Hiển thị các bài đăng có nhãn 30 tháng 4. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn 30 tháng 4. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Ba, 24 tháng 4, 2018


30 THÁNG 4:
TẢN MẠN NHÂN VẬT LỊCH SỬ DƯƠNG VĂN MINH

Trần Văn Chánh
  
Tổng thống VNCH Dương Văn Minh, 30-4-1975

           Trong lịch sử cận-hiện đại của Việt Nam nói chung và miền Nam Việt Nam sau Hiệp định Genève 1954 nói riêng, trường hợp nhân vật lịch sử Dương Văn Minh (1916-2001) có lẽ khá đặc biệt, và không ít người đã coi ông là một vị  tướng lãnh “có vấn đề”. Ông sống nói chung trong sạch, bề ngoài có vẻ luôn khiêm tốn hiền lành nhưng toàn tham gia những đại sự quân chính có tác dụng đảo chuyển hướng đi của lịch sử.

Vào thời kỳ đầu của Việt Nam Cộng Hòa, dưới thời Ngô Đình Diệm, Dương Văn Minh đã từng được coi là anh hùng trong thành tích đánh dẹp lực lượng Bình Xuyên (năm 1954) ở khu Rừng Sác (ngoại vi Sài Gòn) và dẹp tan quân đội của giáo phái Hòa Hảo (năm 1956), được thăng chức Trung tướng (5.1.1956). Hai đại sự khác trong đời ông là việc năm 1963 với tư cách Chủ tịch Hội đồng Quân nhân Cách mạng ông cầm đầu nhóm tướng lãnh đảo chánh lật đổ chế độ Ngô Đình Diệm, và việc năm 1975 với tư cách Tổng thống đã quyết định đầu hàng không điều kiện “đối phương” miền Bắc để kết thúc gọn nhẹ cuộc chiến tranh thảm khốc 30 năm, lập lại hòa bình cho dân tộc Việt.
Sở dĩ bị coi là vị tướng “có vấn đề” vì trong cả hai trường hợp vừa nêu trên, ông có những chỗ rất dễ bị chỉ trích bởi một số người khác biệt quyền lợi hoặc không đồng quan điểm. Đây cũng là một lẽ rất thường tình, bởi nếu ông Minh chỉ là một kẻ tầm thường vô dụng, không lý tưởng, chỉ biết sống “dĩ hòa vi quý” cho được vinh thân phì gia như bao người khác thì có lẽ chẳng ai cần nhắc gì tới ông, kể cả việc chỉ trích ông thậm tệ nhất đi nữa.

■ Liên quan cuộc đảo chánh 1.11.1963, trừ ra một số người sùng bái ông Diệm mà quyền lợi của họ vốn gắn chặt với chế độ Đệ nhất Cộng hòa, còn thì đa số nhân dân miền Nam lúc đó đều hoan nghênh ủng hộ. 
Về lịch sử/ diễn biến cuộc đảo chánh, đã có rất nhiều sách báo/ tài liệu đề cập chi tiết nên ở đây xin khỏi nhắc lại. Chỗ có vấn đề đang nói cho đến nay vẫn còn nhiều người thắc mắc, đó là việc ông Minh có phải hay không là người ra lệnh cho những người dưới trướng ông hạ sát Tổng thống Diệm và Cố vấn Ngô Đình Nhu trên chiếc xe bọc sắt M 113 một cách thảm thiết quá, trên đường chở hai ông Diệm-Nhu về Bộ Tổng tham mưu ngày 2.11.1963 để xử lý, thay vì theo truyền thống văn hóa chính trị, phải để cho hai nhân vật lãnh đạo này được lưu vong sang xứ khác? Ngoài ra, nhắc lại việc này, một số người còn tố cáo ông Minh là kẻ phản bội tàn ác, vì con đường binh nghiệp của ông được thăng tiến nhanh chóng có một phần quan trọng là nhờ ở Tổng thống Ngô Đình Diệm…

Cho đến cuối đời, sống ở Pháp rồi ở Mỹ, vì là việc quá tế nhị, nhóm đảo chánh của ông Minh (gồm cả Trần Văn Đôn, Trần Thiện Khiêm, Tôn Thất Đính…) không ai dám hé môi nói rõ việc này. Tuy nhiên, cũng có vài chi tiết được hé lộ trong hồi ký của một vài chứng nhân, qua đó chúng ta có thể đánh giá tương đối chính xác.
Hồi ký Tâm sự tướng lưu vong của Hoành Linh Đỗ Mậu (NXB Công An Nhân Dân, 1995, tr. 502-503), có đoạn kể, ngày 2.11.1963, ông Mậu thấy các tướng đảo chánh gồm Dương Văn Minh, Lê Văn Kim, Mai Hữu Xuân và Đại tá Dương Ngọc Lắm đang xầm xì bàn tán có vẻ bí mật, đến hỏi thì tướng Trần Văn Minh (Minh nhỏ) trả lời rất nhỏ, “Anh em đang bàn định cách đối xử với ông Diệm, nên giết hay nên cho ông ta xuất ngoại”. Ông Mậu phát biểu không đồng ý giết ông Diệm[1] thì tướng Nguyễn Ngọc Lễ nói to lên: “Xin anh em đừng nghe lời anh Mậu, đã nhổ cỏ thì phải nhổ cho tận rễ”. Thấy không ai phản đối tướng Lễ mà có vẻ im lặng đồng ý, Đỗ Mậu bèn nói thêm: “Việc tha hay giết ông Diệm là hành động lịch sử, vậy muốn tha hay giết ông ta, tôi đề nghị phải lấy quyết định tối hậu qua một cuộc bỏ phiếu kín, phải ghi vào biên bản đàng hoàng”. Đỗ Mậu cho biết tiếp: “Tất cả mọi người lại im lặng không có ai tỏ ra tán đồng ý kiến của tôi. Còn tướng Dương Văn Minh thì nhún vai tỏ thái độ bất mãn với tôi… Sau đó tướng Minh ra lệnh cho tướng Mai Hữu Xuân, Đại tá Dương Ngọc Lắm, Thiếu tá Dương Hiếu Nghĩa và Đại úy Nguyễn Văn Nhung đi đón hai ông Diệm-Nhu tại nhà thờ Cha Tam”.                 
Đỗ Thọ (cháu gọi Đỗ Mậu bằng chú ruột) lúc đó là sĩ quan tùy viên thân cận nhất của Ngô Đình Diệm, người đã theo sát đến phút chót bên cạnh hai ông Diệm-Nhu trên đường trốn từ Dinh Gia Long đến nhà thờ Cha Tam, trong một đoạn hồi ký cũng có nhắc lại sự kiện gần giống như trên: “Chú tôi (tức Đỗ Mậu- TVC) nói rằng luôn luôn kính trọng thương tiếc Tổng thống Diệm. Vụ 1.11.1963 chỉ cốt lật đổ ông bà Ngô Đình Nhu. Đưa Tổng thống Diệm lên Đà Lạt hoặc Côn Đảo trong một thời gian. Nhưng quyết định này đã có nhiều tướng lãnh không chịu. Trong đó có tướng Dương Văn Minh, Trần Văn Đôn, Mai Hữu Xuân” (Nhật ký Đỗ Thọ, Đồng Nai xuất bản, Sài Gòn, 1971, tr. 158). Ở một đoạn tiếp theo, tác giả Đỗ Thọ còn cho biết, khi ông Nhu không chịu lên xe M 113 để chở về Bộ Tổng tham mưu, một sĩ quan phe đảo chánh đã gào lên: “Ông không còn là cố vấn… Và Tổng thống nữa. Hãy lên xe gấp. Chúng tôi được lệnh Trung tướng Chủ tịch phải thi hành” (tr. 177).

Theo mấy chi tiết dẫn chứng trên đây, chúng ta có thể thấy, việc giết hai ông Diệm-Nhu, ông Minh không quyết định một mình, mà có sự họp bàn tập thể nhưng chỉ bàn kín hạn chế với vài tướng lãnh chủ chốt, trong đó có các tướng Lê Văn Kim, Mai Hữu Xuân và Đại tá Dương Ngọc Lắm, chứ không đưa ra toàn thể Hội đồng Quân nhân Cách mạng lấy quyết định. Còn ở một vài tướng tá khác, tuy không thấy nhắc trong đoạn hồi ký trên kia của Đỗ Mậu, nhưng chắc chắn cũng đã được ông Minh tham khảo ý kiến trước đó theo một cách nào đó thôi.

Theo cựu dân biểu Dương Văn Ba, một người thân cận có vài năm sống tá túc hoạt động báo chí trong nhà của Dương Văn Minh (ở số 3 Võ Văn Tần bây giờ), “Có sách ngoại quốc nói rõ người điều khiển việc bắt giết Ngô Đình Diệm, Ngô Đình Nhu là Trung tướng Mai Hữu Xuân, Bộ trưởng Bộ Nội vụ. Tướng Xuân là người thân tín với Dương Văn Minh. Rất có thể tướng Xuân đã ra lệnh bắn chết Diệm, Nhu để tuyệt trừ hậu họa. Người thi hành lệnh bắn là thiếu tá Nhung, một trong những cận vệ của tướng Minh. Tướng Mai Hữu Xuân trực tiếp chỉ huy việc tiến chiếm Dinh Gia Long, ông chịu trách nhiệm về cái chết của Diệm, Nhu với tư cách người chỉ huy trực tiếp trận đánh. Nhưng một vấn đề chưa sáng tỏ là ông Xuân thi hành lệnh của Dương Văn Minh hay tự ý quyết định tại mặt trận. Giết Diệm, Nhu để tránh hậu họa, một giả thuyết hợp lý đối với con người mưu lược như ông Mai Hữu Xuân”. Rồi Dương Văn Ba kết luận: “Về phần Dương Văn Minh, ông chưa lần nào lên tiếng nói rõ vấn đề này. Dù có ra lệnh giết hay không, tướng Minh vẫn phải chịu trách nhiệm trước lịch sử về cái chết của Diệm, Nhu” (Hồi ký Những ngả rẽ, Bản thảo phổ biến nội bộ, tr. 26-27). 

Từ khi hai anh em ông Diệm-Nhu bị chết thảm (ngày 2.11.1963), ông Minh và đám tướng tá đồng sự của ông không ai công khai thừa nhận mình có tham gia quyết định giết Tổng thống, có thể vì 2 lẽ: (1) Việc giết nguyên thủ quốc gia có tiếng tăm lớn như ông Diệm là một việc quá sức tưởng tượng theo quan niệm của Việt Nam Cộng Hòa thời đó; (2) Các tướng tá tham gia đảo chánh trong chừng mực nào đó hầu hết đều có thọ ơn ông Diệm trên con đường thăng tiến binh nghiệp của mình, nhưng họ bất đắc dĩ phải hạ thủ là để “sát nhất miêu cứu vạn thử” (giết một con mèo để cứu muôn con chuột), và cần phải “nhổ cỏ tận gốc” đề phòng nhóm ông Diệm lưu vong nước ngoài sẽ có thể tái tập hợp lực lượng, kết hợp với ngoại bang hoặc thành phần trong nước tìm cách phục hồi.

Xét hai lẽ nêu trên thì thấy việc nhóm ông Minh trước sau vẫn kín tiếng không thừa nhận giết Tổng thống Diệm cũng là một sự cận nhân tình, hầu như ai cũng vậy, vì họ sợ dư luận nghĩ không tốt về mình. Còn việc bắt buộc phải giết Tổng thống như trong trường hợp ông Diệm thì đó thuộc về lý do chính trị mà theo cách nghĩ của họ ngay vào thời điểm đó, khó thể có một chọn lựa nào khác tốt hơn. Có thể rằng ông Minh và vài người khác sau này cảm thấy áy náy trong lòng khi nghĩ lại chuyện đã qua, nhưng đây thuộc trường hợp mâu thuẫn mà một chính khách có lương tâm dễ bị mắc phải khi phải đối đầu với những tình huống quá phức tạp. Tuy nhiên, trên thực tế, hành động của nhóm ông Minh đã có thể được biện minh khi kết quả cuộc đảo chánh như được biết đã mang lại lợi ích cho đại đa số dân chúng, bằng việc loại trừ được một chế độ có nhiều chỗ bất ổn cho dân, theo kiểu “sát nhất miêu cứu vạn thử!”.

■ Đại sự thứ hai trong cuộc đời ông Minh liên quan đến ngày 30.4.1975 lịch sử, khi đại quân miền Bắc ồ ạt tiến sát vào Sài Gòn, quân lính Việt Nam Cộng Hòa nhiều nơi đã bị tan rã. Khi ấy, với cương vị Tổng thống vừa được Quốc hội đưa lên trước đó chỉ 3 ngày, nhóm chấp chính Dương Văn Minh (gồm cả Phó tổng thống Nguyễn Văn Huyền, Thủ tướng Vũ Văn Mẫu…) đã quyết định “không chống cự” và sau đó tuyên bố đầu hàng vô điều kiện. Sự đầu hàng nhanh chóng này tất nhiên nhận được nhiều sự đánh giá trái ngược nhau. Đối với “bên thua cuộc”, mỗi lần nhắc đến Dương Văn Minh, không ít người Việt tị nạn ở nước ngoài vẫn còn oán trách, cho ông là “hàng tướng” đã hèn nhát đầu hàng CS, “trao nước cho giặc”, để đến nỗi đất nước phải như ngày hôm nay (theo họ là nghèo nàn lạc hậu, nạn tham nhũng tràn lan vô phương cứu chữa, mất dân chủ này khác…). Đây là một quan điểm đánh giá có nhiều phần vội vã, cực đoan, đơn giản, không thấy hết thực tế của hình thế thời cục lúc đó, cũng như nhu cầu bức thiết chấm dứt chiến tranh tái lập hòa bình phải là mối ưu tiên hàng đầu đối với bất kỳ nhà lãnh đạo nào biết thương dân, vì đó là nguyện vọng thiết tha của nhân dân cả hai miền Nam, Bắc, sau khi đã bị nếm trải cuộc chiến tranh kéo dài vô cùng khốc liệt, mà cuộc chiến tranh ấy, ai cũng biết, không hoàn toàn do mỗi bên chủ động vì còn chịu ảnh hưởng nặng nề của các cường quốc, trong đó cả hai bên chiến tuyến đều thường có những người là họ hàng ruột thịt với nhau. Là một quân nhân kinh qua nhiều chiến trận, hơn ai hết ông Dương Văn Minh là người thấu cảm với nỗi khổ của nhân dân vô tội trong chiến tranh, và ngay cả bản thân ông, cũng có người em ruột là sĩ quan cao cấp Dương Thanh Nhựt (Mười Tỵ) đang đấu tranh chống lại Việt Nam Cộng Hòa ở bên kia chiến tuyến.

Giả định, ngày 30.4.1975, Dương Văn Minh không chịu đầu hàng mà kiên quyết “tử thủ” thì khó thể suy đoán sẽ còn bao nhiêu dân và quân của cả hai bên chiến cuộc tiếp tục thương vong, đổ máu. Ngay cả những người chủ trương “tử thủ” cùng với gia đình vợ con họ vì thế còn chưa biết số phận rồi sẽ  đi đến đâu? Trong khi đó, tử thủ trong điều kiện cận kề ngày 30.4 như đã biết thì kết quả hầu như chắc chắn phải thua, nhưng cho dù có thắng, phía bên kia tiếp tục kháng chiến thì chiến tranh vẫn sẽ còn kéo dài lâu hơn, 5 năm hay 10 năm nữa chưa biết chừng. Cho nên có thể nói, ông Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng là một hành động sáng suốt tránh cho Sài Gòn và cả nước không bị đổ máu thêm vô ích, trước hết vì mục tiêu hòa bình và hòa giải hòa hợp dân tộc, vốn là chủ trương căn bản của ông, cho dù ông có chịu ảnh hưởng bởi những ý đồ chính trị phức tạp của người Mỹ, người Pháp, hay có bị CS móc nối hay không. Trong trường hợp này, cũng giống như trong cuộc đảo chánh năm 1963, có lẽ phải nghĩ ông Dương Văn Minh tuy không hoàn toàn độc lập hành động (làm sao có sự độc lập này được?), cũng không phải tiếp tay cho CS (tuy rằng về mặt tác dụng khách quan thì có), nhưng là người đã biết khéo nương theo diễn biến thời thế, khai thác những chỗ “ám hợp” (hợp ngầm) giữa ông với những thế lực chi phối khác để làm lợi cho dân tộc: năm 1963 xóa bỏ chế độ độc tài Ngô Đình Diệm, còn nay là để kết thúc cuộc chiến tranh đau khổ tái lập nền hòa bình. Giả định, nếu được cầm quyền lâu hơn, đường lối chính trị của ông Minh chắc chắn sẽ có nhiều điểm không giống hẳn với những người CS.              
Việc ông Dương Văn Minh đầu hàng “giặc” trong thế thua để tránh bớt thương vong cho dân quân của cả hai phe xem ra cũng có khía cạnh hao hao giống với quyết định giao thành cho giặc rồi uống thuốc độc tự tử của Phan Thanh Giản, khi hùng binh của Pháp tiến đánh Vĩnh Long tháng 6.1867. Điểm khác biệt là ở đối tượng được giao, và ông Minh đã không tự tử như Phan Thanh Giản[2], vì hoàn cảnh lịch sử và tình huống cụ thể có khác, nhưng trong cả hai trường hợp của người xưa và người nay, đều rất dễ phát sinh dị nghị.
Có quan điểm khá phổ biến cho rằng ông Minh tuyên bố đầu hàng đơn giản chỉ vì bị lâm vào cái thế hoàn toàn thúc thủ, nhưng theo một số nhân chứng lịch sử lúc bấy giờ, tướng Dương Văn Minh nhận lên làm Tổng thống không có ý để thương thuyết với phe cách mạng vì đã thấy không còn khả năng thương thuyết; cũng không có ý để tiếp tục chiến tranh vì lâu nay ông vốn chủ trương hoà bình, hòa giải hòa hợp dân tộc (xem Chánh Trinh, Hồi ký không tên, NXB Thời Đại, 2012).        

Một câu hỏi nữa cũng đáng để đặt ra: Là một tướng lãnh cấp cao nhất trong quân đội Việt Nam Cộng Hòa, thông thường phải có khuynh hướng chủ chiến, nhưng tại sao Chính phủ do ông Minh đứng đầu lại có vẻ hiền lành chủ hòa với thiện ý cao nhất?
       Ngoài những lý do đương nhiên về chính trị, cũng như những đòi hỏi khách quan của lịch sử cùng nguyện vọng hòa bình của dân tộc, theo tôi chắc hẳn còn có một lý do sâu xa tiềm ẩn quan trọng nữa có thể giải thích nguồn gốc thái độ và chủ trương hòa bình-hòa giải hòa hợp dân tộc của Chính phủ Dương Văn Minh, từ đó đi tới quyết định đầu hàng nhanh chóng. Đó là lý do tôn giáo: Tổng thống Dương Văn Minh và Thủ tướng Vũ Văn Mẫu đều theo Phật giáo, trong khi Phó tổng thống Nguyễn Văn Huyền là người rất mộ Kitô giáo. Đạo Phật là đạo của hòa bình, từ bi hỉ xả; Kitô giáo là đạo của lòng bác ái vị tha, lẽ tất nhiên các ông đứng đầu này đều có khuynh hướng chung không muốn cho sinh linh phải bị tàn sát, trong bất kỳ điều kiện nào còn có thể tránh được.
     Họ đều là những người nổi tiếng thanh liêm, đạo đức, sống nghèo, chưa nghe có tai tiếng gì về đời tư, thậm chí có người còn sống khổ hạnh, như ông Huyền cả đời chỉ ở nhà cấp 4, không có xe hơi riêng, cuối đời chỉ chuyên lo việc tu hành. Riêng bản thân ông Dương Văn Minh theo đạo Phật, nhân từ, thương người, sợ sát sinh, sợ phải giết người. Thấy ai hoạn nạn thì ra tay can thiệp, cứu giúp, cả đối với một số người thuộc chiến tuyến đối lập.

Cả ba vị đứng đầu Chính phủ Dương Văn Minh đều đã hành động xuất phát từ lòng nhân đạo, đã kết hợp nhuần nhuyễn nhau trong sự đồng thuận chấp nhận ưu tiên đường lối hòa giải hòa hợp dân tộc và giải pháp đầu hàng trong buổi hoàng hôn của chế độ để tránh cho thành phố Sài Gòn khỏi đổ nát và nhân dân vô tội cả nước khỏi phải chết thảm thêm nữa vì việc đánh nhau giữa hai bên vào giờ chót. Nếu không có sự đồng thuận giữa những con người cùng lý tưởng, được un đúc thấm nhuần bởi tinh thần từ bi hỉ xả và vị tha của các bậc giáo chủ, thì thật khó đi đến một quyết định mau lẹ, kịp thời và sáng suốt như vậy. Vì thế cho nên bây giờ bình tĩnh nhìn lại, có người còn đánh giá cuộc đầu hàng lịch sử nêu trên chẳng những không chút nhục nhã mà còn đáng ca ngợi là một hành vi anh hùng, đặc biệt hợp với lối hành xử bi-trí-dũng của nhà Phật.

Một số người thân cận với Dương Văn Minh (như các ông Hồ Ngọc Nhuận, Dương Văn Ba, Lý Quý Chung, Thích Trí Quang…) đều cho rằng ông không phải là người làm chính trị sắc bén, có bản lĩnh[3], có lẽ họ nói theo nghĩa phàm đã xông pha vào chính trị thì phải khéo linh hoạt với rất nhiều thủ đoạn. 
Theo cựu dân biểu Dương Văn Ba, một người thân cận từng ở nhờ thời gian khá dài trong tư gia của tướng Dương Văn Minh (số 3 đường Trần Quý Cáp, nay là Võ Văn Tần), cả trước và sau 30.4.1975, thì ông Minh là “loại người trầm lắng, suy tư dù gốc của ông là một quân nhân. Triết lý của ông là triết lý trầm lắng của Phật giáo, ông không đua chen, không sân si; ông thuộc vào loại thấy đủ biết đủ, thấy nhàn biết nhàn. Đó là một loại triết lý pha lẫn giữa Phật giáo và Lão giáo. Ông sống khá bình dị, hòa mình với mọi người, đa số bạn bè bà con đều thương ông” (tldd., tr. 263).
Ông Ba còn cho biết tiếp: “Gia đình ông Dương Văn Minh thuộc vào loại thanh bạch, không có dư dả nhiều. Tài sản ông để lại trước khi ông đi Pháp là hàng ngàn chậu Hoa Lan, 3-4 con chó bẹc giê, 5-7 cái máy chụp hình loại chuyên nghiệp và lũ khũ những đồ đạc, vật dụng linh tinh không giá trị nhiều lắm của một vị tướng lãnh” (tr. 364).
     Rõ ràng, ông Dương Văn Minh đầu hàng “giặc” không phải để được vinh thân phì gia, vì ai cũng biết, sau khi hoàn tất trách nhiệm trước lịch sử và lui khỏi chính trường, ông đã sống cuộc đời ẩn dật nơi nước ngoài với con cái, không phát biểu về chính trị, không viết hồi ký để kiếm tiền, chấp nhận cuộc sống nghèo bình thường, từ chối mọi sự trợ cấp từ phía các chính phủ Pháp, Mỹ mà ông đã có thời gian từng phục vụ[4]. Ông không giống như một vài vị tướng khác, suốt ngày đeo cái lon tướng để được tiếp tục nhận sự vinh danh cho tới chết mới thôi, mặc dù nhiệm vụ lịch sử đã hoàn thành từ rất lâu.    
     Ngày nay, xét diễn biến các sự kiện, đa số người ta đều thừa nhận việc đầu hàng của Tổng thống Dương Văn Minh cùng nội các của ông chẳng những không nhục nhã mà còn là hành động sáng suốt thức thời vụ. Điều này về sau đã được cố thủ tướng Võ Văn Kiệt công khai thừa nhận trong một lần trả lời cuộc phỏng vấn liên quan đến vấn đề đang xét của tuần báo Quốc Tế (Bộ Ngoại giao) nhân dịp 30.4.2005. Có lần ông Kiệt chia sẻ với cựu dân biểu Lý Quý Chung: “Ông Minh là một con người tốt và có lòng yêu nước…” (Hồi ký không tên, sđd., tr. 447).
     Cho nên, liên quan đến một chi tiết về thủ tục tiếp quản tại Dinh Độc Lập ngày 30.4.1975, khi ông Minh bảo rằng sáng nay đã có một tuyên bố trao quyền cho Chính phủ Cách mạng Lâm thời rồi thì người cán bộ tiếp quản nói “Anh chẳng có gì để trao. Anh chỉ có thể tuyên bố đầu hàng![5],  tôi cho câu nói vặn lại này là một câu hơi lố, rất dở, không thật sự cần thiết, không xứng với tầm nghĩ việc lớn cũng như với thiện chí rất đáng được trân quý của ông Dương Văn Minh.  
     
 
Tướng Dương Văn Minh (1916-2001), và Thủ tướng Võ Văn Kiệt (1922-2008) 


Con trai ông Dương Văn Minh, kỹ sư Dương Minh Đức, có lần được hỏi ý kiến nhận xét sự kiện lịch sử ngày 30.4.1975, và về người cha của mình, đã phát biểu: “Tôi rất yêu quý ba tôi…Thứ nhất, ông là vị tướng sống trong sạch, không chấp nhận chuyện tham nhũng; thứ hai, trong nguyên tắc tìm giải pháp hòa bình cho đất nước Việt Nam, theo ông phải do chính người Việt Nam tự giải quyết. Tôi hiểu quan điểm của ba tôi luôn đặt dân tộc và sinh mệnh nhân dân trên hết. Chính vì vậy, ông không ngại đứng ra đảm nhận vai trò Tổng thống trong buổi hoàng hôn của một chế độ…. Ba tôi là người luôn chủ trương hòa giải, hòa bình dân tộc và ông đã bác bỏ ý kiến của một số người yêu cầu “tử thủ” Sài Gòn. Tôi tin rằng đây là quan điểm xuyên suốt trong cuộc đời chính trị của ông “ yêu nước trước hết là phải cứu dân” (theo tạp chí Hồn Việt, 1.6.2009).
Đúng như vậy đó, khái niệm yêu nước rất rộng. Đánh giặc hăng say chỉ là một trong những biểu hiện của tinh thần yêu nước khi đất nước bị xâm lăng mất độc lập, nhưng đó chẳng qua cũng chỉ là hành động bất đắc dĩ chứ chẳng nên lúc nào cũng cổ vũ thái quá, bởi lẽ đơn giản “phi nguy bất chiến” (lời trong Tôn Tử binh pháp, không kẹt vào thế nguy thì đừng đánh). Trong mọi trường hợp khác nhau, yêu nước không thể tách rời với thương dân/ cứu dân, mà thương dân/ cứu dân trước hết là phải bảo vệ tối đa và bằng mọi cách sinh mạng của dân, rồi sau đó mới tính tới chuyện để cho họ được hưởng đầy đủ các phúc lợi vật chất cũng như các quyền về tự do dân chủ. Thà chịu “thua” ngay tức khắc mà bảo vệ được sinh mạng của dân, sớm mang lại hòa bình cho dân tộc, còn danh dự hơn cố đánh trong cái thế tất bại mà để cho dân, quân phải hi sinh xương máu quá nhiều. Mặt khác, cho dù một bên có thắng mà nướng con dân trong lửa đỏ cũng không phải điều tốt. Hiểu được như vậy ta sẽ thấy ông Dương Văn Minh là một người có đức kiên trì tốt nhịn, có lòng nhân ái thiết tha, đã xử lý vấn đề hợp tình lý, đúng lúc đúng thời theo cái nghĩa “quân tử kiến cơ nhi tác” (người quân tử biết nương theo thời cơ mà hành động), “thức thời giả vi hào kiệt” (kẻ thức thời là hào kiệt), và sẽ là không quá đáng nếu chúng ta hôm nay coi quyết định đầu hàng ngày 30.4.1975 của ông là một hành động anh hùng.

23.4.2018    
                                                                                                   

[1] Đỗ Mậu tham gia đảo chánh chỉ vì muốn loại trừ sự lộng hành của vợ chồng Ngô Đình Nhu, còn đối với ông Diệm, Đỗ Mậu vẫn là người tâm phúc.
[2] Trong một bức thư ông Minh gởi cho tướng Nguyễn Chánh Thi (người từng đảo chánh Ngô Đình Diệm năm 1960 nhưng thất bại) đề ngày 15.4.1987, có đoạn viết: “Theo tôi, tự tử không phải lúc nào cũng là đúng. Đôi khi mình phải dám sống để hứng nhận những hậu quả cho sự quyết định của mình gây ra. Có lẽ anh Đỗ Mậu (cũng như nhiều người) không rõ là tôi lấy quyết định cuối cùng sau khi đã tham khảo ý kiến với một số những vị dân biểu và nghị sĩ còn lại, với những anh em quân nhân đến gặp tôi vào giờ chót, với các thầy mà trong đó thầy Trí Quang và Trí Thủ đã nói và đã nhắn nhủ để cứu dân” (xem Trương Võ Anh Giang, Máu chảy về tim, NXB Trẻ, 2016, tr. 311). 
[3] Xem Chánh Trinh, Hồi ký không tên, NXB Thời Đại, 2012, tr. 225, 305.
[4] Về cuộc sống đạm bạc của ông Dương Văn Minh trong thời gian ẩn dật ở Pháp và ở Mỹ, cũng như nhiều chi tiết khác liên quan cả cuộc đời ông, rất nhiều sách vở tài liệu đã ghi chép. Có thể xem: Trương Võ Anh Giang, sđd., “Viết tiếp bài ‘Ông Dương Văn Minh và tôi’”, NXB Trẻ, 2016, tr. 290-318.
[5] Xem Lý Quý Chung, sđd., tr. 410.

Tác giả gởi cho viet-studies ngày 23-4-18

Thứ Bảy, 26 tháng 4, 2014


ĐẦU HÀNG

Vân Xưa



Vân Xưa là bút hiệu của Giáo sư Hồ Sỹ Khuê, người gốc tỉnh Quảng Trị, là một trong những “mưu sĩ” của hai ông Diệm Nhu không nằm trong Nhóm “Tinh Thần” (Trần Văn Đỗ, Nguyễn Tăng Nguyên, Lê Quang Luật, …). và đã từng đóng góp một phần vào chánh sách trị nước của ông Diệm trong giai đoạn thành hình của Đệ Nhất Cọng hòa.
Năm 1954, Ông trình bày với hai ông Diệm Nhu một quốc sách dựa vào sức mạnh của lòng dân “Nam kỳ” để xây dựng chiến lược đối phó với phương Bắc. Hai ông Diệm Nhu không nghe, lại dùng “kiêu dân Công giáo” di cư (cụm từ của Tạ Chí Đại Trường) làm chủ lực, gây phân hóa cho miền Nam trên cả ba tuyến Địa phương, Tôn giáo, và Chính trị. Sau đó, khi được mời tham chánh, ông từ chối và trở về dạy học tại trường Jean Jacques Rousseau (Lê Quý Đôn sau nầy) và trở thành người “quan sát thời cuộc”.
Tỵ nạn tại Pháp, với tư cách là chứng nhân và tác nhân thời cuộc, ông viết cuốn “Ngô Đình Diệm và Hồ Chí Minh - Lịch trình Hình thành và Giải thể của Mặt trận Giải phóng Miền Nam” (Văn Nghệ xuất bản, USA, 1992) để trình bày luận điểm chính trị-văn hóa của ông và thất bại của chế độ Diệm trong giai đoạn lịch sử nầy.
Nhân kỷ niệm lần thứ 39, của ngày 30 tháng Tư năm xưa, chúng tôi xin đăng lại bài phân tích về ý nghĩa của hai chữ “đầu hàng” trong hoàn cảnh miền Nam lúc bấy giờ của Giáo sư Hồ Sỹ Khuê. – NamGiao, 2014   

Rảnh rỗi mấy tháng ở Úc, thừa thì giờ nên đọc tập hồi ký Bên Giòng Lịch Sử của linh mục Cao văn Luận viết từ hai mươi mấy năm trước, để tán dương Ngô Đình Diệm, sau khi ông Diệm bị lật đổ. Chưa hề xem, nên xem thử một lần.

Linh mục Cao Văn Luận (1908-1986)
Bên Giòng Lịch Sử, Hồi Ký 1940-1965, Nxb Trí Dũng, Sài Gòn, 1972

Vân Xưa quen biết ông Luận nhiều, từ 1949 đến 1954, ở Huế. Ông được giới thiệu là một tu sĩ Thiên Chúa giáo tiền tiến, du học từ trước 45, rồi hành đạo nhiều năm ở Pháp, sau đó, năm 48/49 về nước, phục vụ tông đồ và xứ sở. Vân Xưa kém linh mục quãng mười tuổi, nên trọng ông như thầy, và đãi nhau như bạn, Cùng một ưu tư về tương lai đất nước, cùng chưa rơi trong vòng thế lợi, thành ra dễ thông cảm với nhau.
Nhưng đến 54, vì chọn lựa khác nhau nên chế độ Ngô Đình Diệm đã ngăn cách đôi bờ, không còn dịp gặp nhau đến một lần, trong suốt chín năm ông Luận phục vụ ông Diệm, trong tư thế cố vấn, ở địa vị Viện trưởng viện Đại học Huế. Tháng 12-1963, gặp lại nhau một lần duy nhất, trong bữa cơm một luật sư bạn chung thết, để tiễn ông Luận lên đường sang Hoa Kỳ. Cố nhiên phải đề cập tới chuyện ông Diệm bị lật đổ. Vân Xưa nửa đùa, nửa thực, khen: linh mục thay đổi nhanh và kịp thời quá! Rồi thôi, cho đến khi ông mất trong năm qua, chẳng còn gặp lại nhau nữa, và cũng chẳng buốn xem hồi ký ông cho ấn hành nhiều lần, từ năm 1967 thì phải.

Ở Úc quay về Pháp, Quê Mẹ cho xem hồi ký Việt Nam Máu Lửa Quê Hương Tôi (http://sachhiem.net/HOANHLINH/VNML0.php), tướng cũ Đỗ Mậu mới xuất bản. Xem mất ba ngày.

Thiếu tướng Hoành Linh Đỗ Mậu (1918-2002)
Việt Nam Máu Lửa Quê Hương Tôi, Nxb Văn Nghệ, California, 1993

Vân Xưa có biết ông Mậu, cũng ở Huế, nhưng không quen nhau như với ông Luận, không hề là bạn với nhau. Cả đời gặp nhau có hai bận. Bận trước, năm 1954, ba mươi ba năm trước đây, trong một cuộc hội thảo, cả hai cùng tham dự, giữa một số trí thức cố đô, theo yêu cầu của Ngô Đình Nhu, để đưa ra một đường lối cầm quyền mới cho chính phủ ông Diệm sắp thành lập. Đóng góp của Vân Xưa về vấn đề "Nam kỳ cũ" có vẻ được ông Mậu chú ý, nên sau ba ngày xong công việc, trong cuộc rượu kết thúc cuộc hội thảo, ông Mậu mang ly đến gần, nói vài lời ân cần ngỏ ý muốn làm quen với nhau. Rồi cũng hệt như Linh mục Luận, chế độ Diệm đã ngăn cách, vì chọn lựa khác nhau. Có khác chăng là ông Mậu không phải bạn, như ông Luận, nên không còn đi lại với nhau cũng là chuyện thường.
Bận thứ hai, mà cũng là sau cùng, hai mươi lăm năm trước đây, vài tuần lễ trước ngày 1-11-63. Ông Mậu đến tìm, để bàn với Vân Xưa việc quân đội định đảo chánh ông Diệm. Với một người không phải là bạn, chỉ gặp nhau có một bận, chín năm trước, ông Mậu, đang cầm đầu ngành An Ninh Quân Đội, không ngần ngại gặp lại một lần thứ hai để nói chuyện âm mưu chết sống ấy của mình, quả thật ông đã gan tày liếp!
Không rõ có phải ông Mậu nhớ đến phần đóng góp của Vân Xưa, trong cuộc hội thảo ở Huế chín năm trước, để không ngại tiết lộ âm mưu của mình với một người trong đời mình nay mới gặp lần thứ hai, và sau đó không còn gặp một lần nào khác.

Trong phần đóng góp ấy, Vân Xưa nêu vấn đề “Nam Kỳ cũ”, ghi nhận đất đai và dân tình ở đây là điều kiện tiên quyết cho tương lai của chế độ Sài Gòn, trong hoàn cảnh đất nước qua phân: Miền Nam thắng hay bại, tùy thuộc quần chúng Nam kỳ cũ, tùy thuộc ở dân quê miệt vườn, trí thức thành thị, anh em kháng chiến quốc gia, và các giáo phái, chứ không phải tùy thuộc hoàn toàn ở cá nhân người lãnh đạo chính quyền quốc gia.
Có lẽ ông Mậu, lúc bấy giờ, đã nhận ra được nguồn cơn thất bại và sụp đổ của chế độ nhà Ngô, nên đã không ngại lậu chuyện mà cả gan tìm đến người chín năm trước đã từng nêu rõ cái lẽ mất còn này của miền Nam chăng? Ông Mậu còn đó, chắc có thể trả lời cho câu hỏi này, về tâm sự hai mươi lăm năm cũ của ông chăng?
Cuộc đảo chánh thành tựu, có tiếp tục liên lạc với nhau trong hai tháng liền, qua trung gian, rồi thôi. Cho đến nay, cùng ly hương, nhưng mỗi bên một ngả, và nay được xem “Việt Nam Máu Lửa Quê Hương Tôi”.

1950-1954-1963-1975, Cao Văn Luận cũng như Đỗ Mậu đều là những người của thời cuộc. Hơn nữa, những người đã làm thời cuộc. Viết hồi ký là chuyện họ phải làm. Vân Xưa được xem những gì mỗi người hồi ký, thấy có bổn phận trình bày bạn đọc mục mình đảm trách, cảm nghĩ về những gì đã xem.
 Úc, đọc hồi ký của một người, dù sao cũng đã từng là bạn, Vân Xưa thấy ngao ngán cái tinh thần Ngô Đình Diệm Linh mục Cao Văn Luận nêu cao trong Bên Giòng Lịch Sử, như sau:
“Những ai từng có địa vị, vai vế trong nền Cộng Hòa Nhân Vị đều mang ơn nặng được ông Diệm đưa từ bóng tối ra ánh sáng, cho nên kẻ đã lật đổ ông Diệm đều thuộc hạng phản chủ, phản thầy”
Thì ra ông, ông Linh mục thấm nhuần nhân vị tính của nền Cộng Hòa Ngô Đình Diệm, đã hồi ký cho mọi người là chế độ nhân vị này chỉ gồm toàn đầy tớ, học trò của ông Diệm, một bọn người chỉ biết gọi dạ, bảo vâng! Không còn chịu dạ, chịu vâng, mà lại lật đổ thầy mình, chủ mình, thì chỉ là một “hạng phản chủ, phản thầy”.

Cộng Hòa: chế độ chủ và thầy. Nhân vị: một bọn học trò, tôi tớ!

Linh mục Luận biết mình cũng chỉ là một đầy tớ và học trò của ông Diệm, như mọi người khác đang phục vụ nhà Ngô, theo định nghĩa của chính ông, vì ông cũng là người đã từng được ông Diệm đưa từ bóng tối ra ánh sáng. Nhưng trong thâm tâm, Linh mục Luận hẳn muốn người xem hồi ký liệt linh mục nằm ngoài bọn người phản chủ, phản thầy này. Tuy có một giai đoạn, dù chỉ vài năm, sau ngày 1-11-63 và trước khi viết hồi ký, ông phô trương việc ông đã góp phần lật đổ chế độ Diệm, trong tư cách Viện trưởng Đại học Huế (xin xem phát biểu của ông Viện trưởng về biến cố tháng 11-63, trữ ở Viện Đại học Huế). Việc chống đối này quả có thực, ông linh mục có tự hào hành động chống đối ông Diệm cũng đúng. Niềm tự hào ấy đã cho Vân Xưa được cơ hội khen đùa ông: Linh mục biết thay đổi nhanh và kịp lúc. Nhưng bước qua năm 1967, trong không khí phục hồi Công giáo Cần lao, danh dự lật đổ chế độ Diệm đã trở nên nặng nề, hai vai nhà tu có lẽ không mang nổi nữa, ông Luận bèn viết hồi ký, để một lần nữa trở mình cho kịp lúc.

Chắc hẳn ông linh mục đã xếp tên của ông Đỗ Mậu vào danh sách bọn người phản bội, (trong đó ông linh mục không còn muốn có tên mình nữa). Cũng đúng thôi: đối với ai lấy cái tinh thần Ngô Đình Diệm, theo định nghĩa Cao văn Luận, làm một giá trị nhân vị cao cả, như những người hiện nay đang hô hào phục hồi tinh thần Ngô Đình Diệm, thì Đỗ Mậu, thoát sao khỏi là kẻ phản chủ, phản thầy.
Nhưng đối với nhân dân miền Nam, trong đó có Vân Xưa, thì lại khác: Người miền Nam đã reo mừng suốt ba ngày liền khi nhà Ngô sụp đổ, nghĩa là đã nhìn "bọn phản chủ, phản thầy" theo quan niệm nhân vị của Linh mục Luận, và trong bọn đó có Đỗ Mậu, là những người con xứng đáng của đất nước, đã biết thoát ly tập đoàn phản dân, hại nước, lúc bấy giờ đang hoành hành.
Từ trong tập đoàn phản dân hại nước này, Linh mục Luận năm 1963 từng cho biết mình đã thoát ra (trong bữa ăn Vân Xưa nhắc đến ở phần trên) như Đỗ Mậu và cùng Đỗ Mậu. Nhưng đến 1967, khi bọn Cần Lao Nhân Vị nép sau lưng chính quyền Thiệu/Kỳ, lại tiếp tục hoành hành, Linh mục Luận hồi ký quay vào không như Đỗ Mậu và không cùng Đỗ Mậu.

Người tu sĩ Thiên Chúa giáo bác học và tiên tiến này, đã từng nhiều năm, trước 54, là bạn của Vân Xưa, đã từng là quân sư của ông Diệm, đã từng là Viện trưởng Đại học, lại chưa vượt qua được tầm mức văn hoá phong kiến! Đáng tiếc: học thức thật không hẳn là kiến thức! Trong một lần trước ở mục này, Vân Xưa đã bàn đến cái bản chất hoàn toàn thiếu nhân vị của một nền Cộng Hoà mệnh danh là Nhân Vị, mà Linh mục Luận đã nêu làm tinh thần Ngô Đình Diệm, và thờ như là một giá trị tinh thần tuyệt đối.

Về Pháp, lại đọc hồi ký này, của một người chưa từng là bạn, "ít học và dốt nát" (chữ ông Đỗ Mậu dùng cho chính ông), Vân Xưa nhận ra một điều: không đợi phải gặp nhau mới thực là bạn. Đúng như câu Tỳ bà hành Ỷ Lan lúc sang Úc, đã trích ghi, khi tặng Vân Xưa tập Gọi thầm giữa Paris của Võ Văn Ái: cùng một lứa bên trời lận đận, gặp gỡ nhau lọ sẵn quen nhau.
Đỗ Mậu viết: “Nói cho cùng thì có phải chỉ mình Dương Văn Minh đầu hàng đâu, những kẻ bỏ nước ra đi trước hay sau ngày 30 tháng 4 cũng là những kẻ đầu hàng. Kẻ đã có lần sát cánh với Dương Văn Minh (tức Đỗ Mậu) mang hoài bão thay đổi một cuộc cờ nay phải sống xa lìa cố quận cũng là kẻ đầu hàng, cũng gởi tâm sự cho chim ngàn cá biển”.
Và, nhắc đến trách nhiệm trước lịch sử đối với hiện tình đất nước, ông Mậu ghi thêm: “Ai là người không có tội”.
Xem đến đoạn vị tướng cũ “thất học”, khiêm tốn nhận mình cũng là người có tội, và chia cả “Cái tội đầu hàng kẻ thù” với người bạn đồng đội Dương Văn Minh của mình, tuy không ai buộc, Vân Xưa thấy ngượng cho ông cố linh mục “bác học”.

Ông linh mục đã cố đem hết sức học quảng bác của mình để hồi ký cái tội “phản chủ, phản thầy”, cái tội, nếu quả là tội, chính mình cũng phạm, trút lên đầu người khác, những người trước đó mình đã một thời minh bạch chia chác với họ công lao chống một chế độ phản nước hại dân! Trong khi ấy ông Đỗ Mậu “thất học dốt nát”, không hiện diện ở Sài Gòn hôm “Dương Văn Minh đầu hàng kẻ thù”, vì đã ly hương trước, lại tự buộc mà không ai gán cho mình cái tội đầu hàng người ta đang tròng vào cổ Dương Văn Minh, để thẳng tay nguyền rủa.
Nghĩ cũng tội cho học vấn! Ở một nhà tu, học vấn chỉ đưa đến cho ông Luận một học thức quảng bác ít ai có, và Đỗ Mậu thì nhất định không có rồi, nhưng lương tri ông không tác dụng được trên cái vốn học thức ấy để hoàn bị kiến thức mà kết hợp cho ông một ý thứcnhân bản hoàn chỉnh. Thành ra, cũng một việc chính ông đã làm, và đã nói cho người khác biết (nếu Vân Xưa không phải là người duy nhất được nghe ông) là mình đã làm, việc làm ấy hôm trước ông xem là danh dự, nên muốn ai cũng biết ông đã làm, hôm sau người có quyền lực ngầm bảo là tội ác, ông vội vàng kể tội ác ấy cho người khác, để thiên hạ trong nước tưởng là ông không hề làm!

Có lẽ nhà tu này không bận tâm mấy về chuyện danh dự, hay, chuyện tội ác. Mà bận tâm hơn về chuyện thế lợi. Hôm qua, lật đổ ông Diệm là một danh dự, ông linh mục chia cái danh dự ấy để hưởng lợi. Hôm sau, lật đổ ông Diệm là tội ác, ông linh mục bèn gán cái tội ấy lên đầu người khác, để khỏi mất phần thế lợi dành cho những ai đã trung thành với chủ cũ. Thế lợi đã làm ông linh mục quên sống đạo của ông chăng? Việc hôm trước mình cho là phải, nên mình làm, nếu hôm nay mới thấy rõ là quấy, thì con Chúa đi xưng tội để được giải tội, không đổ vấy cho ai khác để chạy tội!
Thảo nào thầy Mạnh (Mạnh Tử) cứ nói đi nói lại mãi cái chuyện lương tri. Đạo Khổng đặt lương tri lên trên hết các khả năng của mỗi người để thể hiện con người trong bản thânthành thực với chính mình là căn bản của lương tri. Chúa Jesus không dạy chỉ khác hơn, khi dặn: có muốn ném đá vào người, hãy xem mình có cùng tội với người mình định ném đá hay không, trước đã. Khi lật đổ ông Diệm là một công lao, ông linh mục chia công lao ấy với những người như ông Đỗ Mậu. Khi lật đổ ông Diệm là một cái tội, ông linh mục gán cái tội ông đã phạm ấy để 'ném đá" vào những người như ông Đỗ Mậu, hòng chạy tội của mình, bằng ngôn ngữ đạo hạnh của một quan toà buộc tội người khác! Kể cũng tiện …
Đã bận tâm về thế lợi thì Linh mục Luận, trước sau cũng vẫn chỉ thuỷ chung với thế lợi, đâu có dốt nát đến nỗi tự buộc mình vào cái tội "đầu hàng" để chia với Dương văn Minh những lời nguyền rủa. Chỉ có người "quê mùa dốt nát" như ông Mậu mới hồi ký nhận tội mình trước lịch sử, và chia với Dương văn Minh cái tội mà một số người đang phỉ nhổ! Một sự phỉ nhổ không dấu nổi dụng ý, và bài này dùng nguyên tắc chính danh để lột trần.
Cho nên hôm nay "Người Việt Tiếng Việt" bàn về từ ngữ Đầu hàng. Gọi là để ghi nhận "tấm lòng Đỗ Mậu" đã thuỷ chung với chính con người mình.

◎◎◎

Quay về phân tích ngôn từ là tâm cảnh trong mục này, bạn đọc quen rồi với giới hạn đã định, không phải nhắc lại nữa.
Ngôn từ và các loại tâm cảnh được phân tích xong, bạn đọc mỗi người mang nhận định riêng ứng dụng vào quan điểm xử thế của mình, thế này thế khác, để có một thái độ của mình, một thái độ chính trị mình chọn lựa lấy. Đấy là việc của người đọc, không phải của người viết. Người viết chỉ giữ công việc chính danh, để vạch chỗ tâm cảnh và ngôn từ dùng để diễn đạt tâm cảnh, có hoàn cảnh khớp hay không khớp vào nhau, hòng giúp bạn đọc tránh chuyện xử thế lầm lẫn… Vua ra vua, cha ra cha… như lời thầy Khổng.
Ngôn từ phân tích hôm nay là Đầu hàng. Bạn đọc mục này hãy cùng Vân Xưa, như thường lệ, tìm vào các loại tâm cảnh của đồng bào trong nước lúc Dương văn Minh đầu hàng Cộng Sản ở sảnh đường dinh Độc Lập trưa ngày 30-4-1974, để xem hai chữ đầu hàngkhớp hay không khớp với tâm cảnh nào, rồi chính danh cho mỗi loại tâm cảnh.

1. Thoá mạ để chạy tội: Dương văn Minh đã đầu hàng Cộng Sản

Gần mười hai năm nay, kể từ 30-4-75, tướng cũ Dương văn Minh được xem là người đã đầu hàng Cộng Sản.
Ở nước ngoài, đồng bào di tản đến đâu, Dương văn Minh được chỉ danh đến đấy là người đã phản bội đất nước, phản bội dân tộc, vì đã đầu hàng Cộng sản.
Không phải những người liều mình vượt biên, vượt biển, lìa bỏ quê hương, sau ngày Dương văn Minh đầu hàng, đã lên tiếng thoá mạ tướng cũ này như thế. Những thành phần di tản lại là mục tiêu mà âm mưu thoá mạ Dương văn Minh nhắm vào. Người ta áp dụng định luật Pavlov, chủ ý tạo cho đồng bào tị nạn các điều kiện tâm lý hướng dẫn, để cho mỗi khi nghe đến tên Dương Văn Minh liền phản xạ là ông Minh đã đầu hàng Cộng Sản.
Đây là âm mưu của cả một tập đoàn, hai mươi năm trước ngày Dương Văn Minh đầu hàng, đã liên tục nắm giữ quyền chính để mưu lợi riêng, lũng đoạn quốc gia, để rồi miền Nam không thoát được tay Cộng Sản.
Cho đến khi không còn hy vọng tiếp tục vơ vét thêm được nữa, tập đoàn này đã phân tán chạy như một bầy chó đạp phải lửa, hối hả tháo thân cho kịp trước ngày Sài Gòn sụp đổ. Để lại an hưởng tài sản đã thụ đắc năm này qua năm khác, lúc cầm quyền trong nước, trên xương, trên máu, của lính, của dân, mà tiếp tục cuộc sống đế vương ở nước ngoài. Cố nhiên nay ra nước ngoài, bọn họ thừa tài sản, thừa học thức, thừa bộ hạ tay chân, thừa phương tiện. Chỉ thiếu có liêm sỉ, nên không ngần ngại sử dụng đủ mọi thứ mánh khóe, kể cả mánh khóe văn hóa, báo có, sách có, để hài cái tội đầu hàng của Dương Văn Minh.

Một cách để nói mà không phải nói là: bọn họ vô tội, không phản bội đất nước, vì không đầu hàng, như Dương Văn Minh (bởi đã trốn kịp ra nước ngoài). Chỉ Dương Văn Minh là kẻ đã bán đứng miền Nam cho Cộng Sản.
Ở trong nước, không cần phải nói, ai không biết tướng Dương Văn Minh đã đầu hàng, đã trao quyền chính miền Nam cho phe Cộng Sản, trưa ngày 30 tháng 4.
Biết rõ như thế, nên quần chúng miền Nam đã cám ơn ông: trong con mắt nhân dân miền Nam, Dương Văn Minh là con người anh hùng ngay cả trong giờ phút đất nước sụp đổ, con người đã kề vai gánh trọn sự sụp đổ của cả một dân tộc lên người mình, hòng tránh cho nhân dân Sài Gòn khỏi phải thảm sát.

2. Cội nguồn sụp đổ miền Nam: chán ghét chế độ chiến tranh, thờ ơ trước thế cuộc.

Lúc Quốc hội Mỹ không chấp nhận viện trợ thêm 700 triệu Mỹ kim cho chính quyền Nguyễn Văn Thiệu, mọi người đều biết giờ sụp đổ của chế độ Sài Gòn đã điểm.
Sau biến cố Bình Long thất thủ, Pleiku, Kontum bỏ ngỏ tháng 1 và 2-75, sang tháng 3-75, lần lượt Huế mất, ngày 25, Đà Nẵng mất ngày 29. Sau khi chiếm được Đà Nẵng, Hà Nội thấy phải đánh gấp vào thủ đô miền Nam, để Sài Gòn không kịp chuẩn bị đương đầu, nên đã ra lệnh làm ngơ vùng duyên hải, giao Trần Văn Trà và Phạm Hùng tập trung lực lượng ở Lộc Ninh, sát nách thành phố, gởi Văn Tiến Dũng vào Nam cùng tổ chức tấn công Sài Gòn. Và Lê Đức Thọ vào tiếp để lãnh đạo chiến dịch, về sau được gọi là chiến dịch Hồ Chí Minh, do bộ ba Văn Tiến Dũng, Phạm Hùng, Trần Văn Trà chỉ huy.
Các tỉnh vùng duyên hải, sau Đà Nẵng, không còn là mục tiêu chính của Cộng Sản. Cán cân lực lượng gồm người, vũ khí, phương tiện, nghiêng hẳn về phía Cộng Hòa, nên Hà Nội phải dồn tất cả sức mạnh hạn chế của mình ở miền Nam để đánh thẳng vào Sài Gòn.
Thế nhưng lần lượt, sang đầu tháng 4-75, thành phố Nha Trang, rồi Phan Rang, Phan Thiết, Hàm Tân, Bình Tuy đã rụng như sung vào miệng Cộng Sản.
Đây là hiện tượng mọi người ghi nhận: quân dân miền Nam đã tự thất thủ.

Nhắc lại lịch trình sụp đổ, không phải để nói chuyện thời cuộc, chuyện chính trị, chuyện quân sự, đã xảy ra trong hai tháng 3 và 4-75 ngắn ngủi, nhưng rất tai hại cho đất nước. Mà là để phơi bày cặn kẽ nguồn cơn của một sự sụp đổ vẻn vẹn chỉ trong vòng hai tháng. Nguồn cơn của hiện tượng tự thất thủ nằm trong tâm cảnh quần chúng miền Nam, trong tâm cảnh quân đội cộng hòa. Tâm cảnh phức tạp và đa dạng của quân nhân, đồng bào miền Nam, đã là động cơ đưa đến sự sụp đổ mau chóng của một tổ chức nhà nước, gần hay mươi năm liên tục, nằm trong tay bao thầu của một tập đoàn lãnh đạo chóp bu, không gốc, không rễ trong lòng dân tộc.

Tâm cảnh chung của toàn thể đồng bào từ lâu rồi đã chán chiến tranh vì thù ghét một chế độ cộng hòa giả hiệu, hết phong kiến đến quân phiệt, mà người Mỹ đã không thương tiếc phương tiện dựng nên, để chống Cộng bất chấp quần chúng trong nước. Cứ nhìn quang cảnh, đầu năm 73, lúc bắt đầu thi hành thỏa hiệp đình chiến cũng rõ. Nói cho thật gọn, mà cũng thật đúng, quân dân miền Nam không còn một chút tin tưởng nào ở chính quyền do các ông tướng Thiệu/Kỳ bám chặt, binh sĩ miền Nam không còn gắn bó với quân đội do các ông tướng Khiêm/Viên khống chế.
Những cảnh sống ở một góc phố thời trước năm 1975: chợ chiều, đánh giày, con lai


3. Tâm cảnh riêng của anh em quân nhân binh sĩ Cộng Hòa: chán chiến tranh.

Hai mươi năm quân dân miền Nam chịu đựng cảnh người Mỹ bao che bất tài, bất công, tham nhũng, bè phái, của một“chí sĩ” lạc hậu và phong kiến, và nằm trong tay quân phiệt tiếp theo sau. Tất cả đều nhân danh đủ mọi thứ giá trị tinh thần tốt đẹp, trừ sự ngay thẳng, trừ ý thức trách nhiệm trước lẽ sống còn của quê hương đất nước.
Nhằm mục đích chế ngự các thế hệ đang trưởng thành, không để cho thanh niên sinh viên học sinh rảnh tay phát động phong trào chống đối, nhà Ngô từ các biến cố tháng 11-60, tháng 2-62, cho đến tháng 11-63, rồi Thiệu/Kỳ từ 1967, đã dùng biện pháp động viên để ngăn chận. Người ta lùa vào các quân trường lớp sinh viên học sinh mà lựu đạn cay, giây thép gai, không ngăn được họ biểu tình phản đối vụ ông Diệm đàn áp Phật giáo, phản đối Thiệu/Kỳ âm mưu hồi sinh Cần Lao Công Giáo. Để khi họ tốt nghiệp, dùng quân kỷ mà giam lỏng lớp trẻ có học vấn cao vào hàng ngũ các chỉ huy cấp thấp của quân đội.
Lớp chỉ huy cấp thấp ấy, lớp chuẩn úy, thiếu úy, đại úy ấy, đã mang vào hàng ngũ anh em binh sĩ vốn liếng trí thức và những nhận xét thiết thân về thời cuộc, rất sắc bén của họ. Hằng ngày họ cùng chia với anh em binh sĩ một ý thức mới, một cái nhìn khác, về xã hội, về chế độ, về lịch sử, về lãnh đạo, về chỉ huy, về tình trạng áp bức bất công mà toàn thể anh em binh sĩ đang là nạn nhân. Chính lớp sĩ quan cấp thấp này, vừa trẻ, vừa có học thức, được anh em binh sĩ mến chuộng, vì biết tận tụy lo lắng cho anh em, đã gây cho binh sĩ trong đơn vị họ chỉ huy, một tinh thần chiến đấu chống bất công, bất kể từ đâu đến. Tất cả dần dà kết hợp nên một thành phần quân đội biết nhận ra chân tướng của bọn đang thao túng xã hội, thao túng binh sĩ, nhận ra giá trị thực sự của quân nhân, từ đó họ liền đới với nhau trong một tình cảm huynh đệ.

Họ chống Cộng, nên chịu đựng. Chịu đựng trong hy vọng sẽ trưởng thành trong quân đội, sẽ cùng một số thượng cấp trong sạch, có tư cách, có tinh thần trách nhiệm, phối hợp thành một sức mạnh để từ các binh chủng và một lúc nào đó thuận lợi, làm áp lực chính trị mà cải thiện quân đội, chế độ và xã hội. Vì họ biết quân đội là cột trụ của chế độ, nên người Mỹ quyết tâm giữ cho lớp tham nhũng cầm đầu, để dễ sai khiến.
Một Hà Thúc Nhơn vì chống tham nhũng, bị giới tham nhũng giết ở Nha Trang, một Phạm Văn Lương, mở chốt lựu đạn ngồi trước thềm Quốc hội chống cường quyền, đã là những điển hình tâm cảnh chán chường của thành phần quân nhân thanh niên và học thức này trong quân đội.
Đến một lúc nào đó, họ nhận ra các đàn anh họ trong quân đội đành cũng bó tay trước sự ngu muội của người Mỹ, cho rằng chống Cộng chỉ cần có một bọn tay sai nắm trọn quyền binh, mà không cần đến quần chúng nhân dân trong nước. Tướng “ngồi chơi xơi nước” Dương Văn Minh điển hình tình trạng bó tay này. Cho nên dần dà tâm cảnh buông súng đã manh nha ở lớp sĩ quan trẻ.

Trong tâm cảnh buông súng, các sĩ quan cấp thấp, thuộc các lớp thanh niên bị động viên, đã chỉ huy binh sĩ của họ để đánh một trận oai hùng ở Xuân Lộc với tướng Hưng, tỏ ra dũng cảm của một thế hệ trẻ không vươn lên được trong hàng ngũ quân đội Cộng Hòa.
Kỳ dư, họ bỏ mặc cho anh em binh sĩ dưới quyền tan hàng, từ chối chiến đấu, sau khi Bình Long thất thủ: Do đó, từ Huế vào Bình Tuy, không phải Cộng quân đã chiến thắng, mà binh sĩ Cộng Hòa đã buông súng, và nhân dân miền Nam đã như nước vỡ bờ, phó mặc tương lai cho một định mệnh Ngô Đình Diệm rồi Nguyễn Văn Thiệu, Nguyễn Cao Kỳ, dựa trên những người Mỹ mù quáng, dựa trên Công giáo Cần Lao, đã suốt hai mươi năm xếp đặt sẵn cho miền Nam.
Xuân Lộc: bằng chứng của một quân đội dũng cảm quyết tâm tự thất thủ vì ghét tham nhũng, chán chiến tranh.
Đoàn xe rút lui khỏi Kontum
4. Tâm cảnh của quần chúng: thờ ơ

Năm 1954, lòng ham chuộng hòa bình được thỏa mãn, tuy đất nước xẻ đôi, quần chúng trong nước cũng đành lòng, để hành xử quyền được lựa chọn: hoặc sống ở miền Nam quốc gia để xây dựng một xã hội tự do, hoặc ra miền Bắc làm cách mạng với Cộng Sản. Quyền chọn lựa ấy được thực hiện cụ thể. Gần một triệu đồng bào rời bỏ đất Bắc quê hương, vào nương náu ở miền Nam, mong tìm một đời sống có nhân tình. Nhưng đồng bào Bến Nghé, Đồng Nai, chẳng có mấy ai chọn lựa theo Cộng Sản ra Bắc. Trừ các cán bộ trung kiên, không kể gốc Nam, gốc Bắc.
Tất cả người sống ở miền Nam đều đã chọn lựa tự do, không ai chối cãi được, kể cả bọn Cộng Sản mồm loa mép giải đã quen.
Trong tinh thần chọn lựa ấy, đồng bào di cư được đùm bọc đến nơi, đến chốn. Cũng không ai chối cãi được sự kiện này, khi các khu trù mật Vị Thanh, Cái Sắn, được thiết lập riêng cho người di cư mà không hề gây một xúc động tranh ghét nào của đồng bào tại chỗ.
Trong tinh thần chọn lựa ấy, dân chúng đất cũ Nam Kỳ đinh ninh đã đến lúc cùng tất cả các thành phần nhân dân miền Nam xây dựng và mở mang phần đất đã cùng nhau chọn để mà sống với nhau trong tự do. Cũng không ai chối cãi được sự kiện này: quần chúng Nam kỳ cũ không hề hùa theo các giáo phái để chống chính quyền Ngô Đình Diệm, tuy chẳng ủng hộ con người họ chưa biết hẳn là thế nào. Chỉ vì ai cũng muốn tránh xáo trộn để sống an lành, sau chín năm chiến tranh giải phóng.

Từ bước đầu tốt đẹp nhường ấy, hai mươi năm tiếp theo sau đã diễn ra một cảnh tượng, ngày nay nhắc đến, không ai khỏi bàng hoàng. Một người được xưng tụng là chí sĩ mở đầu một chế độ gọi là Cộng Hòa, sau đó gán thêm vào mỹ từ Nhân Vị để che đậy bản chất độc tài, kỳ thị, gia đình trị, dần dà tách chính quyền xa hẳn nhân dân, đưa đến tình trạng biến Nhà nước và nhân dân thành hai đối tượng thù nghịch lẫn nhau. Nhà cầm quyền lo củng cố địa vị nên chỉ bận đương đầu với quần chúng trong nước, hơn là lo việc kiến thiết đất nước, hơn là lo việc xây dựng một xã hội đáng sống cho người trong nước. Khi thấy không có ai theo mình, lại dùng trò tố Cộng để khủng bố, đàn áp, mà chống nhân dân.
Ai đã từng xem tranh ảnh nhà Ngô đăng trên tờ Paris Match, các anh em xiêm thêu, gấm áo, rực rỡ, xuê xoang, vây quanh ông Diệm, đều ý thức được đến nơi sự phân cách giữa Nhà nước họ Ngô và quần chúng miền Nam. Nhất là bức ảnh chụp sau ngày được giải cứu khỏi cuộc binh biến 1960: ông Tổng thống xun xoe đứng trên bực cao, tay cầm một xấp giấy bạc 500, thả lòa xòa xuống thấp, một lũ quần thần tay chân, bộ trưởng có, tướng tá có, chen nhau khom lưng nhặt từng tờ, như một món tiền thưởng công, để chia nỗi mừng thoát nạn của chủ, của thầy mình. Ai ở Pháp có thể tìm xem bức ảnh này ở các thư viện, ở tuần báo Match. Hoặc ông Ngô Đình Luyện còn giữ làm kỷ niệm chăng.

Dân chúng mừng rỡ tràn đến xem quanh hàng rào Dinh Gia Long ngày 2-11-1963

Cứ nhìn cảnh dân chúng miền Nam, suốt ba ngày liền, đã chạy rông ngoài đường phố reo hò vang dội, để mừng việc sụp đổ của gia đình họ Ngô, đủ thấy lòng dân chán ghét chế độ Cộng Hòa Nhân Vị đến thế nào. Dương Văn Minh, người anh hùng Rừng Sát, một lần nữa lại xuất hiện trước mặt quần chúng miền Nam là người anh hùng đất nước. Nhân dân miền Nam nghĩ là khi đã loại bỏ được nhà Ngô rồi, chế độ mới sẽ đáp ứng được các đòi hỏi của dân tộc, dân quyền, để xây dựng một xã hội văn hóa và phát triển, trong tinh thần nhân tình, tự do, công lý.
Nhưng hết Cộng Hòa Nhân Vị phong kiến lại Cộng Hòa Quân Phiệt. Một số tướng lãnh thối nát nối vòng tay lớn với Cần Lao Công Giáo, để tiếp tục đục khoét miền Nam, biến nước ta thành vùng đất mầu mỡ cho tham nhũng, cho bất công.

Hiệp định đình chiến thi hành. Nhóm tướng lãnh cầm quyền phô trương khí thế giả tạo, để che đậy các mánh khóe có vết gấp, hòng thu thập tài sản chợ chiều còn sót, chờ cuốn gói kịp lúc. Đất nước, nhân dân, chưa bao giờ họ đã bận tâm, trong giờ phút vơ vét hối hả sau cùng, lại càng chẳng phải bận tâm đến. Để hốt cho thật trọn vẹn, chúng bám chặt quyền lực đến cùng. Đến lúc ngày một ngày hai là sụp đổ, chúng mới chịu buông để tháo chạy.
Trong vòng đúng một tuần lễ, Thiệu/Khiêm “dọt” trước, hôm 24-4. Rồi lần lượt những Cao Văn Viên, Đặng Văn Quang “dọt” tiếp theo. Lả lướt hơn cả là ông tướng tàu bay. Một ngày trước khi Cộng quân tiến vào dinh Độc Lập, chân ông bước lên máy bay để “dọt”, miệng ông dõng dạc tuyên cáo quyết tâm không rời bỏ quê hương, kêu gọi đồng bào hãy cùng với ông tử thủ chống Cộng.

Quần chúng trong nước biết trước sự tình rồi sẽ xảy ra như thế. Biết rõ trước sau mình cũng sẽ là nạn nhân. Cảnh tượng tự thất thủ, từ Bình Long đến Pleiku, Kontum, sau đó là miền duyên hải, đã hiện thực nỗi chán chường của toàn thể nhân dân. Tâm cảnh chung là buông xuôi, là phó mặc, biểu thị sự thờ ơ, tình thế ra sao thì ra, Cộng Sản có vào cũng thế thôi, chẳng còn chi khác để chọn lựa.
Tâm cảnh phó mặc, tâm cảnh thờ ơ của quần chúng, cùng tâm cảnh buông súng của thành phần quân đội trong sạch và lý tưởng, đã kết hợp dọn đường cho xe tăng Cộng Sản tiến vào dinh Độc Lập mau chóng. Bộ Chính trị Hà Nội không đủ quân lực mạnh ở miền Nam để thắng gấp. Nhóm Thiệu/Kỳ và tướng tá Sài Gòn lo vơ vét, có nghĩ đến việc chiến đấu đâu để thắng, để bại. Chỉ có thời cuộc đất nước chúng ta đã ngưng đọng trong tâm cảnh nhân dân, quân đội, trưa ngày 30-4-75: Quân và Dân miền Nam đã “tự thất thủ” để chấm dứt chiến cuộc.

5. Tâm cảnh nhóm tướng lãnh cầm quyền: tháo thân kịp lúc

Khi nhân dân thờ ơ, khi binh sĩ buông súng, có chế độ nào tồn tại được. Nhóm tướng lãnh cầm quyền hiểu rõ điều này trước mọi người, nhất tề xếp đặt việc sụp đổ, từ cuối tháng 3-75. Chúng bày trò thiết quân lập, cấm dân thường đi lại vào ban đêm, để tự do di chuyển nhân sự và tài sản riêng của chúng hòng sửa soạn cho trôi chảy việc tháo thân.
Tổng thống, thủ tướng, bộ trưởng này khác, tướng tá đầu não quân đội Cộng Hòa, những người trước sau vẫn thao túng đời sống xã hội bằng quyền lực không có kiểm soát, tha hồ tự tung, tự tác, nay cấp kỳ, có sẵn đủ mọi thứ phương tiện để đào tẩu kịp thời. Nên vẫn giữ giọng hùng hổ, nhất hô thiên ứng, mong đánh lừa quần chúng không cho nhìn thấy sụp đổ đến nơi. Để người trong nước không chú ý là bọn chúng đang lo việc tháo thân. Nhưng chẳng bịp được ai. 

"Tháo thân" vào Tòa đại sứ Mỹ, "tháo thân" bám vào càng máy bay

Những tâm cảnh tháo thân này đa dạng:
Tháo thân nhưng còn phải chuyển tài sản quốc gia, nhất là vàng, theo ra nước ngoài thành của riêng mình, như Thiệu/Khiêm.
Tháo thân, nhưng còn phải bày trò huê dạng người hùng Cầu Muối, như ông tướng “trừ gian”.
Tháo thân nhưng buộc phải lừa lọc anh em binh sĩ, như tướng Viên, tướng Lộc, chia nhau sau trước vụ Tổng tham mưu, để “tham mưu” việc xa chạy cao bay, trốn bỏ quân đội.
Nhưng phải nói đến thành phần nhân viên Nhà nước, những công chức cao, không bè phái, không thế lực, không có tài sản lớn; phải nói đến các lớp sĩ quan không biết chia chác, luồn cúi, đục khoét. Họ mang tâm cảnh bế tắc. Vì thấy rõ mình là nạn nhân bị đàn anh bỏ rơi lại, để riêng gánh chịu sự trừng phạt, sự nguyền rủa, đánh vào các cơ thể nhà nước trong giờ sụp đổ. Và nhất là sau đó, trong khoảnh khắc, họ biến thành “ngụy quân/ngụy quyền”. Cho đến nay, mười hai năm qua, phần lớn nếu còn sống sót dưới gót sắt của Cộng Sản, đang quằn quại trong các trai học tập cải tạo bất nhân. Tâm cảnh sợ hãi khiến họ mong được yên thân, rồi có ra sao cũng đành chịu.
Chưa kể đến hai thành phần khác, quan không hẳn ra quan, dân không còn là dân. Thành phần trước: một số lớn những người có chân trong các đoàn thể, đảng phái, tôn giáo, trước sau vẫn giữ được không vấy bùn. Họ mang tâm cảnh thản nhiên, thế tục trước sau vẫn không làm họ bận lòng, và họ chỉ mong mỏi hòa bình, ngưng việc chém giết, cho đồng bào được sống an lành.

"Tháo thân" bằng đường hàng không, "tháo thân" bằng đường b

Và những người sinh hoạt trong các cơ sở kỹ nghệ, thương mại, nhân viên chưa từng chia phần lợi kinh tài của chủ. Trong giờ phút quyết liệt sắp đến, chẳng có quyền lực nào ngó ngàng đến họ, và họ mang tâm cảnh những con tốt phải mang thí chỉ mong được yên thân, ai thắng ai bại không còn là vấn đề họ phải thiết thân đến nữa.
Thành phần sau: đa số đồng bào di cư, người Bắc thiên di vào Nam từ 1954, được cột chặt vào nhiệm vụ hậu cần chính trị cốt tủy và liên tục cho hai nền Cộng Hòa miền Nam. Đa số họ kém ý thức, đã phục tùng vô điều kiện tập đoàn lãnh đạo của họ gồm một số tu sĩ Thiên Chúa giáo hiếu động và quá khích, và các tay kinh tài chuyên nghiệp trong việc đồng lõa với tập đoàn cầm quyền. Hai hạng người này thường xuyên toa rập với nhà nước, đã mau chóng chia được phần thế lực, nhờ thế mà mau chóng trở thành tỷ phú, triệu phú miền Nam. Suốt hai mươi năm, đoàn thể đồng bào di cư đã hoàn toàn bị hai hạng người này điều động, chỉ huy, mua chuộc, đẩy ra múa rối trên sân khấu chính trị miền Nam, thành phần này thấy rõ trong giờ phút mất còn đang điểm, “lãnh tụ” của họ vội vàng bỏ rơi họ, nên cũng mang tâm cảnh sợ hãi, mong mua chuộc những tội ác không phải do mình.

Nhưng phải liệt ra ngoài thành phần di cư một số nhà tu, một số kinh tài, đồng lõa thường xuyên với tập đoàn tham nhũng, đấu thầu việc bao biến đồng bào di cư để làm hậu cần cho Diệm, cho Thiệu, cho Kỳ. Nên được cất lên hàng lãnh tụ, thừa uy thế, thừa tài sản, đủ phương tiện, để không cần đến ai vẫn thoát đi được. Có ăn, có chia mà không có chịu. Hạng người này cũng mang tâm cảnh thoát thân, bất chấp đồng bào cùng họ đã từ Bắc di cư vào Nam, mà họ đã đẩy vào ngõ cụt.

6. Quyền lực Nhà nước vứt bỏ trên đường phố

Trước ngày Sài Gòn thất thủ, trong hoàn cảnh dân chúng thờ ơ, binh sĩ buông súng, tập đoàn cầm đầu nhà nước hối hả lo việc thoát thân, các cơ chế nhà nước bề ngoài tuy còn nguyên vẹn, nhưng quyền lực nhà nước đã bị vứt bỏ trên đường phố, chẳng ai đoái hoài đến. Dân ngoài phố sợ bọn vô lại làm càn trong những ngày không còn phép nước, nên càng mong thời cuộc kết liễu gấp. Mọi người sẵn sàng chấp nhận một cuộc đổi mới, dù không tin rồi sẽ an lành, nhưng không còn tránh được. Chế độ tham nhũng cuốn cờ, ít ra đây cũng là điều làm mọi người thỏa dạ.
Ai cũng biết thủ đô đang bị vây hãm, bà con có thể bị pháo kích, bị tấn công. Quân đội Cộng Hòa đã tan hàng, binh sĩ cởi giáp quăng súng khắp các ngõ hẻm thành phố, trực thăng Mỹ di tản rầm rộ trên bầu trời. Ông Trần Văn Hương mấy ngày trước nhận làm cầu thang cho Thiệu/Khiêm nhẹ mình lên máy bay chạy trốn, lại lẩm cẩm lên giọng kháng cự, tử thủ, khi Chính phủ đã nhàu như giấy bị nhai, khi quân lực không còn xương sống, khi nhà nước mềm như xác chết! Ông làm gì được đây, và làm với ai đây?

Quân nhân VNCH vất bỏ quân trang ngày 30/4/1975

Cộng Sản tàn ác, điều ấy chẳng đợi tuyên truyền, dân chúng đã biết. Nhưng làm thế nào thoát được họ đây? Cộng Sản có giết, có tha, nhân dân miền Nam tránh sao khỏi. Hai mươi năm qua, Diệm, Thiệu, Kỳ và tay chân, trước sau đã thay tay nhau đặt gọn miền Nam vào trong tay Cộng Sản rồi! Mọi người đều mong rồi ra người trong nước, dù Bắc dù Nam, dù Cộng Sản dù Quốc gia, sẽ dung hợp với nhau trong một đất nước hòa bình, tuy ngờ ngợ chỉ là ảo vọng.
Cộng Sản Hà Nội muốn thắng lợi ngàn năm một thuở của chúng được hoàn toàn rực rỡ, nên buộc “chính quyền bù nhìn” Sài Gòn phải đầu hàng vô điều kiện. Miệng lưỡi Võ Đông Giang, chỉ huy cuộc tấn công thủ đô: Đầu hàng nhân dân, không phân biệt miền Nam, miền Bắc, Cộng Sản đã thắng Mỹ, miền Nam, miền Bắc cùng thắng với nhau, giữa hai miền không có thắng bại.
Tất cả bài toán là đây: ông quyền Tổng thống Hương, mang tâm cảnh chí sĩ, nói cứng, nhất định tử thủ chứ không đầu hàng. Nếu cụ làm như cụ nói, cụ tử thủ với lực lượng nào? Dân chúng đã thờ ơ, quân đội đã tan hàng, binh sĩ theo nhau cởi bỏ quân phục, vứt cả vũ khí trên đường phố giữa thanh thiên bạch nhật. Cụ nghĩ chuyện tiết tháo, chuyện hảo hớn, nhưng không nhìn ra được tiết tháo ở Phan Thanh Giản, hảo hớn ở Võ Tánh, lúc chính quyền cụ giữ trong tay chỉ là một chính quyền ma, dân không, quân không. Trong tâm cảnh trái chứng muộn màng ấy, cụ muốn quần chúng thủ đô chịu thảm sát để cho cụ thành hảo hớn, thành chí sĩ! Sự kiện này không phải người viết võ đoán mà nêu ra ở đây.

Cụ Hương muốn thủ đô đi vào biển lửa: người chiến sĩ đầu hàng sao được! Cũng phải! Hai chữ đầu hàng này, ngày nay ở nước ngoài, những người đã hai mươi năm dày xéo lên miền Nam đang mang ra thóa mạ Dương Văn Minh. Tội nghiệp cho cụ! Cụ mắc lỡm Thiệu/Khiêm: chúng mớm cho cụ hai chữ tiết tháo để chúng được nhẹ nhàng cất cánh, và cụ nhất đinh chờ chúng mang quân về cứu, như chúng đã hẹn với cụ! Cho nên người ta phải khuyên cụ nhường “việc ô nhục người chí sĩ không thể làm” ấy cho tướng Dương Văn Minh.
Hai ông Nguyễn Văn Huyền, Vũ Văn Mẫu được ghép theo Dương Văn Minh, như là đảm bảo của hai thế lực tinh thần còn lại, để ông đứng ra chấm dứt một tình trạng không lật ngược được nữa, và nếu kéo dài, chỉ kéo dài thêm chết chóc thê thảm. Sự kiện đảm bảo này cũng không phải người viết võ đoán mà nêu ra ở đây.

Tình trạng không lật ngược được nữa ấy, ai đã gây nên? Ngô Đình Diệm/ Nguyễn Văn Thiệu/ Nguyễn Cao Kỳ, hay Dương Văn Minh? Những người thay nhau cầm chính quyền, những tướng lãnh từng thao túng quân đội, đã vội vã tháo chạy, giờ đây thóa mạ Dương Văn Minh đã đầu hàng, không chịu tử thủ! Thế sao chúng không ở lại để tử thủ mà bỏ trốn? Nếu có chuyện đầu hàng, thì Dương Văn Minh đã đầu hàng thay cho chúng đó thôi.
Chính việc chúng tháo chạy là hành động đầu hàng Cộng Sản. Dương Văn Minh đã chịu ô nhục thay cho chúng để thể hiện tâm cảnh muốn khai tử giai đoạn tủi nhục, của những người sống trên đất nước miền Nam trong giờ phút quyết liệt ấy.
Ông Diệm đã nói với Vân Xưa năm 1948 rằng Ý Dân là Ý Trời. Nhưng ông chỉ theo Chúa của ông, chẳng bao giờ theo trời cả! Phải đợi đến ngày 30-4-75, ý dân mới thực sự là ý trời, trong một hoàn cảnh thật bi đát cho dân!

Đối với một võ tướng chân chính như Dương Văn Minh, không thuộc loại chạy trốn như Thiệu / Kỳ / Khiêm, đầu hàng bao giờ cũng là một việc ô nhục.
Dương Văn Minh đầu hàng để tránh cuộc thảm sát thủ đô. Hiên ngang, dũng cảm như khi ông cầm quân chiến thắng ở Rừng Sát. Trong việc đầu hàng này, người sống ở miền Nam 30-4-75 đã nhận ra ông là anh hùng đất nước. Trong việc đầu hàng này, tập đoàn tham nhũng thoát trước ra ngoài, muốn chạy tội phản quốc, vẫn không ngớt chửi rủa ông là phản quốc.
Ông đã phải đứng ra khai tử hai chế độ Cộng Hòa và đầy những tội ác ông không dự vào. Tiểu nhân cười là ông tham quyền vị. Dân trong nước thấy rằng ông đã chịu cúi người xuống đất nhặt một quyền chính bỏ rơi ngoài đường. Để trong bốn mươi tám tiếng đồng hồ sau đó đứng ra nuốt nhục cứu độ quần chúng thủ đô miền Nam.

◎◎◎

Bạn đọc đến đây, hãy cùng người viết quay về các tâm cảnh được tỉ mỉ phân tích ở trên
-          Tâm cảnh chung của nhân dân thờ ơ, mặc thế cuộc đến đâu hay đó. Chấp nhận đổi cái đời hai mươi năm phải chịu đựng độc tài, phong kiến, quân phiệt, trong một xã hội thối nát, tham nhũng, không lúc nào biết đến nhân dân. Tâm cảnh thù ghét chế độ, đòi hỏi thay đổi:Cộng Sản cũng thế thôi.
-          Tâm cảnh của anh em binh sĩ, sĩ quan, khinh bỉ thượng cấp vô tài, bất nghĩa, không còn muốn chiến đấu, để đuổi bọn bán dân, buôn nước. Tâm cảnh đòi chấm dứt một giai đoạn phi nhân: Cộng Sản cũng thế thôi.
-          Tâm cảnh của những thành phần đồng bào ít nhiều có dính líu đến chính quyền thối nát là sợ hãi, nên mong một hình thức giải quyết thế cuộc cho êm thuận, có thể tránh cho họ nhiều ảnh hưởng nặng nề quá đáng. Tâm cảnh chịu đựng, cầu an: Cộng Sản cũng thế thôi.
-          Tâm cảnh của tập đoàn lãnh đạo nhà nước, quân đội, là chạy trốn. Khi chúng đã thoát thân kịp lúc, Cộng Sản có chiếm miền Nam, đâu phải là chuyện chúng bận tâm. Tâm cảnh tháo thân cho kịp: Cộng Sản vào thay chỗ để tàn hại đồng bào, đối với chúng cũng thế thôi.

“Cũng thế thôi”, trong đầu óc những người quẳng quyền lực nhà nước để tháo chạy, có nghĩa là “mặc kệ”. Trong tâm tư quần chúng và binh sĩ, lại là một cách để nói “cũng đành”! Những kẻ hai mươi năm thay nhau cầm quyền phi nhân phi nghĩa, đã dọn sẵn đường cho Hà Nội thắng, nhân dân và binh sĩ không muốn đầu hàng cũng không xong. Đầu hàng: một mỹ từ, người miền Nam muốn dùng để che một thảm bại.
Dương Văn Minh, Nguyễn Văn Huyền, Vũ Văn Mẫu, nạn nhân một thế cuộc bế tắc họ không dự phần trách nhiệm, đã đương lấy cái nhục của Diệm, của Thiệu, của Kỳ, để cứu nạn dân lành.
Khi nhân dân ruồng bỏ chế độ, binh sĩ, cảnh sát tan hàng, khi người cầm quyền chạy trốn, thì chế độ sụp đổ. Quyền lực Nhà nước tự nó đã cáo chung.

Cụ Hương muốn làm chí sĩ, nhưng không còn Nhà nước, nên ông chỉ là một bù nhìn vô nghĩa: bình phong cho Thiệu/Khiêm và tướng lãnh tay chân êm ái trốn chạy.
Dương Văn Minh cũng chỉ là một bù nhìn, nhưng có nghĩa: kết liễu sự sụp đổ của miền Nam, để tránh thảm họa cho dân.
Cho nên quần chúng miền Nam đã thương hại cho cụ Hương mà biết ơn tướng cũ Dương Văn Minh.
Hà Nội nhìn rõ tình trạng ấy. Trưa hôm 30-4-75, Cộng Sản đã chẳng bảo, khi Dương Văn Minh lên tiếng đầu hàng để trao lại Quyền lực Nhà nước, là: chế độ Sài Gòn đã chết, Dương Văn Minh có Quyền lực Nhà nước đâu mà đòi trao đổi để nói chuyện đầu hàng?

◎◎◎

Tâm cảnh Đầu hàng Cộng Sản không phải đã xảy ra hôm 30-4-75.
Ngay từ khởi thủy chế độ Quốc gia Sài Gòn. Ngô Đình Diệm lo ngại không giữ quyền binh được lâu, nên đã làm ngơ, rồi tàn hại, thành phần kháng chiến quốc gia, và kỳ thị đồng bào Nam kỳ cũ. Thay vào hai thực lực nội tại ấy của miền Nam chính ông đã thấy rõ từ trước, lúc chưa cầm quyền, ông giả tạo hai thế lực ngoại lai (đối với miền Nam), dựa vào đó mà củng cố địa vị, cá nhân và gia đình: đồng bào di cư và tổ chức Cần Lao Công giáo.
Không ai có thể chống Cộng Sản miền Bắc mà không cần đến nhân dân miền Nam. Nhưng Ngô Đình Diệm đã làm như thế! Tham vọng cá nhân đã là mục đích, chống Cộng chỉ là một phương tiện để ông củng cố quyền lực ông.
Đối đầu miền Bắc là nhiệm vụ chính yếu, ông Diệm đổi ra thành phương tiện cầm quyềnđầu hàng Cộng Sản nằm sẵn trong tâm cảnh ông Diệm từ đầu!

Tướng tá tiếp sau ông dốt nát võ biền, làm sao nhìn ra bài học thất bại của ông. Họ chỉ thêm được quyền lực, được địa vị, như ông đã hưởng. Đâu có chuyện miền Nam đối đầu miền Bắc, họ theo ông mang sẵn tâm cảnh đầu hàng Cộng Sản rồi.
Ông Diệm bị giết. Thiệu/Kỳ/Khiêm và tay chân, cùng mang tham vọng của ông, chỉ có thể tiếp tục con đường ông đã vạch: cũng đồng bào di cư, cũng Cần Lao Công Giáo. Họ nối theo ông đưa quốc gia miền Nam đến chỗ chết, ngày 30-4-75. Nay trốn được kịp ra ngoài, dùng mọi phương tiện thừa thãi trong tay để trâng tráo phỉ nhổ Dương Văn Minh về cái tội đầu hàng Cộng Sản miền Bắc.

Dương Văn Minh đã không thoát thân, gánh chuyện ô nhục vào thân, để cứu đồng bào thủ đô Sài Gòn. Rồi giữ im lặng, trước những lời thóa mạ của những kẻ ông đã gánh thay điều ô nhục ấy.
Trong số các bạn, ai còn nghĩ đến sự nghiệp giải phóng đất nước còn chưa thành, nếu đọc xem đến bài đầu hàng này, xin xem thận trọng hơn là những người chỉ đọc cho vui.
Hình như ông Dương văn Minh đang sống ở Pháp, Vân Xưa viết bài hôm nay hướng về ông.Trân trọng ngỏ một lời khiêm tốn biết ơn ông, của một người chưa từng cùng ông quen biết hay gặp gỡ, như Đỗ Mậu, như Cao văn Luận.

VÂN XƯA
[Nguồn: Hồ Chí Minh, Ngô Đình Diệm và Mặt trận Giải phóng Miền Nam của Hồ Sĩ Khuê - Nhà Xuất Bản Văn Nghệ, Westminster, California, 1995]