bang. Triệt để phản đối âm mưu chia rẽ đê hèn của bọn Phong, Thực, Công. Mãnh liệt đả đảo bọn Việt Gian bán nước đã dám làm nhục tín ngưỡng và hàng ngũ trí thức Việt Nam bằng cách bắt tay với kẻ thù dân tộc để gây loạn trong nước dưới những chiêu bài xảo trá của tín ngưỡng và tri thức. (Phiếu gửi ngày 6/9/1963 của Tôn Thất Thiện, HS 8511)
Thứ Bảy, 31/8/1963: - Trần Văn Khiêm, em Lệ Xuân, được ký giả người Úc, Denis Warner, phỏng vấn. Khiêm cho Warner coi một danh sách các viên chức mà Khiêm định ám sát. Theo CIA, Chương, cha Khiêm và Lệ Xuân, coi Khiêm như “bất lực, tham nhũng và hèn nhát.” Ngày 11/8, Thuần báo cáo với Nolting là Lệ Xuân giao cho Khiêm tổ chức một lực lượng Mật vụ riêng; nhưng Nhu phủ nhận. (FRUS, 1961-1963, IV:Tài liệu 68)
Thứ tư, 4/9/1963: - Lalouette gặp Diệm và Nhu. Diệm nói tình hình nghiêm trọng vì các sư trẻ cực đoan đã thay thế những nhà sư lớn tuổi, khả kính cũ. (CLV, SV, d. 18) Nhu thì tiết lộ với Lalouette là có thể dàn xếp với Việt Cọng để chấm dứt chiến tranh, và để thực hiện việc này, Nhu sẽ yêu cầu Mỹ triệt thoái một số quân. Thuật lại với Lodge chuyện này xong, Lalouette nhấn mạnh rằng không thể thay Diệm-Nhu, và Mỹ phải hợp tác với họ. [Lalouette particularly stressed ... there is no alternative to the Diem regime and that we must work with them as partners to win the war.”] (Cable No. 410, 4/9/1963, Lodge to Rusk; FRUS, 1961-1963, IV:111n3) Bởi thế, ngày 4/9, Lodge xin phép được giải quyết mọi việc với Nhu trước khi gặp Diệm. Rusk đồng ý.( FRUS, 1961-1963, IV:107-108) [Xem 5/9/1963]

VI. Vụ tranh đấu của Phật Giáo:
1. Hơn 40 năm nhìn lại, Bà nghĩ gì về những lời tuyên bố của mình, cùng sự phê phán của cha mẹ là ông bà Luật sư Chương?
2. Cố vấn An Ninh Quốc Gia McGeorge Bundy nhận xét về hành động của họ Ngô: “Cơn điên rồ tập thể của một gia đình cai trị chưa từng thấy từ thời các Nga hoàng.” Bà nghĩ gì?
3. Bà có biết đàn áp tôn giáo là vi phạm Hiến Chương Liên Hiệp Quốc ngày 26/6/1945 [Charter of the United Nations (U.N. Charter) of June 26, 1945], và Ðiều 18 của Tuyên Ngôn Nhân Quyền ngày 10/12/1948 [Universal Declaration of Human Rights (UDHR) of December 10, 1948], cùng những qui ước nhân đạo thông dụng [customary humanitarian obligations].? Một tội ác chống lại Nhân Loại, và Tội Ác chống lại Nhân Quyền?
4. Trong cuộc chống đối CS của GH Phật Giáo Thống Nhất hay Ki-tô giáo hiện nay, Bà vẫn muốn tặng “Hộp quẹt và Xăng?”

Background:
Trần Thị Lệ Xuân nổi danh thế giới là Dragon Lady qua hai sự cố: Cuộc tranh đấu của Phật Giáo & chuyến đi giải độc tại Mỹ trong tháng 10/1963.
A. Cuộc tranh đấu của Phật Giáo:
1. Chủ Nhật, 5/5/1963: Lễ Tạ Ơn kỷ niệm Lễ Ngân Khánh của Tổng Giám Mục Ngô Ðình Thục. Tổ chức tại Nhà thờ Dòng Chúa Cứu Thế Sài Gòn trên đường Kỳ Ðồng. Diệm tham dự. Tất cả các viên chức cao cấp trong chính phủ, Quốc Hội, Tướng lãnh, “giáo quyền” Ki-tô và các đoàn thể thân chính quyền, như Hội Phụ Nữ Liên Ðới và Cần Lao Nhân Vị, đều được mời dự. Tuy nhiên, không một lãnh đạo tôn giáo nào khác được gửi thiệp mời. Một số đơn vị tại Biệt khu Thủ đô đều có “lệnh hành quân” bảo vệ an ninh lộ trình cho Tổng thống và Tổng Giám Mục Thục. (TTLTQG 2 (TP/HCM), PTT/1CH, HS 8425)
2. Thứ Hai, 6/5/1963: Diệm ra lệnh cấm treo cờ tôn giáo ngoài khuôn viên các nơi phụng tự. Quách Tòng Ðức, Ðổng lý Văn Phòng Phủ Tổng Thống, gửi đi theo “chỉ thị [khẩu lệnh]” của Diệm:
Ra chỉ thị cho các cơ sở phụng sự bất câu tôn giáo nào, trên các cơ sở phụng tự (nhà thờ, chùa chiền, v.. v...) chỉ treo cờ quốc gia mà thôi. Chính phủ đã hỏi các tôn giáo, đều đồng ý là con dân trong một nước chỉ treo cờ quốc gia. Sự treo cơ,ợ ảnh phía trong thì tùy nghi. . . .
Lúc trước có khi vì muốn tránh treo cờ đỏ sao vàng Việt Minh hay cờ tam tài của Pháp, thì có những tôn giáo treo cờ hiệu gì khác.
Nước nhà đã độc lập, nên chỉ treo cờ quốc gia. Các nhà tư cũng vậy. (CÐ số 9195, ngày 6/5/1963, Quách Tòng Ðức gửi Ðô trưởng Sài Gòn, Tỉnh trưởng, Thị trưởng, các Ðại biểu CP; TTLTQG 2, PTT/1CH, HS 8501)
Thực ra, lệnh này đã có hiệu lực từ ngày 12/5/1958 (NÐ 189/BNV/NA/P5), nhưng không tôn giáo nào thi hành.
Theo Ngô Ðình Thục, ngày 6/5/1963, Thục cũng nhận được Công điện này, nhưng Thục cho là không quan trọng, vì không đụng chạm đến tôn giáo. Trong Chỉ thị cho giáo dân, Thục viết: “Trong đạo ta chỉ có một biểu hiệu là thánh giá mà thôi. Anh em đừng nghĩ rằng cờ Tòa Thánh Vatican là cờ có tính cách quốc tế nên được phép treo các nơi. Cái cờ bấy lâu gọi là cờ Tòa Thánh chỉ là cờ nước Vatican, không phải là cờ của đạo ta. . . . [H]ễ có lễ trong đạo thì ngoài đường, trong nhà anh em, trong khu ngoài nhà thờ chỉ treo cờ quốc gia mà thôi, ai không tuân thì xin các cha bổn sở phải tịch thâu các thứ cờ khác ngoài cờ quốc gia. Không phải ta là công giáo mà ta vô tổ quốc. Ta hân hạnh có đạo, bởi vì ta hiểu biết đạo rõ ràng lại vì ta hành đạo triệt để, không phải một tấm vải vài đồng bạc mà thay được tín ngưỡng đâu.” (KLTQG 2 (TP/HCM), PTT/1CH, HS 8507)
3. Tối 8/5/1963: Phật tử tụ họp trước Ðài phát thanh Huế; Thiếu tá Ðặng Sĩ cho lệnh đàn áp. 9 người chết và 14 bị thương.
4. 15/5/1963: Buổi gặp mặt đầu tiên giữa Diệm và lãnh tụ Phật Giáo.
5. 1-5/6/1963: Ðỗ Cao Trí cho lệnh đàn áp dã man ở Huế. Dùng cả lựu đạn hóa học [blister gas] khiến gần 100 người bị thương, khoảng 20 người bị tàn phế.
6. Thứ Sáu, 7/6/1963: Phong Trào Phụ Nữ Liên Ðới [PTPNLÐ] ra quyết nghị về vấn đề tranh đấu của Phật giáo.

Sau khi bày tỏ lòng kính trọng triết lý Phật giáo, quyết nghị này cho rằng “khoác áo tu hành chưa hẳn đã là chân tu,” nên “một số người đã có những lời lẽ không những vô ý thức mà còn xuyên tạc, không chịu nhận địa vị tối cao chính đáng của quốc kỳ, đòi hỏi những quyền đã được hiến pháp công nhận và thực sự sử dụng,” lên án những cuộc biểu tình chống chính phủ là chống lại quốc gia (anti-nationalist), “núp bóng từ bi để gây rối loạn,” “có hành động phá hoại nhằm mục đích làm giảm uy tín của Phật Giáo và khuynh đảo Quốc Gia,” bị “Cộng sản thao túng hoàn toàn hướng về mục tiêu thể hiện hỗn loạn hay trung lập.” Và yêu cầu chính phủ không thể tiếp tục im lặng trước những mưu toan chính trị, lập tức trục xuất những ngoại nhân chuyên phá hoại, dù mặc áo thày tu hay không, đặc biệt là “những kẻ mưu toan biến Việt Nam thành chư hầu của một tổ chức hay một nước ngoài.” (“Quyết nghị của Phong Trào Phụ Nữ Liên Ðới Việt Nam (Sài Gòn, 7/6/1963), TTLTQG 2 (TP/HCM), PTT/1CH, HS 8515; FRUS, 1961-1963, III:362n2)

Quyết nghị này được trao cho báo chí ngày hôm sau, 8/6/1963.

7. Thứ Bảy, 8/6/1963: Lệ Xuân, vợ Nhu, đả kích Phật giáo đã bị cán bộ CS xâm nhập.

- 17G00: Truehart gặp Diệm. Phản đối lời tuyên bố của vợ Nhu. Dọa sẽ công khai không ủng hộ lập trường của Diệm về vấn đề Phật giáo. Diệm nói không thể bác bỏ quyết nghị của PTPNLÐ. Cho lệnh Bộ trưởng Nội vụ phải để những người biểu tình tại chùa Từ Ðàm được tiếp tế lương thực và nước uống. Nói không biết gì về việc phi cơ chính phủ thả truyền đơn sỉ nhục các lãnh tụ Phật giáo. (Gravel, II:208; FRUS, 1961-1963, III: Tài liệu 160)

Sau đó, Diệm khẳng định lập trường của chính phủ:

- Sẽ thương thuyết trong thế mạnh

- Chính quyền địa phương bất lực trong vấn đề đối xử, đặc biệt là đã khuyến khích một số phần tử lãnh tạo Phật giáo

- Mãi đến ngày 24/5, các chuyên viên y khoa mới báo cáo là thương tích không do mảnh lựu đạn gây nên.

- Diệm cũng cho biết sẽ sử dụng các biện pháp cần thiết để duy trì trật tự nếu hỗn loạn tiếp tục. (FRUS, 1961-1963, III:Tài liệu 160).

* Oat-shinh-tân, 12G55: Rusk chỉ thị cho Trueheart: Yêu cầu Thuần hay Diệm bác bỏ nghị quyết của PTPNLÐ, sử dụng đặc quyền rút bỏ Sắc luật số 10, và xác định lời tuyên bố của Lệ Xuân có được chính phủ duyệt trước hay chăng. Lời tuyên bố của Lệ Xuân làm suy giảm vị thế của VNCH, và làm tổn hại uy tín của Mỹ, có thể gây khó khăn cho việc tiếp tục yểm trợ VNCH tại Quốc Hội cũng như dư luận Mỹ. (Ibid., Tài liệu 158)

8. 11/6/1963: Thượng tọa Quảng Ðức tự thiêu.

Vụ tự thiêu của Quảng Ðức xảy ra giữa lúc Diệm và hầu hết nhân viên cao cấp trong chính phủ đang tham dự buổi lễ cầu hồn cho Giáo Hoàng Giovani (John hay Jean) XXIII (1958-1963).

Theo Trần Thị Lệ Xuân, đây là việc “barbecue a monk” [nướng chả một ông sư], với xăng nhập cảng.

Theo Ngô Ðình Nhu, đây là một vụ “thiêu đốt Thượng tọa Quảng Ðức” của một nhóm sư sãi muốn lợi dụng tôn giáo khuynh đảo chính phủ. Họ dùng phương pháp “bình nghị” để cưỡng ép các vị chân tu phải lần lượt tự thiêu để họ liên tục khai thác bên cạnh những xác chết đó hầu thực hiện những âm mưu chính trị của họ. [tr. 7] Có người bật quẹt đốt Quảng Ðức vì hộp quẹt trong người Thượng tọa bị ướt, không cháy. Vị sư đưa hộp quẹt cho một người khác đốt Quảng Ðức sau này hối hận bỏ trốn, bị lùng bắt để thủ tiêu. (VNCH, UBLBÐTACL, Biên bản số 62: Phiên họp của UBLBÐTACL tại Dinh Gia Long ngày 23/8/1963, tr. 6-12; PTT/1CH, HS 8278)

Ngô Ðình Thục cũng cho rằng đây là một vụ cố sát.

* Oat-shinh-tân, 23G03 [11G03 ngày 12/6/1963 VN]: Rusk chỉ thị cho Trueheart: Nếu Diệm không có những bước cấp tốc và hiệu lực để giải quyết cuộc khủng hoảng để gây lại niềm tin của Phật tử, chúng ta sẽ phải tái duyệt xét việc ủng hộ chế độ Diệm.

9. 16/6/1963: TT Diệm ra tuyên cáo chung với Phật Giáo về việc giải quyết những đòi hỏi của Phật Giáo.

a. Vợ chồng Nhu chống lại. Lệ Xuân sử dụng PTPNLÐ và tờ Times of Vietnam để chống lại việc thực thi thông cáo chung. Nhu sử dụng Thanh Niên Cộng Hòa và công an mật vụ.

b. Thứ Năm, 20/6/1963: Sài-Gòn: Ðại Hội thành lập Giáo hội Cổ Sơn Môn. Tuyên bố ủng hộ chính phủ, và đứng ngoài những cuộc tranh đấu hiện nay của Phật giáo. Chính thức thành lập ngày 18/6/1963.

Bộ trưởng Nội vụ gửi Công điện cho Ðô trưởng, Thị trưởng và Tỉnh trưởng toàn quốc, yêu cầu “phổ biến sâu rộng Thông cáo chung ký kết ngày 16/6/1963,” và “chỉ thị các cấp trực thuộc thi hành nghiêm chĩnh Thông cáo chung nầy.” (TTLTQG 2 [TP/HCM], PTT/1CH, HS 8509)

c. Ceylon: Chủ tịch Hội Phật Giáo Thế Giới yểm tr cuộc tranh đấu của Phật Giáo Việt Nam.( HS 8541)

10. 20/6/1963: * Rusk chỉ thị Trueheart hỏi ý kiến Diệm về việc bổ nhiệm Henry Cabot Lodge làm tân Ðại sứ. Lodge nổi danh ở Việt Nam là “vua đảo chính.” Ngày 22/6, Diệm đồng ý. [Xem 27/6/1963]
a. Thứ Bảy, 22/6/1963:, 9G00: Trueheart gặp Thuần. Yêu cầu được gặp Diệm. Theo Trueheart có những dấu hiện vợ chồng Nhu muốn phá việc thực hiện Thông cáo chung.

- Nhu đã cho lệnh Thanh Niên Cộng Hoà lấy chữ ký ra thỉnh nguyện thư phản đối bản Thông cáo chung 16/6/1963.

- Nghị quyết của Cổ Sơn Môn, một hệ phái được chính phủ trợ cấp.

- Bạch thư của Trần Thị Lê Xuân, do vợ chồng Gene và Ann Gregory, chủ nhiệm báo Times of Vietnam soạn thảo.

- Nhu cho lệnh cắt bỏ đoạn phim thời sự về cuộc thương thuyết giữa chính phủ và Phật giáo.

- Kế hoạch ăn mừng ba ngày, từ 25 tới 27 tháng 6/1963, kỷ niệm 25 năm được phong chức Giám mục của Thục. (FRUS, 1961-1963, III, tr. 409-10)

- 17G00-18G00: Diệm tiếp Trueheart. Trueheart nêu lên những vấn đề đã nói trước với Thuần, ngoại trừ điểm về ăn mừng lễ thụ phong của Thục. Diệm khẳng định sẽ tôn trọng những điều thỏa thuận với Phật giáo. Từ chối không có việc Nhu sử dụng Thanh Niên Cộng Hoà. Không đề cập gì đến Bạch thư của Lệ Xuân. Về Cổ Sơn Môn, nói họ có quyền tự do họp Ðại Hội và bày tỏ ý kiến. Việc phóng thích những người tham dự biểu tình, Diệm nói cần thanh lọc; nếu họ không Cộng sản sẽ được phóng thích. (FRUS, 1961-1963, III, Tài liệu 185)

Sau khi Tổng thống Kennedy tuyên bố sẽ thay Ðại sứ Nolting bằng Henry Cabot Lodge ngày 27/6, Thục triệu tập một phiên họp gia đình ở Huế. Tiếp đó, Nhu và vợ công khai chống đối lại tuyên cáo chung ngày 16/6 giữa Diệm và Tịnh Khiết.

b. 1/8/1963: Trong cuộc phỏng vấn với đài truyền hình Mỹ CBS, Lệ Xuân tố cáo các lãnh tụ Phật giáo đang âm mưu lật đổ chính phủ. Theo Lệ Xuân, tất cả những gì Phật tử đã làm chỉ có “nướng thịt sư” (barbecue a bonze) với xăng nhập cảng (imported gasoline). (Tel 190, 8 Aug 1963, Nolting gửi BNG; quoted in Memo ngày 9 Aug 1963, Forrestal gửi TT; FRUS, 1961-1963, III:559n6 [559-560] [TL 249]) [Xem 8/8/1963]
c. Thứ Bảy, 3/8/1963: Lệ Xuân lên án Phật tử là thành phần phản loạn đang sử dụng các thủ thuật Cộng sản để phá hoại quốc gia. [She denounced the Buddhists as seditious elements who use the most odious [xảo quyệt, khả ố] Communist tactics to subvert the country]. Lệ Xuân tuyên bố như trên trong một lớp mãn khóa huấn luyện bán quân sự cho Thanh Nữ Cộng Hoà. (Tel 173, 3 Aug 1963, Nolting gửi BNG; III:553)
d. 3/8/1963: Trong một cuộc phỏng vấn của Reuters, Nhu tuyên bố: Sẽ xuống tay với chùa Xá Lợi vì nuôi dưỡng âm mưu đảo chính. Nếu vấn đề Phật giáo không giải quyết được, sẽ có một cuộc đảo chính chống Mỹ và Phật giáo. [Ngày 5/8, NY Times đăng lại tin này của Reuters]. (Tel 160, 5 Aug 1963, Ball gửi Nolting; III:553 [TL 245]) [Xem 9/8/1963]

e. 6/8/1963: Thứ Ba, 6/8/1963: Ðài VOA phát thanh buổi phỏng vấn Ðại sứ Trần Văn Chương về những lời tuyên bố của Lệ Xuân. Chương, cha của Lệ Xuân, lên án con gái là “vô lễ và hỗn hào” (impertinent and disrespectful). (Tel 190, 8 Aug 1963, Nolting gửi BNG; III:561n4)

7/8/1963:- Tâm Châu viết thư cho Diệm, phản đối những lời tuyên bố của Lệ Xuân: Trích lời Ðại sứ Trần Văn Chương: “Bà Ngô Ðình Nhu đã tỏ ra vô lễ, không có tư cách, khi tuyên bố v Phật Giáo.” (HS 8541)

f. 7/8/1963:- Nolting gặp Nhu. Nhu nói hoàn toàn ủng hộ chính sách của Diệm qua bản tuyên cáo ngày 18/7. Về những lời tuyên bố của Lệ Xuân, theo Nhu, đó là ý kiến riêng của một công dân.
g. Thứ Năm, 8/8/1963: Báo Times of Vietnam đăng bài phỏng vấn Lệ Xuân. Lệ Xuân biện hộ cho những lời tuyên bố trên đài CBS ngày1/8/1963; khẳng định các lãnh tụ Phật giáo không đại diện cho Phật giáo hay đại diện cho dân tộc Việt Nam.
h. 8/8/1963: Nhật báo New York Times đăng hai bài trên trang nhất về Việt Nam.

Bài thứ nhất của Halberstam, từ Sài-gòn, với tựa “Bà Nhu Tố Cáo Mỹ Bắt Chẹt ở Việt Nam” (Mrs. Nhu Denounces U.S. for “Blackmail” in Vietnam). Lệ Xuân tuyên bố rằng Diệm không có quần chúng ủng hộ, phải dựa vào vợ chồng Nhu.

Bài thứ hai của Tad Szulc ở Washington, tiết lộ mối quan tâm ngày một gia tăng của chính phủ Kennedy về việc chính phủ Diệm khó sống còn nếu không hòa hoãn với Phật giáo.

Ball chỉ thị cho Nolting. Yêu cầu Nhu công khai tuyên bố yểm trợ chính sách hoà hoãn của Diệm. Yêu cầu Diệm cho Lệ Xuân đi khỏi Việt Nam, giống như trước đây đã đưa Lệ Xuân qua Hong Kong.

i. 9/8/1963: Tuần báo Newsweek đăng một bài đặc biệt về Lệ Xuân.

9/8/1963: Forrestal làm phiếu trình lên Kennedy về vợ chồng Nhu. Tiết lộ Miên, Ceylon [Sri Lanka], và Nepal đã đưa vấn đề Phật giáo ra trước văn phòng Tổng Thư Ký Liên Hiệp Quốc. Có thể sẽ họp Ðại Hội Ðồng LHQ.

k. 10/8/1963: Nolting báo cáo về những cuộc dàn xếp với Diệm, và vợ chồng Nhu. Lệ Xuân, theo Nolting, vượt ngoài sự kiểm soát của cha mẹ và anh chồng. Diệm hứa với Nolting là sẽ cứu xét các biện pháp đối với Lệ Xuân, và đã nghĩ đến việc cho Lệ Xuân “nghỉ.” Những người khác như Thơ, Thuần, Nhu, Mẫu, Bửu Hội v.. v... đưa ra những giải pháp sau: Lệ Xuân đi “nghỉ dài hạn,” như ở Roma; Tổng Giám Mục Thục sẽ được thăng cấp [về Roma]; Nolting trực tiếp đề nghị với Diệm biện pháp chống lại Lệ Xuân. [Xem 12/8/1963]

- Buổi tối: Thuần bí mật gặp Nolting. Nói các Bộ trưởng đều đồng ý đã đến giờ thứ 11 của Diệm. Lệ Xuân cùng em ruột là Trần Văn Khiêm tổ chức một toán cảnh sát đặc biệt để bắt cóc đối thủ. Chắc chắn Nhu cũng biết việc này.

Thứ Hai, 12/8/1963: Nolting tiếp kiến Diệm. Diệm cố gắng tự biện minh là các tăng ni không thành thực, và thế giới không biết đến việc các sư giả muốn lật đổ chế độ. Tuy nhiên, Diệm hứa sẽ cho Nolting biết quyết định vào buổi chiều.

- Buổi tối: Diệm tổ chức dạ tiệc đưa tiễn Nolting. Diệm hàm ý là sẽ bác bỏ ý kiến của Lệ Xuân.

13/8/1963: Rusk tham khảo ý kiến Nolting. Theo BNG Mỹ, buổi phỏng vấn của Thơ khó thể kết luận là “hoà hoãn.” Liệu Diệm có chịu đi nghỉ mát chung với vợ chồng Nhu chăng? (FRUS, Tài liệu 252)

Thứ Tư, 14/8/1963, 11G00: Nolting gặp Diệm trước khi về nước. Thực ra, Nolting và Diệm đã thảo luận từ sáng sớm. Mãi tới phút chót, Diệm mới hứa sẽ công khai phủ nhận những lời chỉ trích lỗ mãng của Lệ Xuân. [Lệ Xuân đã ví những cuộc tự thiêu của tăng ni như “nướng thịt sư”, v.. v...]. [Xem 15/8/1963] Thứ Năm, 15/8/1963: The NY Herald Tribune đăng bài phỏng vấn Diệm của Marguerite Higgins. Diệm tuyên bố chính phủ vẫn theo đuổi chính sách ôn hoà với Phật giáo, và ngầm đả kích những lời tuyên bố lỗ mãng của vợ Nhu. Diệm và gia đình cũng rất vui lòng về việc bổ nhiệm Lodge. Thực ra, đây chỉ là món quà vĩnh biệt với Nolting, và để trấn an dư luận Mỹ. Trong tháng 8/1963, Nhu nhiều lần tuyên bố đang đập tan phong trào tranh đấu của Phật giáo.

Thứ Năm, 15/8/1963: Nolting rời Việt Nam. Qua Honolulu họp với Bộ Tư lệnh Thái Bình Dương của Ðô đốc Felt và Lodge. Ðây là thông lệ của ngành ngoại giao, vì không bao giờ tân và cựu đại sứ gặp nhau tại nhiệm sở.

l. 15/8/1963: Nhu kêu gọi đoàn viên Thanh Niên Cộng Hoà có thái độ với những cuộc biểu tình của Sinh viên và Phật tử.

m. Thứ Sáu, 16/8/1963: Ðại sứ Trần Văn Chương gửi điện văn mật cho Diệm: Dư luận thế giới và đặc biệt tại Mỹ tin rằng Diệm không thể mang lại chiến thắng Cộng Sản. Cuộc khủng hoảng Phật Giáo vốn dĩ không phải là nguyên nhân, mà chỉ là hậu quả, một giột nước làm tràn ly. Phải ngưng tin dùng các cố vấn Nhu và Cẩn. (Nhân 1964a:34) Theo Diệm, nội các cho rằng điện văn đó không thể chấp nhận được, “khiêu khích và huênh hoang,” nên bị cách chức ngày 21/8/1963 trước khi xin từ chức.

11. 21/8/1963, 00G30: Nhu cho tấn công các chùa; bắt giữ hàng ngàn tăng ni trên toàn quốc.

Vợ Nhu xuất hiện trước chùa Xá Lợi với quân phục LLÐB. Bắt giữ gần 2,000 tăng sĩ. Cuộc đàn áp này gây bất mãn trên toàn quốc. Dư luận Mỹ cũng cực kỳ sôi nổi.

a. 21/8/1963: Trần Văn Chương từ chức, phản đối việc đàn áp Phật Giáo. Theo Diệm, nội các cách chức Chương ngày 21/8/1963 trước khi xin từ chức, vì điện văn ngày 16/8/1963Ô không thể chấp nhận được, “khiêu khích và huênh hoang.”

22/8/1963: Tân Ðại sứ Lodge đến Sài Gòn.

b. 7/9/1963: Dưới áp lực của Vatican và Ðại diện Vatican ở Sài Gòn, Thục rời Việt Nam trong một thời gian không hạn định. Tại Roma, Thục tuyên bố Mỹ đã bỏ ra 20 triệu Mỹ kim để đảo chính họ Ngô, và cuộc tranh đấu của Phật giáo không vì đạo pháp mà chỉ có tính cách chính trị. Thục còn cho rằng các tu sĩ không tự thiêu mà bị giết hại bằng búa.

Giáo hoàng Paul VI từ chối tiếp kiến. Ngày 11/9, Thục bay qua New York xin gặp Hồng y Spellman, vận động cho Lệ Xuân qua Mỹ “giải độc,” nhưng Spellman không muốn tiếp. Ðược tin này, cố vấn An Ninh Quốc Gia McGeorge Bundy nhận xét: “Cơn điên rồ của một gia đình cai trị chưa từng thấy từ thời các Nga hoàng.

Sau đó, bị rút “phép thông công” vì ngả theo một phong trào chống Giáo hội Vatican. [Thục bị rút phép thông công vì tuyên bố “The See of the Catholic Church at Rome is vacant.”]

B. Chuyến đi giải độc tại Mỹ trong tháng 10/1963.
Cố vấn An Ninh Quốc Gia McGeorge Bundy nhận xét về hành động của họ Ngô: “Cơn điên rồ của một gia đình cai trị chưa từng thấy từ thời các Nga hoàng.” Bà nghĩ gì?
Background
1.  5/9/1963: - Nhân viên ngoại giao Tây Germany trao cho sứ quán Mỹ bài phỏng vấn Lệ Xuân của đặc phái viên báo Der Spiegel. Lệ Xuân tuyên bố Ðại sứ Lodge đang âm mưu loại bỏ Lệ Xuân hoặc ám sát. Diệm quá yếu, cần sự yểm trợ của Lệ Xuân. Những khó khăn hiện nay là do báo chí bịa đặt và sự can thiệp của Mỹ. Lệ Xuân nhìn nhận với một nhân viên Mỹ là đã viết phần lớn bài phỏng vấn này.( FRUS, 1961-1963, IV:Tài liệu 68)

2. 7/10/1963: Sài-Gòn: Tân Quốc Hội nhóm họp. Diệm đọc diễn văn khai mạc, không nhắc gì đến biến cố đang xảy ra, chỉ nhắc đến thành công trong dĩ vãng. Khen ngợi kết quả việc làm của Lệ Xuân tại Hội nghị Yugoslavia.

* California: Lệ Xuân, vợ Nhu, tới Mỹ giải độc. Lập lại lời cáo buộc miệt thị những vụ tự thiêu là “nướng thịt sư,” và đề nghị sẽ biếu không xăng cùng hộp quẹt nếu các phóng viên muốn bắt chước họ tự thiêu. (Colby 1989:149)

Lệ Xuân bị chống đối dữ dội ở Mỹ. Bố là Trần Văn Chương, mới bị cách chức Ðại sứ, cũng tham gia những cuộc chống đối. Thân Thị Nam Trân đề nghị cho xe húc chết con gái nếu Lệ Xuân tới Mỹ. Vợ chồng Chương không tiếp mẹ con Lệ Xuân.

3. 7/10/1963: Lodge báo cáo về Oat-shinh-tân rằng Ngô Ðình Nhu, trong bài phỏng vấn trên tờ Espresso của Italia, sẽ xuất bản ngày 10/10, tuyên bố miền Nam có thể sống còn dù có Mỹ yểm trợ hay không. Nhu chỉ cần các đơn vị trực thăng và tiền, không muốn binh sĩ Mỹ vì lính Mỹ không có khả năng đánh chiến tranh du kích. Ngay LLÐB do Kennedy thành lập cũng chẳng có giá trị gì. Nhu muốn Mỹ đối xử với Việt Nam như Yugoslavia, viện trợ tiền nhưng không can thiệp vào nội bộ. Diệm và Nhu chống lại việc đưa quân chiến đấu Mỹ vào miền Nam kể cả trong giai đoạn nghiêm trọng nhất trong mùa Ðông 1961-1962. Cuộc chiến không thể thắng được với người Mỹ, vì người Mỹ cản trở sự chuyển biến cách mạng của xã hội, một điều kiện tiên quyết của chiến thắng. “Nếu người Mỹ cắt viện trợ, chưa hẳn đã là điều xấu.” [If the Americans interrupt their help, it may not be a bad thing after all].”( CÐ 652, ngày 7/10/63, Lodge gửi McNamara; FRUS, 1961-1963, IV:386)
Nếu cha vợ Nhu là Chương về Sài Gòn, Nhu nói, “Tôi sẽ cắt đầu y. Tôi sẽ treo cổ y giữa công viên và để xác y lủng lẳng ở đó. Vợ tôi sẽ thắt nút giây vì bà ta tự hào là người Việt Nam, và bà ta là một người yêu nước tốt [He said that if his father-in-law, former Ambassador Chuong, were to “come to Saigon, I will have his head cut off. I will hang him in the center of a square and let him dangle there. My wife will make the knot on the rope because she is proud of being a Vietnamese and she is a good patriot].” (Ibid., IV:386) Ít ngày qua, Ngô Trọng Hiếu cũng tuyên bố “Chúng tôi không cần người Mỹ, trên cả phương diện kinh tế.” [We don’t need the Americans anymore even in the economic field, as we can confront our economic problems with our own resources].( Ibid.)
Phân tích diễn văn của Diệm, Lodge nghĩ rằng không thể loại bỏ vợ chồng Nhu một cách êm ả. Lodge cũng sợ rằng Diệm và Nhu không có cùng một mục tiêu như người Mỹ. Nhu có thể yêu cầu Mỹ triệt thoái. [I also conclude that we cannot assume that Diem and Nhu have the same aims as we. Clearly Nhu wants our help without our presence which, in his view, we use as an excuse for interfering in their internal system of government. Get us out, he argues, and he can be as free to do as he wants as Tito right now].”( Ibid) Nếu vậy, sẽ có đảo chính
4. Phái đoàn điều tra LHQ: 8/10/1963: New York: Ðại Hội Ðồng LHQ chấp thuận gửi một phái đoàn qua điều tra về việc đàn áp Phật giáo.
Bà có biết đàn áp tôn giáo là vi phạm Hiến Chương Liên Hiệp Quốc ngày 26/6/1945 [Charter of the United Nations (U.N. Charter) of June 26, 1945], và Ðiều 18 của Tuyên Ngôn Nhân Quyền ngày 10/12/1948 [Universal Declaration of Human Rights (UDHR) of December 10, 1948], cùng những qui ước nhân đạo thông dụng [customary humanitarian obligations].? Một tội ác chống lại Nhân Loại, và Tội Ác chống lại Nhân Quyền?
Background:
[Charter of the United Nations, signed June 26, 1945, entered into force October 24, 1945, 99 Stat. 1031, T.S. No. 993, 3 Bevans 1153 (1969), and Universal Declaration of Human Rights (December 10, 1948), G.A. Res. 217A (III), U.N. Doc. A/810, at 71 (1948) [hereinfater, U.N. Charter and UDHR, respectively].
[International Covenant on Civil and Political Rights of December 19, 1966, entered into force March 23, 1976; 999 U.N.T.S. 171; reprinted in Richard B. Lillich and Hurst Hannum, INTERNATIONAL HUMAN RIGHTS: DOCUMENTARY SUPPLEMENT, 33 (1995). The ICCPR entered into force in the United States on Sept. 8, 1992 [hereinafter, ICCPR or International Covenant];
The Republic of Vietnam often justified all violations of the international jus cogens and Human Rights treaties and/or conventions, especially the Universal Declaration of Human Rights [UDHR] of December 10, 1948 [G.A. Res. 217A (III), U.N. Doc. A/810, at 71 (1948)] by Article 2(7) of the U.N. Charter, i.e., “internal affairs.”
In its dizzy “Personalist Revolution of 1954-1955,” the RVN carried out a great demolition of socio-political infrastructures and cultural heritages of the South.
The media was strictly censored by the government. These practices violated the unalienable rights to freedom of thought, conscience and religion (Articles 18 of the UHDR and ICCPR), freedom of opinion and expression (UHDR Article 19, and ICCPR Article 18), freedom of peaceful assembly and association (UHDR Article 20(1)), freedom from forced membership of any association (UHDR Article 20(2)), and freedom of scientific, literary or artistic production (UHDR Article 28).
The institution of a one-party political system [Cần Lao Nhân Vị Cách mạng Ðảng] totally intolerant of any political dissent or criticism was violating ICCPR Articles 2 (rights to freedom of political and other opinion), 18 (freedom of thought, conscience and religion), 19 (freedom of opinion and expression), and Article 25 (right and opportunity to take part in the conduct of public affairs, to vote and to be elected).
Religious persecutions ravaged the country. The Buddhist organizations in the South were tightly controlled. Buddhist monks and Hoa Hao or Cao Dai dignitaries were put in house arrest or sent to re-education camps. These religious persecutions violated UHDR, Articles 2 (rights to and freedom of religion), 18 (freedom of thought, conscience and religion), 19 (freedom of opinion and expression), and 20(1) (freedom of peaceful assembly association), as well as ICCPR Articles 2 (rights to and freedom of religion), 18 (freedom of thought, conscience and religion), and 20(2) (freedom of peaceful assembly association).
Case Study: Provincial Chief Nguyen Mau in Hue.
Từ 21/8 tới 20/9/1963, Nguyễn Mâu bắt giữ tổng cộng 964 người. Gồm 100 tăng ni, 21 Giáo sư ÐH, 8 Giáo sư TH, 13 Giáo sư tư thục, 40 công chức, 89 Sinh viên, 325 học sinh, Thanh niên Phật tử, và 368 thường dân. Phóng thích 226 người và bắt học tập cải tạo 638 người. (Tỉnh Thừa Thiên, “Bản tổng kết thành tích thực hiện kế hoạch thanh toán vụ tranh chấp bạo động của Tổng hội Phật Giáo tại Thừa Thiên và Huế (Từ ngày 21/8/1963 tới 20/9/1963), Báo cáo số 5422/TT/NA/CT-M, ngày 3/10/1963 của Nguyễn Mâu; TTLTQG 2, PTT/1CH, HS 8501) [Xem 24/9/1963]

Thứ Sáu, 6/9/1963* Huế: Lúc 9G00, khoảng 12,000 các đoàn thể nhân dân quận Phú Thứ “tự động họp mít-tinh tại sân vận động xã Phú Ða để lèn án hành động phản quốc của nhóm người lợi dụng Phật Giáo.” (CÐ số 4993-TT/NA/CT-M, ngày 7/9/1963, Nguyễn Mâu gửi BNV; TTLTQG 2, PTT/1CH; HS 8529)

- Nguyễn Mâu bắt giữ Tỉnh Hội trưởng Phật học Quảng Ngãi ra Huế tham gia cuộc đấu tranh của PG.

- Nguyễn Mâu bắt giữ Ngô Thùy, Tỉnh bộ PTCMQG Thừa Thiên, ví “có hành động quá khích.”

- Ðại Ðức Thích Tâm Thuật bị trục xuất về Nha Trang.

Tâm Thuật [tục danh Ðinh Quang Mỹ] trước đây bị bắt tại chùa Báo Quốc, và được phóng thích ngày 3/9/1963. (CÐ số 4993-TT/NA/CT-M, ngày 7/9/1963, Nguyễn Mâu gửi BNV; TTLTQG 2, PTT/1CH; HS 8529)

- Cách chức Trung úy Lê Văn Ba, Quận trưởng Hương Trà, vì “cầu an” trong vụ Phật Giáo. (CÐ số 4993-TT/NA/CT-M, ngày 7/9/1963, Nguyễn Mâu gửi BNV; TTLTQG 2, PTT/1CH; HS 8529)

Thứ Hai, 9/9/1963: * Huế: Nguyễn Mâu tổ chức một buổi học tập cho các Ni cô. 62 người tham gia. Tổ chức tại chùa Diệu Ðức, xã Thủy Trường, Hương Thủy.

Theo Mâu, có tin Việt Cộng rất lo sợ về những lớp “cải huấn” của Mâu. Bởi thế Mâu cho lệnh câu lưu điều tra hai sư Lưu Phương (Trương Văn Sung) ở chùa Trúc Lâm và Tâm Thành (Nguyễn Ðình Hiệp) ở chùa Tường Vân xã Thủy Xuân, Hương Thủy, vì hai sư này đi vận động dân chúng để được miễn học tập. (CÐ số 5010-TT/NA/CT-M, ngày 9/9/1963, Nguyễn Mâu gửi BNV; TTLTQG 2, PTT/1CH; HS 8529)

- Khai giảng các lớp từ Ðệ Thất tới Ðệ Tứ tại các trường Quốc Học và Hàm Nghi. Ngày khai giảng trường Ðồng Khánh hoãn lại một tuần.

- PTPNLÐ tỉnh Thừa Thiên tái tổ chức khóa huấn luyện quân sựỳ khóa I. 110 nữ công chức và giáo viên cấp Phần và Tỉnh phải tham dự. (CÐ số 5027-TT/NA/CT-M, ngày 10/9/1963, Nguyễn Mâu gửi BNV; TTLTQG 2, PTT/1CH; HS 8529)

10/9/1963: * Huế: Nguyễn Mâu phá vỡ kế hoạch bãi khóa ở trường Quốc Học. Bắt giữ 5 nữ sinh và 3 nam sinh. Gồm 4 nữ sinh Ðồng Khánh “phản động.” (CÐ số 5059-TT/NA/CT-M, ngày 11/9/1963, Nguyễn Mâu gửi BNV; TTLTQG 2, PTT/1CH; HS 8529)

- 14G30: Bế mạc lớp học tập tại Hương Ðiền. 129 Khuôn trưởng, Ban trị sự Khuôn và Huynh trưởng Gia đình Phật tử tham gia từ ngày 8/9/1963. (CÐ số 5059-TT/NA/CT-M, ngày 11/9/1963, Nguyễn Mâu gửi BNV; TTLTQG 2, PTT/1CH; HS 8529)

11/9/1963: Huế: Mở lớp học tập thứ hai tại chùa Quốc Ân. 43 tăng ni (37 nam, 6 nữ) tham dự buổi cải huấn tại xã Thủy Trường, Hương Thủy này. 22 người bị tạm giữ tại Ty Cảnh Sát tỉnh, số còn lại thuộc các vùng chưa tổ chức học tập. (CÐ số 5059-TT/NA/CT-M, ngày 11/9/1963, Nguyễn Mâu gửi BNV; TTLTQG 2, PTT/1CH; HS 8529) Không kết quả tốt.

Thứ Năm, 12/9/1963: Huế: Khai giảng các lớp Ðệ Thất và Ðệ Lục trường Ðồng Khánh.

Ngày 13/9, khai giảng hai lớp Ðệ ngũ và Ðệ Tứ. Lớp Ðệ nhị sẽ khai giảng ngày Thứ Hai, 16/9/1963. (CÐ số 5088-TT/NA/CT-M, ngày 13/9/1963, Nguyễn Mâu gửi BNV; TTLTQG 2, PTT/1CH; HS 8529)

- Bắt giữ 11 học sinh Quốc Học vì dự định tổ chức bãi khóa và bạo động. (CÐ số 5124-TT/NA/CT-M, ngày 14/9/1963, Nguyễn Mâu gửi BNV; TTLTQG 2, PTT/1CH; HS 8529)

Bắt giữ thêm 2 học sinh Quốc Học, 2 trường Bán công, 1 trường Bách khoa bình dân. (CÐ số 5128-TT/NA/CT-M, ngày 15/9/1963, Nguyễn Mâu gửi BNV; TTLTQG 2, PTT/1CH; HS 8529)

- Tổ chức mãn khóa lớp học tập tại quận lỵ Phú Vang.

79 người bị bắt giữ tham dự khóa cải huấn này từ ngày 4/9/1963. 67 người “tốtt nghiệp,” làm kiến nghị lên Tổng thống, bày tỏ lòng hối lỗi đã sai đường, lạc lối; và lên án hành đầộng của “các phần tử đội lốt tôn giáo phá rối trị an.”. 12 người không tốt nghiệp. (CÐ số 5124-TT/NA/CT-M, ngày 14/9/1963, Nguyễn Mâu gửi BNV; TTLTQG 2, PTT/1CH; HS 8529)

- Lễ bế giảng lớp học tập cho 47 ni cô tại chùa Kiều Ðàm, quận Hương Thủy. Các ni cô làm kiến nghị tuyệt đối trung thành với Tổng Thống và lên án hành động của các phần tử đội lốt tôn giáo phá rối trị an. (CÐ số 5159-TT/NA/CT-M, ngày 17/9/1963, Nguyễn Mâu gửi BNV; TTLTQG 2, PTT/1CH; HS 8529)

15/9/1963: Tiếp tục bắt giữ sinh viên, học sinh dự định tổ chức bãi khóa.

- Phát động chiến dịch tuyên truyền và học tập Sắc Lệnh (SL số 104-TTP, ngày 14/9/1963; HS 8506)bãi bỏ lệnh giới nghiêm 20/8/1963.

Thứ Hai, 16/9/1963: Huế: Khẩu hiệu kêu gọi bãi khóa xuất hiện trong đêm tại các trường Quốc Học, Ðồng Khánh, Nữ hộ sinh Quốc Gia và Bồ Ðề (chi nhánh hữu ngạn). Ngoài ra còn khẩu hiệu yêu cầu phóng thích các Giáo sư, sinh viên học sinh bị bắt giữ, đả đảo chính phủ kỳ thị tôn giáo, đúng lên tranh đấu cho Phật giáo, Ðẳ đảo Việt Minh.

Nguyễn Mâu bắt các phụ huynh học sinh phải ký giấy cam kết về hành vi con em học sinh, sinh viên, “cương quyết đập tan mọi âm mưu của Cộng Sản và phản loạn.” Mâu cũng dự định tổ chức thanh niên học đường. (CÐ số 5159-TT/NA/CT-M, ngày 17/9/1963, Nguyễn Mâu gửi BNV; TTLTQG 2, PTT/1CH; HS 8529)

Thứ Ba, 17/9/1963: Huế: Các chốt chận có thiết giáp bắt đầu triệt thoái. Bắt giữ thêm 2 học sinh Quốc Học. Thứ Tư, 18/9/1963: Huế: Tỉnh đoàn Công Dân Vụ làm lễ mãn khóa học tập 7 ngày cho 44 tăng ni. 22 người đang bị bắt giữ, 22 người tại các chùa chưa học tập. Khóa học bắt đầu từ ngày 11/9/1963. Kiến nghị trung thành và lên án phản loạn đội lốt Phật Giáo. (CÐ số 5204-TT/NA/CT-M, ngày 19/9/1963, Nguyễn Mâu gửi BNV; TTLTQG 2, PTT/1CH; HS 8529)

Thứ Sáu, 20/9/1963: Nguyễn Mâu trả tự do cho Hòa thượng Ðôn Hậu, cùng các Thượng tọa Thiện Siêu, Chánh Trực và Ðức Tâm; TTLTQG 2, PTT/1CH, HS 8501)

Thứ Hai, 23/9/1963: Bắt giữ hai “điệu” tại chùa Từ Ðàm về việc tự thiêu của Tiêu Diêu. Ðó là Nguyên Tịnh (Lê Công Kỳ, 18 tuổi) và Nguyên Khánh (Lê Công Khải, 19 tuổi) (CÐ số 52339-TT/NA/CT-M, ngày 26/9/1963, Nguyễn Mâu gửi BNV; TTLTQG 2, PTT/1CH; HS 8529)

24/9/1963: Các tu sĩ Ðôn Hậu, Thiện Siêu, Chánh Trực và Ðức Tâm được tự do. Ðôn Hậu, tục danh Diệp Ðôn Hậu, về chùa Diệu Ðế, rồi lên chùa Linh Mụ; Thiện Siêu, tục danh Võ Trọng Tường, và Chánh Trực, tục danh Hoàng Văn Trung, về chùa Từ Ðàm; và Ðức Tâm, tục danh Trần Hoài Cẩm, về chùa Diệu Minh (Cồn Hến). Tuy nhiên, việc đi lại bị hạn chế. (CÐ số 52339-TT/NA/CT-M, ngày 26/9/1963, Nguyễn Mâu gửi BNV; TTLTQG 2, PTT/1CH; HS 8529)
- Phóng thích 20 công chức bị bắt giữ từ ngày 20/8/1963. (CÐ số 52339-TT/NA/CT-M, ngày 26/9/1963, Nguyễn Mâu gửi BNV; TTLTQG 2, PTT/1CH; HS 8529)

Hundreds of thousands of former anti-French nationalists, and Viet Minh cadres were murdered, or concentrated in the “re-education camps,” to be enlightened through malnutrition and illnesses. This mass arbitrary arrest, detention or exile violated, inter alia, UHDR Articles 2 (rights to and freedom of political and other opinions), 9 (no one shall be subjected to arbitrary arrest, detention or exile), 12 (no one shall be subjected to arbitrary interference with his privacy, family, home or correspondence, nor to attacks on his honour and reputation), 18 (freedom of thought, conscience and religion), 19 (freedom of opinion and expression), 20(1) (freedom of peaceful assembly and association), 20(2) (may not be compelled to belong to an association), as well as ICCPR Articles 9(1) (no one shall be subjected to arbitrary arrest or detention), 9(2) (arrested shall be informed, at the time of the arrest, of the reasons to be arrested), 9(3) (right to access to a court), 10 (humane treatment of detainees and respect for their inherent dignity), 14 (Due Process). Some of them suffered torture and cruel treatment in violation of UHDR Article 5 (No one shall be subjected to torture and to cruel, inhuman or degrading treatment or punishment) and ICCPR Articles 7 (prohibiting torture or to cruel, inhuman or degrading treatment or punishment) and 13 (prohibiting torture). These punitive policies–which practically ruined thousands of southern families and put to death tens of thousand political prisoners–were well-documented.
The RVN factually monopolized all aspects of life, from politics to cultural activities. The whole country became a vast prison for the non-Communist Vietnamese.[ 55] Freedom of movements of the citizens were strictly restrained. The RVN installed a security system from hamlet to province or city-level to supervise its citizens on the grounds of detecting and exterminating “spies” and “Communist rebels.” Each individual wanted to leave his/her residence had to secure a permit from a hamlet or precinct security agent, and was required to register at the destination’s police post. These security measures violated UHDR Articles 13(1) (right to freedom of movement and residence within the borders of each State), 13(2) (right to leave any country, including his own, and to return to his country) and 12 (liberty of movement and residence). Save for high-ranking government officials, their relatives, and “international workers,” any departure from the country–either as tourist or student–was strictly prohibited. In brief, the general Rights to life prescribed under the U.N. Charter Article 1 and UHDR Article 3 (Everyone has the right to life, liberty and the security of person) were completely denied. No remedy was provided whatsoever, although such is required by ICCPR Article 14 and UHDR Article 8 (right to an effective remedy by the competent national tribunals for acts violating the fundamental rights granted him by the constitution or by law).
The RVN, of course, provided for its citizens a written constitutional right to “democracy” almost all of the rights mandated by the U.N. Charter. These were, however, another kind of “democracy,” “social security,” and set of rights, known as paper-caked democracy and rights. The only freedom that the South Vietnamese fully enjoyed were freedoms of starvation and sufferings.

VII. Liên hệ với CS của họ Ngô:
1. Văn khố chính phủ Việt Nam hiện nay còn lưu trữ một giấy bổ nhiệm ông Ngô Ðình Nhu làm Giám đốc văn khố Hà Nội vào tháng 9/1945. Sắc lệnh này mang chữ ký của Bộ trưởng QGGD Vũ Ðình Hoè, và Bộ trưởng Nội Vụ Võ Nguyên Giáp. Xin nói rõ hơn về sắc lệnh bổ nhiệm này, và thời gian ông Nhu phục vụ dưới chính phủ đầu tiên của HCM (1945-1946).
2. Ông Ngô Ðình Nhu thú nhận móc nối CS, và đích thân tiếp đặc sứ Maneli của Phạm Văn Ðồng ngày 2/9/1963 tại Dinh Gia Long.
Bà nghĩ gì về việc này?
3. Liên hệ với CS là một hình tội theo Luật pháp VNCH. Tội danh có thể lên tới tử hình [nếu là viên chưc cao cấp trong chính phủ, còn tội “phản quốc.”]
Theo Bà, nên truy tố họ ra tòa; hay, lật đổ chế độ, giết đi trừ hậu họa?
Background:
Không ai có thể chối cãi việc anh em họ Ngô tiếp xúc với Cộng Sản. Nếu thời điểm họ Ngô bắt đầu ve vãn Cộng Sản còn gây nhiều bàn cãi, đầu mối bằng xương, bằng thịt xuất hiện tại ngay chính Dinh Gia Long ngày 2/9/1963 là Mieczylslaw Maneli, Trưởng đoàn Poland [Ba Lan] trong Ủy Ban Quốc Tế Kiểm Soát Ðình Chiến (ICC, sẽ dẫn UBQT/KSÐC). Ðích thân Cố vấn Ngô Ðình Nhu (1910-1963) cũng tuyên bố với viên chức tình báo Mỹ, và ngay cả các Tướng miền Nam, nhiều lần, rằng ông ta từng tiếp xúc Việt Cộng.( 6) 6. Frederick Nolting, From Trust to Tragedy: The Political Memoirs of Frederick Nolting, Kennedy’s Ambassador to Diem’s Vietnam (New York: Prager Publishers, 1988), tr, 117-18; Chính Ðạo, Tôn Giáo & Chính Trị: Phật Giáo, 1963-1967 (Houston: Van Hoa, 1994, 1997), tr. 51.
Tình báo Mỹ, Pháp và Việt đều nói về buổi họp mặt bí mật với Phạm Hùng (Phó Thủ tướng Bắc Việt, đặc trách kế hoạch thống nhất hai miền Nam-Bắc từ năm 1958). Một số người còn nhắc đến, dù chẳng trưng được bằng cớ có thể kiểm chứng nào, những cuộc tiếp xúc giữa ông Nhu và cán bộ CSBV ngay tại Sài Gòn vào hạ tuần tháng 10/1963.( 7) 7. William Colby, Lost Victory, 1989:102-103; Trần Văn Ðôn; Nguyễn Văn Châu, Ngô Ðình Diệm: Nỗ lực hòa bình dang dở, bản dịch Việt ngữ của Nguyễn Vi Khanh (Los Alamitos, CA: Xuân Thu, 1988), tr. 161-164. Trung tá Châu–một cựu Quân ủy trung ương của Ðảng Cần Lao, trước khi nắm Nha Chiến tranh Tâm lý, và rồi đưa qua Oat-shinh-tân làm tùy viên quân sự vào tháng 9/1962–thời gian này có mặt ở Sài Gòn, nhưng không nêu tên nhân chứng.
Ðích thân Tổng thống Diệm, theo một cộng sự viên từ năm 1942, cũng định tìm cách tiếp xúc một cán bộ cao cấp của Hà Nội ở New Dehli vào khoảng trung tuần tháng 11/1963.( 8) 8. Lời chứng của Trần Văn Dĩnh trong Ellen Hammer, A Death in November (NY: Oxford Univ Press, 1987), tr. 268-270; Winters, Year of the Hare, tr. 99; Seymour M. Hersh, The Dark Side of Camelot (Boston: Little, Brown, 1997), tr. 433-434; Philip E. Catton, Diem’s Final Failure: Prelude to America’s War in Vietnam (Lawrence, Kansas: Univ of Kansas Univ. Press, 2002), tr. 195. Dĩnh là một thông ngôn phục vụ tại Tòa lãnh sự Nhật ở Huế từ năm 1942, và có liên hệ với Diệm từ ngày này. Từng giữ chức Tổng Lãnh sự Burma, Tổng Giám Ðốc Thông Tin, rồi Tòa Ðại sứ ở Mỹ.
Cũng có tin Nhu đã đạt được một thỏa thuận ngầm với Bắc Việt để thành lập một chính phủ thống nhất, trung lập với Hồ làm Chủ tịch và Nhu làm Phó.
1. Mieczylslaw Maneli:
Từ mùa Xuân 1963, theo Maneli, nhiều nhân vật trong giới ngoại giao đã yêu cầu Maneli gặp Ngô Ðình Nhu. Trong số này có Ðại sứ Pháp Roger Lalouette, Ðại sứ India (Ấn Ðộ) Ramchundur Goburdhun trong UBQT/KSÐC, Ðại sứ Italia (Ý) Giovanni d'Orlandi và Ðặc sứ Vatican (Tòa thánh La Mã) Salvatore d'Asta. Họ đều nói với Nhu về Maneli, và Nhu tỏ ý muốn gặp.
Tối Chủ Nhật, 25/8, Maneli được giới thiệu với Nhu trong buổi tiếp tân của Trương Công Cừu, vừa để ra mắt ngoại giao đoàn nhân dịp được cử thay Vũ Văn Mẫu làm Quyền Ngoại trưởng, vừa đón tiếp tân Ðại sứ Lodge. Ngay sau lần gặp sơ khởi này, Maneli báo cáo về Warsaw, đồng thời thông báo với Ðại sứ Liên Sô Suren A. Tovmassian ở Hà Nội và Hà Văn Lâu, Trưởng đoàn VNDCCH tại UBQT/KSÐC. Lâu và Tovmassian, theo Maneli, tán thành. (9) 9. Maneli, 1971, tr. 137-139, 140-147. Từ cuối tháng 8/1963, tình báo Mỹ đã biết tin về kế hoạch của Maneli; Foreign Relations of the United States [Bang giao quốc tế của Liên bang Mỹ], 1961-1963, IV:89-90. Sẽ dẫn: FRUS, 1961-1963. Sau ngày 1/11/1963, Bộ trưởng Nội Vụ Tôn Thất Ðính cũng họp báo tiết lộ việc Nhu liên lạc với Hà Nội, qua trung gian Maneli; Maneli 1971:112-114. Những lời chứng trong sách của Maneli ấn hành tại Mỹ, tưởng cần nhấn mạnh, chỉ là một thứ truyền khẩu sử, hay dã sử; cần được phối kiểm với các tài liệu văn khố khác.
Qua ngày 2/9, Nhu mời Maneli vào Dinh Gia Long bàn việc. Sau đó, Maneli ra Hà Nội báo cáo. Nhưng Warsaw đột ngột cho lệnh Maneli ngừng gặp Nhu. Ngay chiều 2/9, Cố vấn Nhu nhìn nhận với Lodge rằng mới gặp Maneli hôm đó. Theo Nhu, Maneli hỏi Nhu là có thể báo cáo gì với Phạm Văn Ðồng về những lời tuyên bố của de Gaulle (29/8) và Hồ (29/5/1963 hoặc 8/1963). Nhu trả lời: “Không.”( 10) 10. CÐ 403, ngày 2/9/1963, Lodge gửi BNG; FRUS, 1961-1963, IV:85.
Ngày 2/9/1963 này, mật báo viên của tình báo Mỹ nhận xét rằng việc Maneli và nhân viên Pháp (không phải cá nhân Lalouette) làm trung gian cho Nhu và Ðồng là một thứ bí mật chẳng dấu được ai (open secret) trong giới ngoại giao Sài Gòn đã nhiều tháng. Mật báo viên này cũng được Maneli nhờ giới thiệu với Nhu nhưng từ chối.( 11) 11. CÐ CIA ngày 2/9/1963; FRUS, 1961-1963, IV:89-90.
Bốn ngày sau, chiều 6/9, Ngô Ðình Nhu tái xác nhận với viên chức CIA là d'Orlandi và Goburdhun nhiều lần yêu cầu Nhu gặp Maneli. Trong buổi gặp ngày 2/9, Maneli khuyên Nhu nên lợi dụng những lời tuyên bố của de Gaulle và Hồ để thương thuyết với Hà Nội. Maneli nói đã được Phạm Văn Ðồng ủy quyền làm trung gian [authorized by Pham Van Dong to act as intermediary]. Nhu trả lời Maneli rằng lời tuyên bố của de Gaulle rất “hấp dẫn” [interesting], nhưng chỉ những người thực sự chiến đấu trong cuộc chiến này mới có quyền nói và hành động. Nam Việt Nam liên kết với Mỹ và sẽ là điều vô luân khi dò dẫm đơn phương sau lưng người Mỹ. Vấn đề hiệp thương bất lợi cho tinh thần chiến đấu cũng như sự thông suốt về chính trị của dân chúng miền Nam. Nhu khẳng định không thương thuyết với Hà Nội, chỉ tiếp xúc Việt Cọng miền Nam. Nhu còn nói không có đường giây bí mật nào với miền Bắc, nhưng Maneli và Goburdhun lúc nào cũng sẵn sàng.( 12) 12. CÐ 0689, CAS gửi CIA; FRUS, 1961-1963, IV:125-126.
Như thế, đích miệng Ngô Ðình Nhu thú nhận hai lần đã gặp Maneli, người tự nhận là sứ giả của Phạm Văn Ðồng, Thủ tướng Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa [VNDCCH].
Ngày 16/9, Thiếu tướng Trần Thiện Khiêm–Tham Mưu trưởng Liên quân, lúc ấy đã chuẩn bị đảo chính–mật báo với Mỹ rằng các Tướng nóng lòng làm đảo chính hơn khi thấy thêm nhiều chứng cớ về việc Ngô Ðình Nhu muốn thương thuyết với miền Bắc. [The Generals are . . . becoming increasingly concerned over additional evidence [of] Nhu negotiating for settlement with North]. Theo Khiêm, Nhu tiết lộ với một số Tướng (như Big Minh, Lê Văn Nghiêm) về cuộc tiếp xúc Maneli. Maneli đã mang tới đề nghị của Ðồng về việc hiệp thương giữa Bắc và Nam; và Nhu đang nghiên cứu, sẽ cho các Tướng biết thêm những bước kế tiếp. Nhu tuyên bố Maneli đã hoàn toàn dưới sự sử dụng của Nhu và sẵn sàng bay ra Hà Nội bất cứ lúc nào được chỉ thị. Nhu còn thêm rằng Ðại sứ Pháp Lalouette từng đề nghị tương tự.( 13) 13. Nguyên văn, “Counselor Nhu has discussed with some Generals (Khiem states that he was not in on discussion and only mentioned Big Minh and General Nghiem as being among those with whom Nhu discussed the item) his conversation with Polish Commissioner Maneli. He told Generals that Maneli had brought him a proposal from DRV Prime Minister Pham Van Dong for start of trade between North and South Vietnam. Nhu had informed the Generals that he had taken this under consideration and would consult with them in any future move. According to Nhu, Maneli has stated that he was at Nhu’s complete disposal and ready to fly to Hanoi at a moment’s notice. Nhu had also stated that French Ambassador Lalouette had also offered his services toward same end.” FRUS, 1961-1963, IV:239-240.
2. Cán bộ “Việt Cộng”:
Ngô Ðình Nhu nhiều lần tuyên bố đã bí mật tiếp xúc với cán bộ Việt Cộng (hiểu theo nghĩa Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam [MT/GPMN]). Mùa Xuân 1963, nhân dịp phát động chiến dịch Chiêu Hồi (vào tháng 4/1963), Nhu khoe đón tiếp cán bộ Cộng Sản cao cấp ngay tại Dinh Gia Long. Có lần, Nhu chỉ vào chiếc ghế Ðại sứ Frederick (Fritz) Nolting đang ngồi, nói một lãnh tụ Cộng Sản vừa mới rời chỗ đó. Rồi giải thích đang gặp các lãnh tụ Việt Cộng để thuyết phục họ về hàng. Nolting báo cáo chi tiết này về Oat-shinh-tân, và xin cho Nhu toàn quyền hành động hầu thành lập một chính phủ “mở rộng.” Nhưng các cố vấn của Kennedy không hài lòng–họ coi đó gần như một hành động bội phản. (Nolting, From Trust to Tragedy, 1988:117-118). [VNC: And, a day-dream, too].
Chiều 24/5, Ngô Ðình Nhu yêu cầu Tướng Paul Harkins (Tư lệnh MAC-V), Richard G. Weede (Tham Mưu trưởng MAC-V), John H. Richardson (CIA) và William Trueheart (Cố vấn chính trị tòa Ðại sứ) vào Dinh Gia Long, xác định từng liên hệ với cán bộ CS cấp cao. Nhu tiết lộ mới được tin mật là CS vừa tổ chức một Hội nghị cán bộ chính trị và quân sự cao cấp ngày 19/5/1963 tại đồn điền Memot trên đất Miên. Mật báo viên của Nhu tham gia hội nghị này. Kết quả, Hội nghị trên quyết định rút 6 tiểu đoàn đặc công từ Việt Nam qua Lào làm nghĩa vụ Quốc tế từ ngày 20/5. Các đơn vị chính qui sẽ rút về mật khu Miên, hay ngừng tham chiến, giao trách nhiệm chiến đấu cho các đơn vị địa phương và tự vệ. Nhu tuyên bố nếu báo cáo trên là đúng, VNCH sẽ tổng tấn công, đánh tan các lực lượng địa phương trên, và ngăn chặn đặc công từ Lào đột nhập Nam Việt Nam. Cầm đầu lực luợng đặc biệt này là Nghệ (?).Tới Lào, Nghệ sẽ là cố vấn của Tướng Trần Sơn [Trần Văn Trà, hay Chu Huy Mân?], Tư lệnh Lực lượng ngoại quốc tại Lào. ( Thư ngày 25/5/1963, Trueheart gửi Hilsman; FRUS, 1961-1963, III:327-330.
Chiều ngày 2/9, Nhu thú nhận với Lodge rằng mình từng tiếp xúc Việt Cọng. Những cán bộ VC này đã rất chán nản, muốn ngừng hoạt động. Sáu tháng trước, một Ðại tá VC muốn đào ngũ với 3 tiểu đoàn, nhưng Nhu khuyên ông ta ở lại biên giới Lào chờ cơ hội thuận tiện. Một Tướng VC ở Miên cũng muốn gặp Nhu. Không những VC đang thất vọng mà còn cảm thấy bị Bắc Việt lợi dụng.( 16) 16. CÐ 403, ngày 2/9/1963, Lodge gửi BNG; FRUS, 1961-1963, IV:85.
Có người cho rằng đây là lời bịa đặt của Ngô Ðình Nhu. Nhận định này quá vội vã. Trong hậu trường chính trị Sài Gòn, luôn luôn có những màn đi đêm lạ lùng. Không thiếu người nỗ lực “lôi kéo những phần tử Quốc Gia” ra khỏi sự kiềm tỏa của Cộng Sản trong MT/GPMN. Trong số nhân vật được coi là “người quốc gia” có Kiến trúc sư Huỳnh Tấn Phát (1913-1989) và Luật sư Nguyễn Hữu Thọ (1913-1989)ỳ. Từ năm 1948-1949, Y sĩ Lê Văn Hoạch, một cựu Thủ tướng Nam Kỳ Tự Trị (1946-1947), và Nguyễn Hòa Hiệp (1906-1974)ỳ đã không ngừng thực hiện kế hoạch đưa phần tử quốc gia về thành. Cuối thập niên 1940, anh em họ Ngô cũng tìm cách liên lạc các đạo hữu Ki-tô trong vùng Việt Minh kiểm soát, lôi kéo họ về phe Quốc Gia. Mùa Thu 1964, Ðại tướng Nguyễn Khánh–qua Quốc Vụ Khanh Lê Văn Hoạch–trao đổi thư từ với Phát, Tổng thư ký MT/GPMN, nhưng cũng đồng thời cầm đầu tổ tình báo trí vận Sài Gòn-Gia Ðịnh. Món quà trao đổi là vợ con Phát và tù binh Mỹ. Hai năm sau, dù đang lưu vong ở Paris, Khánh còn mưu toan móc nối Chủ tịch MT/GPMN về hồi chính. Một trong những người trung gian là Nha sĩ Lê Văn Trường ở Paris, người tự nhận là “thượng cấp” của Thọ. Năm 1966, Ðại sứ Lodge cũng lọt vào một màn ảo thuật âm mưu đưa Thọ bỏ mật khu. Ðó là chưa kể kế hoạch Buttercup, từ 1967 tới 1969, với hy vọng mở đường giây nói chuyện thẳng với MTDT/GPMN–đưa đến việc phóng thích Dược sĩ Yên và Nguyễn Thị Chơn, vợ Trần Bạch Ðằng. (17) 17. Xem Chính Ðạo, VNNB, 1939-1975, tập I-D: 1964-1968 (đang in).
Trong hai năm 1962-1963, chung quanh Ngô Ðình Nhu có khá nhiều cán bộ tình báo chiến lược CSBV. Albert Phạm Ngọc Thảo và Vũ Ngọc Nhạ chỉ là hai người được biết nhiều nhất. Lời thú nhận “móc nối Việt Cộng” của Nhu, bởi thế, cần được nghiên cứu kỹ càng hơn trước khi có một nhận định võ đoán [sweeping remark]. Cho tới khi có tài liệu chứng minh ngược lại, chúng ta không thể không tin lời khai của chính ông Nhu. (Theo hình luật Mỹ, lời tự thú của nghi can là bằng chứng rất đáng tin cậy)
3. Phái viên khác của Hà Nội:
Theo một nguồn tin, Ngô Ðình Nhu còn mượn cớ đi săn, để bí mật gặp cán bộ CSBV.
a. Truờng hợp Phạm Hùng:
Cán bộ CS được William Colby–trưởng lưới tình báo CIA tại Sài Gòn, Giám đốc Sở CIA Ðông Nam Á, Phụ tá Giám đốc kế hoạch bình địỳnh nông thôn ở Việt Nam [CORDS], và rồi Giám đốc CIA–nêu đích danh là Phạm Hùng (1912-1988), Ủy viên Bộ Chính Trị Ðảng Lao Ðộng Việt Nam, Phó Thủ tướng, nguyên Chủ Nhiệm Ủy Ban Thống Nhất. Theo Colby, nhiều năm sau cái chết của anh em Diệm-Nhu, một Tướng cao cấp thuộc nhóm đảo chính 1963 [Trần Văn Ðôn, Trần Thiện Khiêm hay Tôn Thất Ðính?] tuyên bố đã từng nghe tin Nhu gặp Phạm Hùng vào [tháng 2/1963]. Cuộc gặp mặt này xảy ra trong giai đoạn Diệm-Nhu đang có nhiều dị biệt lớn lao với Mỹ, và nỗ lực tìm cách thoát khỏi sự bế tắc giữa hai gọng kìm Mỹ và Cộng Sản.( 18) 18. William Colby, Lost Victory, 1989:102-103. Trong cuốn Our Endless War in năm 1987, Ðôn không nhắc đến chi tiết này. Ấn bản tiếng Việt của tập hồi ký trên ghi rằng Nhu được Trung tá Bường, tỉnh trưởng Bình Tuy, đưa đến gặp Phạm Hùng và hai người khác. Nhu hứa với Phạm Hùng là sẽ cho Lệ Xuân và Lệ Thủy ngồi lên chuyến xe lửa thống nhất đầu tiên ra Hà Nội (tr. 183). Tướng Ðôn, tưởng cũng nên ghi nhận, là một trong những “nguồn tin đáng tin cậy” của các viên chức Mỹ. Một trong những lý do là Ðôn từng được OSS huấn luyện vào mùa Hè 1945, rồi gửi trở lại nội địa lấy tin tức về quân Nhật. Ðôn rất thân thiết với Lucien “Lou” Conein và Edward Lansdale.
Là người thân thiết với Nhu và chống việc thay Diệm, Colby không trích dẫn lời chứng của Tướng [Ðôn Khiêm hay Ðính?] một cách tắc trách. Muốn bác bỏ hay “chỉnh lý” chi tiết này, cần tìm ra tư liệu văn khố Bộ Chính Trị Ðảng CSVN, Nga hay Trung Cộng chứng minh không có màn đi đêm, mà không thể chỉ dùng lối nhận định võ đoán là “tin đồn vô căn.” Về chi tiết Phạm Hùng là “ngườợi cầm đầu các nỗ lực của Cộng Sản tại miền Nam [the leader of the Communist effort in the South] mà Colby đề cập cũng không nhất thiết phải hiểu thu hẹp như Bí thư Trung Ương Cục Miền Nam vào thời gian này [1963]. Năm 1963, Phạm Hùng, với cương vị Phó Thủ tướng, cựu Chủ nhiệm Ủy Ban Thống nhất, có thể được kể như người cầm đầu nỗ lực của CS tại miền Nam. Những Nguyễn Văn Linh, Võ Toàn (Võ Chí Công), Trần Văn Trà, Trần Nam Trung (Trần Lương), Trần Văn Tấn (Lê hay Trịnh Trọng Tấn) chỉ là cán bộ trung cấp (Ủy viên trung ương Ðảng) tại “B”. Câu văn của Colby có thể cũng chỉ nhằm ghi nhận rằng Phạm Hùng là người cầm đầu CS miền Nam khi Colby được mật báo về chuyện gặp gỡ bí mật Nhu-Hùng bốn năm năm trước.( 19) 19. Colby dùng từ “apocryphal” [sự phóng đại], khi phê bình lời nhận xét của Phạm Hùng về sự hữu hiệu của Ấp chiến lược do người bạn thuật lại, mà không nhắm vào bản tin về buổi gặp mặt Nhu-Hùng. Cuộc gặp mặt Hùng-Nhu, tưởng nên ghi thêm, cũng được tình báo Pháp ghi nhận. Tin tình báo thì thường chỉ ghi “reliably informed.” Lời chứng của các Tướng Ðôn, Khiêm, Minh hay Nghiêm có mức khả tín nào sẽ được tài liệu văn khố bạch hóa trong tương lai.
(Giáo sư Trần Bạch Ðằng–người phụ trách tuyên giáo TưCMNVN, từng bí mật liên lạc tình báo Mỹ qua kế hoạch Buttercup năm 1967-1969–nói với tôi, trong dịp phỏng vấn ở Sài Gòn năm 2004-2005, là không hề có tiếp xúc mật với họ Ngô. Tuy nhiên, chưa hẳn TWÐ đã cho TƯCMN biết mọi chi tiết về ngoại giao và tình báo chiến lược)
b. Những đầu mối khác
Vài tác giả còn ghi nhận đại diện CSBV vào gặp Ngô Ðình Nhu ngay tại Sài Gòn vào hạ tuần tháng 10/1963, qua trung gian Ðại sứ India trong UBQT/KSÐC “nhiều lần,” dù chẳng trưng được bằng cớ có thể kiểm chứng nào [như nhân và địa danh, thời điểm, v.. v ...]. (Nguyễn Văn Châu, Ngô Ðình Diệm: Nỗ lực hòa bình dang dở, bản dịch Việt ngữ của Nguyễn Vi Khanh (Los Alamitos, CA: Xuân Thu, 1988), tr. 161-164. Xem thêm đoạn nói về yếu tố India gần cuối bài. Trung tá Châu–một cựu Quân ủy trung ương của Ðảng Cần Lao, trước khi nắm Nha Chiến tranh Tâm lý, và rồi đưa qua Oat-shinh-tân làm tùy viên quân sự vào tháng 9/1962–thời gian này có mặt ở Sài Gòn, nhưng không nêu tên nhân chứng.

Những âm mưu đi đêm giữa Ngô Ðình Nhu với Hà Nội, dĩ nhiên, phải nhiều thời gian nữa mới rõ hết chi tiết, khi tài liệu văn khố Bộ Chính Trị Ðảng CSVN, Trung Cộng, Liên Sô Nga hay Vatican mở ra cho các nhà nghiên cứu. Một số tư liệu Pháp và Mỹ hiện cũng chưa giải mật. Người học sử nghiêm túc không thể không thận trọng về mặt trận tình báo dầy phủ sương mờ nghi hoặc này, chẳng nên áp dụng cứng ngắc thứ luật “bằng chứng” [Evidence Rule] của luật pháp Mỹ gọi là “hearsay” [nghe lại lời kể của một người khác]. Hơn nữa, có những bằng chứng không thể bài bác khác, sau khi phối kiểm lại, cho thấy Diệm-Nhu quả thực đã ve vãn Hà Nội, tìm cách gặp đại biểu Hà Nội, khiến chính phủ Mỹ lo ngại rằng một sự thỏa thuận Bắc-Nam có thể trở thành sự thực vào khoảng cuối năm 1963. (Giáo sư Trần Bạch Ðằng–người phụ trách tuyên giáo TưCMNVN, từng bí mật liên lạc tình báo Mỹ qua kế hoạch Buttercup năm 1967-1969–nói với tôi, trong dịp phỏng vấn ở Sài Gòn năm 2004-2005, là không hề tiếp xúc mật với họ Ngô)
Tình báo Mỹ, Pháp và Việt đều nói về buổi họp mặt bí mật với Phạm Hùng (Phó Thủ tướng Bắc Việt, đặc trách kế hoạch thống nhất hai miền Nam-Bắc từ năm 1958). Một số người còn nhắc đến những cuộc tiếp xúc giữa ông Nhu và cán bộ CSBV ngay tại Sài Gòn.( 7) 7.
4. Theo ông Trần Văn Dĩnh, TT Diệm mật lệnh cho ông Dĩnh tiếp xúc đại diện Hà Nội ở New Delhi, vào trung tuần tháng 11/1963.
Bà có biết việc này không?
Background:
Trần Văn Dĩnh–cố vấn và xử lý thường vụ Tòa Ðại sứ Việt Nam tại Oat-shinh-tân từ ngày 22/8/1963, đang trên đường qua New Dehli nhận nhiệm sở mới–tiết lộ rằng ngày 29/10 đích thân Ngô Ðình Diệm chỉ thị cho Dĩnh chuẩn bị gặp một đại diện Hà Nội (Phạm Ngọc Thạch hay Lê Ðức Thọ?) để dò ý. Theo dự trù, Dĩnh sẽ gặp phái viên Hà Nội ngày 15/11/1963 tại New Dehli, nơi Nguyễn Cơ Thạch (Phạm Văn Cương) đang giữ chức Tổng Lãnh sự từ ngày 26/7/1956. Nhưng cuộc đảo chính 1/11/1963 khiến âm mưu này phải bỏ dở. Theo Dĩnh, Diệm còn dặn phải dấu kín Nhu. (Lời chứng của Trần Văn Dĩnh trong Ellen Hammer, A Death in November (NY: Oxford Univ Press, 1987), tr. 268-270; Winters, Year of the Hare, tr. 99; Seymour M. Hersh, The Dark Side of Camelot (Boston: Little, Brown, 1997), tr. 433-434; Philip E. Catton, Diem’s Final Failure: Prelude to America’s War in Vietnam (Lawrence, Kansas: Univ of Kansas Univ. Press, 2002), tr. 195. Dĩnh là một thông ngôn phục vụ tại Tòa lãnh sự Nhật ở Huế từ năm 1942, và có liên hệ với Diệm từ ngày này. Từng giữ chức Tổng Lãnh sự Burma, rồi Tổng Giám Ðốc Thông Tin, trước khi phục vụ Tòa Ðại sứ ở Mỹ. Chẳng hiểu do ngẫu nhiên hay vì một lý do nào cả Châu và Dĩnh, hai cán bộ Cần Lao cao cấp, đều có mặt ở Sài Gòn vào những ngày cuối của chế độ Diệm. Theo tài liệu văn khố Phủ Tổng thống Ðệ nhất Cộng Hòa, vào cuối tháng 10/1963 có một Ðại hội chống Cộng ở Sài Gòn.
Cũng có tin Nhu đã đạt được một thỏa thuận ngầm với Bắc Việt để thành lập một chính phủ thống nhất, trung lập với Hồ làm Chủ tịch và Nhu làm Phó.
5. Ông Nhu và TT Diệm đã vi phạm luật pháp của VNCH, móc nối CS, đáng tội tử hình. Theo bà nên đưa họ ra tòa xét xử, trước khi hành hình; hay, nên giết ngay trong lòng Thiết Vận Xa để ngừa hậu họa?
Background:
Thứ Năm, 6/5/1959: Diệm ban hành Luật 10/59 nhằm diệt Cộng và thiết lập tòa án quân sự lưu động để xét xử cán bộ Việt Cộng. Toà Mặt Trận này có quyền chung thẩm; dùng Dụ số 47 năm 1956 để trừng trị Việt Cộng.

VIII. Bị đưa đi lưu vong, bà mang theo được bao nhiêu tài sản? Ông Nguyễn Văn Bửu và TGM Thục chuyển ngân giúp bao nhiêu? Cách nào có tiền tậu nhà và appartment cho thuê ở Paris? Hiện ai đang quản trị khách sạn ở Roma?
Background:
Thứ Ba, 3/2/1959: - Ðại sứ Durbrow báo cáo về đảng Cần Lao. Theo Durbrow đảng này có khoảng 16,000 đảng viên, chia làm 2 phe: Trung và Nam. Ngô Ðình Cẩn cầm đầu phe miền Trung; Ngô Ðình Nhu cầm đầu phe miền Nam. Phụ tá cho Cẩn là Hà Thúc Luyện; Phụ tá cho Nhu là Trần Kim Tuyến.

Cần Lao chia làm nhiều nhóm.

Lê Văn Ðồng, hiện là Bộ trưởng Canh nông, có vợ là cô của Lệ Xuân (vợ Nhu).

Trần Quốc Bửu là một trong những người sáng lập đảng, và giữ chức Chủ tịch Liên Ðoàn Thanh Lao Công VN.

Bửu và Ðồng là “người” của Nhu. Nhóm này có khoảng 700 người. Huỳnh Văn Lang nghi rằng nhóm này bị VC xâm nhập. (tr. 512) Ðồng nắm Ban Tổ chức của Ðảng, với Thái Mạnh Tín làm phụ tá. Vào tháng 4/1958, có tất cả 286 tổ, nhưng chỉ tiếp xúc với 126 tổ, trong đó 57 tổ thuộc phạm vi Sài Gòn.

Ban kinh tài do Nguyễn Văn Bửu và Trần Kim Tuyến chỉ huy.

Nhóm Trần Kim Tuyến và Phạm Văn Nhu [Chủ tịch QH năm 1955-1956. Cha đỡ đầu của Huỳnh Văn Cao] thường xin giấy xuất/nhập cảng bán ra lấy tiền gây quĩ (bởi thế, Tuyến còn có bí danh “Tuyến lông vịt”). Ðảng còn được môn bài khai thác các trạm xăng; nhưng nỗ lực đòi các hãng dầu nạp mãi lộ không thành công. Nhân vật kinh tài lừng lẫy nhất là Nguyễn Văn Bửu, một thân tín của Cẩn. Bửu khai thác quế xuất cảng, và có một đoàn tàu vận tải duyên hải. Bửu thường không ghi đúng số tiền hàng hoá xuất cảng, đôi khi giảm tới 40%, để dành số ngoại kim thặng dư trong ngân hàng ngoại quốc hầu đề phòng hàng hoá bị hư hỏng.

Ðảng Cần Lao cũng đang xâm nhập giới chức binh đội. Viên chức ảnh hưởng nhất trong Quân Ủy Cần Lao là Phạm Thu Ðường, Chánh văn phòng của Nhu. Trên danh nghĩa, cầm đầu Quân ủy là Trung tá Nguyễn Văn Châu, Giám đốc Nha Chiến Tranh Tâm Lý.

Theo Durbrow, quân đội là mối đe dọa lớn của chế độ. (Tel 279, 2 March 1959, Durbrow gửi BNG; FRUS, 1958-1960, I:144-170 [TL 56]). [Xem thêm Tels 213, 22 Dec 1958, Durbrow gửi BNG; FRUS, 1958-1960, I:109-113 [TL 45]) & 1169, 31 Dec 1958, I:114-117 [TL 46]

23/7/1959: Durbrow nói chuyện với Nhu về Ðảng Cần Lao. Dùng loạt bài 6 kỳ của Albert M. Colegrove xuất hiện trên các báo Scripts-Howard từ 20 tới 25 tháng 7/1959 để hỏi về vụ xuất cảng quế [cassia] và làm hóa đơn giả [under-invoicing] để thu lợi.

Theo Nhu, Ðảng Cần Lao được đặc quyền xuất cảng quế, để khuyến khích dân chúng tham gia, để tái lập kỹ nghệ sản xuất quế.

Theo Nhu những lời chỉ trích rằng Ðảng Cần Lao độc quyền mọi doanh nghiệp và công nghiệp, là do Ðảng Ðại Việt và các đảng đối lập tung ra. Theo Nhu, ngoại trừ Ðảng Cộng Sản, những đảng đối lập chẳng xứng đáng với danh nghĩa Ðảng. Họ tập họp một số khuôn mặt bất mãn chẳng được đám đông ủng hộ, và chỉ biết tìm cảm tình của ngoại bang qua việc chỉ trích chính phủ. Nhu thuật lại kinh nghiệm hoạt động của Ðảng Cần Lao là chỉ phê bình từng điểm sai của chính phủ, nhưng khen ngợi những điều chính phủ làm đúng. Vì vậy mà dưới thời Bảo Ðại, đảng của Nhu cũng như tờ báo của Ðảng không hề bị đàn áp dù đối lập. Mới đây Nhu đã kêu gọi những người đối lập hành động tương tự như mình. Nhu cũng nói CS đã bắt chước đòn phép [trick] này của Nhu. (I:220-225)

IX. Xin nói rõ về cái chết của vợ chồng Luật sư Chương năm 1986 tại Oat-shinh-tân. Tại sao có tin thoạt tiên bà bắt vợ chồng Lệ Chi khai là ông bà Chương chết tự nhiên vì tuổi già? Bà có tin rằng em trai bà, Luật sư Khiêm, bị bệnh thần kinh, hay chỉ là một lý do Luật sư bào chữa đưa ra để tránh lao tù?
Background:
24/7/1986: Vợ chồng Trần Văn Chương-Thân Thị Nam Trân bị giết ở Washington, DC.
Trước đó vài giờ, Nam Trân điện thoại cho con gái lớn là Lệ Chi ba lần (lúc 21G19, 21G30 và 21G56), thông báo Khiêm và Chương gây gổ với nhau, và Nam Trân “sợ hãi cho Chương.” Theo Etienne Oggeri, một người Pháp, từ Roma, Lệ Xuân muốn vợ chồng Oggeri và Lệ Chi thay đổi lời khai với Cảnh sát, và tin rằng cha mẹ mình chết tự nhiên. Nhưng vợ chồng Oggeri nghĩ rằng Khiêm đã phạm tội giết cha, giết mẹ [matricide and patricide] vì tức giận không được hưởng gia tài.
Người bị cáo buộc giết hai vợ chồng Chương là Trần Văn Khiêm (1926-?), con trai duy nhất. Khiêm cũng hành nghề Luật sư ở Việt Nam. Năm 1954, Khiêm được cử làm Phát ngôn viên của chính phủ Diệm. Từ năm 1963, Khiêm ngả theo vợ chồng Nhu, trong khi Chương và Nam Trân chống lại. Từ đầu thập niên 1970, Khiêm sống lang thang khi ở Mỹ, lúc Italia, lúc ở Pháp. Một thời gian, vợ chồng Chương coi Khiêm như “một tên bất lực, vô tài,” mỗi tháng trợ cấp 300 Mỹ kim, nhưng không cho Khiêm hưởng gia tài trị giá khoảng 650,000 Mỹ Kim.
Năm 1986, Khiêm trở lại Oat-shinh-tân sống với vợ chồng Chương. Vài tháng sau, ngày 24/7/1986, vợ chồng Chương chết vì nghẹt thở trong phòng ngủ.
Luật sư của Khiêm muốn xin tòa đình hoãn phiên tòa vì lý do Khiêm bệnh thần kinh, nhưng Khiêm không chịu.
Trong thời gian bị giam cứu, Khiêm viết rất nhiều thư và hoàn tất một bản thảo dày khoảng 800 trang, với tựa đề “Âm mưu của Do Thái chống lại Ngô Ðình Diệm, Ngô Ðình Nhu, John Kennedy, Robert Kennedy và tôi” [“The Israeli Plot Against Ngo Dinh Diem, Ngo Dinh Nhu, John Kennedy, Robert Kennedy and Me.”] Khiêm còn cảnh giác Reagan là coi chừng sẽ bị ám sát. Saundra Saperstein and Elsa Walsh, “A Muder in the Family: Behind the tragic death of a prominent Viet couple;” Sunday Punch, Nov 8, 1987, p. 3.
[July 24, 1986: Tran Van Chuong and his wife were found dead of asphyxiation. Nam Tran made three quick calls to Oggeri, according to court records.
9:19 p.m.
9:20 p.m. “And I am afraid for your father,”
9:56 p.m.: would increase his 300-a-month allowance to $500. “And now he seems appeased.”
Tran Van Khiem (1926-?):; disinherited in the 1977 wills.
Khiem wants to stand trial.
Oggeri’s two sons want to silence him.
Le Xuan believes that someone is trying to quiet him, her parents died of natural causes. “This is a family affairs.”[ Lệ Chi] Oggeri said that Madame Nhu tried to get her to change her version of the night’s events].

Vũ Ngự Chiêu


Trang mạng Việt Nam Văn Hiến rất mong mõỉ nhận được sự trả lời cuả Bà Trần Thị Lệ Xuân hoặc những vị thân cận và tường tận như quý ông Tôn Thất Thiện và Hoàng Ngọc Thanh hay quý độc giả, để làm sáng tỏ về những nghi vấn, hầu góp phần cập nhật lịch sử cận đại được trung thực và trong sáng.
Xin vui lòng gởi điện thư: thuky@vietnamvanhien.net

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét