GIÃ TỪ
LÝ PHẬT TỬ HÔM NAY
Hoàng
Nguyên Nhuận
Dương văn Minh - Tổng Thống
thứ tư và cũng là Tổng Thống cuối cùng của Việt Nam Cộng Hòa, qua đời ngày
6.8.2001 tại Pasadena, California, Hoa Kỳ thọ 85 tuổi.
Trong số những kẻ đầu đàn
trực tiếp có ân nghĩa và nợ nần với dân tộc và tổ quốc Việt Nam trong giai đoạn
lịch sử 1954-1975, giờ chỉ còn lại hai: Nguyễn Văn Thiệu và Nguyễn Khánh. Còn Bảo
Đại, Ngô đình Diệm rồi Trần văn Hương một bên, Hồ chí Minh và Lê Duẩn một bên, thì
kẻ trước người sau đều đã theo nhau vượt Sông Mê ghé quán Cháo Lú ... trước khi
lên đường về cõi không tên.
Dương văn Minh ít ra cũng đã
hai lần công khai đi vào lịch sử chính trị Việt Nam. Năm 1963 như một phản thần
thí quân. Năm 1975 như một Lý Phật Tử đầu hàng quân nhà Tùy năm 603 để "không cứu được nước thì cứu được dân"
như chính Dương văn Minh tâm sự.
Ngoài hai lần đó ra, những
lần khác không quan trọng lắm. Như Đại Tá chỉ huy chiến dịch Hoàng Diệu đánh
bật lực lượng Bình Xuyên khỏi ven đô chạy về Rừng Sát tháng 9.1955. Phụ tá của
Dương văn Minh trong chiến dịch này là Trung Tá Nguyễn Khánh, kẻ đã phế triệt
ông 8 năm sau đó. Như Thiếu Tướng chỉ huy chiến dịch Nguyễn Huệ truy kích lực
lượng Bình Xuyên tháng 1.1956 và bắt được Ba Cụt ngày 13.4. Như Thiếu Tướng chỉ
huy chiến dịch Thoại ngọc Hầu bình định lục tỉnh tháng 6.1956, kết thúc bằng vụ
xử tử Ba Cụt tại Cần Thơ ngày 13.7.56. Dương văn Minh là một Ngô thì Nhiệm an
định Bắc Hà cho Quang Trung, một Lê văn Duyệt giữ yên Nam Kỳ lục tỉnh cho nhà
Nguyễn.
Dương văn Minh chính là trụ
cột chống đỡ chính quyền non nớt của Ngô đình Diệm thời khai quốc trước nạn sứ
quân lục lâm Lương Sơn Bạc núp dưới chiêu bài giáo phái do Pháp và Bảo Đại đỡ
đầu. Nhờ công trạng đó mà đến tháng 8.56 Dương văn Minh được cất nhắc lên chức
Tổng Thư Ký Thường Trực Bộ Quốc Phòng tương đương với Tổng Tham Mưu Trưởng,
kiêm chỉ huy Phân Khu Sài Gòn-Chợ Lớn tương đương với Tư Lệnh Biệt Khu Thủ Đô,
kiêm Tư Lệnh chiến dịch Thoại Ngọc Hầu. Sau đó lên Trung Tướng và giữ chức Tư
Lệnh Hành Quân Bộ Tổng Tham Mưu. Cho đến tháng 12.62 thì mất chức Tư Lệnh Hành
Quân và chỉ còn hư danh Cố Vấn Quân Sự Phủ Tổng Thống. Tại sao Dương văn Minh
thất sủng như thế thì có lẽ chỉ có anh em Ngô đình Diệm và Dương văn Minh biết
rõ thôi.
Năm 1963, phong trào Phật
giáo bùng lên từ ngày Phật Đản 8.5, trong khi chính quyền đang chủ trương dẹp
gấp dẹp gọn phong trào này thì ngày 14.6 cái gọi là “Hội đồng Tướng lãnh” họp
kêu gọi hai bên đoàn kết, bình tĩnh, tránh hiểu lầm, đặt quyền lợi quốc gia lên
trên hết, giải quyết trong tình huynh đệ. Là đàn anh của các tướng lãnh, hẳn
Dương văn Minh không thể không có ý kiến quyết định khuyến cáo đó. Khuyến cáo
đó có thể coi đó là một cách dằn mặt
Phật giáo, và cũng có thể là một cách dằn mặt chính quyền. Cách nào đúng
thì hơn bốn tháng sau mọi người đều đã thấy rõ qua chính biến 1.11.
Không có chính biến 1.11 thì
lịch sử của chung Miền Nam và của riêng Phật giáo Việt Nam hẳn đã có một vài
trang đẫm máu ngoại hạng và Miền Nam có thể đã tạm thời trở thành một Phi Luật
Tân về tôn giáo. Thật vậy, khi cuộc vận động tự do và bình đẳng tín ngưỡng của
Phật giáo vượt ngoài vòng tiên liệu và kiểm soát của mình thì chính quyền đã
thẳng tay phát động chiến dịch Nước Lũ đêm 20.8 hốt tất cả thành phần lãnh đạo
Phật giáo vào tù. Dĩ nhiên, không phải cho những người này nghỉ ngơi một thời
gian rồi thả ra, để biểu tình tiếp hay ra để hưởng tất cả những quyền lợi nhân
quyền, tự do hành đạo, tự do chính trị như các đồng bào công giáo!
Ai không theo ta là kẻ thù
của ta. Nếu không có chính biến 1.11 do Dương văn Minh cầm đầu thì số phận
những người bị chế độ xem là kẻ thù sẽ như thế nào? Hỏi như vậy tức những người
Phật tử cũng như những thành phần đối lập với chính quyền từ vụ Bình Xuyên Hòa
Hảo, vụ Ba Lòng, vụ Caravelle, vụ Phạm phú Quốc - Nguyễn văn Cử, vụ Nguyễn
chánh Thi ... đều phải nhớ ơn Dương văn Minh và chính biến 1.11.1963.
Và không chỉ những người Phật
tử biểu tình tranh đấu cám ơn Dương văn Minh mà cả những người trung kiên với
Ngô đình Diệm cũng phải cám ơn Dương văn Minh nữa. Những người này có thể trách
Dương văn Minh phản chủ khiến cho Ngô đình Diệm và Ngô đình Nhu bị thảm sát và
có thể hận Dương văn Minh,nhưng hãy đừng hận đến độ quên cả tự hỏi rằng, nếu
trong và sau ngày 1.11.1963 mà Dương văn Minh có dã tâm bật đèn xanh xúi dục
hay nhắm mắt cho những phần tử cực đoan, các giáo phái đã bị truy bức chết lên
chết xuống trước đây tìm cách trả thù 'chế
độ cũ' hay 'Cần Lao ác ôn' thì
chuyện gì sẽ xảy ra? Hoặc đặt câu hỏi ngược lại rằng nếu chính biến 1.11.1963
là do những người của Ngô Tổng Thống anh minh thực hiện (như kế hoạch Bravo của
chính Ngô Đình Nhu) thì chuyện gì sẽ xảy ra? Cứ xem những gì đã xảy ra ở
Indonesia sau khi Sukarno bị hạ bệ, ở Campuchia sau khi Pol Pot vào Nam Vang, ở
Yugoslavia sau khi cộng hòa này tan rã, ở Rwanda trước đây và Bắc Ireland hiện
nay thì phải thấy đa số người dân Việt đáng tự hào là đã không để cho máu đổ vì
những hận thù chính trị hay tôn giáo.
Có người không muốn nhìn cái
chết của anh em Ngô đình Diệm như hậu quả đương nhiên của trò chơi quyền lực
vốn tàn độc bất nhân đã nhào vào chơi thì phải rán chịu, nên đã tìm cách đổ tội
cho Dương văn Minh và Kennedy về cái chết của anh em nhà Ngô. Nhưng trách Dương
văn Minh phản Ngô đình Diệm thì làm sao tránh khỏi trách Ngô đình Diệm phản Bảo Đại? Mặt khác, bảo rằng vì Kennedy chủ tâm
giết Ngô đình Diệm nên chẳng bao lâu sau Kennedy mới bị chết thảm. Nhưng nếu
bảo Kennedy chết thảm vì quả báo sát hại anh em nhà Ngô thì ba anh em nhà Ngô chết thảm vì quả báo nào
đây? Không lý những người bênh anh em nhà Ngô lại muốn thiên hạ nghĩ rằng
theo luật quả báo mà nói thì anh em nhà Ngô chết cũng chẳng oan chút nào sao?
Kennedy có chủ tâm giết anh
em nhà Ngô không thì không chắc, nhưng Kennedy muốn phế bỏ nhà Ngô là chuyện
thật. Tại sao? Câu trả lời có thể tìm thấy qua dòng tin ngắn Đoàn Thêm đã ghi
lại trong quyển Hai Mươi Năm Qua 1945-1964 tr.348 như sau: '22.5.1963 - T.T Kennedy họp báo tuyên bố rất rành mạch và dứt khoát:
Một: sẽ rút quân đội Mỹ khỏi VN bất cứ lúc nào nếu chính phủ VN yêu cầu. Một
ngày sau khi có sự đòi hỏi đó, sẽ cho ngay một số quân về. Nhấn mạnh: đó là
điều thứ nhất. Hai: Hy vọng rằng tình thế ở VN sẽ cho phép rút một số quân vào
cuối năm nay, song e rằng cuộc tranh đấu còn gay go'. Như vậy, theo
Kennedy, đánh hay đàm, tiến hay rút thì Mỹ cũng cần Miền Nam ổn định, không hỗn
loạn. Ngô đình Diệm phải chịu trách nhiệm về thế nước lòng dân ổn định đó. Và
trong lúc địch gia tăng quấy phá, tấn kích mà chính quyền Việt Nam lại đẩy gần
80% dân chúng vào thế đối kháng sống chết với chính quyền thì quả thực đó là
một sai lầm không thể chấp nhận. Bằng chiến dịch Nước Lũ 20.8.1963, chính quyền
Ngô Đình Diệm đã nói cho Hoa Kỳ biết là họ không cần thế nước lòng dân ổn định
đó. Và họ có cách tái lập ổn định riêng của họ. Mỹ không chấp nhận điều đó và
thế là Đệ Nhất Cộng Hòa bị dứt điểm. Kẻ được Mỹ nhờ đến là Dương văn Minh.
Dương văn Minh đoán được ý Mỹ, không đòi Mỹ tiếp tay mà chỉ đòi Mỹ hứa là không
phá bĩnh kế hoạch chính biến của phe mình thôi. Đó là quả quyết của Stanley
Karnow, tác giả bộ sử đồ sộ Vietnam: A
History. Karnow đã có cơ hội trò chuyện với Dương văn Minh cùng những người
khác trong nhóm làm chính biến cũng như với đại diện của Tòa Đại Sứ Mỹ bên cạnh
nhóm chính biến là Đại Tá Conein.
Kennedy và bộ tham mưu cần
Dương văn Minh để tái tạo một thế ổn định mới, có thể là để cho Mỹ an toàn ra
đi. Kennedy chết đột ngột, dự tính đó cũng bị bỏ rơi. Những người thay thế
Kennedy không cần nhóm Dương văn Minh nữa. Cho nên Dương văn Minh làm quốc
trưởng được mấy tháng thì bị Nguyễn Khánh lật. Vì Tổng Thống Johnson cần một
quốc trưởng Miền Nam dám vác cờ Bắc tiến trong khi Dương văn Minh không muốn
đánh mà cũng chưa dám đàm.
Năm 1963, Dương văn Minh
không được Kennedy và Lodge trọng dụng, nhưng năm 1975, đã được Nixon-Ford và
Martin xài đúng chỗ khi họ cần một người vác cờ trắng đầu hàng cho Mỹ êm thắm
rút đợt cuối cùng. Dương văn Minh cố đẩy Trần văn Hương xuống để dành lấy ngôi
vị quốc trưởng vì thành thật tin mình có thể cứu vãn được Miền Nam, hay chỉ tự
lừa mình, hay vì bị người lừa để tin như vậy? Hay vì cả ba lý do đó hợp lực
thúc đẩy? Chỉ có Dương văn Minh biết rõ mà thôi. Chiều 28.4.1975, sau khi Dương
văn Minh tuyên thệ nhậm chức, một ngưòi bạn gặp anh Bùi Tường Huân lúc đó là Bộ
Trưởng Quốc Phòng của Dương văn Minh báo cho biết là bên kia - tức Cộng Hòa Lâm
Thời Miền Nam Việt Nam, đã chịu thương thuyết. Tôi thưa lại rằng thương thuyết
chi mà thương thuyết! điều gấp rút bây giờ không phải là cứu Miền Nam hay Sài
Gòn mà là cứu … các anh đó. Cách tiện lợi để làm chuyện ấy là dụ Đại Sứ Martin
đến Dinh Độc Lập rồi bắt lại luôn và nói cho Martin biết: Tôi chết thì anh cũng
chết, anh thoát thì tôi cũng thoát! Đệ Thất Hạm Đội của Mỹ ngoài khơi đâu có
chịu để cho Đại Sứ Martin lọt vào tay đối phương. Vì phát ngôn bừa bãi vậy nên
Hoàng tôi đã phải nghe chửi thề rồi bị mắng cho là bao giờ cũng chỉ thích làm
loạn!
Chuyển biến tư tưởng của
Dương văn Minh trong 72 giờ làm Tổng Thống hẳn phải là bão táp quay cuồng giữa
tin và không tin thiên hạ, đánh và đàm, thương thuyết và đầu hàng, cầm cự và bỏ
chạy... Tội nghiệp! Như tâm trạng của
người Miền Nam và riêng Sài Gòn trong những ngày cuối cùng đó. Nhưng bị
người lừa hay tự lừa mình hay quyết định tỉnh táo mà sai lầm đến đâu chăng nữa
thì Dương văn Minh thực sự cũng đã có một quyết định đúng đắn mà cả dân tộc
phải ghi ân đó là quyết định buông súng ngưng chiến. Một điều bi hài mà Dương
văn Minh không hề nghĩ đến đó là khi tuyên bố ngưng chiến, Dương văn Minh không
chỉ ký giấy khai tử Việt Nam Cộng Hòa mà còn vô tình khai tử luôn cả Cộng Hòa
Lâm Thời Miền Nam Việt Nam! Việt Nam Cộng Hòa chết thì Cộng Hòa Lâm Thời Miền
Nam Việt Nam cũng chết theo vì cả hai chỉ là những con chốt trên bàn cờ Mỹ-Bắc
Việt.
Cho đến năm 1997, 25 năm sau
ngày Việt Nam Cộng Hòa tiêu vong, Dương văn Minh đã nói một sự thật ít người
nào chịu chấp nhận đó là người Mỹ viện trợ cho Miền Nam chiến đấu chống cộng vô
giới hạn về nhiều mặt, trừ ba thứ là gạo, xăng dầu và đạn. Viện trợ Mỹ về ba
thứ này được dứt khoát giữ ở mức đạn chỉ đủ bắn 6 tháng, xăng dầu và gạo chỉ
dùng được 3 tháng là cùng! Năm 1966, Miền Trung không dám ly khai cũng vì lý do
này. Năm 1970, Tướng Nguyễn văn Vỹ và chương trình Quỹ Tiết Kiệm Quân Đội bị
giết chết từ trong trứng nước cũng chỉ vì muốn dùng số tiền tiết kiệm đó để tạo
điều kiện cho quân đội VNCH khỏi bị những thúc bách hạn chế tiếp vận về gạo,
đạn và xăng dầu đó. Điều này cũng giải thích tại sao Tướng Nguyễn khoa Nam tự
tử và kéo những người thân tín nhất của ông chết theo sau ngày 30.4.1975 sau
khi thất bại trong dự tính biến miền Tây thành khu tự trị để đương cự với địch.
Có một điều mà Dương văn Minh
không nói và Hà Nội cũng không xác nhận đó là trong số xe bồn chở xăng dầu cung
ứng cho chiến trường Sài Gòn có những chiếc không chở xăng dầu mà chở phọt-môn,
chuẩn bị để tẩy uế Sài Gòn trường hợp Miền Nam không chịu buông súng và Bắc
quân phải giải phóng Sài Gòn bằng pháo kích như Pol Pot đã làm ở Nam Vang! Về
chuyện ác mộng pháo kích này thì mấy ai ở Sài Gòn mà không nhớ chuyện khôi hài
ghi lại lời một ông lão hơi lẩm cẩm nhưng hay nói đã phát biểu sau ngày 30.4.
Trong một buổi mít-tinh, ông cụ đã dơ tay xin phát biểu rằng: 'Tui cám ơn cách
mạng đã về giải phóng chúng tôi nhanh chóng, cách mạng mà vào chậm chút nữa thì
'dziệt cộng' nó pháo kích như ở Nam Vang chắc chúng tôi chết hết rồi!' Thiên hạ
cười quá trời khiến ông lão tỉnh người lại và hoảng hốt xua tay phân bua:
'Thôi! Thôi! Tui không dám dài dòng nữa đâu. Già cả lẩm cẩm, tui nói bậy cách
mạng giết tui chết mất! Xin cách mạng tha tui!'
Dương văn Minh ra lệnh buông
súng là đúng. Bởi ông không thể làm gì
khác hơn nếu không muốn thịt rơi máu chảy hơn nữa. Người Sài Gòn và người
Miền Nam phải nhớ ơn ông, cám ơn cái sai lầm của ông, nếu có, khi ông đoạt lấy
chiếc ghế Tổng Thống. Đó cũng là sai lầm của Lý Phật Tử đầu hàng quân Tàu ngày
xưa để tránh cho dân khỏi bị khổ đau chết chóc thêm nữa vì một cuộc chiến vô
vọng. Miền Nam có đau khổ hay không dưới nền cai trị mới của kẻ chiến thắng, đó
là chuyện khác. Và nỗi đau khổ dưới chế độ mới này cũng vô ích như nỗi khổ kéo
dài cuộc chiến mà Dương văn Minh đã cố tránh, và tránh được. Vô ích vì nỗi khổ
này chỉ bắt nguồn từ ảo tưởng và cuồng vọng. Dương văn Minh đã đánh bại kẻ chiến thắng về điểm này, không phải bằng
nộ khí anh hùng mà bằng độ lượng từ tâm. Dương văn Minh không có ảo tưởng
chiến thắng hay thủ hòa bằng quân sự như Lê Duẩn có ảo tưởng triệt để 'cải tạo
Miền Nam để tiến nhanh tiến mạnh tiến vững chắc lên XHCN'. Bao nhiêu trại học
tập cải tạo là bấy nhiêu chứng tích của ảo tưởng này. Cái ảo tưởng không làm
cho Sài Gòn tắm máu, nhưng làm cho Miền Nam tắm nước mắt và mồ hôi vô lối.
Mà thôi! Đó là chuyện để cho
Lê Duẩn đôi co với Hồ chí Minh và Dương văn Minh dưới Suối Vàng nếu quả thật đã
vượt Sông Mê, đã ăn cháo lú mà họ vẫn còn nhớ chuyện trần gian. Tự nhận thất
bại đôi khi còn có ích cho đời hơn là tự cho mình thành công. Những người Việt
còn sống có lẽ chỉ nên suy gẫm bài học Dương văn Minh để vừa buồn là đã phải
làm người Việt Nam, vừa tự hào là đã làm người Việt Nam. Tương lai Việt Nam tùy
thuộc phần lớn vào nỗi muộn phiền và lòng tự hào đó.
Xin vĩnh biệt Dương văn Minh,
xin vọng bái Lý Phật Tử của Việt Nam thế kỷ 20
Hoàng Nguyên Nhuận
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét